You are on page 1of 19

CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

CÂU 1: TH Trung quốc: Trường phái triết học Nho Giáo (Khổng Tử) và Đạo Giáo ( Lão Tử). Chỉ ra sự
khác nhau giữa hai hệ thống triết học đó và sự ảnh hưởng của hai trường phái triết học này đến nhân sinh
quan của người phương đông?
A. Triết học Nho Giáo ( Khổng Tử).
Nho gia là một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục và có ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài
đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng, của nhiều quốc gia phương Đông nói chung. Khổng
Tử sáng lập ra Nho gia vào cuối thời Xuân Thu rất quan tâm đến các vấn đề đạo đức – chính trị – xã hội.
Ông coi hoạt động đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để gìn giữ trật tự xã hội và hoàn thiện nhân
cách cá nhân cho con người. Đến thời Chiến Quốc, do bất đồng về bản tính con người mà Nho gia bị chia
thành 8 phái, trong đó có phái của Tuân Tử và phái của Mạnh Tử là mạnh nhất. Mạnh Tử đã có nhiều đóng
góp đáng kể cho sự phát triển của Nho gia nguyên thủy, ông đã khép lại một giai đoạn quan trọng, – giai
đoạn hình thành Nho gia; vì vậy, Nho gia Khổng – Mạnh còn được gọi là Nho gia nguyên thủy hay Nho
gia tiên Tần.
Nho giáo nguyên thủy là triết lý của Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người quân tử và cách thức trở
thành người quân tử, cách cai trị đất nước. Nó được trình bày trong một hệ thống các tư tưởng về đạo đức
– chính trị – xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng của gia đình –
xã hội là những quan hệ đạo đức – chính trị, đặc biệt là ba quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ. Các
quan hệ này được Nho gia gọi là đạo. Khi các quan hệ này chính danh (vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha,
con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ) thì xã hội ổn định, gia đình yên vui; và ngược lại… Xã hội thời Xuân
thu – Chiến quốc loạn lạc, luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lỏng lẻo là do ba quan hệ này
rối loạn, do danh – thực oán trách nhau (vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi; cha chẳng ra cha, con chẳng ra
con; vợ chẳng ra vợ, chồng chẳng ra chồng). Vì vậy, muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại
đồng thì phải chấn chỉnh lại ba quan hệ đó. Để chấn chỉnh lại ba quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo
dục đạo đức làm cứu cánh. Khổng Tử ít quan tâm đến các vấn đề nguồn gốc của vũ trụ nên quan điểm của
ông về trời – đất, quỷ – thần không rõ ràng. Tuy nhiên, để tìm chỗ dựa vững chắc cho lý luận đạo đức của
mình, Khổng Tử và cả Mạnh Tử đều xây dựng thuyết thiên mệnh. Xuất phát từ vũ trụ quan của kinh Dịch,
Khổng Tử cho rằng, vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền tảng
tận cùng của trật tự đó là thiên mệnh. Còn sự hiểu biết được thiên mệnh là điều kiện tiên quyết để trở thành
con người hoàn thiện.Xuất phát từ quan điểm thiên mệnh, hai ông tìm kiếm sự thống nhất giữa trời, đất,
người và vạn vật, đặc biệt là trên bình diện đạo đức – chính trị – xã hội, chứ không để ý đến khía cạnh sinh
học – tự nhiên trong con người.
Dựa trên thuyết thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng: Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị
giáo, và Tính tương cận, tập tương viễn. Điều này có nghĩa là: Con người có tính người, tính người do trời
phú, sự phú cái tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mỗi con người. Nhưng trong cuộc sống, do điều kiện, hoàn
cảnh, môi trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không giống nhau mà người này khác xa người
kia. Vậy, tập là điều kiện, hoàn cảnh, là nguyên nhân làm biến tính ở mỗi con người, làm cho con người
không giữ được tính do trời phú cho, làm cho con người trở nên vô đạo; rồi cả nước, cả thiên hạ vô đạo. Vì
vậy, muốn giữ được tính cho con người phải lập đạo; nghĩa là phải làm (giáo dục) cho cả nước, cả thiên hạ
hữu đạo. Đạo phải có giáo mới sâu sắc, vững chắc và rộng khắp. Còn mục đích của giáo là làm cho mọi
người, mọi nhà, cả thiên hạ hữu đạo. Hữu đạo là thể hiện được mối quan hệ giữa người và người, giữa
người và trời đất – vạn vật một cách đúng đắn, nghĩa là phù hợp với thiên mệnh, mà thực chất là làm theo
các nguyên tắc, phương châm cơ bản của nho gia. Khổng Tử cho rằng, nếu lập đạo của trời, nói về âm và
dương; lập đạo của đất, nói về cương và nhu; thì lập đạo của người, phải nói về nhân và nghĩa.
- Quan niệm về nhân và nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức Nho gia nguyên thủy, chúng hợp với
các quan niệm khác tạo thành hệ thống phạm trù đạo đức của phái này: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng…
+ Quan niệm về nhân: Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người, chi phối
mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội, và nó được hiểu rất rộng. Khổng Tử cho rằng, nhân là lòng
thương người (ái nhân); còn Mạnh Tử thì cho rằng, nhân là lòng trắc ẩn. Nói chung, nhân là cách đối xử
của con người với con người, để tạo ra người. Muốn thực hiện đạo làm người, tức muốn thực hiện đức
nhân cần phải: Điều gì mà mình không muốn thì cũng đừng đem áp dụng cho người khác; Mình muốn lập
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

thân thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt; Khống
chế mình theo đúng lễ… Người có đức nhân thì bên ngoài xã hội luôn cung, khoan, tín, mẫn, huệ (cung
kính, khoan hòa, tín nhiệm, nhạy bén, rộng rãi)…, bên trong gia đình luôn hiếu, đễ (hiếu thảo, nhường
nhịn)… Quan niệm về nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ ràng, ông cho rằng chỉ có người quân
tử, tức kẻ cai trị, mới có được đức nhân, còn người tiểu nhân, tức nhân dân lao động, không thể có được
đức nhân. Đạo nhân chỉ là đạo của người quân tử, của giai cấp thống trị.
+ Quan niệm về nghĩa: Theo Nho gia, nếu nhân là lòng thương người, đức nhân dùng để đối xử với
người và tạo ra người, thì nghĩa là dạ thủy chung, đức nghĩa dùng để đối xử với chính mình và tạo ra ta.
Đức nhân thể hiện trong quan hệ với người khác; còn đức nghĩa thể hiện trong quan hệ với mình, khi tự
vấn lương tâm mình về điều mình nên nói, về việc mình nên làm. Khi nói một điều gì đó hay khi làm một
việc gì đó mà ta cảm thấy thỏa mái, thảnh thơi, hứng thú trong lương tâm thì đó là ta nói điều nghĩa, ta làm
việc nghĩa. Vậy, nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm, bất kể làm điều đó có
đem lại cho người thực hiện nó ích lợi gì hay không. Khổng Tử cho rằng, con người muốn sống tốt phải
biết lấy nghĩa để đáp lại lợi, chứ không nên lấy lợi đáp lại lợi, vì lấy lợi đáp lại lợi sẽ sinh ra oán trách…
Song, do hạn chế bởi lập trường giai cấp, mà Khổng Tử cho rằng, bậc quân tử tinh tường về việc nghĩa, kẻ
tiểu nhân rành rẽ về việc lợi. Tiểu nhân và quân tử là hai loại người đối lập nhau không phải chủ yếu về địa
vị xã hội mà chủ yếu là về phẩm chất đạo đức.
+ Quan niệm về lễ: Để đạt được nhân, để lập lại trật tự, khôi phục lại kỷ cương cho xã hội Khổng Tử
chủ trương phải dùng lễ, đặc biệt là lễ của nhà Chu. Vì lễ có thể: xác định được vị trí, vai trò của từng
người; phân định trật tự, kỷ cương trong gia đình và ngoài xã hội; loại trừ những tật xấu và tạo ra những
phẩm chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi. Do nhận thấy tác dụng to lớn của lễ mà Khổng Tử đã dốc sức san
định lại lễ. Ở Khổng Tử, trước hết, lễ được hiểu là lễ giáo phong kiến như những phong tục tập quán;
những quy tắc, quy định về trật tự xã hội; thể chế, pháp luật nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn, tế lễ, luật lệ,
hình pháp…; sau đó, lễ được hiểu là luân lý đạo đức như ý thức, thái độ, hành vi ứng xử, nếp sống của mỗi
con người trong cộng đồng xã hội trước lễ nghi, trật tự, kỷ cương phong kiến. Nhân và lễ có quan hệ rất
mật thiết. Nhân là nội dung bên trong của lễ, còn lễ là hình thức biểu hiện nhân ra bên ngoài. Nhân giống
như cái nền tơ lụa trắng tốt mà trên đó người ta vẽ lên những bức tranh tuyệt đẹp. Khổng Tử cho rằng, trên
đời không hề tồn tại người có nhân mà vô lễ. Vì vậy, ông khuyên chớ xem điều trái lễ, chớ nghe điều trái
lễ, chớ nói điều trái lễ và chớ làm điều trái lễ.
+ Quan niệm về trí – sự sáng suốt nhận thức thấu đáo mọi vấn đề, hiểu thấu đạo trời, đạo người, hiểu
cả thiên hạ, biết sống hợp với nhân. Khổng Tử coi trí là điều kiện để có nhân. Muốn có trí thì phải học.
Khổng Tử suốt đời đã thực hiện phương pháp học và dạy là “học không biết chán, dạy không biết mỏi”.
Khi học cần coi trọng mối liên hệ mật thiết giữa các khâu: tư – tập, hành.
+ Quan niệm về tín – lòng ngay dạ thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với nhau. Tín là đức trong mối
quan hệ bạn bè và rất quan trọng với mọi người. Sách Đại học chỉ rõ rằng “Giao kết với người, cốt ở chữ
tín”. Tín củng cố sự tin cậy giữa người với người, củng cố lòng tin với đạo lý thánh hiền, tin vào sự tốt đẹp
và vững bền của các mối quan hệ cơ bản trong xã hội phong kiến. Khổng Tử cho rằng, đối với người trị
nước, trị dân, nếu dân không tin thì không thể cai trị được.
+ Quan niệm về dũng – sức mạnh tinh thần, lòng can đảm, biết xấu hổ vì cái sai cái xấu để vứt bỏ
chúng mà làm theo nhân nghĩa… Là đức nói lên tinh thần hăng hái, gan dạ dám hy sinh, quyết tâm khắc
phục khó khăn, dũng biểu hiện sức mạnh và ý chí thực hiện mục đích của mình. Khổng Tử rất quan tâm tới
chữ dũng, nhưng ông vừa cổ vũ, vừa dè dặt. Ông cổ vũ tinh thần quả cảm, khí phách anh hùng của những
nhân dân đối với vua chúa phong kiến. Mặt khác, ông lại dè dặt đối với dũng vì người dũng là người không
sợ sệt. Khi mất phương hướng, những người đó sẽ phá phách, gây nên những hậu quả tiêu cực. Ông thường
hay gắn dũng với nghĩa để kết luận người quân tử coi trọng điều nghĩa; gắn dũng với trí để chỉ dũng không
thể không có trí soi sáng. Gắn dũng với lễ cho thấy quân tử ghét những kẻ có dũng mà không có lễ, không
có trí,…
- Theo Nho gia, ngũ luân – năm mối quan hệ mà con người phải xác định và làm tròn trách nhiệm
của mình trong các quan hệ ấy, trong đó có ba quan hệ chính – tam cương là vua tôi, cha con, chồng vợ.
Trong tam cương có hai quan hệ mấu chốt là vua – tôi, biểu hiện bằng đức trung, cha – con biểu hiện bằng
đức hiếu. Giữa trung và hiếu, thì trung đứng đầu. Những đức con người thường xuyên phải trau dồi là ngũ
thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa, trong đó nhân là chủ. Vì vậy, gọi
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

đạo của Khổng Tử là đạo nhân. Nho gia đặt con người trong năm mối quan hệ với những lập luận khá chặt
chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu phấn đấu và nội dung tu dưỡng của con người là có tính hợp lý hơn. Nó thực
sự góp phần củng cố trật tự xã hội, nó là sản phẩm của xã hội và cũng là nguyên nhân trì trệ của xã hội đó.
- Những phạm trù đạo đức thể hiện các nguyên tắc cơ bản của đạo đức Nho giáo– đạo đức hướng đến
xây dựng mẫu người quân tử. Khổng Tử cho rằng, người quân tử có đủ tam đức (trí, nhân, dũng); do có trí
nên người quân tử không nhầm lẫn, do có nhân nên người quân tử không buồn phiền, do có dũng nên
người quân tử không có gì phải kinh sợ. Nếu Khổng Tử chú trọng đến tam đức thì sang thời Chiến quốc,
Mạnh Tử bỏ dũng thay vào đó lễ và nghĩa thành tứ đức (nhân, lễ, nghĩa, trí); đến đời nhà Hán, Đổng Trọng
Thư thêm tín thành ngũ thường. Cũng dựa trên thuyết thiên mệnh, nhưng Mạnh Tử cho rằng nhân chi sơ
tính bản thiện; bởi vì, khi sinh ra mỗi con người đều có đủ nhân, lễ, nghĩa, trí. Do có nhân nên ai cũng có
lòng trắc ẩn, do có nghĩa nên ai cũng có lòng u tố, do có lễ nên ai cũng có lòng cung kính, do có trí nên ai
cũng biết lẽ thị phi. Chúng toát ra từ tâm. Là người ai cũng có cái tâm. Tâm là cội nguồn của tính thiện
trong con người. Vì vậy, con người cần phải trường kỳ tâm dưỡng kỳ tính, – tức gìn giữ cái tâm thiện ấy.
Dù bản tính con người là thiện, nhưng trong cuộc sống của con người vẫn có cái ác. Cái ác ấy xuất hiện là
do kỷ cương xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo điên. Để vãn hồi tính thiện ở con người thì phải lập
lại trật tự kỷ cương cho xã hội trên cơ sở thực hành đường lối nhân nghĩa Ý nghĩa tích cực “thuyết tính
thiện” của Mạnh Tử là ở chỗ phát huy bốn đầu mối, làm cho phần tốt trong con người ngày càng phát triển,
còn phần xấu ngày càng thu hẹp lại.
- Như vậy, Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu chuẩn của người quân tử, và
muốn trở thành người quân tử cần phải tu thân. Để tu thân cần phải đạt đạo (con đường phải theo, quan hệ
mà con người phải biết giữ để ứng xử trong cuộc sống) mà trước hết là đạo quân – thần, phụ – tử, phu –
phu và cần phải đạt đức (phẩm chất tốt đẹp của con người cần phải thể hiện trong cuộc sống), đồng thời
phải biết thi, thư, lễ, nhạc. Lấy tu thân làm gốc nhưng người quân tử phải biết hành động tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ. Để hành động hiệu quả người quân tử phải thực hành đường lối nhân trị (cai trị bằng tình
người, bằng sự yêu người, coi người như bản thân mình…) và chính danh (cai trị sao cho vua ra vua, tôi ra
tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ…). Chỉ có như vậy thì người quân tử – giai cấp cai trị
mới xây dựng được một xã hội đại đồng
B. Đạo gia
Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và sau đó được Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc. Những tư
tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận
này thể hiện quan niệm biện chứng về thế giới, và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải
quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
Lý luận về đạo và đức:
- Đạo là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín, huyền
diệu của vạn vật, vừa để chỉ con đường, quy luật chung của mọi sự sinh thành, biến hóa xảy ra trong thế
giới. Đức là phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của đạo, là cái hình thức nhờ đó vạn vật
được định hình và phân biệt được với nhau, là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật.
+ Đạo được tạm hiểu như là cái tự nhiên tĩnh mịch, yên lặng, mộc mạc, hỗn độn, mập mờ, thấp
thóang, không có đặc tính, không có hình thể; là cái mắt không thấy, tai không nghe, tay không nắm bắt,
ngôn ngữ không thể diễn đạt, tư duy không nhận thức được; là cái năng động tự sinh sôi, nảy nở, biến
hóa…
+ Đạo vừa là cái có trước vừa là cái nằm trong bản thân sự vật; nhưng khi có sự can thiệp của con
người thì đạo không còn là đạo nữa. Ông viết: Có một vật hỗn mang thành tựu trước trời đất, yên lặng,
mênh mông, một mình độc lập, tản mác khắp nơi, không ngừng ở đâu, coi như mẹ của thế gian… Cái hỗn
mang chưa có tên nên tạm gọi là đạo… Đạo mà ta có thể gọi được không phải là đạo; Danh mà ta có thể
gọi được không phải là danh. Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của vạn vật…
+ Đạo sinh ra vạn vật, đức nuôi nấng, bảo tồn vạn vật. Vạn vật nhờ đạo mà được sinh ra, nhờ đức mà
thể hiện, và khi mất đi là lúc vạn vật quay trở về với đạo. Đạo sinh ra Một (khí thống nhất), Một sinh ra
Hai (âm, dương đối lập), Hai sinh ra Ba (trời, đất, người), Ba sinh ra vạn vật.
- Đạo gia xem đạo không chỉ là nguồn gốc, bản chất mà còn là quy luật của mọi cái đã, đang và sẽ
tồn tại trong thế giới. Điều này cho phép hiểu đạo như nguyên lý thống nhất – vận hành của vạn vật –
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

nguyên lý đạo pháp tự nhiên. Đạo vừa mang tính khách quan (vô vi) vừa mang tính phổ biến; vì vậy, trong
thế giới, không đâu không có đạo, không ai không theo đạo… Quan niệm về đạo, đức của trường phái Đạo
gia thể hiện một trình độ khái quát cao của tư duy biện chứng khi giải quyết vấn đề bản nguyên thế giới.
 Quan niệm biện chứng về thế giới: Thế giới là một chỉnh thể thống nhất – vận hành của đạo; thông
qua đức mà đạo nằm trong vạn vật luôn biến hóa. Đạo là cái vô. Cái vô sinh ra cái hữu. Cái hữu sinh ra
vạn vật… Vạn vật mất đi là quay về với đạo. Lão Tử cho rằng vũ trụ vận động biến đổi theo hai quy
luật: quy luật bình quân va quy luật phản phục. Luật bình quân là luôn giữ cho sự vật được thăng bằng
theo một trật tự điều hòa tự nhiên, không có cái gì thái quá, bất cập. Trong Đạo đức kinh ông viết: “cái
gì khuyết ắt được tròn đầy, cái gì cong sẽ được thẳng, cái gì cũ thì lại mới, cái gì ít sẽ được, nhiều sẽ
mất”. Quy luật phản phục là sự phát triển đến cực điểm thì chuyển quay trở lại phương hướng cũ. Lão
Tử diễn đạt rằng “trở lại là cái động của Đạo” – nghĩa là “cái động của Đạo” không đi ra ngoài mà trở
về gốc.
- Bất cứ sự vật nào cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập. Chúng ràng buộc, bao hàm lẫn nhau.
Lão Tử cho rằng, ai cũng biết đẹp là đẹp tức là có xấu; hai mặt dài ngắn tựa vào nhau, mới có hình thể; hai
mặt cao thấp liên hệ với nhau, mới có chênh lệch; và, trong vạn vật, không vật nào không cõng âm, bồng
dương. Trong vạn vật, các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà chúng còn xung đột, đấu tranh, chuyển hóa
lẫn nhau tạo ra sự thay đổi, biến hóa không ngừng của vạn vật trong vũ trụ. Tuy nhiên, theo Lão Tử, sự đấu
tranh, chuyển hóa của các mặt đối lập này không làm xuất hiện cái mới, mà là theo vòng tuần hoàn khép
kín. Đối với ông, họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ náu của họa; cái gì cong thì lại thẳng, trũng thì lại
đầy, cũ thì lại mới…
- Lão Tử khẳng định càng tách xa đạo, xã hội càng chứa nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn là tai họa của
xã hội. Theo ông, khi đạo lớn bị phá bỏ thì xuất hiện nhân – nghĩa; khi trí tuệ ra đời thì sinh ra giả dối; khi
nước loạn mới xuất hiện tôi trung; khi gia tộc bất hòa mới sinh ra cha nhân từ con hiếu thảo… Vì vậy, để
xoá bỏ tai họa cho xã hội, phải thủ tiêu mọi mâu thuẫn mang tính xã hội, có nguồn gốc chủ quan (xa đạo)
trong xã hội. Theo Lão Tử, mâu thuẫn trong xã hội được thủ tiêu bằng cách đẩy mạnh một trong hai mặt
đối lập để tạo ra sự chuyển hóa theo quy luật phản phục (quay trở lại cái ban đầu), hay cắt bỏ một trong hai
mặt đối lập để làm cho mặt đối lập kia tự mất đi theo quy luật quân bình (cân bằng nhau). Với quan niệm
này, ông cho rằng, trong đời sống xã hội, nếu dẹp bỏ trí tuệ thì dân sẽ chất phác; nếu không tôn trọng người
hiền thì dân không tranh nhau; nếu không coi trọng của cải quý báu thì dân không có trộm cắp.
- Phép biện chứng của Lão Tử mang tính chất máy móc, đơn giản. Vạn vật chỉ vận động tuần hoàn,
lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ mà không có sự ra đời của cái mới, nghĩa là không có sự phát triển.
 Quan niệm nhân sinh và chính trị – xã hội: Dựa trên nguyên lý đạo pháp tự nhiên và mở rộng quan
niệm về đạo vào lĩnh vực đời sống xã hội, Lão Tử xây dựng thuyết vô vi để trình bày quan điểm của
mình về các vấn đề nhân sinh và chính trị – xã hội.
- Thuyết vô vi: Vô vi là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không giả tạo, không gò ép
trái với bản tính của mình và ngược với bản tính của tự nhiên; là từ bỏ tính tham lam, vị kỷ để không làm
mất đức. Chỉ khi nào từ bỏ được thói tư lợi thì mới nhận thấy đạo; và chỉ khi nhận thấy đạo mới có thể vô
vi được. Lão Tử phản đối mọi chủ trương hữu vi, vì ông cho rằng hữu vi chỉ làm xáo trộn trật tự tự nhiên
vốn mang tính điều hòa, làm mất bản tính tự nhiên của con người, dẫn đến sự xa lánh và làm mất đạo. Từ
thuyết vô vi, Lão Tử đã rút ra nghệ thuật sống dành cho con người là từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan
dung.
- Về đường lối trị nước an dân: Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can thiệp đến việc đời;
nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải
pháp an bang tế thế. Đối với ông, chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích
cực làm việc thì dân đầy tai họa. Nếu Nho gia đòi hỏi người trị vì thiên hạ phải là bậc Thánh nhân quân tử,
sáng ngời các phẩm chất đạo đức – nhân, lễ, nghĩa, trí… và chủ trương xây dựng xã hội đại đồng; thì Lão
Tử cho rằng, bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi, và chủ trương xóa bỏ hết
mọi ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự nhiên
vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thủy chất phác, mơ ước cô lập cá nhân với
xã hội để hòa tan con người vào đạo (tự nhiên). Xã hội lý tưởng đối với ông là những nước nhỏ, dân ít, có
thuyền xe nhưng không đi, có gươm giáo nhưng không dùng, bỏ văn tự, từ tư lợi, không học hành…; Dân
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

hai nước ở cạnh nhau, dù cách nhau bởi một bờ dậu nhỏ hay một con mương cạn, cùng nghe tiếng chó sủa
tối, tiếng gà gáy sáng… nhưng đến già, đến chết họ không bao giờ qua lại thăm nhau.
Nhận xét: Những tư tưởng sâu sắc và độc đáo về đạo, về đức, về phép biện chứng, về vô vi trong hệ thống
triết học của Lão Tử đã nâng ông lên vị trí những nhà triết học hàng đầu trong nền triết học Trung Hoa cổ
đại. Chúng là mạch suối nguồn làm phát sinh nhiều tư tưởng triết học đặc sắc của nền triết học phương
Đông nói chung và triết học Trung Hoa nói riêng… Tuy nhiên, cách sống dửng dưng, thoát tục, vị ngã của
trường phái Đạo gia là một phản ứng tiêu cực trước sự bế tắc của thời cuộc bấy giờ nhưng nó lại phù hợp
với quan niệm nhân sinh của nhiều người lúc bấy giờ, nhất là tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền
miên. Vì vậy, trường phái Đạo gia được nhiều người ủng hộ và tin theo.
Câu 2: TH Bêcơn và Đềcáctơ:, sự ảnh hưởng của hai nhà triết học này đến sự phục hồi khoa học. triết
lí khoa học của họ như thế nào (so sánh chỉ rõ ra sự giống và khác nhau ). Chỉ rõ ra sự ảnh hưởng của họ
đối với khoa học thời cận đại.
A. Triêt học Phơrăngxít Bêcơn:
Ông là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và khoa học thực nghiệm. Lịch sử triết học
và khoa học phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng của ông.
 Những định hướng xây dựng triết học và khoa học mới
- Là một nhà tư tưởng có đầu óc thực tiễn của tầng lớp quý tộc cấp tiến Anh, Ph.Bêcơn đòi hỏi phải
chấn hưng đất nước. Nhưng muốn chấn hưng đất nước cần phải thống trị giới tự nhiên, nghĩa là biết sử
dụng sức mạnh của nó và bắt nó phục vụ lợi ích cho con người. Để làm được điều này cần phải phát triển
khoa học và triết học. Nhưng muốn phát triển khoa học và triết học thì trước hết phải khắc phục tính tư
biện giáo điều, lề thói lý luận xuông xa rời cuộc sống của triết học và khoa học cũ, nghĩa là phải có quan
điểm thực tiễn. Chỉ khi dựa trên quan điểm thực tiễn thì mới có thể xác định đúng vai trò, vị trí, nhiệm vụ
của triết học và khoa học mới; và sử dụng chúng một cách hiệu quả trong đời sống của con người.
- Theo Ph.Bêcơn, triết học mới cần phải được coi là khoa học của mọi khoa học, hoặc là cơ sở của
mọi khoa học. Mục đích của triết học và khoa học mới là xây dựng các tri thức lý luận chặt chẽ đầy tính
thuyết phục về mọi lĩnh vực nghiên cứu (Thượng đế, giới tự nhiên, con người) chứ không phải là củng cố
các đức tin mù quáng. Nhiệm vụ của triết học mới là đại phục hồi cho khoa học hay xây dựng khoa học mới
bằng cách cải tạo toàn bộ tri thức hiện có, xóa bỏ những sai lầm chủ quan, sử dụng hiệu quả tư duy khoa
học để khám phá trật tự của thế giới khách quan, tiến đến xây dựng một hình ảnh về thế giới trong tư duy
giống như nó tồn tại trong hiện thực. Còn nhiệm vụ của khoa học mới là khám phá ra các quy luật của thế
giới, chứ không phải đi tìm nguyên nhân cuối cùng. Triết học và khoa học mới phải xuất phát từ tinh thần
“tri thức là sức mạnh” và “lý luận thống nhất với thực tiễn”. Nhiệm vụ tối thượng của chúng là giúp tăng
cường quyền lực tinh thần cho con người để con người thống trị – làm chủ và cải tạo giới tự nhiên, phục vụ
lợi ích cho con người.
Quan niệm về thế giới và con người: Ph.Bêcơn cho rằng, thế giới (giới tự nhiên) tồn tại khách
quan, đa dạng và thống nhất; con người là một sản phẩm của thế giới, nó bao gồm thể xác và linh hồn
mang tính vật chất. Con người là một sản phẩm của thế giới: Khi coi con người bao gồm thể xác và linh
hồn, ông khẳng định rằng, không chỉ thể xác mà cả linh hồn của con người cũng đều là vật chất.
 Quan niệm về nhận thức, phương pháp nhận thức
- Cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức: Mặc dù vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi
quan niệm chân lý lưỡng tính – chân lý lòng tin của thần học tồn tại cùng với chân lý lý trí của khoa học –
và chưa khắc phục được tính thần học trong quan niệm của mình, nhưng Ph.Bêcơn luôn cho rằng, cảm
giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. Khoa học thật sự phải biết sử dụng tư duy tổng
hợp và phương pháp quy nạp khoa học để khái quát các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại nhằm khám phá
ra các quy luật, bản chất của thế giới vật chất khách quan, đa dạng và thống nhất. Khoa học như thế chỉ có
thể là khoa học thực nghiệm; và tri thức do khoa học này đem lại phải mang bản tính khách quan, tức
chúng hoàn toàn không phụ thuộc vào tình cảm, ý chí, lợi ích chủ quan của con người. Để đạt được những
tri thức như thế, khoa học mới cần phải loại bỏ những ảo tưởng ra khỏi quá trình nhận thức của chính mình.
Phương pháp nhận thức khoa học: Ph.Bêcơn cho rằng, từ trước tới nay, tư duy giáo điều và đầu óc nông
cạn chủ yếu chỉ sử dụng hai phương pháp nhận thức sai lầm, – phương pháp “con nhện” và phương pháp
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

“con kiến”; muốn khắc phục hai phương pháp này nhà khoa học thật sự phải là nhà khoa học thực nghiệm
biết sử dụng điêu luyện phương pháp “con ong”.
- Ph.Bêcơn đòi hỏi quá trình nhận thức phải xuất phát từ kinh nghiệm cảm tính; còn kinh nghiệm cảm
tính lại xuất phát từ thế giới khách quan. Ông coi nguyên tắc khách quan là nguyên tắc hàng đầu của khoa
học và triết học mới để nhận thức đúng đắn thế giới. Ông cũng coi tư duy tổng hợp và phép quy nạp khoa
học là những công cụ hiệu quả đủ để xây dựng khoa học thực nghiệm và chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm
nhằm khám phá ra các quy luật của thế giới để con người chinh phục nó và bắt nó phục vụ lợi ích cho
chính mình.
Quan niệm về chính trị – xã hội: Là nhà tư tưởng kiệt xuất của tầng lớp quý tộc cấp tiến, Ph.Bêcơn chủ
trương một đường lối chính trị phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản và chuẩn bị điều kiện để phát triển mạnh
mẽ chủ nghĩa tư bản. Ông đòi hỏi: Phải xây dựng một nhà nước tập quyền đủ mạnh để chống lại mọi đặc
quyền, đặc lợi của tầng lớp quý tộc bảo thủ; Phải phát triển một nền công nghiệp và thương nghiệp dựa trên
sức mạnh của tri thức khoa học và tiến bộ của kỹ thuật. Ông chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường khai
sáng thông qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng thời ông cũng chống lại mọi cuộc nổi dậy đấu tranh
của nhân dân. Từ những tìm hiểu trên, chúng ta thấy Ph.Bêcơn không chỉ là người sáng lập ra chủ nghĩa
duy vật kinh nghiệm Anh và khoa học thực nghiệm, mà ông còn là một nhà tư tưởng của giai cấp tư sản
phương Tây. Lịch sử triết học, khoa học và văn minh – kỹ thuật phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi
các tư tưởng của Ph.Bêcơn.
A. Triêt học Rơnê Đềcáctơ:
Rơnê Đềcáctơ: Học thuyết triết học của Đềcáctơ toát lên tinh thần duy lý, tìm kiếm và sử dụng các
phương pháp chỉ đạo lý trí để nhận thức đúng đắn thế giới. Có thể chia triết học của ông thành hai bộ phận
là siêu hình học và khoa học (vật lý học). Trong siêu hình học, Đềcáctơ là nhà nhị nguyên luận ngã về phía
duy tâm; nhưng trong khoa học, ông lại là nhà duy vật siêu hình máy móc nổi tiếng. Đềcáctơ không chỉ là
người khôi phục lại mà còn đưa truyền thống duy lý Phương Tây lên đỉnh cao. Ông đã đặt nền móng vững
chắc cho khoa học lý thuyết. Lịch sử triết học, khoa học và văn minh tinh thần của phương Tây chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng của ông. Đây là trường phái triết học – siêu hình học đề cao lý tính, cố gắng
hệ thống hóa toàn bộ tri thức mà con người đạt được lúc bấy giờ dựa trên cơ sở phương thức tư duy lý luận,
nhằm giúp con người thoát ra khỏi cách nhìn thiển cận về thế giới.
Siêu hình học: Trong Siêu hình học của Đềcáctơ nổi bật những tư tưởng sau:
“Nghi ngờ phổ biến” – nguyên tắc xuất phát để xây dựng triết học và khoa học mới:
+ Đềcáctơ đòi hỏi phải xây dựng triết học mới. Triết học mới phải được hiểu theo hai nghĩa: Theo
nghĩa rộng, triết học là tổng thể tri thức của con người về các lĩnh vực; còn theo nghĩa hẹp, triết học là siêu
hình học – cơ sở thế giới quan của con người. Triết học mới phải bàn về khả năng và phương pháp đạt
được tri thức đúng đắn, vì vậy, nhiệm vụ của nó trước hết phải là khắc phục chủ nghĩa hoài nghi, và sau đó
là xây dựng các nguyên tắc chỉ đạo các ngành khoa học khám phá ra các quy luật của giới tự nhiên, xây
dựng các chân lý khoa học, giúp con người chinh phục giới tự nhiên, phục vụ lợi ích cho mình. Nói vắn tắt,
triết học mới là triết học gắn liền với khoa học nhằm làm chủ tư duy, nâng cao trình độ lý luận cho con
người…
+ Đềcáctơ cho rằng, cơ sở của chân lý là lý tính, và để nhận thức đúng cần phải nghi ngờ phổ biến, –
nghi ngờ mọi cái, kể cả cái mà người đời cho là chân lý ta cũng phải nghi ngờ; tức nghi ngờ mang tính
phương pháp luận để không mắc sai lầm và có được niềm tin chắc chắn trong nhận thức. Với nguyên tắc
nghi ngờ trên, Đềcáctơ đề cao tư duy, lý tính và coi thường kinh nghiệm, cảm tính trong hoạt động nhận
thức; vì vậy, ông đã xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa duy lý thời cận đại. Theo ông, mọi cái tồn tại chỉ có thể
trở thành chân lý khi chúng được đưa ra phán xét dưới “tòa án” của lý tính nhằm tự bào chữa cho sự tồn tại
của chính mình. Nghi ngờ phổ biến, vì vậy, là cơ sở phương pháp luận của triết học Đềcáctơ… Quan điểm
duy lý này của Đềcáctơ có ý nghĩa tích cực trong quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, chống lại
lòng tin vô căn cứ. Tuy nhiên, cũng giống như Ph.Bêcơn, người chỉ thấy một mặt của quá trình nhận thức –
mặt cảm tính (phương pháp siêu hình kinh nghiệm); thì Đềcáctơ cũng chỉ thấy một mặt của quá trình nhận
thức – mặt lý tính; do đó cơ sở phương pháp luận này cũng mang tính siêu hình, phiếm diện (phương pháp
siêu hình tư biện). “Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”: Dù dựa trên nguyên tắc nghi ngờ phổ biến, nhưng
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

Đềcáctơ không đi đến chủ nghĩa hoài nghi mà là bác bỏ nó và xây dựng nguyên lý cơ bản của toàn bộ hệ
thống siêu hình học duy lý của mình – nguyên lý “Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”.
+ Để luận chứng cho nguyên lý này, ông lý luận như sau: Dù tôi nghi ngờ về sự tồn tại của mọi cái
nhưng tôi không thể nghi ngờ về sự tồn tại của chính mình, bởi vì, nếu tôi không tồn tại thì làm sao tôi có
thể nghi ngờ được. Mà nghi ngờ là suy nghĩ, là tư duy, nên tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại. Tôi tồn tại với
cương vị là người suy nghĩ, nghĩa là suy nghĩ của tôi là có thật. Nó có sự tồn tại, và sự tồn tại đó là không
thể nghi ngờ và cũng không thể bác bỏ được…
+ Dựa trên nguyên lý cơ bản “Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”, ông xây dựng hệ thống siêu hình học của
mình. Đối với ông, siêu hình học phải là học thuyết chặt chẽ về Thượng đế, về giới tự nhiên và con người,
để từ đó rút ra các nguyên tắc giúp chỉ đạo hoạt động bản chất của con người – hoạt động nhận thức của
linh hồn lý tính.
- Lý luận về Thượng đế, giới tự nhiên và con người:
+ Trình bày các chứng minh về sự tồn tại của Thượng đế: Theo ông, Thượng đế thật sự tồn tại, bởi vì
mọi dân tộc, mọi con người đều nghĩ về Thượng đế; hơn nữa, sự tồn tại của Thượng đế là cái đảm bảo chắc
chắn cho sự tồn tại của giới tự nhiên cũng như của vạn vật sinh tồn trong nó, đảm bảo cho sự tồn tại của thể
xác và năng lực nhận thức vô tận của con người…
+ Coi vạn vật trong giới tự nhiên chỉ có thể được tạo thành từ hai thực thể tồn tại độc lập nhau: thực
thể tinh thần phi vật chất với thuộc tính biết suy nghĩ, tạo thành mọi ý nghĩ, quan niệm, tư tưởng…, và thực
thể vật chất phi tinh thần với quãng tính, tạo thành các sự vật có thể đo được theo các đặc tính không gian,
thời gian.
+ Coi con người là một sự vật đặc biệt được tạo thành từ hai thực thể trên, nó vừa có linh hồn bất tử
vừa có cơ thể khả tử; là một sinh vật chưa hoàn thiện nhưng có khả năng đi đến hoàn thiện, là bậc thang
trung gian giữa Thượng đế và Hư vô, nên con người vừa cao siêu, không mắc sai lầm; vừa thấp hèn, có thể
mắc sai lầm.
- Lý luận về linh hồn: Linh hồn con người không chỉ bao gồm lý trí mà còn có cả ý chí nữa. Lý trí
mang lại khả năng nhận thức sáng suốt, đúng đắn. Ý chí mang lại khả năng chọn lựa, phán quyết (khẳng
định hay phủ định), khả năng tự do giải quyết. Chính do khả năng to lớn của mình mà ý chí có thể dắt dẫn
linh hồn sa vào sai lầm, nhầm lẫn. Hoạt động bản chất của linh hồn con người là nghi ngờ, tức suy nghĩ, tư
duy. Bản thân việc nghi ngờ là dấu hiệu không hoàn thiện vươn tới sự hoàn thiện. Do bắt nguồn từ Thượng
đế mà trong linh hồn con người có chứa sẵn một số tư tưởng hoàn thiện mang tính bẩm sinh luôn đúng đắn,
được sản sinh ra cùng lúc với sự sinh ra Tôi. Ngoài ra, trong linh hồn con người còn có một số tư tưởng
khác không hoàn thiện có thể sai lầm. Đó là các tư tưởng được linh hồn tự nghĩ ra, hay các tư tưởng được
du nhập từ bên ngoài vào khi linh hồn tiếp xúc với thế giới xung quanh.
- Quan niệm về nhận thức: Xuất phát từ quan niệm coi hoạt động bản chất của linh hồn là nhận thức,
và mọi chân lý đều bắt nguồn từ linh hồn lý tính (trí tuệ), Đềcáctơ cho rằng: Nhận thức là quá trình linh
hồn lý tính xâm nhập vào chính mình để khám phá ra tư tưởng bẩm sinh (các nguyên lý, quy luật của
lôgích hay của toán học…) chứa đựng trong mình và sử dụng chúng để tiếp cận thế giới; Trực giác – năng
lực linh cảm của linh hồn lý tính mang lại những ý niệm rõ ràng, rành mạch, hiển nhiên là hình thức nhận
thức tối cao khám phá ra các tư tưởng bẩm sinh đó. Ông coi lý trí khúc chiết chỉ nhận thức được chân lý khi
nó dựa vào trực giác như là điểm khởi đầu và là hình thức hoạt động trí tuệ cao nhất của mình để suy nghĩ
một cách rõ ràng, rành mạch những tư tưởng trong nó và do nó tự sinh ra, hay nắm lấy tư tưởng về các sự
vật có thể khẳng định hay phủ định. Bản thân lý trí khúc chiết tự nó không khẳng định hay phủ định điều gì
cả, nên nó không bao giờ mắc sai lầm.
- Các nguyên tắc phương pháp luận nhận thức: Theo Đềcáctơ, một linh hồn vĩ đại cũng có thể sản
sinh ra những điều nhảm nhí, nếu nó không biết dựa vào một phương pháp luận đáng tin cậy. Vì vậy,
nhiệm vụ của siêu hình học là xây dựng các nguyên tắc mang tính phương pháp luận nhằm chỉ đạo hoạt
động nhận thức của linh hồn lý tính, giúp hoàn thiện trí tuệ – năng lực tư duy, đồng thời cũng là để giúp
cho các ngành khoa học khám phá ra chân lý. Như vậy, theo Đềcáctơ, quá trình nhận thức đúng đắn phải
dựa vào năng lực trực giác của linh hồn lý tính để khám phá ra những tri thức bẩm sinh chứa sẵn trong nó.
Sau đó, linh hồn lý tính sử dụng hiệu quả tư duy phân tích một cách toàn diện và phép suy diễn hợp lý
(diễn dịch toán học) để xây dựng mọi tri thức khoa học lý thuyết; đồng thời, qua đó mà hoàn chỉnh lý trí
khúc chiết để phát triển chủ nghĩa duy lý.
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

Khoa học: Trong lĩnh vực khoa học, mà trước hết là vật lý học, ông bộc lộ thế giới quan duy vật siêu hình
máy móc của mình, tuy nhiên có chỗ thể hiện một số quan điểm biện chứng vượt trước thời đại.
- Trong lĩnh vực vật lý học, Đềcáctơ xây dựng lý luận về vật chất và vận động. Vật chất bao gồm các
hạt nhỏ, mịn có thể được phân chia đến vô cùng tận. Bản chất của vật chất là quãng tính; hay quãng tính là
thuộc tính của thực thể vật chất. Không gian, thời gian và vận động là những thuộc tính gắn liền với những
vật thể vật chất. Không có không gian trống rỗng. Trong lĩnh vực sinh học, Đềcáctơ phát triển tư tưởng duy
vật máy móc về sự phụ thuộc của tinh thần (tâm lý) vào cơ cấu vật chất, vào trạng thái của các cơ quan
trong cơ thể. Từ đó, ông khẳng định sự hình thành và phát triển của giới thực vật và giới động vật là quá
trình hoàn toàn tự nhiên, không có sự can thiệp của Thượng đế. Ông là người khám phá ra cơ chế phản xạ,
và coi mọi cơ thể sinh vật đều là các cỗ máy có lắp đặt một cơ chế phản xạ. Sự hoạt động của cỗ máy này
sinh ra linh hồn thực vật và linh hồn động vật khả tử. Tuy nhiên, theo Đềcáctơ, con người là một cỗ máy –
hệ thống có gắn liền với linh hồn lý tính bất tử. Đềcáctơ rất kỳ vọng vào y học trong việc cải tạo thể xác và
đời sống tinh thần của con người.
- Trong lĩnh vực toán học, Đềcáctơ có những tư tưởng biện chứng vượt trước thời đại. Ông đã sửa
đổi lại đại số, dùng hình chỉ số và dùng số chỉ hình; dùng chữ để chỉ những đại lượng biến thiên (x, y, z…),
và đưa các đại lượng biến thiên vào trong toán học bên cạnh những đại lượng không đổi (a, b, c…). Từ đó,
xuất hiện hình học giải tích, hàm số và phương pháp đồ thị… Với ý tưởng biện chứng này, Đềcáctơ đã đặt
nền móng cho toán học hiện đại. Đối với ông, toán học là khoa học chính xác, rõ ràng, rành mạch nhất.
Phương pháp diễn dịch toán học là phương pháp chung để thu được tri thức đúng đắn; bởi vì nó là phương
pháp thể hiện rõ bốn nguyên tắc phương pháp luận nhận thức mà trí tuệ phải tuân theo để đạt chân lý.

Câu 3:

Học thuyết Pốppơ:


- Tại sao nhận thức là quá trình tìm ra sai lầm chứ không phải tìm ra chân lý?
- Dùng lịch sử khoa học để chứng minh luận điểm đó.
- Bổ sung: Quan điểm của Pốppơ và Mác thì ai đúng ai sai, hay cả hai đều đúng, dùng thành quả của
cuộc sống để giải thích
Pốppơ cho rằng, một lý luận được gọi là khả phủ chứng nếu từ nó rút ra ít nhất một trần thuật có thể
xung đột với một vài sự kiện nào đó. Nếu sự xung đột đã xảy ra thì lý luận này là lý luận bị phủ chứng, còn
nếu sự xung đột chưa xảy ra thì lý luận này là lý luận vị phủ chứng. Lý luận bị phủ chứng bị đào thải, lý
luận vị phủ chứng tạm thời được giữ lại tạo thành nội dung của khoa học. Do cho rằng con người không
bao giờ đạt tới chân lý, mọi tri thức đều không đầy đủ, mọi lý luận khoa học đều là những suy đoán giả
thuyết khả phủ chứng, mà Pốppơ coi khoa học không truy tìm tính chân lý để xác chứng mà là truy tìm tính
sai lầm để phủ chứng lý luận. Theo ông, lý luận được bác bỏ càng nhanh càng tốt, càng làm cho tính tinh
xác và tính phổ quát của các trần thuật lý luận ngày càng cao. Còn ngược lại, lý luận hoàn toàn không xung
đột với bất kỳ sự kiện nào là lý luận bất khả phủ chứng, nó thuộc về lĩnh vực siêu hình học, tôn giáo.
- Pốppơ đã nâng khái niệm phủ chứng lên thành nguyên tắc phủ chứng mang tinh thần lý tính phê
phán. Nguyên tắc này đòi hỏi:
+ Một là, phải nêu ra tất cả các giả thuyết có thể có, và buộc chúng phải đối mặt với mọi sự phê phán
nghiêm khắc để làm bộc lộ ra những sai lầm khiếm khuyết mà không được dựa vào bất cứ một kết luận quy
nạp nào để làm tiền đề cho lý luận;
+ Hai là, phải biết học tập từ trong sai lầm và dũng cảm phạm sai lầm;
+ Ba là, phải dám phê phán và dám phủ định.
- Theo Pốppơ, khoa học là một sự nghiệp mang tính thể nghiệm nên sai lầm khó tránh khỏi. Muốn
khoa học tiến lên chúng ta cần phải biết xử lý để loại bỏ sai lầm một cách nhanh chóng. Do khoa học phát
triển trong quá trình cạnh tranh giữa các lý luận khả dĩ nên cần phải phê phán để tuyển lựa lý luận tối ưu,
nhằm thúc đẩy sự phát triển khoa học. Khoa học phát triển khi lý luận cũ bị phủ định để tạo tiền đề cho sự
ra đời lý luận mới. Nhà khoa học không phải chỉ biết phủ định lý luận của người khác mà phải dám và tìm
mọi cách phủ định lý luận của chính mình.
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

- Pốppơ cho rằng, khoa học bắt đầu từ vấn đề khoa học. Nếu gọi: P1 – vấn đề khoa học, TT – các lý
luận khoa học cạnh tranh nhau được đưa ra để giải quyết vấn đề, EE – các sự kiện kinh nghiệm phản bác
các lý luận khoa học cạnh tranh nhau, P2 – vấn đề mới xuất hiện, thì tri thức khoa học sẽ tăng trưởng theo
sơ đồ: P1 → TT → EE → P2.
 Khi vạch ra sai lầm cơ bản của chủ nghĩa phủ chứng thô sơ Pốppơ là quá đề cao tính phủ chứng của
kinh nghiệm, Lacatốt (Lakatos) đã khắc phục nó bằng chủ nghĩa phủ chứng tinh tế.
- Ông cho rằng, tính chất cơ bản của lý luận khoa học không phải là tính khả phủ chứng mà là tính
mềm dẻo chịu đựng và tính phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, các lý luận khoa học hợp lại tạo thành tri thức bối
cảnh của khoa học thống nhất. Khi sự thật kinh nghiệm và lý luận xung đột nhau thì rất khó xác định lý
luận sai hay tri thức bối cảnh không đúng. Nếu biết điều chỉnh thích đáng tri thức bối cảnh thì lý luận khoa
học có thể sống sót từ sự phản bác kinh nghiệm. Từ đây, ông kết luận: Sự thật kinh nghiệm không thể xác
chứng hay phủ chứng một trần thuật lý luận nào. Theo ông, một lý luận T nào đó chỉ bị phủ chứng khi:
Một là, xuất hiện lý luận T’ có nội dung kinh nghiệm phong phú hơn nó và cho phép dự kiến hay phát hiện
nhiều sự thực mới hơn T; Hai là, T’ nói rõ sự thành công mà T đã đạt được trước đó; Ba là, toàn bộ nội
dung chưa phản bác của T đều được bao hàm trong T’; Bốn là, có một số nội dung dư thừa của T’ so với T
đã được xác chứng… Khi xung đột với sự thật kinh nghiệm, lý luận không nhất thiết phải bị đào thải mà
đòi hỏi phải điều chỉnh lại để cứu vãn nó. Muốn đánh giá đúng một lý luận nào đó cần phải đặt nó trong
mối liên hệ với những lý luận khác hay với những giả thuyết phụ trợ của nó, phải đặt nó trong điều kiện,
hoàn cảnh mà nó xuất hiện, nghĩa là phải có quan điểm toàn diện, lịch sử – cụ thể.

Câu 4: Triết học Mác - Lênin: Nguyên lý mối liên hệ phổ biến, nguyên lý sự phát triển
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò xương
sống trong phép duy vật biện chứngcủa triết học Mác - Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản,
những quy luật phổ biến phản ánh hiện thực khách quan.
Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái
quát nhất. Hai nguyên lý cơ bản gồm:

 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại
trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay
giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06
cặp phạm trù cơ bản.
 Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan
phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện
thông qua ba quy luật cơ bản
Ph.Ăng-ghen định nghĩa: Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy
và: Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng
vào tư duy chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại giữa chúng, trong sự móc xích của chúng, trong sự vận
động của chúng, trong sự phát sinh và tiêu vong của chúng
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Theo chủ nghĩa Mác -Lênin thì các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình
thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ
bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự
vật, hiện tượng khác. Đồng thời cũng qua đó phê phán cách xem xét của các nhà siêu hình học.
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

Đối với những nhà siêu hình học thì những sự vật và phản ánh của chúng vào trong tư duy, tức là
những khái niệm đều là những đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cố định, cứng đờ vĩnh viễn, phải xem xét
từng cái một, cái này sau cái kia, cái này độc lập với cái kia
Quan điểm siêu hình chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy,
chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy sự hình hành và tiêu vong của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh
của sự vật và không thấy trạng thái động của sự vật, chỉ thấy cây mà không thấy rừng
Cơ sở khoa học
Nguyên lý này được dựa trên một khẳng định trước đó của triết học Mác-Lênin là khẳng định tính
thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng. Các sự vật, hiện
tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những
dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Engels đã nhấn mạnh điều này
Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không
phải bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của Triết
học và khoa học tự nhiên
Theo Hồ Chí Minh thì: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động
qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng
khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển
hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế
giới.
Liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới
Tính chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: Tính
khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

 Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng,
không phụ thuộc vào ý thức của con người.
 Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, ở bất kỳ không gian nào
và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng
một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với
những thành phần, những yếu tố khác.
 Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không
gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối
liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên
hệ thứ yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của
sự vật, hiện tượng.
Để khái quát nên tính chất biến hóa của sự vật, hiện tượng, Ăng-ghen đã viết rằng:
Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung nhau được, họ
nói có là có, không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một hiện tượng
không thể vừa là chính nó lại là vừa cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ nhau….
Ngược lại tư duy biện chứng là một tư duy mềm dẻo linh hoạt, không còn biết đến những đường ranh
giới tuyệt đối nghiêm ngặt, đến những cái "hoặc là"…. "hoặc là"… "vô điều kiện" nữa (kiểu như:
"hoặc là có, hoặc là không", hoặc tồn tại, hoặc không tồn tại"). Tư duy biện chứng thừa nhận trong
những trường hợp cần thiết bên cạnh cái "hoặc là"… hoặc là" còn có cả cái "vừa là…. Vừa là" nữa.
Chẳng hạn, theo quan điểm biện chứng, một vật hữu hình trong mỗi lúc vừa là nó, vừa không phải là
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

nó, một cái tên đang bay trong mỗi lúc vừa ở vị trí A lại vừa không ở vị trí A, cái khẳng định và cái
phủ định vừa loại trừ nhau vừa không thể lìa nhau được[
Theo Lênin: Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các
mặt, các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó và ông cũng cho rằng: Phép biện chứng đòi
hoỉ người ta phải chú ý đên tất cả các mặt của mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối
quan hệ đó.
Biểu hiện
Nguyên lý này biểu hiện rõ thông qua sáu cặp phạm trù gồm:
Cái chung và cái riêng
Bản chất và hiện tượng
Nội dung và hình thức
Nguyên nhân và kết quả
Khả năng và hiện thực
Tất nhiên và ngẫu nhiên.
Nguyên lý về sự phát triển
Triết học Mác-Lênin luôn coi trọng sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Việc đặt sự vật, hiện
tượng trong trạng thái luôn phát triển là một nguyên lý quan trọng của triết học Mác-Lênin. Liên hệ tức là
vận động,mà không vận động thì không có sự phát triển.Nhưng vận động và phát triển là hai khái niệm
khác nhau.Khái niệm vận động khái quát mọi sự biến đổi nói chung,không tính đến xu hướng và kết quả
của những biến đổi ấy như thế nào.Sự vận động diễn ra không ngừng trong thế giới và có nhiều xu hướng.
“Quan điểm siêu hình mà điểm trung tâm là quan niệm về tính tuyệt đối không thay đổi của giới tự nhiên,
phủ nhận mọi sự biến đổi, mọi sự phát triển trong giới tự nhiên”
“Mỗi một sự tiến bộ trong sự phát triển hữu cơ đồng thời lại là sự thoái bộ, vì nó cũng cố sự phát triển
phiến diện và loại trừ khả năng phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau”

“Quan niệm về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: Tất cả những gì cố định đều biến
thành mây khói, và tất cả những gì người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì nay đã trở thành nhất thời, và người
ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một vòng tuần hoàn vĩnh cửu ”
Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật phủ định. Trong
đó:
Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Ba quy luật này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động
Câu 5: Triết học Mác - Lênin: Nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc sự phát triển
- Không làm theo nguyên tắc thì mắc sai lầm gì?
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

- Vận dụng nguyên tắc vào xem xét:


-- Xem xét xã hội
-- Xem xét tiến trình phát triển XH loài người (Các hình thái KTXH)
- VN bỏ qua CNTB là như thế nào?
- Kinh tế quan trọng: Tại sao?
- Sự phát triển XH loài người, từ thấp đến cao.
- QHXH phù hợp với trình độ phát triển
- Kiến trúc thượng tầng
Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
– Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong những nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự
vật hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại củ nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố,
thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật
hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác, tránh xem xét phiến diện một chiều.
– Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm được đâu là
mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong nhận thức,
nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả
năng của vận động, phát triển có thể có của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự
vật, hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính,
cùng các mối quan hệ của chúng.
– Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong
mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con
người rất đa dạng.
– Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối lập với chủ nghĩa chiết trung và
thuật ngữ nguỵ biện.
2. Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và nhận thức
– Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của hoạt
động nhận thức thực tiễn. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép
biện chựng duy vật. Theo đó, sự phát triển là vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là trường hợp đặc biệt của sự đặc biệt của sự vận động và
trong sự phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu
tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự việc, hiện tượng cùng chức năng của nó ngày càng hoàn
thiện hơn. Do vậy, để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng chúng ta phải thấy
được sự thống nhất giữa sự biến đổi về lượng với sự biến đổi về chất trong quá trình phát triển, phải chỉ ra
được nguồn gốc và động lực bên trong, nghĩa là tìm ra và biết cách giải quyết mâu thuẫn, phải xác định xu
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự
ra đời của sự vật hiện tượng mới.
– Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến
đổi chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại mà còn thấy được
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ những biến đổi của sự
vật, hiện tượng.
– Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có
những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau.
– Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm với cái
mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay
thế cái cũ, phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ …Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp
bởi cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ, chiến thắng cái cũ.
– Vận dụng nguyên tắc phát triển vào việc nhận thức về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở
nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Câu 6: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập Phân biệt mâu thuẫn biện chứng
và mâu thuẫn logic.
- Lý giải tại sao hiểu sự vật phải thấy được mâu thuẫn trong nó.
- Vận dụng vào CNTT: Mâu thuẫn, sẽ phát triển đi về đâu,...

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy
luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật trong
triết học Mác - Lênin, là hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự
vận động, phát triển, theo đó nguồn gốc của sự phát triển chính là mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn
nội tại trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng.
Các nhân tố chính
Các mặt đối lập
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng
biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt
đối lập là khách quan và là phổ biến trong thế giới. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì tất cả
các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Ví dụ như: Trong nguyên tử
có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và
cầu, hàng và tiền. Những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
Mâu thuẫn biện chứng
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau theo hướng trái ngược nhau, xung đột lẫn
nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì mâu thuẫn biện
chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng
trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn
biện chứng không phải là ngẫu nhiên, chủ quan, cũng không phải là mâu thuẫn trong lôgic hình thức. Mâu
thuẫn trong lôgich hình thức là sai lầm trong tư duy.
Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng sự mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình
thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt cựu sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó
lại càng phải chứa đựng sự mâu thuẫn... sự sống trước hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là
nó nhưng lại vừa là cái khác. Như vậy sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và
các quá trình, mâu thuẫn thường xuyên nảy sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống
cũng không còn nữa và cái chết xảy đến. Cũng như chúng ta đã nhận thấy rằng trong lĩnh vực tư duy,
chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn, chăng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên
trong của con người và sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên
ngoài, và bị hạn chế trong những năng lực nhận thức, - mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của
các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối với chúng ta trên thực tiễn cũng là vô tận- và được giải quyết trong sự
vận động đi lên vô tận
– Ph.Ăng-ghen[1]
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

Sự thống nhất
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của
các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của
mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa
chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự "đồng nhất" của
các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó," sự thống nhất của các mặt đối lập" còn bao hàm cả sự " đồng nhất" của
các mặt đó. Engels đã đưa ra ví dụ:
“Giai cấp vô sản và sự giàu có là hai mặt đối lập, với tính cách như vậy chúng hợp thành một chỉnh thể
hoàn chỉnh, thống nhất, chế độ tư hữu với tư cách là sự giàu có buộc phải duy trì vĩnh viễn ngay cả sự tồn
tại của mặt đối lập của nó là giai cấp vô sản ”
— Engels[2]
Do có sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các
mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động
ngang nhau của chúng. Song đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi
diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Sự đấu tranh
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn "đấu tranh" với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là
sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Hình thức đấu tranh của
các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối liên hệ qua lại giữa các mặt
đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
Nội dung quy luật
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu
thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và
phát triển, làm cho cái cũ mất đi cái mới ra đời.
Thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa
Sự thống nhất: Sự thống nhất của các mặt đối lập: Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, đòi hỏi
có nhau, nương tựa vào nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Là sự
đồng nhất của các mặt đối lập; là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập.
Đấu tranh: Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ và phủ định lẫn nhau của các
mặt đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập có thể được biểu hiện ở sự ảnh hưởng lẫn nhau hoặc dùng
bạo lực để thủ tiêu lẫn nhau giữa các mặt đối lập,
Mối quan hệ: Mối quan hệ giũa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập thể hiện ở chỗ trong một
mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, bởi vì trong sự ràng buộc,
phụ thuộc quy định lẫn nhau thì hai mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh
với nhau. Không có sự thống nhất sẽ không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh, còn đấu tranh
của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh của các mặt đối lập. Do sự đa
dạng của thế giới nên hình thức chuyển hóa cũng rất đa dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau,
cũng có thể cả hai chuyển thành những chất mới. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập phải có những điều
kiện nhất định.
Sự phát triển
Phát triển là sự đấu tranh của các mặt đối lập: Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình
hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là 2 xu
hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng cũng
bao hàm cả "sự thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập không tách rời nhau, trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, sự thống nhất gắn liền với sự đứng
im, với sự ổn định tạm thời của sự vật.
Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất
của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Việc hình thành,
phát triển và giải quyết mâu thuẫn là một quá trình đấu tranh rất phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạn có những đặc điểm riêng của nó:
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

Giai đoạn hình thành mâu thuẫn, biểu hiện: đồng nhất nhưng bao hàm sự khác nhau; khác nhau bề ngoài,
khác nhau bản chất, mâu thuẫn được hình thành.
Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn, biểu hiện: các mặt đối lập xung đột với nhau; các mặt đối lập xung đột
gay gắt với nhau.
Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn, biểu hiện: sự chuyển hóa của các mặt đối lập, mâu thuẫn được giải quyết.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu
sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mâu thuẫn mới xuất hiện
mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng
ngày càng phát triển đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển
hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới;
sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.
Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và
phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Khi mâu thuẫn đã được giải quyết thì sự
vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời lại bao hàm mâu thuẫn mới, mâu thuẫn mới lại được triển khai, phát triển
và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế sự vật cũ. Do vậy, chính sự đấu
tranh của các mặt đối lập dẫn đến sự chuyển hóa của các mặt đối lập (giải quyết mâu thuẫn) là nguồn gốc,
động lực của sự vận động, phát triển. Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt đối lập không chuyển
hóa) thì không có sự phát triển.
Tính chất
Mâu thuẫn là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau của các mặt đối lập bên trong một sự vật, một hiện
tượng. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn có tính chất khách quan vì nó là cái
vốn có trong sự vật, hiện tượng, là bản chất chung của mọi sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn có tính phổ biến
vì nó tồn tại trong tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình, tồn tại trong cả tự nhiên, xã
hội và tư duy.
Vì mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến nên mâu thuẫn rất đa dạng và phức tạp. Trong các sự vật,
hiện tượng khác nhau thì tồn tại những mâu thuẫn khác nhau, trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng cũng
chứa đựng nhiều mâu thuẫn khác nhau, trong mỗi giai đoạn, mỗi quá trình cũng có nhiều mâu thuẫn khác
nhau. Mỗi mâu thuẫn có vị trí, vai trò và đặc điểm khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng.
Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả các giai đoạn phát triển của
chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú đa dạng được quy định một cách khách
quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của
hệ thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, có thể phân biệt thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn
bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật.
Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ sự vật đó với các
sự vật khác.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là sự tương đối, tuỳ theo
phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài nhưng xét
trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong. Để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên
trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định phạm vi sự vật được xem xét.
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn
mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu
thuẫn bên ngoài không ngừng có tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể
tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải
quyết mâu thuẫn bên trong.
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu
thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn
của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ
thay đổi cơ bản về chất.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy
định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn
bản về chất.
Theo Hồ Chí Minh thì:
“Khi việc gì có mâu thuẫn, khi phải tìm cách giải quyết tức là có vấn đề. Khi đã có vấn đề, ta phải nghiên
cứu cho rõ cái gốc của mâu thuẫn là vấn đề gì. Phải điều tra, phải nghiên cứu các mâu thuẫn đó. Phải phân
tách rõ ràng và có hệ thống, phải biết rõ cái nào là mâu thuẫn chính, cái nào là mâu thuẫn phụ. Phải đề ra
cách giải quyết ”
— Hồ Chí Minh.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định,
các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật và chi
phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là
điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới.Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biển hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản
hay là kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Việc giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật
nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là
góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, có thể chia mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối
kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp những tập đoàn người, có lợi ích cơ bản đối lập
nhau. Như là: Mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, giữa vô sản với tư sản....
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với
nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và
không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác định đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu
thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối kháng.

Câu 7: Phân biệt Phủ định biện chứng và phủ định siêu hình.
- Tại sao đấu tranh giữa cái mới và cái cũ phức tạp, khó khăn, lâu dài.
- Cái mới thất bại trước mắt nhưng sẽ vẫn chiến thắng. Chứng minh: Lý luận, giải thích; Dùng thực tiễn cuộc
sống để chứng minh.

Quy luật phủ định hay quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển, theo đó sự phát triển của sự vật,
hiện tượng có xu hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao hơn, phát triển theo hình
xoắn trôn ốc.
“Phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có tầm quan trọng và
có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy ”
— Ph.Ăng-ghen
Sự phủ định
Theo triết học Mác - Lênin thì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra,
tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu
trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không như vậy sự vật không phát triển được. Sự thay thế
đó được triết học gọi là sự phủ định.
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự
vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển
không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là
sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là
phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt
khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Tuy nhiên có sự phủ định chỉ là
phá hủy cái cũ, không tạo tiền đề cho sự tiến lên và lực lượng phủ định được đưa từ ngoài vào kết cấu của
sự vật, tức là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay
cái cũ.
Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết
những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển.
Mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều
đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ
có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát
triển của sự vật.
Kế thừa: vì phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ
tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ. Cái mới ra đời không xóa
bỏ hoàn toàn cái cũ mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, nó chỉ
gạt bỏ ở cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự phát triển. Do vậy, phủ định biện
chứng đồng thời cũng là khẳng định.
Cái mới trong phủ định biện chứng là cái biểu hiện sự phát triển phù hợp quy luật của sự vật, hiện tượng, là
biểu hiện sự chuyển hóa từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao trong quá trình phát triển.
Nội dun quy luật
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật, những nhân tố
mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị
thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ
định bởi sự vật mới khác.
Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó có
được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục
của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn
thành một chu kỳ phát triển. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là
sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua
những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu, một nấc thang trong quá trình phát
triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định (lần thứ 1), cái mới cũng chứa đựng trong mình xu hướng dẫn
tới sự phủ định lần thứ 2 (phủ định của phủ định).
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những lần phủ định biện chứng là vô
tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự
phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một
cách vô tận theo đường "xoáy ốc" hay "vòng xoáy trôn ốc". Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới
được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phát triển theo đường "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện
chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường "xoáy ốc" dường như thể
hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật
quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật
- giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành
cái đối lập với cái khẳng định ban đầu. Sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới với tư cách là cái phủ định của
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

phủ định đối lập với cái phủ định và dường như trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên như cũ mà
trên cơ sở cao hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và phủ định, là kết quả của sự tổng
hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn
trước đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai đoạn đã qua, vì vậy, nó có nội dung phong phú hơn,
toàn diện hơn. Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là
điểm khởi đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như
vậy sự vật mới ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật phủ định của phủ định là quy
luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Câu 8
Cách mạng Công nghiệp 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, gắn liền với những đột phá
chưa từng có về công nghệ: kết nối Internet, điện toán đám mây, in 3D, công nghệ cảm biến, thực tế ảo, có
tác động sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới. Nó đang và hứa hẹn sẽ tạo ra
các lợi ích cũng như thách thức tụt hậu to lớn và tác động mạnh mẽ tới kinh tế thế giới cũng như tới kinh tế
Việt Nam. Các động lực chính cho CMCN 4.0
Những động lực chính của cuộc cách mạng công nghiệp mới này là sự thay đổi trong kỳ vọng của người
dùng (sản phẩm theo yêu cầu và giao hàng theo thời gian Internet), cùng với sự hội tụ của các công nghệ
mới như IoT, robot cộng tác (cùng làm với người), in ấn 3D và điện toán đám mây, cùng sự xuất hiện các
mô hình kinh doanh mới. Thế giới đang chứng kiến hàng loạt những đột phá khoa học và tiến bộ công
nghệ, đây là những xu hướng và động lực dẫn dắt CMCN 4.0.

Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại nhiều quốc gia phát triển với rất nhiều điều hứa hẹn.
Tuy nhiên, nó cũng mang lại vô vàn những khó khăn và thách thức.Cách mạng Công nghiệp 4.0 là gì?
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới diễn ra vào thế kỷ 18, khi những người công nhân sử
dụng hơi nước và máy móc trong sản xuất để thay cho sức người. Sau đó là điện ra đời, được sử dụng trong
dây chuyên sản xuất và các mô hình sản xuất quy mô lớn, là khởi nguồn của cuộc cách mạng thứ 2. Vào
những năm 1970 là khi máy tính ra đời, điều này tạo ra một loạt sự thay đổi trong cách con người xử lý
thông tin, tự động hoá bằng robot, đây chính là cuộc cách mạng thứ 3.
Hiện tại, chúng ta đang tham gia vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, hay còn gọi là Cách mạng
Công nghiệp 4.0 (Industry 4.0). Cuộc cách mạng này tạo ra môi trường mà máy tính, tự động hoá và con
người sẽ làm việc cùng nhau theo những cách thức hoàn toàn mới. Tại đây, robot và các loại máy móc sẽ
được kết nối vào những hệ thống máy tính, những hệ thống này sẽ sử dụng các thuật toán để điều khiển mà
không cần sự can thiệp của con người.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra như thế nào?
CMCN 4.0 sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh học, Kỹ thuật số và Vật lý. Trong đó,
những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT)
và dữ liệu lớn (Big Data).
Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, CMCN 4.0 tập trung nghiên cứu để tạo ra những đột phá trong nông
nghiệp, thuỷ sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng hoá tái tạo, hoá học và vật
liệu, cùng lĩnh vực vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới và công nghệ nano.
Hiện tại, CMCN 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ, châu Âu, một phần châu Á. Bên cạnh
những cơ hội mới, trong quá trình thực hiện CMCN 4.0, các quốc gia cũng phải đối mặt với không ít những
rào cản.
Cơ hội và thách thức khi thực hiện CMCN 4.0
Áp dụng những đổi mới về công nghệ sẽ giúp quá trình sản xuất nhanh hơn, tốn ít sức người và dữ liệu
được thu thập đầy đủ hơn. Chất lượng sản phẩm được đảm bảo do kiểm soát được từ khâu nguyên vật liệu
cho đến khi thành hình và chuyển đến tay người tiêu dùng. Hơn nữa, con người sẽ không phải trực tiếp làm
việc ở những môi trường làm việc nguy hiểm, giảm tỷ lệ tử vong, bệnh tật trong quá trình lao động.
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

Tuy nhiên, nhiều lao động sẽ mất việc làm do bị máy móc thay thế. Các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn
trong việc tuyển dụng nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của công việc. Điều này có thể dẫn tới sự bất
bình đẳng, thậm chí là phá vỡ thị trường lao động. Ngoài ra, CMCN 4.0 đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay
đổi. Muốn tồn tại và phát triển, họ phải đầu tư và nâng cấp công nghệ, cùng lúc nâng cao chất lượng nhân
sự.
Những bất ổn về kinh tế sẽ dẫn đến những bất ổn về đời sống, thậm chí là chính trị. Công nghệ mới sẽ gây
ra sự thay đổi về quyền lực, mối lo ngại về an ninh, làm tăng khoảng cách giàu nghèo.
Bên cạnh đó, những thay đổi về cách thức giao tiếp trên Internet cũng đặt ra thách thức về bảo mật thông
tin cho cả các hệ thống và cá nhân con người. Chúng ta phải làm gì để bảo mật khi dữ liệu có ở khắp mọi
nơi và được trao đổi thường xuyên giữa các hệ thống.
Nói tóm lại, CMCN 4.0 sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế của một quốc gia, mang đến cho chúng ta
nhiều cơ hội nhưng cũng vô vàn thách thức và khó khăn.
Đồng thời, như các nhà kinh tế Erik Brynjolfsson và Andrew McAfee đã chỉ ra, CMCN 4.0 có thể mang lại
sự bất bình đẳng lớn hơn, đặc biệt là ở khả năng phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế con
người trong toàn bộ nền kinh tế, người lao động sẽ bị dư thừa và điều đó làm trầm trọng hơn khoảng cách
giữa lợi nhuận so với đồng vốn và lợi nhuận so với sức lao động. Mặt khác, xét về tổng thể, các công việc
an toàn và thu nhập cao hơn có thể sẽ gia tăng sau khi công nghệ thay thế dần con người.
Ngoài mối quan tâm kinh tế, sự bất bình đẳng là mối quan tâm xã hội lớn nhất gắn liền với CMCN 4.0.
Những người hưởng lợi lớn nhất của sự đổi mới có xu hướng là các nhà cung cấp vốn trí tuệ và vật chất -
những nhà sáng tạo, các cổ đông và nhà đầu tư - điều này giải thích chênh lệch tăng lên về sự giàu có giữa
những người phụ thuộc vào vốn và với lao động. Do đó, công nghệ là một trong những lý do chính giải
thích tại sao thu nhập đã chững lại, hoặc thậm chí giảm, đối với phần lớn dân số ở các nước có thu nhập
cao: nhu cầu lao động có tay nghề cao đã tăng trong khi nhu cầu đối với người lao động ít được đào tạo và
kỹ năng thấp đã giảm.
Thời đại IoT cũng tạo ra những thách thức nhất định mà các quốc gia cần phải có sự chuẩn bị trước. Chẳng
hạn như việc gia tăng sử dụng hệ sinh thái IoT sẽ làm tăng nguy cơ xâm phạm đời tư, an ninh mạng và
những vấn đề liên quan đến trách nhiệm của con người trong sử dụng các sản phẩm kết nối không dây hay
các phương tiện không người lái. Các vấn đề bảo mật sẽ trở nên quan trọng hơn rất nhiều. Ngoài ra, cần
phải duy trì tính toàn vẹn của quá trình sản xuất, tránh các rủi ro nào về CNTT, những yếu tố sẽ gây hậu
quả sản xuất, cần bảo vệ bí quyết công nghiệp (được chứa trong các tập tin điều khiển cho các thiết bị tự
động hóa công nghiệp)...

You might also like