You are on page 1of 13

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỰC HÀNH PHÁP LUẬT TRONG

ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC LUẬT Ở VIỆT NAM TỪ KINH NGHIỆM MỘT SỐ
QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
PGS.TS. Nguyễn Hiền Phương*
1 Tóm tắt: Giáo dục thực hành pháp luật (CLE) ngày nay đã trở thành một phần
quan trọng trong hoạt động đào tạo Luật và ngày càng được nhiều cơ sở đào tạo
đổi mới áp dụng. Bài viết nghiên cứu một cách đầy đủ và chuyên sâu về phương
pháp thực hành pháp luật, nghiên cứu kinh nghiệm triển khai ở một số quốc gia
tiêu biểu trên thế giới và đề xuất cho việc vận dụng phương pháp này tại các cơ
sở đào tạo Luật Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu nhằm đáp ứng yêu cầu đổi
mới và nâng cao chất lượng đào tạo Luật ở Việt Nam trong bối cảnh tự chủ đại
học các nhà trường và yêu cầu ngày càng cao của người học.
Từ khoá: Phương pháp thực hành pháp luật, giáo dục thực hành pháp luật, đổi
mới phương pháp dạy học, đào tạo Luật.
1. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỰC HÀNH PHÁP LUẬT (CLE-CLINICAL
LEGAL EDUCATION) LÀ GÌ?
Về cơ bản, có thể hiểu giáo dục thực hành pháp luật là một phương pháp dạy và
học dựa trên sự trải nghiệm. Người học sẽ được thực hành các kiến thức pháp
luật và đưa nó vào thực tiễn thông qua các hoạt động thực hành pháp luật. Như
vậy, cùng với hoạt động giảng dạy nhằm cung cấp kiến thức cho người học, cơ
sở đào tạo còn phải đảm bảo cho quá trình tiếp thu kiến thức được trọn vẹn
thông qua hoạt động trải nghiệm thực hành nhằm ứng dụng kiến thức đã học.
Thông qua những trải nghiệm thực hành kiến thức pháp luật mới được tiếp thu
đầy đủ và chuyển hoá dần hình thành nên kỹ năng hành nghề luật cho người
học.
Mục tiêu của phương pháp CLE là đào tạo người học có kiến thức và năng lực
thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo của các bậc đào tạo khác
nhau. Đối với trình độ đại học chuyên ngành Luật, phương pháp này có mục tiêu
giúp cho sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và có kỹ năng thực hành
thành thạo, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết các vấn đề thuộc
chuyên ngành được đào tạo. Mục tiêu này phù hợp mục tiêu chung về đào tạo
Luật lấy người học làm trung tâm với việc đổi mới chương trình và phương
pháp dạy và học luật ở các cơ sở đào tạo hiện nay.
Chương trình CLE cung cấp một phương pháp giáo dục tiến bộ tập trung vào
việc trải nghiệm và cải thiện kỹ năng của sinh viên - những kỹ năng mà họ cần
phải có khi trở thành một luật sư hay hành nghề luật với các chức danh công
việc khác. Trong chương trình CLE, sinh viên luật sẽ được trải nghiệm thực tế
thông qua việc trực tiếp tham gia vào các hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý
miễn phí cho cộng đồng, đặc biệt là những người nghèo, khó khăn và không có
điều kiện tiếp cận với hệ thống pháp luật. Sinh viên cũng có thể xây dựng giáo
án, thiết kế chương trình phổ biến kiến thức pháp luật và tham gia giảng dạy ở
cộng đồng. Cũng có quốc gia tạo cơ hội cho sinh viên tiếp cận với vụ việc hoặc
vụ án thực tế với tư cách hỗ trợ, tư vấn, giải thích pháp luật... Thông qua việc
trải nghiệm, sinh viên có thể nắm bắt kiến thức được tốt hơn và có kỹ năng áp
dụng những kiến thức đã học vào các tình huống thực tế tại cộng đồng. Cũng
thông qua những hoạt động thực hành đó xây dựng ý thức trách nhiệm, phẩm
chất đạo đức của người hành nghề luật. Và vì vậy, những kết quả của phương
pháp này mang lại không chỉ là kiến thức, kỹ năng làm việc mà còn là những giá
trị phẩm chất của nghề mà không phải lúc nào cũng được học trong chương trình
đào tạo luật đơn thuần.
2. CÁCH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP CLE TRONG ĐÀO
TẠO LUẬT
Những hoạt động trong chương trình CLE tương đối phong phú và đa
dạng. Các trường đào tạo căn cứ vào mục tiêu đào tạo, điều kiện cụ thể cũng
như nhu cầu xã hội để thiết kế những hoạt động phù hợp. Có nhiều mô hình cho
một chương trình thực hành luật như: mô hình thực hành luật tại văn phòng thực
hành luật; mô hình thực hành luật lưu động; mô hình thực hành luật thực tập tại
cơ quan hành pháp, tư pháp; mô hình thực hành luật tại cộng đồng; mô hình
thực hành luật mô phỏng (phiên tòa giả định) hoặc là sự kết hợp của nhiều mô
hình kể trên trong một chương trình giáo dục pháp luật thực hành. Một số nơi
cũng thành lập các câu lạc bộ thực hành pháp luật nhằm mở rộng cơ hội thực
hành pháp luật cho sinh viên theo mô hình sinh viên tổ chức với sự hỗ trợ
chuyên môn của giảng viên, cựu sinh viên.
Dù được tổ chức dưới mô hình nào thì chương trình giáo dục pháp luật
thực hành vẫn thường bao gồm những hoạt động chính như cho sinh viên trải
nghiệm (i) giảng dạy pháp luật cộng đồng bằng việc sinh viên lên chương trình,
soạn giáo án và tổ chức giảng dạy dưới sự giám sát của giảng viên, (ii) tư vấn
pháp lý tại văn phòng thực hành luật cho các đối tượng có nhu cầu, (iv) trợ giúp,
tư vấn pháp lý tại cộng đồng, (v) thực hiện các hình thức tuyên truyền pháp luật,
khảo sát cộng đồng khác.
Điều kiện để triển khai các chương trình thực hành pháp luật đầu tiên phải
tính đến là việc thành lập các văn phòng hoặc trung tâm thực hành pháp luật trực
thuộc các trường. Các văn phòng hoặc trung tâm này có cơ cấu tổ chức và vận
hành hợp pháp, thường thuộc cơ cấu tổ chức của trường và hoạt động vì mục
đích phi lợi nhuận. Cũng có những trường hợp trung tâm trực thuộc trường
nhưng có tư cách pháp lý độc lập, hoạt động vì mục tiêu đào tạo kết hợp với trợ
giúp, tư vấn pháp lý. Tiếp đến phải tính đến đội ngũ giảng viên là điều kiện
quyết định đến sự thành công của các mô hình văn phòng/ trung tâm CLE. Rõ
ràng là để thực hiện phương pháp giảng dạy CLE, giảng viên ngoài việc vững
vàng về kiến thức pháp luật còn đòi hỏi họ phải tự trau dồi kỹ năng thực hành
luật, tìm kiếm công việc và cộng tác với các cơ quan liên quan, các chuyên gia
đến từ các văn phòng luật, luật sư, thẩm phán...
Nội dung và kế hoạch chương trình CLE là linh hồn cho sự thành công
của phương pháp đào tạo này. Một chương trình toàn diện, gần gũi với lĩnh vực
đào tạo ưu thế của nhà trường sẽ mang lại thành công và uy tín. Cũng lưu ý cân
nhắc kỹ thay vì mở rộng quá nhiều các lĩnh vực thực hành một lúc thì nên tập
trung vào lĩnh vực luật thu hút sự quan tâm của sinh viên, có tính thực tế cao sẽ
được ưu tiên và dần mở rộng với các lĩnh vực khác, tránh lạm dụng. Và cuối
cùng, sự hứng khởi tham gia và nhận thức đầy đủ về phương pháp này để có
chuẩn bị chu đáo, hợp tác trong dạy và học của sinh viên cũng là một trong
những yếu tố quan trọng quyết định đến thành công của phương pháp CLE.
3. KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP CLE TRONG ĐÀO
TẠO LUẬT TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI
Tiếp cận phương pháp CLE cho thấy, đây là phương pháp dạy học được ra
đời từ khoảng đầu thế kỷ XX khi các cơ sở đào tạo luật ở Mỹ bị chỉ trích rằng
sản phẩm họ đào tạo ra không đáp đứng được nhu cầu công việc, kỹ năng làm
việc kém khiến các nhà tuyển dụng và sử dụng lao động nghề luật ở Mỹ lên
tiếng. Trước bối cảnh đó, các nhà giáo dục đã chỉ ra điểm hạn chế của đào tạo
luật ở Mỹ là có tính truyền thống, nặng lý thuyết và các giáo sư đã đề xuất cải
cách phương pháp đào tạo. Tới năm 1930 mô hình văn phòng CLE đã được phác
hoạ và đề xuất thành lập nhưng phải tới tận năm 1947, hai văn phòng ở Mỹ mới
được chính thức ra đời và vận hành bằng việc đưa sinh viên ngành luật vào trải
nghiệm thực tiễn hoạt động nghề nghiệp thông qua việc tư vấn, trợ giúp cho
khách hàng, tiếp cận vụ việc thực tế và trực tiếp giải quyết.... [3] Trước hiệu quả
tạo hứng thú cho người học, trang bị kiến thức và kỹ năng hành nghề, đặc biệt
phù hợp với các quốc gia vận hành pháp luật theo hệ thống Commom Law (án lệ
pháp), mô hình này được lan rộng ra hầu hết các quốc gia bởi định hướng căn
bản, cốt lõi của nó chính là “học đi đôi với hành” đem lại hiệu quả cao trong đào
tạo. Ở các quốc gia theo hệ thống Civil Law, mô hình thực hành này triển khai
chậm hơn và hiện đang là xu hướng tiến bộ mà hầu hết các trường đào tạo có uy
tín triển khai thực hiện cho sinh viên của mình.
- Đại học Harvard – Mỹ: Khoa Luật Đại học Harvard là nơi tiên phong
trong phát triển giáo dục thực hành đã cung cấp cho sinh viên chương trình đào
tạo thực hành trong nhiều lĩnh vực pháp lý, từ nhân quyền, nhập cư, y tế và luật
nhà ở đến luật mạng, thuế và cựu chiến binh. Dưới sự giám sát của các giảng
viên và luật sư được cấp phép, đào tạo về giáo dục và cố vấn cho sinh viên sẽ
hướng dẫn sinh viên tham gia và các chương trình thực hành pháp luật. Với
hàng trăm vị trí ở các chương trình trong và ngoài nhà trường tại các tổ chức độc
lập trên toàn quốc, trong hơn 30 lĩnh vực luật, trong cả công và tư, chương trình
thực hành pháp luật của Đại học Harvard cung cấp nhiều cơ hội thực hành pháp
luật tốt hơn bất kỳ trường luật nào trên thế giới. Hiện nhà trường có tới 44
chương trình giáo dục thực hành pháp luật và có tới 80% sinh viên luật tham gia
vào ít nhất một chương trình giáo dục CLE của trường. Hàng năm, Trung tâm
cung cấp hằng nghìn giờ dịch vụ pháp lý miễn phí cho khách hàng trên khắp cả
nước và thế giới [1]. Không chỉ dừng lại ở các chương trình CLE trong phạm vi
nhà trường, Đại học Harvard mở rộng liên kết với các tổ chức xã hội, các cơ
quan hành pháp của chính phủ và xác định trách nhiệm của các cơ quan này
trong hoạt động thực hành luật nhằm đem đến hỗ trợ nhiều nhất tới nhóm đối
tượng dễ bị tổn thương như trẻ em, người già, phụ nữ, người di cư với các nội
dung chủ yếu về nhân quyền, bảo vệ phụ nữ và trẻ em, giao dịch thương mại và
tội phạm hình sự [1]. Những giá trị mà chương trình thực hành mang lại không
chỉ là hoàn thiện kiến thức, phát triển kỹ năng mà còn thực sự có giá trị với cộng
đồng khi ở Mỹ còn rất nhiều đối tượng yếu thế được hưởng lợi từ chương trình
này.
- Đại học Hebron – Mỹ: Khoa Luật của trường này bắt đầu hoạt động vào
năm 2008 và Phòng Thực hành pháp luật mở cửa vào tháng 9 năm 2011 và phát
triển dần với các khoá học thực hành. Lúc đầu các khoá học có tên “Khóa đào
tạo ứng dụng” sau đó chuyển đổi thành “Khóa học giáo dục thực hành pháp
luật”. Phương pháp CLE ở đây tập trung vào phân tích trường hợp/ án lệ, nghiên
cứu thực tiễn vụ việc, tư vấn cho đối tượng có nhu cầu, trợ giúp pháp lý cho
người yếu thế và giáo dục pháp luật. Các hoạt động này được sử dụng trong các
môn học Luật Hành chính công, Luật Quốc tế công, Luật Hiến pháp và Luật
Hình sự, Luật Nhân quyền. Nổi bật nhất trong thực hiện các chương trình CLE ở
trường này là hoạt động thực tế liên quan đến sự tương tác với các bộ, chính
quyền thành phố, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tư pháp, thanh tra và các tổ
chức phi chính phủ. Sinh viên được tiếp xúc với các nhà hoạch định chính sách
và trở nên nhạy cảm với các vấn đề được công chúng quan tâm. Họ được tổ
chức thành các nhóm làm việc và mỗi nhóm tiến hành công việc thực địa, họ
phải tự hoạch định chương trình làm việc, chuẩn bị câu hỏi, phân phối nhiệm vụ
giữa các thành viên, phỏng vấn các quan chức chính phủ và đưa ra đánh giá về
công việc, chức năng, nhiệm vụ, chính sách, kế hoạch cải cách, phát hiện tham
nhũng, minh bạch… trong hoạt động bộ máy công quyền. Giảng viên và các cố
vấn giữ vai trò tư vấn, kiểm soát và nhận xét về hoạt động của sinh viên. Ngoài
ra, nhà trường còn có chương trình trao đổi sinh viên giữa các bang, các nước
thông qua các chương trình thực hành pháp luật để có những trải nghiệm thực tế
đa dạng hơn cho sinh viên[2].
- Khác với Mỹ và một số quốc gia theo hệ thống Common Law, Đức là
quốc gia có hệ thống pháp luật mang nhiều đặc trưng truyền thống của pháp luật
châu Âu lục địa, việc đào tạo Luật và nghề luật ở Đức là một quy trình đào tạo
toàn diện, thống nhất trên toàn bộ liên bang. Ở Đức, đào tạo Luật kéo dài từ 5,5
năm tới 6 năm và gồm 2 giai đoạn (i) đào tạo Luật cơ bản tại trường và (ii) đào
tạo thực hành nghề luật kéo dài ít nhất 2 năm. Ở giai đoạn 1, sinh viên chủ yếu
học các môn cơ bản, nặng tính lý thuyết với các học thuyết, các kiến thức
chuyên sâu và kỹ năng thực hành nghề là trọng tâm của giai đoạn 2 gắn với yêu
cầu kỹ năng hành nghề luật như thẩm phán, công tố, luật sư… Trong thời gian
này, sinh viên vẫn phải tham gia các giờ lý thuyết và phải tham gia tập sự tại các
toàn án cấp quận hoặc cấp cao ít nhất 6 tháng, cơ quan công tố 3 tháng, hội đồng
địa phương 4 tháng và có 4 tháng tập sự cùng một luật sư thực thụ. Hoàn thành
các thời gian tập sự này, họ sẽ có tới 7 tháng để định hướng nghề và chọn nơi
đăng ký tăng cường thực tiễn. Kết thúc bằng một kỳ thi thực sự khó và tỷ lệ
không vượt qua được kỳ thi này bao năm nay duy trì ở 15%, nếu 2 lần trượt
đồng nghĩa cánh cửa hành nghề luật khép lại với sinh viên. Chỉ cần nhìn về
chương trình học của sinh viên Luật ở Đức đã nhận thấy rõ ràng phương pháp
CLE được chú trọng như thế nào. Với chương trình này việc sử dụng phương
pháp CLE gần như tuyệt đối ở giai đoạn 2, giai đoạn gắn với yêu cầu kỹ năng
nghề nghiệp cho người học [8]. Chính vì vậy, kết thúc học cử nhân ở Đức, sinh
viên đã có thể vận dụng ngay kiến thức để hoạt động nghề nghiệp. Cũng chính
vì thiết kế chương trình đào tạo như thế này nên ở Đức cũng không có trường
đào tạo nghề riêng biệt (như Việt Nam) mà hoạt động này được đảm bảo ngay
trong chương trình đào tạo cử nhân. Vì vậy thời gian học Luật dài hơn nhiều
quốc gia khác, để có được tấm bằng cử nhân Luật ở Đức thực sự khó khăn khi tỷ
lệ vượt qua các kỳ thi cuối cùng là một nỗi ám ảnh của sinh viên Luật ở Đức, bù
lại, họ có thể thực hành nghề luôn mà không mất thời gian đào tạo, tiếp cận thực
tiễn. Điều này có thể nhận thấy rõ ràng ở các trường đại học Luật ở Đức như Đại
học Humboldt Berlin, Đại học Munster WWU, Đại học Koln, Đại học Goethe
Universitat Frankfurt…[9].
- Đại học Bắc Kinh – Trung Quốc: Đại học Bắc Kinh là một trong những
trường đầu tiên được chọn để thiết lập khóa học giảng dạy pháp lý thực hành ở
Trung Quốc. Vốn là quốc gia đào tạo nặng tính học thuyết, Đại học Bắc Kinh –
Trung Quốc đã thực hiện đổi mới phương pháp đào tạo bằng việc áp dụng
phương pháp đào tạo mới, trong đó CLE được triển khai bằng việc thiết lập các
khoá học thực tiễn, bắt đầu vào tháng 10 năm 2000. Động lực bên trong thúc
đẩy việc thành lập khóa học này là nhu cầu trải nghiệm thực tế để trau dồi kiến
thức và phát triển tài năng pháp lý cho sinh viên. Năm 2007, khởi điểm quy định
2 tín chỉ cho khóa học thực hành đã được chuyển thành 5 (bao gồm 3 tín chỉ cho
các khóa học tự chọn và 2 tín chỉ cho thực tập) và đến tháng 5 năm 2010, dưới
sự thúc đẩy phát triển, Trung tâm Giáo dục Pháp luật Thực hành của Đại học
Bắc Kinh chính thức được thành lập. Hàng năm, trung tâm có hơn 20 khoá học
thực hành và sinh viên đã thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho hàng nghìn
người bằng tư vấn trực tiếp, qua điện thoại và thư. Chỉ trong 1 năm sinh viên đã
được tiếp cận và xử lý hàng trăm vụ việc pháp lý liên quan đến tranh chấp hợp
đồng, quyền sở hữu nhà, tranh chấp hôn nhân, tài sản gia đình, thừa kế, nuôi
dưỡng con cái, phụng dưỡng người già, tai nạn giao thông, sự cố y tế, quyền lợi
của người tiêu dùng, bảo vệ quyền lao động, quyền của nông dân đối với đất đai,
vụ án hành chính và thi hành bồi thường dân sự… [10] Sự hào hứng của sinh
viên khi được tham gia các khoá học thực hành và hiệu quả nó mang lại đã
khiến sự lan toả tới nhiều trường đào tạo Luật khác ở Trung Quốc và hiện nay
đang là mô hình được thành lập ở rất nhiều trường đào tạo Luật trên khắp cả
nước.
Nhìn chung, qua nghiên cứu ở một số quốc gia điển hình, chúng tôi nhận
thấy phương pháp giảng dạy CLE là phương pháp tiến bộ đang được các quốc
gia triển khai thực hiện theo xu hướng đổi mới phương pháp đào tạo Luật.
Những lợi ích mà nó đem lại từ hoạt động đào tạo “học đi đôi với hành” trong
đào tạo Luật là nhu cầu tất yếu của người học đáp ứng đòi hỏi của thị trường lao
động. Nhìn nhận ở góc độ dịch vụ giáo dục, đây cũng được coi là những lợi thế
cạnh tranh trong đào tạo Luật ở các các sở, các quốc gia khác nhau. Do vậy, sự
ra đời của các văn phòng, trung tâm thực hành pháp luật ở các quốc gia, các cơ
sở đào tạo Luật đều được coi là cần thiết và chỉ là vấn đề sớm hay muộn với
những điều kiện cụ thể mà thôi.
4. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP CLE TRONG ĐÀO
TẠO LUẬT Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN
So với cách dạy và học thuần lý thuyết, CLE là cách học năng động và
sáng tạo với mục tiêu tăng cường thực hành, thực tiễn, áp dụng kiến thức trên
giảng đường vào thực tế. Tại Việt Nam, nhiều trường đại học luật hoặc có
chuyên ngành Luật đã bước đầu áp dụng mô hình CLE trong đào tạo. Điểm qua
một số cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam nhận thấy, tại Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh, Câu lạc bộ Thực hành Pháp luật trực thuộc Trung tâm Tư vấn Pháp luật
(CLE) được thành lập với 2 nhiệm vụ chính là trợ giúp pháp lý cho cộng đồng
và tạo môi trường rèn luyện kĩ năng thực hành pháp luật, thực hành kỹ năng
mềm cần thiết khác cho sinh viên. Với sự kết hợp kinh nghiệm của giảng viên
phụ trách thuộc Trung tâm và đội ngũ cộng tác viên tình nguyện chất lượng,
CLE đã và đang khẳng định vai trò của mình một cách rõ rệt qua nhiều hoạt
động khác nhau như (i) Mô hình Tư vấn – hỗ trợ pháp lý miễn phí cho tất cả các
đối tượng có nhu cầu trong xã hội; (ii) Mô hình Tuyên truyền - phổ biến pháp
luật qua toạ đàm, hội thảo, diễn giả trong các hoạt động tuyên truyền phổ biến
pháp luật tại cộng đồng (iii) Mô hình Giảng dạy pháp luật cộng đồng thực hiện
bởi thành viên CLB cho nhiều đối tượng khác nhau như học sinh, phạm nhân
sắp mãn hạn tù… Nội dung hướng đến các chủ đề quen thuộc và thiết thực như
an toàn giao thông, bạo lực học đường, tệ nạn xã hội, quyền và nghĩa vụ của
người sắp mãn hạn tù…
Đại học Kinh tế - Luật (Thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) triển
khai chương trình CLE vào cuối năm 2009 với sự tài trợ của Chương trình phát
triển Liên hợp quốc (UNDP), Công ty Luật Freehill và sự hỗ trợ về chuyên môn
của Tổ chức Nhịp cầu nối các quốc gia Đông Nam Á - Sáng kiến giáo dục pháp
luật cộng đồng (BABSEA CLE). Hoạt động của chương trình CLE tại trường
bao gồm 5 nhóm hoạt động chủ yếu: Tập huấn bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng
thực hành nghề luật cho sinh viên; Tư vấn pháp lý miễn phí cho cộng đồng trong
các lĩnh vực pháp luật như dân sự, hôn nhân gia đình, hộ tịch, tranh chấp đất đai,
bảo vệ quyền của người sống chung với HIV…; Giảng dạy pháp luật cộng đồng;
Tổ chức tuyên truyền pháp luật thông qua hoạt động phát thanh pháp luật, phát
tờ rơi tuyên truyền… Khoa Luật cũng đã thành lập nên Đội hình chuyên Tư vấn
và Giảng dạy pháp luật cộng đồng (CLE-UEL) đóng vai trò là lực lượng nòng
cốt triển khai các hoạt động trong khuôn khổ của chương trình.
Trường Đại học Công nghệ miền Đông là trường mới có khoa đào tạo
chuyên ngành Luật song lại là đơn vị rất nhanh chóng thành lập CLB Thực hành
pháp luật thuộc trường vào 8/11/2017. Đối tượng tham gia là sinh viên Khoa
Luật kinh tế theo hình thức tự nguyện tham gia câu lạc bộ. Các nội dung hoạt
động chủ yếu của CLB Thực hành pháp luật xoay quanh những hoạt động tư
vấn, hỗ trợ pháp lý và giảng dạy pháp luật cộng đồng. Điểm mạnh nhất ở mô
hình CLE là hoạt động giáo dục pháp luật được thực hiện bởi sinh viên tới các
trường học phổ thông các cấp trên địa bàn thu được hiệu quả cao.
Tại các tỉnh phía Bắc, Đại học Luật Hà Nội là trường đào tạo cử nhân luật
lớn nhất hiện nay đồng thời cũng là đơn vị tiên phong trong những cải cách
nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng trường trọng điểm đã chú ý đến phương
pháp CLE. Trước đây dưới sự hợp tác và hỗ trợ của chính phủ Pháp, nhà trường
đã thành lập nhà thực hành pháp luật Việt Pháp và triển khai thực hiện các hoạt
động thực hành theo mô hình chuyển giao kỹ thuật, hướng dẫn từ kinh nghiệm
của Pháp. Đây là mô hình thực hành trong trường đại học luật đầu tiên trên cả
nước. Cũng từ đây, việc dạy và học Luật vốn mang nặng tính lý luận, học thuyết
ở Đại học Luật Hà Nội đã được đổi mới. Mặc dù vậy, do những điều kiện khách
quan, chủ quan sau khi kết thúc dự án, Nhà thực hành pháp luật không được vận
hành hiệu quả và hiện đã chấm dứt hoạt động. Dựa trên những kết quả đạt được
trước đây, hiện nay Trường Đại học Luật Hà Nội triển khai vận dụng phương
pháp này với các hoạt động tiêu biểu như tham dự phiên toà giành cho sinh viên
hệ chất lượng cao, tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật tại
Trung tâm tư vấn pháp luật của nhà trường, tham gia hoạt động trải nghiệm
nghiên cứu tại Trung tâm pháp luật Đức, Nhật… Một số môn học các giảng viên
đã chủ động đưa phương pháp CLE vào giảng dạy lồng ghép trong các chương
trình seminar như môn học Người khuyết tật, môn học Nghề luật và phương
pháp học luật, Luật hình sự, Tội phạm học, Tư pháp người chưa thành niên...
Mới đây một trong những chương trình thực hành pháp luật được Viện luật so
sánh thực hiện thu hút sự tham gia đông đảo của sinh viên vào trải nghiệm “Một
ngày là Viện sĩ”. Đây là một trong những chương trình thực hành pháp luật tiêu
biểu của Đại học Luật Hà Nội, kéo dài 1 tháng giúp cho sinh viên trải nghiệm
hoạt động nghiên cứu và giảng dạy pháp luật.
Một số cơ sở đào tạo khác như Khoa Luật - Đại học Quốc gia, Khoa Luật
Đại học Lao động Xã hội, Trường Đào tạo cán bộ Toà án,…cũng đã bắt đầu
triển khai phương pháp CLE nhưng còn lúng túng và mang tính tự phát.
Trường Đại học Công đoàn cũng đã thành lập Văn phòng thực hành luật
vào ngày 02 tháng 12 năm 2010 là nơi để học tập, nghiên cứu và thực hành luật
cho sinh viên của Khoa Luật. Văn phòng được xem là một chương trình hướng
nghiệp và nâng cao đạo đức nghề luật cho sinh viên thông qua tiếp xúc các vấn
đề pháp lý, phổ biến pháp luật cộng đồng, qua đó tiếp thu kiến thức từ thực tiễn,
rèn luyện các kĩ năng và giá trị mà họ đã trải nghiệm. Đồng thời là nơi cung cấp
các dịch vụ pháp lý miễn phí, giúp ích cho cộng đồng yếu thế trong xã hội, thúc
đẩy công bằng xã hội.
Nhìn chung, hầu hết các trường đào tạo luật, đặc biệt là các trường có uy
tín, có thâm niên trong đào tạo đều nhận thức rõ vai trò của phương pháp CLE,
song vì những điều kiện khách quan, chủ quan khác nhau mà việc triển khai áp
dụng phương pháp này trong đào tạo luật còn có những hạn chế nhất định. Trong
số gần 90 cơ sở đào tạo luật thì cũng chỉ hiếm hoi có một số trường có văn
phòng, trung tâm hoặc câu lạc bộ thực hành pháp luật. Theo thống kê không
chính thức thì chỉ có khoảng 10 cơ sở đào tạo có mô hình này tập trung chủ yếu
ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh [11]. Các mô hình được biết
đến chủ yếu dưới hình thức các trung tâm, CLB và phổ biến nhất là CLB của
sinh viên dưới sự bảo trợ về chuyên môn của thầy, cô giáo.
Những khó khăn hạn chế rất dễ nhận thấy trong việc áp dụng phương
pháp CLE ở cơ sở đào tạo Luật Việt Nam hiện nay bao gồm: (i) Hầu hết các cơ
sở đào tạo chưa nhận thức và giành sự quan tâm cần thiết cho phương pháp CLE
trong đào tạo bậc cử nhân. (ii) Các chương trình thực hành hiện có rất sơ sài,
khiêm tốn cả về số lượng và chất lượng, cho đến nay, chưa có cơ sở nào xây
dựng được các chương trình thực hành pháp luật trọn vẹn và chính quy; (iii)
Thiếu sự tham gia định hướng và hỗ trợ của giảng viên có kỹ năng thực hành
pháp luật, các chuyên gia pháp lý, chuyên viên thực hành pháp luật đến từ các
đơn vị hành nghề luật; (iv) Sinh viên chưa quan tâm, nhận thức được giá trị của
của phương pháp CLE và điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế; (v) Thiếu sự liên
hệ, kết nối với các chương trình thực hành pháp luật của các cơ sở đào tạo luật
và ngành nghề liên quan khác cũng như với môi trường đào tạo quốc tế và khu
vực; (vi) Thiếu hoạt động định hướng nghề nghiệp trong đào tạo Luật ở các cơ
sở khiến sinh viên còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng khi tiếp cận các chương trình
thực hành pháp luật.
5. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP CLE TRONG CÁC
CƠ SỞ ĐÀO TẠO LUẬT Ở VIỆT NAM
Đổi mới tư duy đào tạo hiện được xác định là nền tảng cho những cải
cách về đào tạo Luật ở Việt Nam hiện nay, đồng thời với đổi mới tư duy, nội
dung và phương pháp đào tạo cần được xác định là 2 nội dung chính, trọng tâm
của cải cách. Không thể phủ nhận những thành quả trong đào tạo Luật chúng ta
đã gây nhưng thực sự sản phẩm mà chúng ta đưa ra thị trường đã bộc lộ những
hạn chế nhất định, thể hiện ở cả số lượng quá đông (dư thừa nhân lực) và thiếu
hụt, hạn chế về chất lượng (chưa đáp ứng yêu cầu người sử dụng lao động). Đây
cũng là những nhận xét của những cơ sở đào tạo trong Hội nghị thường niên
Mạng lưới các trường đào tạo Luật ở Việt Nam. Theo đó, để giải quyết những
khó khăn, hạn chế hiện nay trong đào tạo Luật, một trong những giải pháp quan
trọng được các cơ sở thống nhất là thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp
giảng dạy, trong đó các trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Huế là những cơ sở đào
tạo có uy tín cần thực hiện trách nhiệm dẫn dắt, chia sẻ kinh nghiệm đào tạo.
Tiếp cận từ việc nghiên cứu đổi mới các phương pháp đào tạo Luật, tiếp
thu kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, có bề dày trong đào tạo Luật, bài
viết đưa đến một số đề xuất cho Việt Nam trong triển khai phương pháp CLE.
Đây cũng là phương pháp hiện đại được các quốc gia tiến bộ có kinh nghiệm
đang vận dụng tốt đồng thời cũng thể hiện rõ phương châm đào tạo “dạy thật,
học thật”, “học đi đôi với hành”, học bằng trải nghiệm thật để làm việc thật.
Một là, các cơ sở đào tạo tiếp tục chủ trương đổi mới nội dung và phương
pháp dạy và học theo với hệ thống đào tạo tín chỉ thiết kế theo chuẩn đầu ra của
các chương trình. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giảng dạy tích cực “lấy người
học làm trung tâm”, “học đi đôi với hành” nhằm phát huy tính chủ động của
người học và tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng qua thực tiễn, từ đó hoàn chỉnh kiến
thức. Phương pháp CLE cần phải được xác định là phương pháp quan trọng, ưu
tiên thực hiện. Cần phân bổ thời gian học bao gồm cả thời gian thực hành pháp
luật như một yêu cầu bắt buộc với sinh viên. Về yêu cầu này, Trung Quốc, Mỹ
và đặc biệt là Đức đều yêu cầu có tính bắt buộc đối với sinh viên Luật phải theo
học khoá thực hành pháp luật với số tín chỉ nhất định mới đủ điều kiện ra
trường, yêu cầu bắt buộc này còn cao hơn đối với đào tạo bậc sau đại học.
Chúng ta hiện nay chưa đưa vào như một yêu cầu bắt buộc mà vẫn nặng về
giảng dạy lý thuyết, sinh viên ra trường chưa được trải nghiệm một hoạt động
thực hành pháp luật nào khiến kỹ năng hành nghề còn nhiều hạn chế, kiến thức
thực tiễn còn mơ hồ. Đã đến lúc cần thay đổi nhận thức gắn với yêu cầu dạy
thật, học thật, làm thật trong từng nội dung của chương trình đào tạo cử nhân,
sau đại học bằng việc sinh viên phải đáp ứng tham gia ít nhất một chương trình
thực hành bắt buộc tương ứng với một số tín chỉ nhất định trong chương trình
học cử nhân Luật.
Hai là, thành lập các văn phòng thực hành pháp luật hoặc Trung tâm thực
hành pháp luật. Việc thành lập các cơ sở này được xác định là việc cần thiết để
vận hành các chương trình CLE một cách “chính quy” với trách nhiệm tổ chức
quản lý và điều hành của cơ sở đào tạo thay vì mang tính “tự phát” bằng các mô
hình CLB của sinh viên, các hoạt động có tính “thời vụ” như hiện nay. Tuy vậy,
cần xác định rõ để vận hành một văn phòng/ trung tâm thực hành pháp luật cần
hội tụ đủ các điều kiện về cơ sở vật chất, nhân sự cũng như trình độ quản lý điều
hành và tài chính. Trong bối cảnh hiện nay, các cơ sở đào tạo lớn đã có kinh
nghiệm như Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh… cần hoàn
thiện về tổ chức, chẳng hạn như nâng cấp Trung tâm tư vấn pháp luật hiện có
với việc bổ sung chức năng nhiệm vụ, các cơ sở chưa có thì tiến hành thành lập,
thậm chí một số cơ sở có thể hợp tác để thành lập văn phòng/ trung tâm hoạt
động chung, chia sẻ tài chính vận hành, nhân sự và phát triển mối quan hệ hợp
tác trong đào tạo. Các trung tâm nên được tổ chức độc lập trong cơ cấu bộ máy
của nhà trường.
Ba là, xây dựng chương trình thực hành luật. Về chương trình, qua nghiên
cứu mô hình thực hành pháp luật của các trường đại học trên thế giới cho thấy,
hầu hết các trường đều thiết kế các chương trình thực hành pháp luật với 3 nhóm
nội dung chính gồm các khoá thực hành phổ biến giáo dục pháp luật, khoá thực
hành tư vấn, trợ giúp pháp lý và thực hành nghề luật. Trong điều kiện hiện nay,
hoạt động của văn phòng/ trung tâm cần tập trung vào một vài khuyến nghị:
- Thiết kế các chương trình, các khoá thực hành pháp luật trên các lĩnh vực, tập
trung chủ yếu vào những lĩnh vực phổ biến như dân sự, hình sự, kinh tế thương
mại, lao động, đất đai… Thời gian đầu không nên kỳ vọng vào việc bao quát
được nhiều lĩnh vực bởi nguồn dữ liệu thực hành không phải lúc nào cũng sẵn
sàng, đây cũng là kinh nghiệm của Đại học Havard và Đại học Bắc Kinh khi chỉ
bắt đầu từ khoá học thực hành luật tố tụng hình sự, vi phạm giao thông, thương
mại sau đó mở rộng dần.
- Thiết kế các chương trình/ buổi học bổ trợ ngắn hạn gắn liền với các môn học
kỹ năng đang được giảng dạy trong nhà trường đảm bảo “học đi đôi với hành”,
do chính các giảng viên hướng dẫn thực hành pháp luật theo yêu cầu môn học.
- Xây dựng và tổ chức giảng dạy các khoá học, chương trình phổ biến tuyên
truyền, giáo dục pháp luật trong trường học phổ thông, trong cơ sở bảo trợ xã
hội, trại giam, trong các tổ chức xã hội... với sự thiết kế bài giảng, trực tiếp
giảng dạy của sinh viên.
- Thực hiện các hoạt động trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật miễn phí cho các
đối tượng dễ bị tổn thương như trẻ em, trẻ em phạm tội, người cao tuổi, phụ nữ,
người mãn hạn tù... vốn là nhóm đối tượng không có điều kiện chi trả các dịch
vụ pháp lý trong khi nhu cầu tư vấn là rất lớn.
- Kết nối chương trình cho sinh viên tham gia các hoạt động hỗ trợ cơ quan hành
pháp như toà án, viện kiểm sát hoặc các cơ quan tư pháp xã phường, phòng công
chứng, văn phòng luật... và các hoạt động trợ giúp hành chính, văn bản cho các
đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân trong các kỳ họp.
- Giữ đầu mối bảo trợ chuyên môn và hỗ trợ hoạt động của các CLB pháp lý,
các hoạt động thực hành pháp luật của mỗi nhà trường, tổ chức các hoạt động
phiên toà tập sự, tranh biện...
Bốn là, xây dựng đội ngũ nhân lực và tài chính vận hành các chương trình
CLE. Thực tế cho thấy, sự thành công của các chương trình CLE phụ thuộc rất
nhiều vào sự đầu tư về vật chất và nhân lực cho văn phòng/ trung tâm. Về nhân
lực, các cơ sở cần xây dựng đội ngũ giảng viên vừa giỏi chuyên môn, có nhiều
kinh nghiệm thực tiễn và tinh thông về kĩ năng nghề nghiệp. Các nhà trường cần
có cơ chế huy động sự tham gia của các thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, điều
tra viên, chuyên gia pháp luật, cán bộ quản lý đang công tác tại các tòa án, các
cơ quan tư pháp, các cơ quan đơn vị hành chính – sự nghiệp và các tổ chức xã
hội nghề nghiệp khác nhau tham gia giảng dạy và hướng dẫn thực hành cho sinh
viên. Cùng với đó, phải có chế độ chính sách, đãi ngộ phù hợp để tạo động lực
và hiệu quả làm việc của đội ngũ giáo viên, chuyên gia. Kinh nghiệm các quốc
gia cho thấy, nhiều chương trình cũng phá sản vì không có được đội ngũ giảng
viên có nhiều mối quan hệ để có vụ việc và năng lực của giảng viên còn hạn
chế. Các chương trình đã từng vận hành tại Đại học Luật Hà Nội hay Hồ Chí
Minh, Đại học Kinh tế - Luật, Công đoàn đều được cung cấp giảng viên là các
chuyên gia của dự án với nguồn kinh phí chi trả của dự án, do vậy khi kết thúc
dự án, việc vận hành là cả một vấn đề về năng lực nhân sự và chi phí tài chính.
Những giảng viên có trình độ và khả năng này thường lựa chọn các công việc có
thu nhập tốt hơn thay vì công việc TP. Hồ Chí Minh trong phạm vi nhà trường.
Do vậy, giải pháp đưa ra là cần huy động sự tham gia giảng dạy của những cựu
sinh viên đang hành nghề, những nhà nghiên cứu, giảng viên kiêm nhiệm hỗ trợ
thực hiện các chương trình. Kinh nghiệm tại các trường đại học lớn trên thế giới,
họ giữ mối quan hệ rất tốt với cựu sinh viên, đó là nguồn nhân lực dồi dào cho
các hoạt động CLE của sinh viên. Không chỉ đóng góp về nhân lực, họ còn hỗ
trợ chi phí thành lập và vận hành những văn phòng/ trung tâm thậm chí cả các
phòng diễn án, phiên toà giả định cho sinh viên thực hành.
Năm là, đổi mới môn học kỹ năng và công tác thực tập, liên kết thực
hành. Hiện nay chương trình học ở các cơ sở đào tạo đều đổi mới bằng việc bổ
sung các môn học kỹ năng như kỹ năng tư vấn pháp luật, kỹ năng giải quyết
tranh chấp, kỹ năng tư vấn hợp đồng... tuy nhiên, vẫn xoay quanh lý thuyết là
chủ yếu và sẽ là trọn vẹn hơn khi việc giảng dạy các môn kỹ năng được gắn với
các hoạt động thực hành pháp luật. Các khóa học thực tế, các chương trình thực
tế cần được bắt đầu ngay từ năm 2 thay vì chỉ bố trí cho sinh viên đi thực tập tốt
nghiệp cuối khóa như hiện nay. Cần có các hoạt động liên kết với các cơ sở luật
chung tay triển khai các hoạt động thực hành pháp luật và đặc biệt là các cơ sở
đào tạo chuyên ngành liên quan như y tế, điều tra hình sự… các chương trình
thực hành, chia sẻ kiến thức liên kết với Viện Pháp y, Bệnh viện trường Đại học
y để quan sát giải phẫu cơ thể của một nạn nhân hay những chuyến tham quan
thực hành tại học viện cảnh sát, an ninh, kiểm sát, toà án… cần được kết nối
triển khai nhằm hỗ trợ chia sẻ trong hoạt động học tập thực hành của sinh viên.
KẾT LUẬN
Những giá trị mà phương pháp CLE đem lại cho đào tạo Luật là không
thể phủ định, đặc biệt nó còn có ý nghĩa hơn trong hoạt động đào tạo đáp ứng
nhu cầu ứng dụng pháp luật hiện nay của sinh viên – với tư cách là sản phẩm
của đào tạo. Với việc đưa sinh viên vào một môi trường thực tiễn để học tập và
rút ra kinh nghiệm, hoàn chỉnh kiến thức và kỹ năng hành nghề, phương pháp
giáo dục thực hành pháp luật cần phải được triển khai mạnh mẽ ở các cơ sở đào
tạo luật trong cả nước đáp ứng yêu cầu “dạy thật- học thật”, “học đi đôi với
hành” và đổi mới phương pháp đào tạo Luật ở Việt Nam, bắt kịp với giáo dục
tiến bộ trong đào tạo Luật trên thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. https://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:-XQ_59GKtO4J:

https://core. ac.uk/download/pdf/216935569.pdf+&cd=5&hl=vi&ct=clnk&gl=vn

2. https://www.sggp.org.vn/cle-giup-pho-bien-luat-phap-toi-cong-dong-534705.html.

3. https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2017/07/10/xy-dung-van-phng-thuc-hnh-luat-buoc- di-can-thiet-trong-
do-tao-luat/

4. https://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:bItYNNl5lAgJ

https://core.ac.uk/ download/pdf/266994224.pdf+&cd=3&hl=vi&ct=clnk&gl=vn.

5. http://www.scielo.org.za/scielo.php?script=sci_arttext&pid=S1727-37812015000700012

6. http://www.austlii.edu.au/au/journals/LegEdRev/2012/8.html.

7. https://hls.harvard.edu/dept/clinical/pro-bono-program/.

8. Nghiên cứu lập pháp, Nguyễn Văn Nam, Học viện An ninh nhân dân, Đào tạo luật và nghề luật ở CHLB Đức,
2005.

9. http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:aTNZL8J05TwJ

www.encle.eu/ resources/doc_download/15-humboldt-law-clinic-grund-und-menschenrechte-information
+&cd=3&hl=vi&ct=clnk&gl=vn

10. https://en.law.pku.edu.cn/newsevents/global/123267.htm.
11. https://edu2review.com/reviews/danh-sach-cac-truong-dao-tao-nganh-luat-o-viet- nam-10544.html

You might also like