You are on page 1of 3

Thi phẩm mở đầu vs 1 câu thơ trực tiếp, bộc lộ cảm xúc như đang trào dâng trong

tâm hồn người cầm bút, như 1 tiếng gọi thiết tha. Lời gọi thường thể hiện khao
khát giao tiếp của chúng ta với 1 ai đó hay 1 điều gì đó. Vs câu thơ này, ta hiệu răng người nghệ sĩ Đoài Mây Trắng đang mong mỏi được kết nối với TT, vs qk, về n
cuộc hành quân gian cùng đồng đội. Nhà thơ nhắc đến dòng sông quen thuộc trên chặng đường hành quân năm nào gắn liền vs không gian nơi núi rừng thiêng
nước độc nhiều thử thách. Sông Mã hiện lên như 1 người bạn đồng hành cùng những người lính, cất giấu bao kỉ niệm chứng kiến bao bước đi của binh đoàn Tây
Tiến.Việc đưa sông mã và tay tiến vào cùng 1 câu thơ như đặt con người ngang hàng vị trì với thiên nhiên giúp nâng vị thế người lính lên tư thế làm chủ cuộc đời,
để những con người nhỏ bé vô danh chẳng còn lạc lối, lạc lõng cô đơn trước mênh mông vũ trụ bất tận. ngăn cách giữ sông mà và tt , giữ qk và ht là 1 chữ đầy
bâng khuân xa rồi như tạo nên 1 bức tường thành ngăn cách giữ những tháng năm ta từng có nhau với tháng ngày của bây giơ khi ta ko còn sánh bước. K/c ở đây
ko phải là k/c về mặt địa lí mà là sự cách trở về thời gian chẳng có gì có thể xóa nhòa . Đến với câu thơ thứ 2, sử dụng diệp từ nhớ như 1 cách khẳng định cám xúc
chủ đạo xuyên suốt toàn bộ hành trình của thi phẩm. Ông như gom góp nỗi nhớ trong lòng để mà trải dài trên những vần thơ. " Nhớ về rùng núi" nỗi nhớ đã đua Qd
về vs kg núi rừng- kg 1quen thuộc của con đường hành quân, là nơi tạo nên những kỉ niệm gắn bõ giữ nhưng người linh= đêr từnhững trai xa lạ, họ trở thành đồng
chí. Tác giả dùng chữ về khiến kg vồn đầy thử thách khốc liệtj bỗng trở nên thân thưỡng lạ kì. rừng núi hiểm trở những cũng đông dây yêu thương,. như trở thành
ngôi nhà t2 trong trái tim người lính . Ông đã đặt tên cho nỗi nhớ ấy = 1 từ lấy nhớ chơi với. Chơi vơi gợi 1 cảm giác mơ hồ, vô định giữu 1 kg bao la rộng lớn. từu
ht tại tìm về qk dường như nhứng khắc khoải trong trái tim đã người nghệ sị QD rơi vào 1 mien tam tưởng ko xxd, lơ lừng, bay noonrg trong nỗi nhỡ về những ngày
đã quá. Đó là kg gioa bờ giữ qk và ht,1 kg ko có thật mà đc dệt nên= những mộng tưởn da diết - Nếu như trong thi phẩm “Ánh trăng”, nhà thơ Nguyễn Duy khắc
họa sự vô tình của con người khi lãng quên quá khứ, về với ánh điện cửa gương và không còn nhung nhớ những gì đã qua. “vầng trăng đi qua ngõ – như người
dưng qua đường” … Người lính trong Tây Tiến không như vậy. Đối với Quang Dũng, những tháng năm gắn bó với núi rừng, với những người đồng đội, những cuộc
hành quân đầy khắc nghiệt, khó khăn – đã trở thành một “bài ca không bao giờ quên” trong trái tim người thi sĩ, chiến sĩ.
➔ Quang Dũng đã thực sự trở về với những tháng năm trong quá khứ -với những cuộc hành quân gian khổ đầy thử thách giữa núi rừng hoang vu cùng đồng đội
Tây Tiến. - Nhà thơ đã kể tên các địa danh trên con đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến. Sài Khao, Mường Lát không chỉ là những địa danh trên bản đồ địa lý
mà còn là những điểm đến thân thương trong bản đồ của trái tim khi được nhìn nhận bởi nỗi nhớ trào dâng nơi người cầm bút. - Những khó khăn trên con đường
hành quân đã được khắc họa một cách đầy chân thực và day dứt: + “sương lấp đoàn quân mỏi” Trong nhiều thi phẩm, “sương” xuất hiện như một hình ảnh lãng
mạn, dịu dàng, nhẹ nhàng, mang theo những tâm tư của thi sĩ. Bước vào trang thơ của QD, “sương” lại gắn liền với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, thời tiết nơi
“rừng thiêng nước độc” – cản trở bước chân hành quân của những người lính trẻ. Động từ “lấp” như khắc họa trước mắt bạn đọc một màn sương dày đặc đến mức
che kín làm khuất lấp cả đoàn quân. Họ không thể nhìn rõ con đường mà mình đang đi – khó khăn nối tiếp khó khăn. + Đằng sau màn sương mù dày đặc ấy là
những người lính Tây Tiến với đôi chân rã rời sau những ngày dài hành quân. Sự rệu rã về cơ thể là không thể tránh khỏi, nhưng họ chỉ “mỏi” đôi chân – chứ không
“mỏi” về tinh thần. Dẫu khó khăn ra sao, họ vẫn sẽ luôn can trường bước tiếp trên con đường mà mình đã chọn, vì lý tưởng lớn lao của dân tộc. - Bên cạnh những
nét vẽ gân guốc của hiện thực, nhà thơ còn khắc họa những đường nét mềm mại trong tâm hồn hào hoa của những người lính trẻ: “Mường Lát hoa về trong đêm
hơi” + Đêm hơi: không phải là “đêm sương”, mà là “đêm hơi” – như một cách tác giả nói giảm nói tránh những khó khăn khắc nghiệt mà người lính phải đối diện,
khiến cho màn sương dày đặc ấy như mỏng manh thêm phần nào bởi chính ý chí cùng sự lạc quan, lãng mạn của họ. + Hình ảnh “hoa về” Có thể là những bông
hoa trên con đường hành quân – cũng có thể là ẩn dụ cho những ngọn đuốc ấm áp, rực rỡ trên tay những người lính → tượng trưng cho vẻ đẹp phẩm chất trong
sáng, đáng quý của những người lính Dù hiểu theo nét nghĩa nào, hình ảnh hoa vẫn đem lại cảm giác vỗ về, êm dịu, như xua tan đi những mệt nhọc trên con
đường hành quân trước đó. Nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng các thanh bằng liên tiếp để tạo nên một không gian xúc cảm thật nhẹ nhàng, êm ái. Phải chăng đó
chính là tâm hồn lãng mạn của những người lính – dẫu phải quăng mình vào thử thách khắc nghiệt nơi chiến trận, nhưng những chàng trai Hà Thành ấy chưa bao
giờ mất đi sự hào hoa vốn có của mình?

Hai câu thơ đầu như vẽ lên trong trí tưởng tượng của bạn đọc về chặng đường hành quân nhọc nhằn, nhiều thử thách của những người lính trẻ + Điệp từ “dốc” →
Con đường hành quân hiểm trở, gập ghềnh, không hề bằng phẳng, dễ đi. Những người lính trẻ không được đi trên những con đường êm ái, mà luôn phải nỗ lực
vượt qua những chông gai “khúc khuỷu” nơi núi rừng hoang vu, phải đối diện với những con dốc hun hút đòi hỏi thể lực, sức bền về ý chí mạnh mẽ nơi tâm hồn.
Nếu như những chàng trai Hà Thành ấy không giữ vững niềm tin vào lý tưởng mà họ đã chọn, không có lòng kiêu hãnh với chính giá trị của bản thân mình, làm sao
họ có thể vượt qua được những thử thách liên tiếp trên những chặng đường dài? + Không gian mà những người lính thuộc về khi ấy đâu phải là nơi ấm êm bên gia
đình, người thân – mà là giữa vùng trời “heo hút cồn mây”. Từ láy “heo hút” khắc họa trước mắt ta một khung cảnh vắng vẻ, hoang vu, hẻo lánh, thưa thớt – thiếu
hơi ấm con người. Đó là một nơi xa lạ, dễ khiến con người cảm thấy bất an. ➔ Tác giả đã linh hoạt và tinh tế sử dụng những từ láy tượng hình để phác họa nên
bức tranh nơi núi rừng hoang vu ấy. Chất họa trong thơ của Quang Dũng được tạo nên một cách bình dị và thật đỗi tự nhiên. + Hình ảnh “súng ngửi trời” • Súng: vũ
khí chiến đấu, thường tượng trưng cho sự tấn công, sự giao tranh, thậm chí là sự hủy diệt. Thế nhưng, bằng phép nhân hóa tinh tế, hình ảnh “súng ngửi trời” qua
nét cọ của họa sĩ thi sĩ Quang Dũng lại bộc bạch, tâm tình với bạn đọc một điều thật khác. Cây súng trên vai những người lính Tây Tiến tượng trưng cho ước mơ
lớn lao của dân tộc, cho lý tưởng cao đẹp mà họ đã lựa chọn, cho cuộc chiến đấu chính nghĩa để bảo vệ những điều quý giá thuộc về nhân dân mình. → Giữa
khung cảnh hoang vu, hẻo lánh, thiếu sức sống – cây súng ấy đã thực sự trở thành linh hồn của bức tranh. • Bầu trời thường tượng trưng cho hòa bình, tự do → khi
cây súng chạm vào bầu trời rộng lớn – ta cảm nhận được sự giao thoa giữa trái tim người lính với ước mộng hòa bình mà họ đang nỗ lực hướng tới. Dường như,
bầu trời ấy – thiên nhiên vũ trụ bao la ấy, cũng đồng thuận với khao khát cao đẹp trong trái tim con người. ➔ Cây súng ấy đã thổi hồn cho cảnh hành quân hoang
vu. Chính trái tim quả cảm cùng tình yêu Tổ quốc tha thiết nơi những người lính đã sưởi ấm cảnh vật, đẩy lùi mọi nhọc nhằn, vất vả nơi chiến trường. - Câu thơ sau
sử dụng phép điệp kết hợp với thủ pháp tương phản như những nét cọ độc đáo khắc họa trước mắt bạn đọc không gian trùng trùng điệp điệp của núi rừng – của
những ngọn thác cuồn cuộn, ào ào giữa chốn hoang vu. Trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn ấy, có người sẽ cảm thấy choáng ngợp mà chùng bước đôi chân.
Nhưng những người lính Tây Tiến, với hình bóng quê hương đậm sâu nơi lồng ngực trái, với khao khát hòa bình trong từng nhịp thở, họ càng nỗ lực để vượt qua
thử thách, để chinh phục những “bài toán khó” của thiên nhiên bất tận. - Câu thơ cuối với toàn bộ bảy chữ đều là thanh bằng như đem tới một nốt nhạc trầm tư, đau
đáu giữa âm thanh ào ào thác đổ của núi rừng. Câu thơ không chỉ khắc họa cơn mưa rừng che phủ tất cả, mà còn khơi gợi lên bao xúc cảm nơi trái tim những
người lính. + “Nhà ai” → Một hình ảnh đa nghĩa. “Nhà ai” có thể là tổ ấm của những người dân mà người lính nhìn thấy sau màn mưa, để từ đó càng thêm vững
chắc tay súng trên con đường mà mình đã chọn, cố gắng chiến đấu để bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân. + Đó cũng có thể là hình ảnh mái ấm luôn khắc
ghi trong tim những người lính trẻ - những chàng trai Hà Thành mới mười tám đôi mươi, trong đó có rất nhiều người lần đầu tiên xa nhà lâu đến thế, lại là một cuộc
ra đi chẳng hẹn ngày trở về. Nhà thơ Quang Dũng dường như không giấu diếm những nỗi nhớ nhà quay quắt trong trái tim của những người lính, có lẽ bởi ông tin
rằng – xúc cảm ấy không hề khiến họ trở nên yếu đuối, mà ngược lại, càng làm cho họ nỗ lực nhiều hơn nữa, để có ngày được trở về với gia đình thân thương. +
Những cơn mưa nơi rừng thiêng nước độc càng tăng thêm bao khó khăn chồng chất trên con đường hành quân của những người lính. Nhưng trong lời thơ của
QD, làn mưa ấy còn như chở theo bao cảm xúc khắc khoải nơi tâm hồn. Câu thơ như ướt đẫm tiếng mưa, và cũng ướt đẫm tiếng lòng của những chàng trai ấy…

Hình ảnh người lính được khắc họa vô cùng chân thật và đầy cảm xúc: + Từ “anh bạn” vang lên thật thân thương, bình dị mà ấm áp. Nhà thơ không chỉ coi những
chàng trai Tây Tiến là những người đồng đội trong cùng một binh đoàn, mà thực sự - với đại đội trưởng QD, họ thực sự là bạn, là chiến hữu, là anh em trong một
gia đình. ➔ Ta cũng từng bắt gặp sự gắn kết sâu sắc giữa những người lính trong thi phẩm “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu. “Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự
phương trời chẳng hẹn quen nhau – Súng bên súng, đầu sát bên đầu – Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. Chính những tháng năm cùng nhau đi qua bao gian
khó nơi chiến trận khắc nghiệt, đã khiến họ càng thêm gắn kết. + Nhà thơ sử dụng tính từ “dãi dầu” khắc họa sự nhọc nhằn, vất vả của những người lính – kết hợp
với ba chữ “không bước nữa” gợi lên nhiều cách hiểu. Đó có thể là hình ảnh người lính dừng lại nghỉ ngơi trên con đường dài nhiều thử thách. Nhưng đó cũng có
thể là điểm dừng chân mãi mãi của nhiều chàng trai trẻ… Ý thơ qua đó gợi nhắc đến sự hy sinh của biết bao người lính đã bỏ lại thanh xuân vĩnh viễn nơi chiến
trận, nơi núi rừng, nơi thiên nhiên hoang vu lạnh lẽo, nơi cách xa mái nhà mà họ luôn khao khát trở về…+ Tuy nhiên, dẫu có phải bỏ mạng nơi chiến trường khốc
liệt, tư thế hy sinh của những người lính vẫn thật anh dũng, kiên cường. Động từ “gục” kết hợp với ba chữ đầy khảng khái “bỏ quên đời” cho ta thấy rõ sự chủ động,
bất khuất của những người lính trẻ. Họ có thể ra đi, nhưng điểm tựa của họ vẫn là “súng mũ” – là những lý tưởng lớn lao cao đẹp vì Tổ quốc. Lý tưởng ấy sẽ mãi
mãi ở lại với non sông, với quê hương xứ sở mà họ thương yêu vô cùng. Họ không run sợ trước bất cứ điều gì, kể cả cái chết.+ Tác giả sử dụng từ láy toàn phần
để khắc họa thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” – tạo nên một vòng tuần hoàn lặp đi lặp lại, chiều nào cũng thế và đêm nào cũng vậy. Từ chiều tà ngả dần về bóng
đêm là lúc mà ánh mặt trời không còn hiện diện, khu rừng chìm dần vào đêm tối – để lại biết bao bí ẩn và những thách thức rình rập con người. + Hình ảnh “thác
gầm thét” – “cọp trêu người” là những khó khăn đe dọa người lính từ chốn rừng thiêng. Đó là những thanh âm vang dội cả núi rừng – như “gầm” như “thét” bên tai
con người. Đó là những loài thú dữ có thể tấn công bất cứ lúc nào, như đang vờn – đang chơi đùa với chính nỗi sợ hãi của con người. Tác giả đã thực sự khắc họa
được không gian của những cuộc hành quân trong đêm – với những hiểm nguy có thể ập đến trong phút chốc. +Hai chữ “Hịch cọp” với hai thanh nặng liên tiếp như
tạo nên tiếng bước chân chắc nịch của thú dữ chốn rừng sâu. Giữa không gian tĩnh mịch chìm trong đêm tối, chỉ có ánh sáng bàng bạc của trăng trên trời, chỉ có
tiếng lá xào xạc rất khẽ và tiếng thở kín đáo của những người lính hành quân – rang 10 từng âm thanh của thiên nhiên đều trở nên thật đáng sợ. Thế nhưng những
người lính vẫn bình tĩnh và kiên cường vượt qua tất cả. Ta càng thêm cảm phục sự dũng cảm, bản lĩnh, tinh thần thép của những người lính – dù khó khăn chồng
chất khó khăn, họ cũng không bao giờ bỏ cuộc.

Tình cảm quân dân “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” Đoạn thơ khép lại với tình cảm quân dân ấm áp mà những người lính Tây Tiến
và người dân Tây Bắc dành cho nhau. - Câu thơ bắt đầu với từ cảm thán “Nhớ ôi”, qua đó bộc lộc cảm xúc trực tiếp của người cầm bút – nhấn mạnh nỗi nhớ da
diết như bật thành một tiếng gọi của những người lính, hướng về bản làng, hướng về những người dân, hướng về những kỉ niệm bình dị mà họ đã có được trên
con đường hành quân nhiều trắc trở. - Nỗi nhớ của họ không bao gồm những điều lớn lao, vĩ đại, mà chỉ đơn thuần là những điều bé nhỏ vô cùng. Đó là “cơm lên
khói”, đó là hương vị “thơm nếp xôi”. Chính những bữa ăn thân thương ấy đã xoa dịu tâm hồn của những chàng trai, giúp họ được nghỉ ngơi, được chăm sóc, được
sống trong không khí ấm áp như một gia đình. Có lẽ, giữa bối cảnh bom đạn khắc nghiệt, giữa những chuyến đi rừng dài ngày đầy vất vả nhọc nhằn, những phút
bình yên hiếm hoi ấy sẽ khiến người lính có thêm sức mạnh để tiếp tục vững bước. - Lại một lần nữa, tên địa danh trên con đường hành quân lại được nhắc đến
một cách thân thương vô bờ. Mai Châu, không chỉ còn là một địa điểm trên bản đồ địa lý, mà còn được “định vị” bởi những xúc cảm nồng nàn trong trái tim người
lính. Tấm bản đồ đầy thương nhớ - họ gửi gắm trọn vẹn trong từng bước chân, trong từng địa điểm mà họ đã đi qua suốt những ngày dài. Tất cả những nơi ấy đã
trở thành một phần trong tâm hồn người lính, như nhà thơ Chế Lan Viết đã từng ở: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. - Nhà thơ đã có một
sự sáng tạo vô cùng duyên dáng khi lấy con người để định nghĩa cho dòng chảy thời gian: “mùa em”. Tác giả tự tạo nên một mùa mới mang tên em, ghi dấu nụ
cười em, thướt tha trong hình bóng của những cô gái miền sơn cước.nhắc tới hình ảnh những thiếu nữ duyên dáng mà họ đã gặp trên con đường hành quân, khi
dừng chân nghỉ ngơi bên những bản làng. “Em” mang tới những dư vị ngọt ngào xoa dịu cả nỗi đau, ru vỗ những vất vả nhọc nhằn trên đôi chân người lính. Cách
sử dụng từ ngữ tình tứ ấy cũng kín đáo bộc lộ những khao khát về tình yêu lứa đôi trong tâm hồn những chàng trai Hà Thành. ➔ Dường như, trong trái tim nhà thơ
– người lính xứ Đoài mây trắng ấy, hình ảnh những cô gái duyên dáng, dịu dàng đã trở thành một điểm tựa ngọt ngào, tiếp thêm sức mạnh cho thi sĩ – chiến sĩ
Quang Dũng.

- Khung cảnh đêm liên hoan: + “Doanh trại”: chỉ nơi đóng quân để nghỉ chân trên đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến → đó là những giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi của những
người lính trẻ trên suốt chặng đường nhiều nhọc nhằn, thử thách. Cách dùng từ này đồng thời cũng bộc lộ thái độ trân trọng của người cầm bút với Tây Tiến – họ có thể chỉ là một
đơn vị nhỏ, nhưng lại có vị trí lớn trong trái tim của người đội trưởng năm nào
Chữ “bừng” được xem như “nhãn tự” của câu thơ – là “con mắt” chứa đựng linh hồn của cả vần thơ ấy • Bừng sáng về không gian → tả thực không gian của đêm lửa trại, ánh sáng
bập bùng của ngọn lửa như thắp sáng không gian vốn u tối nơi rừng thiêng nước độc • Bừng tỉnh nơi tâm hồn những người lính → khắc họa ngọn lửa ấm áp, mãnh liệt trong trái tim
của những người lính. Đó là ngọn lửa của lý tưởng cao đẹp mà họ luôn khao khát; là ngọn lửa của những niềm vui bình dị mà họ trân quý chia sẻ với nhân dân trên đường hành quân.
• Đó cũng có thể là sự “bừng tỉnh” giác ngộ trong tâm trí của những chàng trai Hà Thành, như cảm giác hạnh phúc vỡ òa mà nhà thơ Tố Hữu từng khắc họa: “Từ ấy trong tôi bừng
nắng hạ”. Chữ “bừng” ở những vần thơ ấy đều như gói gọn niềm hạnh phúc khi được cống hiến thanh xuân, được hiến dâng đời mình cho lý tưởng lớn lao của Tổ quốc. + Những
người lính dí dỏm, tinh nghịch gọi đêm liên hoan lửa trại là “hội đuốc hoa”, bởi lẽ đó là một đêm hội đáng nhớ để chia sẻ những niềm vui ấm nồng tình quân dân. Ngọn lửa bập bùng
của đêm ấy trong lăng kính của họ bỗng trở thành “đuốc hoa” – thứ ánh sáng vốn tượng trưng cho đêm tân hôn – cho kỉ niệm lứa đôi dạt dào, cho khoảnh khắc thăng hoa của tình
yêu ➔ Ý thơ vừa thể hiện lăng kính lãng mạn – vừa ngầm bộc lộ khao khát cháy bỏng trong sâu thẳm trái tim những người lính trẻ ấy. Họ cũng mong muốn có một “hội đuốc hoa”
của riêng mình, cũng chờ đợi tìm thấy một người sẽ cùng nắm tay mình đi đến cuối. Giấc mơ về một tình yêu mang tên mình thật trong sáng, chân thực và đáng trân trọng vô cùng.

Hình ảnh những cô gái miền sơn cước: + Được khắc họa trong ánh nhìn ngây ngất mê say của những người lính. Thán từ “Kìa em” vang lên như một tiếng thốt lên đầy ngỡ ngàng,
thể hiện sự sững sờ, ngạc nhiên của các chàng trai trước vẻ lộng lẫy hơn hẳn ngày thường của những thiếu nữ xinh đẹp, duyên dáng. Tiếng gọi ấy đi kèm với một câu hỏi không cần
lời đáp “xiêm áo tự bao giờ”. Không hẳn những người lính cần câu trả lời cụ thể về thời gian, mà họ chỉ đơn muốn bộc bạch cảm xúc của mình với những cô gái Thái. Về phía ngược
lại, dường như chính những thiếu nữ Tây Bắc cũng rất coi trọng sự kiện gặp gỡ với những người lính nên mới điệu đà xiêm y như thế. ➔ Và thế là, chẳng cần đến một từ ngữ cụ thể
miêu tả về ngoại hình của những cô gái vùng cao, ấy thế mà, nhà thơ vẫn khiến chúng ta phải gật gù trước vẻ đẹp đầy thu hút của họ. ➔ Giữa bức tranh với những đường nét gân
guốc của chiến trường khốc liệt, hình ảnh những “bóng hồng” thướt tha, e thẹn, dịu dàng xuất hiện như những nét cọ mềm mại, lãng mạn, tạm xua đi khó khăn nơi bom đạn ngặt
nghèo. + Không chỉ có những bóng hình được khắc họa tinh tế bởi nét cọ trong ngôn từ, ta còn cảm nhận được những thanh âm lan tỏa trong vần thơ của Quang Dũng: “Khèn lên
man điệu”. Nếu như “khèn” là nhạc cụ quen thuộc của người dân miền núi thì “man điệu” là điệu múa mang bản sắc riêng của một số dân tộc thiểu số vùng cao. Thanh âm hòa quyện
với điệu nhảy, để rồi từ từ lan tỏa khắp đêm hội, khơi dậy những xúc cảm nơi trái tim người lính, người dân. Chân dung “nàng” hiện lên trong chính tiếng nhạc ấy, thẹn thùng, e ấp,
dịu dàng, vương mắc nơi tâm hồn những chàng trai trẻ. Từ “em” ở câu thơ trên đã quá đỗi tình tứ, nhưng từ “nàng” trong vần thơ này lại càng thêm khắc khoải những nhớ mong có
lẽ chưa kịp nói thành lời. Dường như, tất cả những chất liệu ngọt ngào ấy – từ dáng vẻ duyên dáng trong bộ xiêm áo điệu đà của những cô gái vùng cao, đến tiếng khèn vang lên
cùng những điệu nhảy của quân và dân trong đêm lửa trại, đã xây đắp tâm hồn lãng mạn nơi những người lính xuất thân từ Hà Thành, khơi dậy “hồn thơ” vẫn luôn ấp ủ trong trái tim
họ. Dẫu phải trải qua nhiều thử thách trên các chặng đường hành quân gian nan, vất vả; dẫu phải đối diện với khói lửa bom đạn và luôn ở trên ranh giới mong manh giữa sự sống –
cái chết; họ vẫn giữ để tâm hồn mình không khô héo trước ngọn lửa của quân thù… Chính “hồn thơ” ấy đã vun đắp để “hồn lính” càng thêm mãnh liệt, vững chãi hơn. → Tác giả đã
gieo nhạc vào tâm hồn những người lính, gọi dậy những xúc cảm nồng nàn thiết tha – qua đó tiếp thêm sức mạnh để họ thêm tin tưởng con đường mà mình đã chọn

b. 4 câu thơ sau: Cảnh sông nước miền Tây buổi chia ly
Nếu như bốn câu thơ trên khắc họa niềm vui ấm áp trong đêm liên hoan lửa trại, thì đến với bốn câu dưới – ta như hẫng đi một nhịp trước câu chia ly vội vàng buộc phải nói ra.
Không cuộc vui nào kéo dài mãi, không bữa tiệc nào là không đến lúc tàn, ai rồi cũng phải học cách để nói lời tạm biệt – dẫu cho trái tim có nhiều hụt hẫng. Sau một đêm đầy niềm
vui như thế, những người lính phải ngay lập tức quay lại với nhịp độ của cuộc chiến, chia tay bản làng và tiếp tục lên đường. - Hình ảnh người lính được khắc họa gắn liền với địa
danh Mộc Châu – như một cách Quang Dũng nối dài tấm bản đồ của nỗi nhớ. Đối với nhiều người, đó chỉ là một điểm đến; nhưng đối với họ, đó là một kỉ niệm, một hồi ức không
thể nào quên, một mảnh ghép quan trọng của tâm hồn. Khoảnh khắc chia ly đã được tái hiện qua kí ức những người lính một cách đầy bâng khuâng: + “chiều sương ấy” → tác giả
khắc họa buổi chia ly cả về không gian (phủ đầy “sương”) và thời gian (“chiều ấy”) • “Sương”: hình ảnh quen thuộc của núi rừng Tây Bắc, nhưng ở đây không phải màn sương mù
dày đặc đến mức che khuất tầm nhìn và lấp cả chân dung những người lính. Mà đó là màn sương mỏng manh của buổi chiều tà giăng mắc chốn rừng núi, khiến cho giây phút chia ly
thêm lãng mạn, luyến Thời gian buổi chiều thường gắn với những nỗi buồn trong văn học. Vào lúc chạng vạng, khi đất trời giao nhau giữa ngày và đêm, dường như con người dễ
thấy cô đơn hơn, dễ nhung nhớ hơn về những điều đã không còn thuộc về thực tại. Ở câu thơ này, chiều còn được kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ấy” như một cách nhà thơ lãng mạn
hóa lời ly biệt, khiến khoảng thời gian trở nên mơ hồ, không rõ ràng – từ đó nhấn mạnh nỗi nhớ thương bao phủ khắp không gian, len lỏi dòng thời gian, khắc khoải trong lòng cả
người đi và kẻ ở. → “chiều sương ấy” đã trở thành một dấu mốc đặc biệt khó phai dẫu không được “định vị” cụ thể bằng ngày – tháng – năm). - Phép điệp được thể hiện đầy da diết,
khắc khoải trong hai câu thơ tiếp theo đã thực sự đưa bạn đọc đến với giây phút chia ly đầy xúc động: “Có thấy …” “Có nhớ…” ➔ Khơi gợi những giác quan khác nhau của người
lính về giây phút khó quên ấy. + Tác giả dùng từ “thấy” với một hình ảnh vô hình, trừu tượng: tâm hồn, linh hồn của những bông lau → phải chăng vì nỗi niềm của con người đã
nhuốm màu vào cảnh vật, khiến cho lau kia nhìn cũng như xác xơ, ủ rũ? + Còn từ “nhớ” mang theo cảm xúc chủ đạo của cả thi phẩm, được gắn với hình ảnh “dáng người trên độc
mộc” → nỗi nhớ dành phần lớn cho con người Tây Bắc. Con người là trung tâm của bức tranh thiên nhiên rộng lớn khoáng đạt, là điểm đến của những nhớ thương đong đầy. +
“Dáng người” ấy ta không biết rõ chính xác là ai. Có thể là những cô gái Thái đang chèo thuyền tiễn người lính sang sông, là những người dân Tây Bắc đang ngập ngừng nói lời tạm
biệt; hoặc cũng có thể là chính những chàng trai đang tự mình chèo thuyền qua sông để tiếp tục chặng đường dài phía trước… Nhưng dù hiểu theo nét nghĩa nào, ta đều cảm nhận
được nỗi cô đơn và sự lưu luyến bịn rịn phảng phất trong lời thơ; bởi cả người đi và người ở đều không muốn nói lời ly biệt… - Khép lại đoạn thơ với hình ảnh cánh hoa giữa dòng
nước lũ: + Hình ảnh “hoa” thường gợi cảm giác mong manh, yếu ớt, dễ tan vỡ. Thế nhưng, “hoa” trong vần thơ của Quang Dũng lại nhẹ nhàng, thư thái, mà = cũng vô cùng mạnh
mẽ giữa dòng nước lũ chảy xiết. Dòng nước có thể cuồn cuộn ào ào, nhưng cánh hoa ấy vẫn “trôi” rất dịu dàng, chậm rãi. + Tác giả dùng từ láy “đong đưa” chứ không phải “đung
đưa”. Bởi lẽ, “đung đưa” thiên về chuyển động cơ học – còn “đong đưa” là sự chuyển động của cảm xúc bên trong → Hình ảnh cánh hoa như làm duyên giữa dòng nước, nửa muốn
đi – nửa muốn ở trong giây phút nói lời tạm biệt. + Hình ảnh “hoa” ở đây cũng có thể liên tưởng tới hình tượng của những người lính Tây Tiến. Giữa dòng nước lũ chảy xiết đầy
khốc liệt của chiến tranh, họ vẫn giữ được sự bình tĩnh, điềm đạm và vẻ đẹp lãng mạn trong tâm hồn. ➔ Cuộc chia ly bỗng trở nên thật bồng bềnh, lãng mạn. Đoạn thơ này gợi nhiều
hơn tả, qua đó khắc họa một không gian của hoài niệm, của ly biệt, hòa quyện giữa chất thơ – chất nhạc – chất họa trong ngòi bút đặc sắc của nhà thơ- người lính Quang Dũng

. 4 câu thơ tiếp: Chân dung người lính Tây Tiến


Vẻ đẹp hào hùng của những người lính + Câu thơ mở đầu với bốn chữ “Tây Tiến đoàn binh” → tác giả đảo từ “Tây Tiến” lên trước thay vì viết theo trật tự từ thông thường, để nhấn
mạnh khí phách, bản lĩnh và ý chí của những người lính Tây Tiến; đồng thời bộc lộ niềm tự hào của người cầm bút khi nhắc về tên đơn vị mình đã từng gắn bó năm xưa. Với Quang
Dũng, Tây Tiến không chỉ là một đơn vị cũ, không chỉ là một miền quá vãng xa vời nơi hồi ức – mà còn là một mảnh ghép quan trọng trong trái tim, là một nỗi nhớ thường trực luôn
hiện diện nơi lồng ngực trái. + Hai câu thơ đầu khắc họa chân dung người lính trong hoàn cảnh khắc nghiệt của những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp: • Ngoại hình của họ
hiện lên có phần kì lạ với mái đầu “không mọc tóc”, làn da “xanh màu lá”. Thực tế, họ thường phải cạo trọc đầu để thuận tiện sinh hoạt và di chuyển trong những cuộc hành quân dài
ngày nơi rừng thiêng nước độc. Bên cạnh đó, căn bệnh sốt rét rừng cũng là nguyên nhân lớn khiến mái đầu của họ không còn tóc, làn da thì xanh xao do mỏi mệt, ốm đau. Căn bệnh
ấy đã từng là nỗi ám ảnh của bao chàng trai áo xanh, khiến họ kiệt quệ về thể chất và cướp đi sinh mạng của nhiều người. ➔ Nhà thơ gọi những người lính là “đoàn binh không mọc
tóc”, như một cách tôn vinh chính những khó khăn khắc nghiệt mà những người lính đã dũng cảm đối diện, coi “không mọc tóc” là một đặc điểm nhận dạng, một tấm “huy chương”
đặc biệt để công nhận bản lĩnh của các chàng trai trẻ. Họ vô cùng chủ động vượt qua khó khăn khắc nghiệt nơi núi rừng, không vì những thử thách ấy mà yếu đuối chùn bước. • Sắc
mặt xanh xao của những người lính khi phải chịu đựng cơn đau lại trở thành màu xanh biếc của lá rừng để thể hiện tinh thần “dữ oai hùm” – họ mang khí phách hiên ngang có thể
sánh với các loài thú dữ chốn rừng sâu, không run sợ trước bất cứ điều gì. ➔ Nhiều nhà phê bình đã nhận định: thơ Quang Dũng “có bi mà không có lụy”. Tác giả tôn trọng hiện
thực, không giấu diếm những khó khăn hay tô màu hồng vào chất liệu của cuộc chiến. Ông đem đến cho độc giả những lát cắt đau thương của một thời bom đạn, nhưng không vì thế
mà biến chúng thành những kí ức mang màu sắc u ám, tiêu cực. Bởi chính những thử thách ấy đã làm bật lên vẻ đẹp kiêu hãnh, hào hùng của những người lính trẻ; khẳng định họ
luôn một lòng với lý tưởng cao đẹp mà họ đã lựa chọn.

g kiều thơm” ➔ Vẻ đẹp hào hoa của những chàng trai Hà Thành năm ấy Không chỉ khắc họa vẻ đẹp hào hùng, kiên cường, bất khuất của những chàng trai Tây Tiến; nhà thơ Quang
Dũng còn dùng ngòi bút và tấm lòng của mình để đem tới cho độc giả chân dung những người lính vô cùng hào hoa – có tâm hồn lãng mạn, bay bổng cả ở nơi chiến trường khốc liệt.
+ Chân dung người lính lúc này hiện lên với ánh mắt đầy mạnh mẽ, kiên trường, bất khuất – ánh mắt “trừng” như nhìn thẳng vào khó khăn, vào quân thù, vào con đường đi tới lý
tưởng lớn lao của Tổ quốc + Thế mà chính đôi mắt quả quyết ấy cũng “gửi mộng qua biên giới” – cũng đem những giấc mơ đi xa, bay cao, vượt ra khỏi giới hạn của khoảng cách địa
lý xa xôi; giúp những người lính có cảm giác họ được gần gũi quê nhà ngay cả khi đang ở nơi xứ người. + Để rồi trong những giấc mơ ấy, khi đêm dài tĩnh mịch đã bao phủ vạn vật,
khi những người lính có giây phút hiếm hoi được thả lỏng tâm trí mình, tâm hồn họ dường như lại được đặt chân về Hà Nội. Họ mơ về một “dáng kiều thơm” – hình ảnh một người
thiếu nữ duyên dáng yêu kiều; họ nhớ nhung và mong mỏi người thương hoặc khao khát về một tình yêu mang tên mình. Giấc mơ thầm kín ấy thật trong sáng và đáng trân trọng biết
bao Quang Dũng không cho rằng những mộng mơ ấy sẽ khiến người lính thêm yếu đuối, mà ngược lại, đó chính là sức mạnh – là điểm tựa tinh thần lớn để họ thêm mạnh mẽ hơn
trên chặng đường dài phía trước. ➔ Trong trái tim của những người lính Tây Tiến dường như ôm ấp cả hai giấc mộng: một là giấc mơ hòa bình độc lập cho đất nước, hai là khao
khát riêng tư bé bỏng vẫn luôn cất giữ trong sâu thẳm trái tim mình. Trong một thi phẩm đầy cảm xúc về hình tượng người lính, nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: “Nghĩ gì không biết
sau đôi mí Anh có buồn không, anh lính ơi?” Dường như, thi sĩ cũng quan tâm đến những xúc cảm nhỏ bé, riêng tư trong tâm hồn người lính. Ông không hề phủ nhận hay che giấu
những điều đó, mà ngược lại – còn như muốn hỏi han, quan tâm và trân trọng nỗi buồn của họ. Quang Dũng cũng vậy, vì thế, ông mới khắc họa những mơ mộng trong sáng ấy nơi
tâm hồn những chàng trai Tây Tiến. Hay như những vần thơ giản dị mà cựu chiến binh Xuân Quý đã để lại cho đời, bộc bạch về việc người lính đã cất đi khao khát riêng tư để lên
đường vì Tổ quốc ra sao: “Cho tôi viết bài thơ bắt đầu từ nỗi nhớ Nhớ buổi lên đường gặp ánh mắt của em Da diết quá! Tôi dằn lòng không nói… Bởi hiểu rằng: “Khi Tổ quốc cần ta
biết sống xa nhau” Họ lựa chọn cống hiến cho lý tưởng chung cao đẹp của đất nước, thế nhưng, một góc nhỏ nơi trái tim họ vẫn sẽ dành cho người con gái mà họ thương, vẫn sẽ nhớ
nhung “ánh mắt của em” ở buổi lên đường. Chính nỗi nhớ thật đẹp thật da diết ấy khiến họ càng thêm mạnh mẽ hơn nơi chiến trường.  Chân dung người lính qua ngòi bút của nhà
thơ Quang Dũng hòa quyện giữa vẻ đẹp hào hùng và vẻ đẹp hào hoa.
4. Sự hy sinh anh dũng của những người lính trẻ
Vẻ đẹp rạng ngời của lý tưởng thời đại: “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” - Câu thơ đầu tiên như khắc họa trước mắt bạn đọc một “nghĩa trang” khổng lồ nơi biết bao người lính đã
ngã xuống+ Từ láy “rải rác” cho ta thấy được rất nhiều chàng trai đã mất, đã để lại thanh xuân của mình mãi mãi nơi chiến trường khốc liệt. Dường như nhìn đâu cũng thấy hình
bóng, thấy thân xác những người lính quê mình. + Họ mất ở nơi xa lạ, nơi “mồ viễn xứ” chứ không được ôm ấp bởi đất mẹ thương yêu, không được ở gần quê hương – gần người
thân vào giây phút cuối cùng ➔ Hiện thực cuộc chiến hiện lên vô cùng day dứt, ám ảnh - Để rồi, với ngôn từ mạnh mẽ, dứt khoát – nhà thơ làm bật lên vẻ đẹp trong tinh thần kiên
cường, bất khuất của những người lính, không run sợ trước bất cứ điều gì, kể cả cái chết: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” + Chữ “đi” vừa là tham gia chiến trận, vừa gợi tới sự
hy sinh. Những người lính một khi đã khoác lên mình màu áo xanh để nhập quân tham gia bảo vệ đất nước thì quyết không nuối tiếc tuổi trẻ của mình; kể cả phải đánh đổi bằng
chính sinh mệnh. + Hai chữ “chẳng tiếc” như nhấn mạnh tinh thần khảng khái, mạnh mẽ, quyết đoán của họ. Ngay từ bước chân đầu tiên, họ đã sẵn sàng tự nguyện hy sinh và cống
hiến “đời xanh” của mình. Dẫu cho phải bỏ mạng nơi chiến trận, dẫu cho cuộc đời sẽ chỉ dừng lại ở “mãi mãi tuổi hai mươi”, nhưng họ vẫn lựa chọn được sống và chết vì Tổ quốc. -
Với tất cả lòng biết ơn và trân trọng của mình, người cầm bút đã thiêng liêng hóa sự ra đi của những người lính: Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành +
Thực tế, những người lính ngã xuống nơi chiến trường khốc liệt thậm chí còn chẳng có được một manh chiếu quấn thân. Có nhiều người còn không tìm được thân xác, bởi họ bị chôn
vùi nơi bom đạn. Thế nhưng, nhà thơ Quang Dũng đã khoác lên mình những chàng trai ấy một tấm “áo bào” đầy danh giá, oai nghiêm – vốn là trang phục mặc ngoài của các vị
tướng thời xưa. Dẫu tấm áo ấy không có thật, nhưng hình ảnh thơ đã bộc bạch được sự ca ngợi, tôn vinh đầy thán phục của người ở lại trước sự hy sinh của người ra đi. “Áo bào thay
chiếu”, nghĩa là chính lòng biết ơn sâu sắc của những người ở lại sẽ thay manh chiếu để tiễn đưa người lính về với nơi an nghỉ cuối cùng, sau một hành trình dài họ đã cống hiến trọn
vẹn cho đất nước. + Chính sự anh dũng kiên cường ấy đã làm nên hình ảnh đất nước cao đẹp từng được khắc họa trong thơ Nguyễn Đình Thi: “Nước chúng ta – Nước những người
chưa bao giờ khuất”. Bởi lẽ, dẫu cho ta có ngã xuống, hy sinh, bỏ mạng nơi chiến trường – nhưng tinh thần của ta thì không bao giờ có thể bị khuất phục trước quân thù. Kể cả khi đã
“về đất”, những người lính ấy vẫn có quyền tự hào vì sự hy sinh của mình có ý nghĩa với đất nước+ Đoạn thơ khép lại với tiếng “gầm lên” đầy mạnh mẽ, vang động cả núi rừng của
dòng sông đã từng gắn bó, đồng hành cùng binh đoàn Tây Tiến. Dòng sông ấy đã gọi về biết bao kỉ niệm trong trái tim người lính Quang Dũng: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi – Nhớ
về rừng núi nhớ chơi vơi”. Cũng chính dòng sông ấy đã thay thiên nhiên núi rừng nói lời tạm biệt với những chàng trai trẻ khi họ ngã xuống vì đất nước. Thanh âm của dòng sông đã
tấu lên một “khúc độc hành” đầy trang nghiêm để tiễn biệt những người lính một cách trọn vẹn nhất. Phải chăng, đến thiên nhiên còn đau lòng khi họ ra đi? ➔ Dẫu hành trình của
những người lính ấy đã mãi mãi dừng lại, nhưng họ sẽ sống mãi trong thiên nhiên bất diệt của núi rừng Tây Bắc, trong niềm thương nỗi nhớ của những người ở lại, trong lòng biết ơn
vô bờ của thế hệ mai sau. Họ trở thành những tượng đài bất tử bởi lẽ họ đã sống và cống hiến tất cả cho đất nước, cho dân tộc, cho cuộc sống bình yên mà ta đang có ngày hôm nay.

Khổ cuối: Lời hẹn ước gắn bó với Tây Tiến “Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
“Trên con đường về miền Tây, các đồng chí sẽ phải lặn lội nơi rừng xanh suối bạc, ở những địa phương hàng nửa ngày đường không thấy một bóng người, thủy thổ không quen
thuộc, vật chất thiếu thốn, ngôn ngữ bất đồng, nước độc ma thiêng. Chỉ một việc cất chân lên đường tiến về hướng Tây là đủ tỏ cái chí hi sinh, cái lòng kiên nghị của các đồng chí.
Các đồng chí biết rằng trên mặt trận này phải đương đầu với nhiều hiểm nghèo, khổ sở. Nhưng sự hiểm nghèo, khổ sở có bao giờ chinh phục được lòng anh dũng của những thanh
niên hăng hái, có bao giờ chinh phục được chí hướng của một dân tộcMở đầu đoạn thơ với hai chữ “Tây Tiến” đầy trang trọng, thiêng liêng; một lần nữa, ta cảm nhận rất rằng: Tây
Tiến không chỉ là một kỉ niệm trong quá khứ, mà thực sự trở thành một mảnh ghép quan trọng nơi tâm hồn của nhà thơ – người lính Quang Dũng. Ông khắc họa họ với vẻ đẹp của
những “người đi không hẹn ước”. Có lẽ bởi, trong bối cảnh chiến tranh khắc nghiệt, những cuộc chia ly càng trở nên đau đớn hơn khi người ra đi đâu dám hẹn ngày gặp lại… Họ biết
rõ con đường phía trước sẽ nhiều trắc trở, họ biết rõ ranh giới giữa sự sống và cái chết sẽ mong manh vô cùng. Cơ hội được tái ngộ là rất khó khăn, nên lời hẹn ước càng trở thành
viển vông, xa xỉ… Đó là lý do trong bức thư gửi đon vị Tây Tiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng từng viết: “Chỉ một việc cất chân lên đường tiến về hướng Tây là đủ tỏ cái chí hi
sinh, cái lòng kiên nghị của các đồng chí.” Lựa chọn trở thành một phần của binh đoàn Tây Tiến, hẳn những chàng trai Hà Thành ấy đều xác định tinh thần có thể sẽ không bao giờ
được quay về quê hương yêu dấu, sẽ mãi “đường lên thăm thẳm một chia phôi” khi có những lời từ biệt trở thành vĩnh viễn… ➔ Những người lính năm ấy lần đầu gặp gỡ nhưng đã
thực sự trở thành đồng đội, trở thành tri kỉ, cùng kề vai sát cánh, vào sinh ra tử nơi chiến trường trận mạc. Dẫu cả khi đã mỗi người một nơi, họ vẫn hướng về nhau, vẫn chung một
giấc mơ, một lý tưởng, một tinh thần sẵn sàng ra đi vì Tổ quốc. - Hai câu thơ cuối cũng khẳng định rằng “mùa xuân ấy” đã trở thành một khoảng thời gian không thể thay thế trong
trái tim những người lính; bởi đó là mùa xuân họ gặp gỡ, họ hội ngộ - là mùa xuân mà giấc mơ đã bắt đầu cùng nhau viết nên; là mùa xuân họ được trở thành một phần của “Tây
Tiến”. Chữ “ấy” lại một lần nữa được sử dụng để lãng mạn hóa thời điểm cụ thể của lịch sử, để khẳng định kí ức về Tây Tiến là một góc nhỏ đầy xúc cảm nơi trái tim của mỗi người.
Không chỉ Quang Dũng, mà tất cả những người lính năm ấy đều sẽ cất giữ Tây Tiến như một phần đặc biệt nơi tâm hồn, như một miền kí ức không thể quên lãng trong suốt cuộc
đời. Họ sẽ để lại một phần tâm hồn của mình ở Sầm Nứa, ở tất cả những nơi mà dấu chân của binh đoàn đã đặt lên. Dẫu cho có phải hy sinh mãi mãi, họ vẫn sẽ không bao giờ hối
hận về lý tưởng mà mình đã chọn, về việc mình đã sống và đã chết cho giấc mơ chung của dân tộc. Đó không chỉ là lý tưởng của những chàng trai Tây Tiến – mà còn là lý tưởng
chung của cả một thời đại anh hùng, bất khuất, kiên cường.

You might also like