Professional Documents
Culture Documents
BÁO CÁO CƯ KỈNH - HỒ BIỂU CHÁNH (NQA)
BÁO CÁO CƯ KỈNH - HỒ BIỂU CHÁNH (NQA)
Hồ Biểu Chánh
Đề tài về cuộc sống nông thôn Nam Bộ: Đây là đề tài chủ đạo trong
sáng tác của Hồ Biểu Chánh. Ông đã miêu tả một cách chân thực và sinh động
cuộc sống của người nông dân Nam Bộ với những vui buồn, lam lũ, và cả những
hủ tục lạc hậu. Một số tác phẩm tiêu biểu cho đề tài này là: Mùa lúa chín, Chợ
nổi, Giọt lệ sầu, Con nhà nghèo.
Đề tài về cuộc sống thị dân Nam Bộ: Hồ Biểu Chánh cũng dành nhiều
trang viết để miêu tả cuộc sống của người dân thị dân Nam Bộ với những đổi
thay mới mẻ do ảnh hưởng của văn hóa Pháp.
Đề tài về đề cao giá trị đạo đức truyền thống: Hồ Biểu Chánh luôn đề
cao những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như lòng
hiếu thảo, tình yêu thương, sự thủy chung,... Một số tác phẩm tiêu biểu cho đề
tài này là: Cha con nghĩa nặng, Nghĩa tình phu thê, Làm dâu hiền.
Hồ Biểu Chánh đã có một đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam.
Ông đã để lại cho đời một kho tàng tác phẩm đồ sộ với những giá trị nhân văn
sâu sắc.
c. Tác phẩm tiêu biểu:
- Tiểu thuyết:
+ Mùa lúa chín (1928): Tác phẩm miêu tả cuộc sống của người
nông dân Nam Bộ trong giai đoạn 1920-1930, với những khó khăn,
áp bức bóc lột của chế độ thực dân phong kiến.
+ Ngọn cỏ gió đùa (1930): Tác phẩm xoay quanh câu chuyện tình
yêu giữa một cô gái nhà nghèo và một anh chàng nhà giàu.
+ Chút phận linh đinh (1934): Tác phẩm đề cập đến vấn đề tệ nạn
xã hội như cờ bạc, rượu chè, và ảnh hưởng của nó đến đời sống con
người.
- Truyện ngắn:
+ Chợ nổi (1925): Tác phẩm miêu tả cảnh sinh hoạt tấp nập, nhộn
nhịp của chợ nổi miền Tây Nam Bộ.
+ Tình quê (1926): Tác phẩm ca ngợi tình cảm gia đình, làng xóm
đầm ấm của người dân Nam Bộ.
+ Cái tết xa quê (1943): Tác phẩm thể hiện nỗi nhớ quê da diết của
người con xa quê trong dịp Tết đến xuân về.
d. Giải thưởng văn học:
- Năm 1955: Được chính phủ Quốc gia Việt Nam trao tặng Huy chương
Bảo quốc hạng nhất.
- Năm 1996: Được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1).
II. Giới thiệu tác phẩm:
1.Tóm tắt tác phẩm:
Ngày xưa ở thị trấn Châu Thành, huyện Ô Môn. Có một gia đình nọ, cha là điền
chủ, người ta gọi ông là ông Huyện, ngoài ra còn có một vợ, bốn con: con cả là
con trai tên Thanh – đang sống tại Sài Gòn; con thứ hai tên Huyên – con nuôi;
người con thứ ba tên Tuý – là một người rất mê tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết
của Chí Cao; và người con út tên Ngọ. Một ngày nọ, quan Quận mới nhậm chức
đến nhà thăm ông Huyện để toả lòng biết ơn cưu mang lúc xưa. Hai người đối
đáp với nhau thì có nói một câu “Cư kỉnh nhi hành giãn” tức có nghĩa là làm
quan thì phải sống nghiêm minh chính trực. Cách mười ngày sau, Chí Cao – nhà
văn, người mới dọn về ở kế bên nhà ông Huyện –- qua thăm nhưng ông Huyện
lại đi mất, còn bà Huyện ở nhà tiếp đón. Bà Huyện có hỏi thăm định mua lại
miếng đất của Chí Cao nhưng không thành, song Chí Cao vốn đã biết bà Huyện
từ nhỏ nên buôn lời chọc ghẹo bà, bà không trách khứ mà để ông đi. Cách một
tháng sau, ông Huyện, bà Huyện cùng em Ngọ lên Sài Gòn thăm anh trai sẵn
chữa bệnh cho em Ngọ, cô Huyên thì về quê thăm mẹ đang ốm, cô Tuý ở nhà
một mình cùng với những người giúp việc. Chiều hôm ấy, vừa đọc tiểu thuyết
xong cô Tuý ra sau vườn chơi thì bỗng gặp Chí Cao, Chí Cao mời cô tối nay
sang nhà anh ấy xem cuốn tiểu thuyết anh mới viết nhưng cô Tuý do dự một hồi
lâu vẫn không trả lời. Mười một ngày sau hai ông bà Huyện cùng em Ngọ mới
về, lúc về thấy cô Tuý nằm trong phòng nói bị đau đầu mấy hôm nay, bà Huyện
đòi mời thầy thuốc về chữa nhưng cô Tuý không chịu. Buổi tối một hôm, bà
Huyện dang đi hóng mát thì nghe tiếng chửi rủa vọng từ phía bên nhà Chí Cao
qua, ngày hôm sau mới nghe người làm nói là vợ cũ của Chí Cao đến thăm
nhưng sau đó xảy ra cãi vả rồi người vợ rời đi. Ngày Chí Cao và vợ chia tay, cô
Tuý khoẻ lại nhưng sau đó không còn hứng thú với tiểu thuyết nữa. Sáng sớm
ngày hôm sau, người dân phát hiện Chí Cao đã chết do bị đâm vào ngực. Hương
quản – cảnh sát trưởng lúc bấy giờ – đi khám nghiệm hiện trường thì không thấy
dấu hiệu nào bất thường của đồ vật trong nhà. Sau đó Hương quản tra hỏi những
người có liên quan: tên Quận – người hầu của Chí Cao – khai đêm xảy ra án
mạng, hắn đi xem hát tiều từ tám giờ tối cùng với tên Huệ và tên Canh đến sáng,
lúc về thì thấy chủ bị đâm chết, Hương quản hỏi thêm về người vợ cũ của Chí
Cao, tên Quận khai: sau khi người vợ ra đi, tên Quận có bám theo thì thấy cô ta
lên xe đò đi Cần Thơ lúc hai giờ trưa; tên Canh – người hầu của ông thầy thuốc
– khai hắn cùng tên Huệ đi xem hát tiều lúc bảy rưỡi tối, tới mười giờ mới gặp
tên Quận, gặp được một lúc xong tên Canh và Huệ đi uống nước với tên Hứa tới
ba giờ sáng mới gặp lại tên Quận; hỏi tên Huệ hắn cũng khai y như tên Canh. Từ
đây Hương quản có chút nghi ngờ tên Quận nhưng tạm gác lại. Ông Hương
quản tiếp tục mời lái xe và phụ lái trên chuyến xe mà vợ cũ Chí Cao đi để tra hỏi
thì họ xác nhận là có người phụ nữ được tên Quận miêu tả trên xe. Xong, Hương
quản gửi hồ sơ vụ án cùng 3 tên người hầu đến cho quan Chủ quận. Quan Chủ
quân cho mời quan Biện lý, quan Thẩm án và thầy thuốc đến xem xét vụ án.
Cũng chiều ngày hôm đó quan Biện lý, quan Thẩm án đến dinh quận cùng quan
Lục sự và thầy Thông ngôn. Quan Chủ quận thuật lại mọi chuyện cùng đem hồ
sơ vụ án cho các quan coi. Sau đó đến nhà Chí Cao, các quan tiến hành khám
nghiệm hiện trường nhưng không phát hiện ra gì bất thường nên lệnh đem tử thi
Chí Cao về nhà thương để khám nghiệm. Trước khi rời đi, quan Chủ quận thấy
một cái khăn mùi xoa (giống khăn tay) làm bằng lụa màu xanh lam của Chí
Cao, nghi là vật quan trọng nên đã lấy đi. Khám nghiệm tử thi thấy trên cẳng tay
của Chí cao có vết cào, bắp tay có vết răng, con dao rọc giấy đâm xuyên tim.
Đang khám nghiệm thì vợ Chí Cao và bạn của bà ta xuất hiện, khóc lóc, tiếc
thương cho chồng. Sau khi được tra khảo, vợ Chí Cao đem xác chồng về an
táng. Sau đó quan Biện lí dặn dò một số điều với quan Chủ quận xong lên xe rời
đi. Vợ Chí Cao tên thật là Ngô Thị Lịnh, quê Sài Gòn, làm nghề may, bạn của
vợ Chí Cao tên là Tư Thanh. Chí Cao chết, không ai đến chia buồn, tưởng nhớ
đến ông, chỉ có vợ, tên Quận, Hương quản ở đó cho đến khi chôn. Quan Chủ
quận được thầy Bội báo cáo rằng không có gì bất thường trong biểu hiện của vợ
và tên Quận. Quan Chủ quận một phần nào suy đoán được 2 người này không
phải hung thủ. Sau đó Quan Chủ quận tra hỏi Tư Thanh. Tư Thanh tường thuật
lại toàn bộ quá trình quen hai vợ chồng và chuyện Thị Lịnh về thăm chồng gần
đây và chuyện ma chay của Chí Cao. Quan Chủ quận lại hỏi tới Thị Lịnh, cô kể
lúc cô hai mươi tuổi có quen Chí Cao – lúc này làm phóng viên, hai người kết
giao vợ chồng. Ban đầu lương hai vợ chồng đều thấp, xong cũng tăng dần lên.
Kết duyên với nhau được bốn năm thì Thị Lịnh sinh con đầu lòng. Sau con lên
ba tuổi thì bị bệnh, không có tiền nuôi con nên Thị Lịnh gửi cho họ hàng nuôi,
lúc này Chỉ Cao bắt đầu viết tiểu thuyết. Dần dần kiếm được nhiều tiền. Nghe
được Chí Cao đang quen rất nhiều phụ nữ khác nên Thị Lịnh đi kiếm, vô tình
bắt gặp hắn ta ngồi ăn cơm với một cô gái. Lúc ấy, Chí Cao không nhận cô là
vợ. Tức giận chồng, Thị Lịnh bỏ nhà ra đi, từ đấy về sau hai người không còn
gặp nhau nữa. Một lần Thị Lịnh ốm nặng. Sau khi xuất viện, biết mình còn yếu
nên Thị Lịnh đi kiếm chồng, nhờ nương tựa lúc ốm đau bệnh hoạn. Xong đến
nhà chồng thị bị chồng đuổi đi nên cô về lại Sài Gòn. Sau đó ông kêu tên Quận
vào mà hỏi về chiếc khăn mùi xoa, tên Quận bảo mới thấy lần đầu (vì tên Quận
là ngời giặt đồ cho Chí Cao nên đây chính là điểm bất thường). Quan Chủ quận
bỗng chợt nhớ đến ông Huyện Hàm Tân nên sai người đi với ông xuống nhà tra
hỏi. Cô Tuý lại tái phát bệnh nên nằm liệt giường mấy bữa nay. Cũng tối đêm
đó, quan Chủ quận đến nhà ông Huyện, ông kể hết mọi chuyện cho ông Huyện
nghe. Hai người lại đối đáp nhau về chuyện luân lý, về thực trạng xã hội lúc bấy
giờ – coi thường luân lý, bất chấp thủ đoạn mà kiếm tiền, coi thường phép tắt,
thuần phong mỹ tục –. Qua lời kể của bà Huyện về tính cách của Chí Cao – đào
hoa, dâm phu,…, quan Chủ quận từng bước nói ra suy đoán của mình về cái
chết của Chí Cao. Đó là chết vì tình. Mà chìa khoá ở đây là chiếc khăn tay. Bà
Huyện chợt nhận ra điều gì đó (về chiếc khăn tay), sau khi tiễn quan Chủ quận
về, bà vô phòng cô Tuý lục lội cái gì đó. Sáng sớm hôm sau, bà Huyện đến nhà
quan Chủ quận. Bà cầu xin quan Chủ quận đổi hướng tìm hung thủ khác thay vì
“chết vì tình” nhưng ông một mực không đồng ý. Xong, bà tự thú rằng mình đã
giết Chí Cao nhưng quan Chủ quận không tin. Sau một hồi được giải thích, bà
Huyện cuối cùng đã xiêu lòng, bèn xin quan giữ kín bí mật này rồi ra về. Về đến
nhà, bà Huyện tỏ vẻ lo lắng nhưng ông Huyện không để ý. Ông Huyện đang
thưởng hoa ngoài vườn thì Hương quản đi qua. Thấy vậy, ông Huyện kêu
Hương quản vào hỏi việc điều tra vụ án. Hương quản kéo ông Huyện đến nơi
vắng vẻ để nói lên nổi nghi can của ông. Ông kể, cái đêm quan Huyện lên Sài
Gòn, ông có ghé qua nhà quan Huyện xem có chuyện gì không nhưng ông lại
thấy bóng dáng 1 người nào đó ở trong nhà quan Huyện lén lúc vạt hàng rào qua
nhà Chí Cao. Sau khi ông rình, một tiếng sau bóng người đó quay về bên nhà
quan Huyện, tưởng có trộm đột nhập nên sáng Hương quản có hỏi cô Tuý nhưng
cô Tuý nói không có chuyện gì xảy ra hết. tối hôm sau Hương quản lại đến,
xong vẫn thấy có cái bóng trắng xuất hiện rồi vạt hàng rào qua nhà Chí Cao,
nhưng lần này lại thấy có một người khác đang đứng đợi bên nhà Chí Cao, tiếp
tục sáng hôm sau ông hỏi cô Tuý thì cô Tuý vẫn nói như vậy. Nghe đến đây, ông
Huyện lo lắng nên cáo từ Hương quản về nhà tra hỏi con cái. Phân vân mãi, phải
đến chiều nà hôm đó, ông ấy mới tra hỏi mấy người hầu trong nhà thì họ trả lời
không có sử dụng khăn mùi xoa, không thấy ai có khăn mùi xoa trong nhà, họ
cũng không biết ai vạt rào sang nhà Chí Cao vào buổi tối cả. Ông bèn hỏi người
chủ nhà duy nhất lúc đó là cô Tuý thì bị bà Huyện cản lại, biến cớ cô đang bị
bệnh nên không cho ông Huyện vào. Ông đành viết thư gửi lên cho quan quận
bẩm báo về chuyện này. Sau khi đọc được thư mời của ông Huyện, quan Chủ
quận liền đến nhà để tra hỏi. Đến nơi, ông Huyện kể cho quan Chủ quận nghe về
việc ông nghe có người nói thấy bóng trắng từ vườn nhà ông sang nhà Chí Cao.
Ông Huyện kêu con cháu ra kể tra hỏi nhưng bà Huyện một mực ngăn cản (biện
cớ liêm sỉ của con, rồi con bị ốm,…). Xong, không còn lĩ lẽ gì để nói nên bà
Huyện tự thú, ông Huyện vừa khó hiểu vừa không tin (vì bà Huyện đi Sài Gòn
với ông trong lúc bóng trắng đó xuất hiện). Sau khi nghe những lời bà Huyện
nói, cô Tuý động lòng ra thú tội. Sau đó cô khóc lóc xin lỗi mẹ cha và đưa cho
quan Chủ quận bức thư thú tội của mình. Trong bức thư, cô nói rằng cô bị dụ dỗ
bởi những lời ngọt ngào, hoa mĩ của Chí Cao, thêm cô có một tâm hồn mơ mộng
dẫn đến bị dụ dỗ mà quên đi đức hạnh của mình (cô còn bị lấy đi tiết hạnh). Sau
đó cô biết chuyện Chí Cao đã lừa gạt mình nên cô tức giận đi tìm hắn ta. Trong
lúc kể tội hắn ta, hắn ta dở trò đồi bại ôm cô. Vì quá tức giận và tự vệ, thêm việc
có cây dao rọc giấy để sẵn trên bàn nên cô không nghĩ ngợi gì mà đâm hắn,
không nghĩ hắn sẽ chết nên cô chạy về nhà. Nhưng sáng hôm sau cô nghe nói
Chí Cao chết, cô sợ quá, giả bệnh, nằm trong buồng suốt mấy ngày. Biết thế nào
bại lộ nên cô đành ra tự thú cho đỡ công phiền não. Sau đó cô xin lỗi cha mẹ lần
cuối, và cầu xin ông Huyện đốt hết đống tiểu thuyết mà cô đã đọc đi để tránh
trường hợp em Ngọ đọc được rồi thành ra như cô Tuý. Ông Huyện kêu Hương
quản lúc này đang đứng bên ngoài vào giải cô Tuý về dinh quận để xử tội. Cách
ba tháng sau có một tờ báo đăng tin về vụ án “Nạn Thơ Dâm”… Toà xét xử rất
công tâm, kẻ sát nhân chỉ nhận bản án 1 năm tù treo. Những người chứng kiến
phiên toà ấy đều rất vui lòng phỉ dạ.
Một số đặc điểm về nghệ thuật trong tác phẩm "Cư Kính"
+ "Lão Tám lăn kềnh trên chiếc chõng tre như một con lợn ỉ."
- "Cư kỉnh" - vừa có nghĩa là "chửi bới" vừa có nghĩa là "cư xử không đúng
mực."
e.Giọng điệu:
- Phơi bày sự thối nát, bỉ ổi của xã hội thực dân phong kiến.
g.Ngôn ngữ:
*Tác dụng:
- Phơi bày bản chất xấu xa, thối nát của xã hội thực dân phong kiến.
- Thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm của tác giả đối với xã hội đương
thời.
*Ngoài ra, truyện ngắn "Cư Kỉnh" còn có những đặc sắc nghệ thuật khác
như:
- Sử dụng bút pháp miêu tả tâm lí tinh tế, thể hiện nội tâm nhân vật qua
hành động, lời nói, suy nghĩ.
- Xây dựng các nhân vật đối lập, điển hình: Chí Cao - đại diện cho sự sa
đọa, Lệ - đại diện cho phẩm chất tốt đẹp.
- Kết hợp nhiều tình huống gay cấn, bất ngờ, tạo sự tò mò cho người đọc.
- Mạch truyện logic, dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
- Sử dụng các biện pháp tu từ như châm biếm, mỉa mai, ví von để vạch trần
bộ mặt giả dối của Chí Cao.
- Giọng văn mỉa mai, châm biếm đan xen với giọng văn trữ tình, thể hiện sự
thương cảm cho những kiếp người bất hạnh.
- Sử dụng ngôn ngữ đời thường, phù hợp với tính cách và hoàn cảnh của
nhân vật.
- Lời văn giản dị nhưng vẫn thể hiện được ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm.
- Miêu tả sinh động đời sống xã hội Nam Bộ trước Cách mạng tháng Tám.
- Phản ánh những bất công, thối nát của xã hội thực dân phong kiến.
*Ngoài ra, tác phẩm còn có một số đặc điểm nghệ thuật khác như:
*Nhìn chung, Cư Kỉnh là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao, thể hiện
tài năng của nhà văn Hồ Biểu Chánh.