You are on page 1of 15

Chí phèo

I. Khái quát (ghi ý chính ko ghi quá dài dòng)


1. Tác giả
o Tiểu sử con người
- Nam Cao (1915/1917 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri.
- Quê ông ở Lý Nhân, Hà Nam.

- Ông sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung.

- Thuở nhỏ ông học ở trường làng, sau đó được gửi xuống Nam Định học.

- Sau đó do thể chất yếu nên ông về nhà chữa bệnh rồi cưới vợ.

- Năm 18 tuổi ông vào Sài Gòn nhận làm thư kí cho một hiệu may.

- Khi trở ra Bắc ông dạy học tại Hà Nội.

- Năm 1943 ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.

- Năm 1945 ông tham gia cướp chính quyền ở Lý Nhân và được cử làm
chủ tịch xã.

- Năm 1946 ông gia Hà Nội hoạt động Hội Văn hóa cứu quốc

- Năm 1948 ông gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam.

- Năm 1950 ông làm việc cho Hội Văn nghệ Việt Nam, tại tạp chí văn
nghệ.

o Sự nghiệp văn học


- Quan điểm nghệ thuật:
+ Ông theo quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh": “Nghệ thuật không
nên là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật
chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”

+ Ông quan niệm: Tác phẩm "phải chứa đựng được một cái gì lớn
lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác
ái, công bằng” và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo
một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào
sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì
chưa có”.

- Các đề tài chính:


+ Ông để lại khối lượng tác phẩm lớn với nhiều thể loại truyện ngắn,
tiểu thuyết, kịch, truyện ký như các tác phẩm: Sống mòn, Lão Hạc,
Chí Phèo, Giăng sáng, Đôi mắt,...

o Phong cách nghệ thuật


- Đề cao con người tư tưởng: Quan tâm tới đời sống tinh thần của con
người, luôn hứng thú khám phá "con người trong con người".

- Đi sâu khám phá nội tâm nhân vật

- Thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại mang ý nghĩa triết lý sâu
sắc

- Ông có phong cách triết lý trữ tình sắc lạnh.

o Vị trí
- Là nhà văn lớn, một cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại.

- Là nhà văn hiện thực nhân đạo xuất sắc của thế kỉ XX. Nam Cao đã đưa
chủ nghĩa hiện thực lên một bước đột phá: chủ nghĩa hiện thực tâm lý

- Ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996.

2. Tác phẩm
o Nhan đề
Nhan đề “Chí Phèo” thâu tóm được nội dung của tác phẩm. Chí
Phèo là nạn nhân, là sản phẩm của xã hội phong kiến nửa thực
dân. Chí là người nông dân lương thiện nhưng lại bị đẩy vào “bước
đường cùng” trở thành kẻ lưu manh, côn đồ, mất hết
cả nhân hình nhân tính. Trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
o Bố cục
- Phần 1 (từ đầu đến "cả làng Vũ Đại cũng không ai biết"): Chí Phèo xuất
hiện cùng tiếng chửi

- Phần 2 (tiếp đến "không bảo người nhà đun nước mau lên"): Chí Phèo
mất hết nhân tính

- Phần 3 (còn lại): Sự thức tỉnh, ý thức về bi kịch của cuộc đời Chí Phèo

o Tóm tắt (thêm vào ý: không gian nghệ thuật là ở làng


Đại Hoàng)
Ở làng Vũ Đại có thằng Chí Phèo nổi tiếng là hay ăn vạ, đi đâm thuê
chém mướn cho nhà Bá Kiến, ngày nào cũng chửi làng phá xóm. Chả
là trước kia hắn bị mẹ bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, được dân làng thay
nhau nuôi. Cho đến năm 18 tuổi đi làm thuê cho nhà bá Kiến nhưng vì
vợ hắn cứ gọi Chí lên xoa đầu, bóp vai nên Bá Kiến ghen bắt Chí Phèo
phải đi tù. Cuộc đời Chí rơi vào đau thương từ đây. Khi Chí trở về, hắn
trở thành một con người hoàn toàn khác, cầm dao và vỏ chai đến nhà
bá Kiến - kẻ đã tống hắn vào tù - ăn vạ. Ông Bá xoa dịu hắn bằng bữa
rượu và mấy đồng bạc, Chí ngoan ngoãn đi về và từ đó trở thành một
con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng Chí vẫn là một con người, khi gặp
Thị Nở vào một đêm trăng, hắn và Thị đã âu yếm nhau. Thị cho hắn
tình thương khiến hắn muốn trở lại làm người. Nhưng Thị cũng dập tắt
mọi hy vọng khi bà cô của Thị một mực không đồng ý cho tình cảm
của hai người. Chẳng còn ai trên đời này quan tâm đến mình, yêu
thương mình, cuộc đời thì đi vào lầm lỗi, sa ngã nên Chí đã đến nhà
Bá Kiến kêu lên: "Ai cho tao lương thiện?" Chí giết chết Bá Kiến và kết
liễu cuộc đời mình. Thị lúc này chỉ nhìn xuống bụng và nghĩ về cái lò
gạch - nơi Chí Phèo được người ta tìm thấy mang về nuôi.
o Ý nghĩa của các nhân vật trong truyện
- Nhân vật Chí Phèo: Hình ảnh của 1 người nông dân lương thiện, bị xã hội
tha hóa, đẩy vào con đường lưu manh, bị cường hào, ác bá đẩy vào tù.
- Nhân vật Bá Kiến: là một trong những hình tượng tiêu biểu cho giai cấp
thống trị, với bộ mặt tàn ác, xấu xa. Điển hình cho một tầng lớp địa chủ,
cường hào ở nông thôn thời bấy giờ. Tìm mọi cách để có thể bóc lột được
người nông dân
II. Phân tích cụ thể
1. Bức tranh làng vũ đại (thể hiện mâu thuẫn trong xã hội phong kiến)
Nếu chỉ đọc một đoạn trích Chí Phèo, nói về cuộc đời và những bi kịch của
hắn thì có lẽ khó mà có thể tưởng tượng ra một hình ảnh làng Vũ Đại hoàn
chỉnh, phải đọc cả truyện ngắn ấy người ta mới thấy dần hiện lên một ngôi
làng mà trong ấy ngự trị đủ mọi cái xấu xa, cái éo le trong cuộc đời. Đó
chính là hình ảnh thu nhỏ của một cái xã hội thực dân nửa phong kiến thối
nát, hủ bại, nơi mà cái ác trở thành chúa tể, nơi đã biến một anh canh điền
lương thiện trở thành một kẻ nát rượu, chuyên rạch mặt ăn vạ. Không chỉ
một mình Chí Phèo bị tha hóa, ở làng Vũ Đại cũng có nhiều người giống
Chí, mỗi người đều có cho mình những bi kịch riêng, mà chốt lại cũng tại
chính cái chính quyền phong kiến tàn ác đã khiến họ trở nên như vậy.
• Làng Vũ Đại là không gian nghệ thuật của tác phẩm, là một lát cắt điển
hình cho nông thôn Bắc Bộ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
• Xã hội làng Vũ Đại là một xã hội có tôn ti, trật tự nghiêm ngặt:
o Bá Kiến (cụ tiên chỉ): “bốn đời làm tổng lý”, uy thế ngất trời
o Đám cường hào ác bá: đội Tảo, tư Đạm, bát Tùng…: Kết bè kết cánh đối
chọi lẫn nhau và đối chọi với Bá Kiến, làm thành thế “quần ngư tranh thực”.
o Dân làng Vũ Đại: Nông dân, thấp cổ bé họng, suốt đời bị đè nén, áp bức
o Hạng người dưới đáy: Chí Phèo, Năm Thọ, binh Chức: Cùng hơn cả dân
cùng, sống tăm tối như thú vật.
• Trong cái xã hội phân tầng bậc nghiêm ngặt ấy, Nam Cao đã trình bày hai
xung đột cơ bản:
o Xung đột 1: Xung đột trong nội bộ của bọn cường hào ác bá. Chúng
ngấm ngầm chia rẽ, dùng mọi thủ đoạn, nhè từng chỗ hở để trị nhau. (Bá
Kiến dùng tên đầu bò Chí Phèo trị đội Tảo; Bá Kiến chết, bọn cường hào
nhìn Lí Cường bằng con mắt thỏa mãn, khiêu khích).
o Xung đột 2: Xung đột giữa bọn cường hào ác bá (kẻ thống trị - tội đồ) và
những người nông dân hiền lành, lương thiện (kẻ bị trị - nạn nhân). Chúng
bóc lột người nông dân đến tận xương tủy, dồn họ vào đường cùng để rồi rơi
vào bi kịch tha hóa, bi kịch bị tước đoạt quyền làm người.
* Hình ảnh làng Vũ Đại với tầng lớp thống trị tàn ác, khôn khéo, lọc lõi, tha
hóa về nhân cách:
- Bá Kiến: Có chức quyền, nhưng bất lực, sợ vợ, hay ghen, rất mực khôn
ngoan trong chốn quan trường.
- Lý Cường: Hống hách, tàn ác, nhưng manh động, ưa bạo lực.
- Các bà vợ của Bá Kiến: Lắm chuyện, bà ba thì bản chất dâm đãng, lăng
loàn.
* Hình ảnh làng Vũ Đại với những người nông dân cùng khổ, chất chồng bi
kịch:
- Chí Phèo: Vốn hiền lành lương thiện, nhưng bị bắt đi tù oan vì bá Kiến
ghen tuông, sau trở thành lưu manh, tha hóa về nhân cách, bi kịch bị chặt đứt
con đường quay trở về làm người lương thiện vì những định kiến tàn khốc
trong xã hội.
- Năm Thọ một kẻ cướp giật, đi tù rồi vượt ngục về liều chết uy hiếp lí Kiến
cho tiền, sau bỏ đi biệt xứ.
- Binh Chức hiền lành lương thiện, nhưng cũng bị xã hội ấy chèn ép đến bực
phải bỏ đi lính, rồi vợ ở nhà phạm tính đa dâm, lang chạ với người khác.
Binh Chức trở thành một kẻ liều chết như Chí Phèo, ngang nhiên đòi tiền lý
Kiến mà không phải tội, lại được sống yên ổn trên chính quê hương với vợ
con và làm chân tay cho lý Kiến đến hết đời.
- Ông thầy cúng kiêm nghề thiến lợn - Tự Lãng, vợ chết, con gái chửa hoang
rồi bỏ đi, chỉ còn lại một mình lão cũng trở nên nát rượu như Chí Phèo.
- Một Thị Nở đã nghèo lại còn xấu đau xấu đớn, thêm cái tính dở hơi, hơn 30
tuổi vẫn ế chỏng ế chơ, cùng sống với thị là bà cô già cũng ế chồng, hai cô
cháu sống tạm bợ trong cái nhà tre tạm bợ, gần với nhà Chí Phèo.
* Những cái khốn nạn, lạc hậu xen lẫn cái nghèo nàn của ngôi làng đã dồn
ép con người ta vào đường cùng:
- Tuy nghèo khó, nhưng con người người đây vẫn không thôi được cái bản
tính ích kỷ, nhiều chuyện, thích xuyên tạc vấn đề (chuyện của Chí Phèo với
bà ba).
- Người ta cố chấp với định kiến xã hội ăn sâu vào tiềm thức, chứ nhất quyết
không chịu mở một con đường bao dung cho Chí Phèo quay trở về làm
người lương thiện.
- Xã hội mà đạo đức, tính người xuống cấp, tha hóa, đàn bà thì lăng loàn, đa
dâm, chửa hoang, bố mẹ thì vứt bỏ con cái, đàn ông kẻ thì nát rượu, lưu
manh đâm thuê chém mướn,...

2.Nhân vật Bá Kiến


a) Lai lịch Nhà Bá Kiến
- Bốn đời làm tổng lí. Con trai hắn làm lí trưởng. Bản thân hắn là lí trưởng
rồi chánh tổng, ở nông thôn, hắn leo đến đỉnh cao của danh vọng; Tiên chỉ
làng Vũ Đại, chánh hội đồng kì hào, Bắc Kì nhân dân đại biểu, phe cánh của
hắn mạnh, luôn đối địch với bọn cường hào trong làng.
b) Bản chất của Bá Kiến
-Gian hùng nham hiểm:
+ Thủ đoạn dùng người: trị không lợi thì cụ dùng. Sử dụng họ như công cụ
không có những thằng đầu bò thì lấy ai để trị những thằng đầu bò? Mềm nắn
rắn buông với triết lí: thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều
thân: Đó là kẻ cường hào khôn róc đời.
- Ném đá giấu tay:
+ Bá Kiến lấn át các phe cánh khác nhờ thu dụng được những kẻ không sợ
chết, không sợ đi ở tù. Lọc lừa, giả dối và xảo quyệt: Hãy ngấm ngầm đẩy
người ta xuống sông, nhưng rồi dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập
ghế, đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì vất trả năm hào ui thương
anh túng quá!.
+ Vì thế nhận ra bộ mặt thật của Bá Kiến không phải dễ dàng.
- Đểu cáng, tàn bạo:
+ Bá Kiến đã từng xô đẩy bao người lương thiện vào đường cùng: Năm
Thọ, Binh Chức, Chí Phèo. Vì một chuyện ngờ ghen vớ vẩn, hắn đã đẩy Chí
Phèo vào tù bảy, tám năm vì chỉ muốn tất cả những thằng trai trẻ đều đi ở tù.
+ Chính hắn biến Chí Phèo thành quỷ dữ, và khi cần, sẵn sàng thí mạng Chí
Phèo (sai đòi tiền Đội Tảo).
+ Sống trên mồ hôi xương máu của người nghèo.
- Dâm ô, đồi bại Dù có bốn vợ, Bá Kiến không bỏ lỡ ngồi chung xe lên tỉnh
với vợ Binh Chức
c) Nghệ thuật xây dựng nhân vật Nhân vật điển hình:
+ Bá Kiến có nét chung của giai cấp thông trị tham lam, tàn bạo, không từ
một thủ đoạn nào để bóc lột người nghèo.
+ Bá Kiến có nét riêng của tên ác bá gian hùng, nham hiểm, thủ đoạn. Nam
Cao khắc họa tâm địa là chính: "Cụ cười nhạt nhưng giòn giã lắm" ... "cụ
hay quát để thử dây thần kinh người khác". "Tiếng cười Tào Tháo" ấy là tâm
địa của kẻ độc ác xảo quyệt.
Bá Kiến là nhân vật đại diện cho tầng lớp bóc lột của xã hội phong kiến.
Qua nhân vật Bá Kiến này bộ mặt tàn bạo, độc quyền xấu xa của bọn địa chủ
cường hào ác bá hoàn toàn bị phơi bày.
3. Hình tượng nhân vật chí phèo (giải thích ý nghĩa tên chí phèo)
a. Sự xuất hiện của nhân vật
+Chí Phèo xuất hiện bằng tiếng chửi, tiếng chửi của một kẻ say
rượu, chửi trời, chửi đời, chửi cả cha mẹ đã đẻ ra hắn. Hình tượng
hắn “vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là hắn chửi” đã khiến người
đọc hình dung được những nét chung nhất về nhân vật, một tên
bợm rượu, không cha không mẹ, mà chính cái xã hội này đã sinh
ra Chí Phèo.

=> Tiếng chửi tưởng như vu vơ nhưng lại có sự sắp xếp rất logic,
hợp lý, chửi trời, chửi đời có thể chỉ là tiếng chửi của thằng say
rượu nhưng tiếng chửi cha mẹ, chửi người đã đẻ ra mình thì dường
như trong câu chửi ấy có sự ý thức về thân phận, trong đó có sự
đau xót, và cả căm hận.

+Lời trần thuật, lời kể độc đáo, Nam Cao đã phác họa lên một anh
Chí với tiếng chửi trong cơn say dường như đã trở nên quá quen
thuộc với người làng Vũ Đại thành ra không ai quan tâm đến hắn,
không ai coi hắn là người.
b. Lai lịch cuộc đời của chí
- Là một đứa trẻ không cha không mẹ, làm thuê làm mướn để
kiếm sống, là một người nông dân lương thiện, từng làm canh
điền cho nhà Bá Kiến.
- Là một anh thanh niên có sức vóc, hiền lành, chăm chỉ, chịu
khó, cũng có ước mơ bình dị như bao người khác “ước có một
gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”.
- Là người luôn ý thức được nhân phẩm, có tự trọng, khi bà Ba
gọi lên bóp chân cho, Chí thấy “nhục” chứ yêu đương gì, run
run sợ sệt nhưng vẫn nhẫn nhịn vì biết thân phận mình chỉ là
phận tôi tớ.
c. Sự biến đổi của chí phèo sau khi ra tù
- Nguyên nhân Chí bị bắt vào tù: Vì Bá Kiến ghen mà đã lấy lý
do để đẩy Chí vào tù.
- Sự tàn bạo của nhà tù thực dân đã biến Chí từ một con người
hiền lành, lương thiện trở thành “Con quỷ dữ của làng Vũ Đại”,
với ngoại hình gớm ghiếc “cái đầu trọc lóc, hàm răng cạo trắng
hớn, cái mặt thì câng câng, hai con mắt gườm gườm => Chí
Phèo đánh mất nhân hình
- Chí triền miên trong cơn say, trở thành một tên du côn, chuyên
đi đòi nợ thuê cho nhà Bá Kiến-kẻ đã đẩy mình vào nhà tù tàn
bạo => Chí đánh mất nhân tính.
=> Chí Phèo đã bị tha hóa, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính,
không còn là anh Chí hiền lành của trước kia nữa. Bá Kiến -đại
diện cho tầng lớp thống trị trong xã hội xưa chính là nguyên nhân
dẫn đến quá trình tha hóa của Chí-một người nông dân lương thiện
điển hình.
d. Cuộc gặp gỡ giữa chí phèo và thị nở
-Nhân vật Thị Nở: là một người con gái vừa xấu, vừa nghèo, lại
còn dở hơi, có dòng dõi nhà “có mả hủi” => một người con gái
xấu “ma chê quỷ hờn” nhưng lại “có duyên” trong mắt Chí, đánh
thức những khao khát đẹp đẽ nhất trong con người anh.

-Sự thay đổi trong tâm tính của Chí Phèo khi cảm nhận được tình
yêu của Thị Nở:

+ Sáng tỉnh giấc dậy, Chí nghe và cảm nhận được âm thanh bình
dị của cuộc sống hàng ngày: “tiếng chim hót” ,”tiếng cười nói của
những người đi chợ”, “ tiếng anh thuyền chài có mái chèo đuổi
cá”, những âm thanh của cuộc sống thường ngày bình dị ấy hôm
nào cũng có nhưng đến hôm nay Chí mới nghe thấy hay nói đúng
hơn là đến nay Chí mới được nghe lại.

+Chí Phèo nhìn nhận về hiện tại và nhìn thấy cả tương lai của hắn:
“hắn thấy hắn già mà vẫn cô độc”, hắn thấy tuổi già của hắn “đói
rét, ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”

+Chí Phèo nhớ về ước mơ khao khát của mình “một gia đình nhỏ,
chồng cuốc mướn, vợ cày thuê, dệt vải”

+Hắn thèm lương thiện, thèm được làm người, thèm được sống
hòa hợp với mọi người và Thị Nở chính là hy vọng của hắn, giúp
hắn đạt được ước nguyện này, Thị Nở giống như một cây cẩu, mở
đường cho hắn đến với thế giới loài người, thoát khỏi thế giới của
quỷ.
- Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo - >
định kiến của xã hội.
- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
+ Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
+ Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách
dao đến nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
- Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:
+ Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông
dân thức tỉnh về quyền sống.
+ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch
đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.
=> Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội
cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng.
e. nhận xét về nhân vật
- Tác giả đã khắc họa thành công nhân vật Chí Phèo - người nông
dân hiền lành, lương thiện bị xã hội tàn bạo đẩy vào con đường
tha hóa, lưu manh hóa, bị tàn phá cả nhân hình nhân tính. Hắn
sinh ra đã là một bi kịch, từ một anh nông dân hiền lành hắn trở
thành tên lưu manh chuyên rạch mặt ăn vạ, cuối cùng trở thành
con quỷ dữ. Đời hắn chưa bao giờ tỉnh. Sau đêm gặp thị Nở tâm
lý của Chí Phèo đã thay đổi phức tạp. Hắn cảm nhận được
những âm thanh của cuộc sống đời thường, hắn nhận ra mình đã
già nhưng vẫn còn đơn độc. Hắn muốn sống chung với thị Nở,
thèm lương thiện. Với khát vọng được làm người lương thiện
của Chí Phèo sau cái hôm gặp thị Nở tác giả vẫn luôn khẳng
định bản chất lương thiện của người nông dân ngay cả khi bị
vùi dập. Qua đây, Nam Cao thể hiện được tư tưởng nhân đạo,
lòng yêu thương, niềm tin yêu của ông vào những con người
khốn khổ. Chí Phèo còn là tiếng kêu cứu của những con người
khốn khổ, bí bách cùng quẫn không lối thoát bị xã hội ruồng bỏ
để xã hội hiểu được hãy cho họ - những con người lầm đường
lạc lối cơ hội trở về với cuộc sống lương thiện, cơ hội được hòa
nhập cộng đồng.
4. Nhân vật thị nở
a. Ngoại hình
- Miêu 1tả khách quan, trần trụi: một người “ngẩn ngơ như những
người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hớn”
+ Ngẩn ngơ: hành độngt hep bản năng
+ Xấu ma chê quỷ hờn: từng đường nét trên khuôn mặt không giống
với những gì nên có trên khuôn mặt con người
+ Đã vậy, Thị còn nghèo và nhà có mả hủi:
⇒ Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn
những điều bất lợi
b. Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người
- Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn
không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương
của Thị Nở
+ Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, Thị Nở dành sự quan tâm cho
Chí Phèo:
+ Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn
bị ốm. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình
như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà
cho”
+ Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám
bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém
người” ⇒ một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ
Đại
+Tình cảm và sự quan tâm của Thị Nở với Chí Phèo đã như một liều
thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay
trở lại thành một ngườ với sự lương thiện trong căn tính
⇒ Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong
mắt Chí
c. Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình
- Thị Nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng
- Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí
- Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”
- Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên Thị
đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối
d. Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: bi kịch cuộc đời
Chí Phèo
- Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn
đề trung tâm của tác phẩm: sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo
+ Ban đầu, Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng
về mặt thể xác
+Sau đó, chính tình thương của Thị Nở đã làm thức dậy sự lương
thiện vốn có trong Chí
+ Khi Thị Nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc
đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng ⇒ đẩy Chí đến
những hành động sau này: uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự
sát
⇒ Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời
cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính: Chí
Phèo
III. Chi tiết thắt bút, mở nút của câu truyện
1. Chi tiết thắt nút của câu truyện
a. Bi kịch từ người nông dân chân chính thành kẻ lưu mạnh
- Chí Phèo từng là một người nông dân hiền lành. Lớn lên, làm canh điền
cho lí Kiến.
- Tính cách thật sự của Chí Phèo còn được thể hiện qua phản ứng của ông
khi được Thị Nở cho bát cháo hành và hồi tưởng lại quá khứ.
+ "Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, cũng không
toàn là xác thịt. Người ta không thích mà lại còn khinh. Vả lại bị một con
đàn bà gọi đến mà bóp chân! Hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ.
Quả thực từ khi biết rằng con vợ chủ sai hắn làm một việc không chính đáng,
hắn vừa làm vừa run"
+ Bị bà ba chửi, nhưng "hắn vẫn giả vờ không hiểu"
- Cách tính lương thiện còn được thể hiện qua.
+ "Hắn muốn làm nũng với thị như mẹ. Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là
thằng Chí Phèo vẫn đập đầy, rạch mặt mà đâm chém người?"
- Vậy mà, Chí lại bị Lí Kiến ghen nên tống vào tù. Trở thành con người mà
mất hết đi nhân hình lẫn nhân tính.

+ "Hắn vừa đi vừa chửi". "Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ
uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn xách
một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi"

b. Bi kịch Chí Phèo từ tên lưu manh thành con quỷ của làng Vũ Đại
- Chí Phèo bị bá Kiến dụ giỗ, trở thành tay sai, càng ngày càng hung hãn,
ngang ngược và truyền miên say.
2. Chi tiết mở nút cho câu truyện
- Nếu bi kịch cuộc đời khiến Chí trở thành một con quỷ của làng Vũ Đại là
chi tiết thắt nút của câu truyện thì cái chết của Chí chính là chi tiết mở nút
cho câu truyện
- Cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến chính là kết quả của cái tấn bi kịch cùng
đường tuyệt lộ, mà không còn cách tháo gỡ nào khác ngoài cái chết để giải
thoát. Cuộc đời Chí Phèo lần lượt bước qua những bi kịch đau đớn, đầu tiên
là bi kịch bị cha mẹ ruột bỏ rơi, phải sống cuộc đời thiếu tình thương yêu,
sau khi lớn lên cứ ngỡ yên ổn làm một anh canh điền thật thà chất phác thì
lại vướng nỗi oan khuất phải ngồi tù vì sự ghen tuông của Bá Kiến. Chính
cuộc sống không bằng chết ở trong tù đã khiến Chí Phèo dần lưu manh hóa,
bị tha hóa trong nhân cách. Trả thù đời, trả thù Bá Kiến, hắn tiếp tục trượt
dài trên con đường tha hóa ấy, không thể hòa nhập với cuộc sống, bị cái định
kiến đầy ác nghiệt của xã hội chối bỏ quyền được làm người. Thế nhưng dẫu
cuộc sống có nhiều đớn đau, dù hắn có bị lưu manh hóa, có rạch mặt ăn vạ
thì sâu thẳm trong tâm hồn Chí Phèo vẫn còn một chút tỉnh táo len lỏi trong
những cơn say dài. Bản chất hắn vẫn là một anh canh điền lương thiện, hắn
sẵn sàng ra tay rạch mặt mình, nhưng không hề làm tổn thương đến kẻ thù,
kẻ vốn đẩy hắn đến những bi kịch mãi về sau này.

III. Những chi tiết đắt giá trong tác phẩm


Chi tiết về lò gạch cũ:
1. Khái quát về hình ảnh cái lò gạch cũ
- Câu chuyện về cuộc đời Chí được bắt đầu từ “cái lò gạch cũ”. Chí là đứa con
hoang bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ giữa đồng. Chí đã lớn lên bằng sự cưu mang
của những người lao động lương thiện lam lũ. Trưởng thành, Chí đi làm canh
điền cho nhà Bá Kiến (tên cường hào độc ác khét tiếng ở làng Vũ Đại). Vì ghen
tuông vô cớ, Bá Kiến đã ngấm ngầm đẩy Chí vào tù. Sau bảy, tám năm đi tù
biệt tăm, Chí đột nhiên trở về làng thành một kẻ hoàn toàn khác. Từng bước Chí
cứ lún sâu mãi xuống vũng bùn tội lỗi, trở thành tay sai cho Bá Kiến và thành
“con quỷ dữ” ở làng Vũ Đại.
- Một lần Chí say rượu, trở về vườn chuối và gặp Thị Nở - người đàn bà xấu
đến “ma chê quỷ hờn” lại dở hơi ở làng Vũ Đại. Tình thương của Thị Nở đã làm
sống lại bản chất người và khát vọng hướng thiện trong Chí. Nhưng rồi tất cả
những gì tốt đẹp vừa bùng loé trong tâm hồn Chí đã mau chóng bị dập tắt, bị cự
tuyệt. Trong đau đớn tuyệt vọng, Chí đã đến nhà Bá Kiến, rồi giết hắn và tự
đâm chết mình.
- Sau khi Chí Phèo chết, ở phần kết thúc tác phẩm, Thị Nở lại xuất hiện. Thị
“nhớ lại lúc ăn nằm với hắn… rồi nhìn nhanh xuống bụng”, “Đột nhiên thị thấy
thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng bóng người lại
qua…”.
- Cử chỉ và ý nghĩ của thị khiến người ta nghĩ tới: sẽ lại có một Chí Phèo con ra
đời…
2. Ý nghĩa của hình ảnh “cái lò gạch cũ”
* Ý nghĩa tả thực:
- Hình ảnh cái lò gạch cũ: cái lò nung gạch nhưng đã cũ, không còn sử dụng,
xuất hiện nhiều tại các vùng quê xưa.
* Ý nghĩa biểu tượng:
- Hình ảnh cái lò gạch cũ xuất hiện ở đầu tác phẩm: “Một anh đi thả ống lươn
nhặt được một đứa trẻ trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên
một lò gạch bỏ không…” và xuất hiện ở cuối tác phẩm: Thị Nở nhớ lại những
lúc ăn nằm với Chí Phèo, Thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên thị thấy
thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua
lại…”.
=> Kết cấu đầu cuối tương ứng: mở đầu là sự xuất hiện của cái lò gạch, kết thúc
cũng bằng hình ảnh cái lò gạch.
=> Hình ảnh ẩn dụ cho vòng luẩn quẩn của những kiếp người như Chí Phèo.
Qua đó tác giả muốn khẳng định: Chí Phèo không phải là một hiện tượng cá
biệt mà là một hiện tượng phổ biến có tính quy luật trong xã hội bấy giờ.
Ý nghĩa của chi tiết:
Tác giả đã dựng nên câu chuyện về "Chí Phèo" nhằm gián tiếp lên án xã hội cũ
bất công, bạo ngược, đàn áp và bóc lột người nông dân. Mở đầu truyện, ta đã
được nghe Nam Cao kể về Chí Phèo, với câu chuyện đầy đau thương và bất
hạnh của Chí. Thì ra, Chí là một đứa trẻ mồ côi, được anh thả ống lươn nhặt
được “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không”.
Chi tiết cái lò gạch đã xuất phát điểm từ đây, cuộc đời Chí không biết bố mẹ là
ai? Sinh ra từ đâu? Quê hương gốc là nơi nào? Nhưng Chí lại bị bỏ lại nơi cái lò
gạch cũ bỏ hoang và tăm tối này. Cuộc đời Chí rồi cũng chính là như vậy, biết
đến ở nơi tối tăm hoang vắng, cuộc đời và số phận cũng tương tự như vậy,
tưởng như là định mệnh.
Nhà văn Nam Cao đã mở ra hình ảnh "cái lò gạch cũ" bằng nghệ thuật đặc sắc.
Đầu tiên, chúng ta có thể thấy hình ảnh “cái lò gạch cũ” xuất hiện trong ý nghĩ
của Thị ở đây nằm trong ý đồ nghệ thuật của nhà văn: Một kiểu kết cấu tác
phẩm đầu cuối tương ứng - kết cấu vòng tròn. Mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân
và địa chủ cường hoà một lần nữa được nhấn mạnh tô đậm. Bá Kiến chết thì có
lí Cường, Chí Phèo chết thì có một Chí Phèo con sẽ xuất hiện. Mâu thuẫn giữa
nông dân và địa chủ cường hào khi âm ỉ, khi bùng lên dữ dội, song không thể
giải quyết. Vấn đề những con người lao động lương thiện bị xã hội đẩy vào con
đường lưu manh cùng quẫn quay lại chống trả với xã hội bằng chính sự lưu
manh của mình là vấn đề thuộc về bản chất, là quy luật tất yếu khi xã hội thực
dân phong kiến còn tồn tại. Biết đâu lại chẳng có một "Chí Phèo con" bước từ
cái lò gạch cũ vào đời để "nối nghiệp cha". Hiện tượng Chí Phèo chưa thể hết
khi xã hội tàn bạo vẫn không cho con người được sống hiền lành, tử tế, vẫn còn
những người dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Sức mạnh
phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là vạch ra được cái
quy luật tàn bạo, bi thảm này trong cái xã hội tối tăm của nông thôn nước ta thời
đó. Đây là một chi tiết rất độc đáo của tác phẩm và nó cũng thể hiện sức sống
mạnh mẽ về thời gian của tác phẩm.
6.Chi tiết bát cháo hành:
Bát cháo hành xuất hiện ở gần cuối thiên truyện. Chí Phèo sau khi uống rượu
nhà Tự Lãng không về túp lều của mình mà ra thẳng bờ sông. Ở đó bắt gặp Thị
Nở – người đàn bà ngớ ngẩn, xấu ma chê quỷ hờn, đi kín nước nhưng ngủ quên
ở bờ sông. Khung cảnh hữu tình: trăng lấp lánh trên mặt sông, gió thổi mát rượi
và những tàu chuối “giãy đành đạch như hứng tình”, cùng với hơi men của rượu
đã đưa đến mối tình Chí Phèo – Thị Nở. Sau đêm trăng gió với Thị, Chí bị cảm,
Thị Nở thương tình, sau một đêm trằn trọc suy nghĩ, Thị chạy đi tìm gạo và nấu
cháo hành mang sang cho Chí.
Bát cháo hành – biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại nơi
làng Vũ Đại khô khát yêu thương. Bát cháo hành có lẽ đối với mỗi người nó chỉ
là những thứ vặt vãnh, vụn vặt, nhất là khi cháo lại được nấu bởi bàn tay Thị
Nở. Cháo ấy có ngon không? Chúng ta không biết, chỉ biết một điều nó chan
chứa tình người. Một tình người rất thật, rất hồn nhiên, vô tư, không vụ lợi mà
Thị Nở dành cho Chí. Nó chỉ đơn giản là bởi Thị thấy Chí bị “thổ một trận
nhọc” mà không có người chăm sóc, bởi Thị nghĩ ốm như thế thì chỉ có ăn cháo
hành. Và rất hồn nhiên Thị nấu cháo hành mang sang.
Bát cháo hành – vị thuốc giải cảm cho Chí. Sau khi bị thổ, lần đầu tiên Chí tỉnh,
lần đầu tiên cảm nhận được cuộc sống, nghe thấy được những âm thanh xung
quanh: “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái
chèo đuổi cá”, “tiếng những người đi chợ trò chuyện… Một ước mơ xa xăm của
một thời nào Chí thấy như xa lắm. Hắn đã từng mơ có một gia đình nho nhỏ,
chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ vốn nuôi một con lợn. Khá
giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Trận ốm đã làm cho hắn thoát khỏi cơn say
triền miên mà nhận thức được mình, thấy mình đang ở cái dốc bên kia của cuộc
đời, biết sợ tuổi già, ốm rét và cô độc. Trận ốm đã làm cho hắn biết sợ – cái mà
có lẽ trước giờ chưa bao giờ hắn nghĩ tới. Thị Nở sang cùng bát cháo hành đưa
cho hắn. Nhận bát cháo từ tay Thị mà hắn “ngạc nhiên”. Ngạc nhiên cũng đúng
thôi vì “từ trước đến giờ đã ai cho hắn cái gì. Muốn cái gì hắn phải dọa nạt hay
cướp giật”. Một cảm xúc khác thay cho cái ngạc nhiên ban đầu “hắn thấy mắt
ươn ướt, một chút gì như là ăn năn”. Chí ăn năn về những gì mình đã gây ra, có
thể là như lời nhà văn “người ta thường ăn năn về những việc mình làm khi
người ta không ác được nữa” nhưng dẫu sao điều ấy là không muộn. Chí ăn
cháo hành và thấy “cháo hành ăn rất ngon”. Tình người đầu tiên Chí nhận được
sao không ngon cho được. Sự chăm sóc đầy ân tình dẫu chăng còn thô vụng của
Thị Nở nhưng vẫn đáng quý biết bao. Còn gì quí giá hơn khi người ta ốm còng
queo một mình mà lại được một bàn tay chăm sóc. Chí đã khao khát biết bao
một bàn tay chăm sóc như thế. Bát cháo hành – sự chăm sóc, quan tâm vô tư
của Thị Nở làm Chí nghĩ tới bà Ba Bá Kiến. Hai người đàn bà quan tâm tới Chí
nhưng một người mặt hoa da phấn, áo quần là lượt nhưng tâm địa tà dâm chỉ cốt
thỏa mình, còn một người xấu ma chê quỷ hờn nhưng tâm địa tốt, quan tâm Chí
thật lòng. Bát cháo hành trên tay hơi nghi ngút làm cho Chí “vã mồ hôi ra như
tắm”. Bát cháo tưởng vặt vãnh đã trở thành liều thuốc giải cảm hữu hiệu cho
Chí.

IV. Gía trị hiện thực, giá trị nhân đạo


Thông qua số phận Chí Phèo, Nam Cao phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt
Nam lúc bấy giờ và thực trạng người nông dân bị đày đọa, đè nén và âm thầm
chịu đựng rồi tuyệt vọng, liều lĩnh phản ứng cực đoan.
GIÁ TRỊ HIỆN THỰC
1. Phản ánh những vấn đề cơ bản của xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách
mạng tháng 8.
a. Mối quan hệ của nội bộ giai cấp thống trị, những bè cánh địa chủ cường hào
.b. Mâu thuẫn giai cấp đối kháng, gay gắt giữa bọn địa chủ cường hào thống trị
với những người nông dân bị áp bức, bóc lột. Tiêu biểu là mâu thuẫn giữa bá
Kiến với Chí Phèo.
2. Hiện thực đời sống tăm tối, đau khổ của người nông dân, người lao động
lương thiện được thể hiện tập trung qua số phận của nhân vật Chí Phèo.
Chí là đại diện, điển hình cho bi kịch bị chà đạp cả nhân hình, nhân tính: từ một
người lao động lương thiện, bị tha hoá thành kẻ lưu manh và trở thành “con quỷ
dữ của làng Vũ Đại”, cuối cùng chết một cách thảm khốc trên ngưỡng cửa trở
về với cuộc sống lương thiện.
=> “Chí Phèo” đã khái quát hiện thực mang tính quy luật trong xã hội cũ: có áp
bức, có đấu tranh, đấu tranh tự phát thường dẫn đến kết cục bi thảm. Và những
cuộc đấu tranh như thế này chưa thể kết thúc được vì “tre gài măng mọc”. Bá
Kiến chết còn Lí Cường, còn nhiều tên cường hào ác bá khác thì còn những
“hiện tượng Chí Phèo” và còn những cuộc đấu tranh tự phát…
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO
1. Niềm cảm thương sâu sắc đối với những số phận khổ đau, bất hạnh như Chí
Phèo, thị Nở:
2. Khẳng định, đề cao nhân tính, đề cao con người.
3. Nam Cao phê phán những thế lực bạo tàn chà đạp con người.
4. Nam Cao đề ra giải pháp mang tính nhân đạo, mang ý nghĩa hiện thực và triết
lí sâu sắc: lật đổ xã hội tàn bạo để bảo toàn nhân tính của con người.
=>“Chí Phèo” là một tác phẩm văn học chân chính như trong quan niệm của
Nam Cao: “Tác phẩm văn học có giá trị là tác phẩm phải thể hiện nỗi đau của
con người, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người
gần người hơn”.
=> “Chí Phèo” khẳng định tậm vóc của nhà văn Cam Cao: khả năng khái quát
hiện thực và tư tưởng nhân đạo.

You might also like