You are on page 1of 17

VĂN MẪU LỚP 11

PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ HIỆN THỰC VÀ NHÂN ĐẠO CỦA TÁC
PHẨM CHÌ PHÈO

BÀI MẪU SỐ 1:
Trong nền văn học hiện thực nước ta ngoài những cái tên như Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng…thì cái tên Nam Cao được nhiều nhà nghiên cứu
đánh giá rất cao về những tác phẩm tố cáo hiện thực của nhà văn này. Với nhưng quan
điểm tích cực về văn chương Nam Cao đã cho ra đời những tác phẩm “khơi những nguồn
chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Hẳn ai cũng biết đến tác phẩm nổi tiếng của
ông đó chính là Chí Phèo, vẫn là một đề tài về người nông dân trong xã hội phong kiến
thế nhưng Nam Cao không đi khám phá nhân vật về cuộc sống nghèo khooe phải bán chó
bán con mà nhà văn nói về những số phận nông dân bị tước đoạt quyền làm người. Đặc
biệt qua truyện ngắn này ta thấy được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Trước hết là giá trị hiện thực, vậy giá trị hiện thực là gì?. Có thể tạm định nghĩa là
giá trị nói lên những bộ mặt hiện thực của cuộc sống mà từ đó khi nhìn vào đấy người ta
biết rằng hiện thực nước ta lúc bấy giờ phải sống như thế nào. Chính vì thế nhà văn hiện
thực Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo để từ một con số không tròn trĩnh để từ đó
ta thấy được những bi kịch mà xã hội phong kiến thực dân đã gây nên cho một người dân
lương thiện hiền lành.
Giá trị hiện thực trong truyện ngắn đó là phản ảnh quy luật ở nước ta thời Pháp
thuộc, người dân lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng trở thành lưu manh
hóa bần cùng hóa, thành một con quỷ dữ và không thể quay trở lại làm người được nữa.
Tất cả những điều nói trên được thể hiện rõ qua cuộc đời đầy những đau thương bi kịch
của nhân vật Chí Phèo.
Cách mở đầu câu chuyện của tác giả cũng góp phần thể hiện được hiện thực cuộc
sống những năm ấy. Chí Phèo xuất hiện với dáng vẻ của một thằng say rượu vừa đi vừa
chửi. Đó là cách mà hắn giao tiếp với mọi người xung quanh. Thế nhưng nào có ai tiếp
chuyện Chí, họ không thèm chấp Chí Phèo khi chửi cả làng Vũ Đại.Cứ say là Chí chửi
“bắt đầu hắn chửi trời, có hề gì trời có của riêng nhà nào, sau đó hắn chửi đời, đời là tất
cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình lên hắn chửi cả làng Vũ Đại nhưng làng Vũ Đại ai
cũng nghĩ chắc nó chừa mình ra”. Cứ thế chỉ một thằng say rượu với ba con chó cũng
làm inh ỏi cả làng nước lên rồi. Câu văn chua chát ấy giúp cho chúng ta thấy được Chí
vốn là một con người nhưng lại được so ví đồng loại với ba con chó. Những điều Chí nói
không ai thèm đáp lại. Người ta đâu coi Chí là con người.
Ngay từ nhỏ Chí sinh ra đã mang bi kịch lớn. Là một đứa bé mới đỏ hỏn vậy mà
đã bị mẹ bỏ rơi. Chí chỉ được bọc trong một cái khăn, người tím ngắt lại và bỏ ở chỗ lò
gạch cũ. Dẫu có may mắn được một anh nông dân cứu về đem lại sự sống cho Chí nhưng
cuộc đời Chí lại chẳng một chút nào tươi sáng. Sống ở mảnh đất nghèo khó lại “quần ngư
tranh thực” Chí được một người nhận nuôi nhưng vì nghèo mà Chí cũng phải đi ở đợ cho
nhà người ta. Chí quả là một con người bất hạnh.
Không những tuổi thơ thiếu tình thương cha mẹ đến khi lớn lên anh cũng vẫn
không thoát khỏi bi kịch. Chí lớn lên thành một chàng trai khỏe mạnh hiền lành. Chí ở đợ
cho nhà Bá Kiến thế nhưng bà ba nhà Bá Kiến lại cứ thích Chí đấm bóp cho. Khổ một nỗi
là Bà cứ bắt bóp lên cao cao mãi. Chí chỉ thấy nhục chú chẳng thấy yêu thương gì. Thế
rồi Bá Kiến phát hiện và đã đẩy anh chàng lương thiện vào nhà tù thưc dân. Thế là quãng
cuộc đời nghèo khổ nhưng bình yên của Chí cứ thế mà kết thúc một cách nhanh chóng.
Chí đi tù ra cánh cửa của nhà tù thực dân đã nhuộm đen tâm hồn chí. Anh không
còn là một chàng thanh niên khỏe mạnh lương thiện nữa mà trở thành một con quỷ dữ.
Người dân cứ thấy anh ở đâu là tránh xa. Nam Cao đã thành công khi miêu tả ngoại hình
Chí Phèo ở tù ra. Nào là cái răng trắng hếu, cái đầu cạo trọc lóc, cái mặt thì cong cong
lên, hai mắt gườm. Trang phục mà Chí mặc trên người là chiếc quần nái đen và cái áo tây
vàng.
Không những thế hình ảnh ông tướng cầm chùy còn được xăm ở cánh tay hắn.
Vậy là hắn trông chẳng còn vẻ gì là một người lương thiện nữa rồi. Từ đây cuộc đời Chí
trải dài trên những cơn say, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, rạch mặt ăn vạ trong lúc
say. Chí trở thành một tay sai đắc lực của Bá Kiến. Và kết cục thì Chí vẫn cứ không được
làm người. cho đến khi chết thì cả làng Vũ Đai cũng không ai coi Chí là người cả. Đó
phải chăng là bi kịch tinh thần đau đớn nhất mà một con người phải gánh chịu. Sống là
kiếp con người mà cũng không được trọn kiếp con người.
Không chỉ nói lên quy luật người nông dân lương thiện bị tước quyền làm người
nhà văn còn tố cáo mạnh mẽ chế độ thực dân phong kiến đã cướp đi quyền làm người của
những người nông dân lương thiện. Xã hội ấy đã biến Chí thành một con quỷ dữ và tuyệt
đối không cho Chí quay lại làm người. Chí chỉ còn có cái chết để kết thúc cuộc sống quỷ
dữ ấy chứ không thể nào trở lại làm người được.
Ngoài giá trị hiện thực sâu sắc tác phẩm còn lấp lánh những giá trị nhân đạo cao
cả. Giá trị nhân đao chính là cái nhìn hướng thiện của con người, nhìn vào những điểm
tốt của con người, yêu thương con người và hướng cho họ đến một tương lai tươi sáng
hơn.
Thứ nhất giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua sự đồng cảm của nhà
văn dành cho nhân vật của mình. Nhà văn miêu tả Chí Phèo là một con quỷ dữ không
một chút thương tiếc, Nam Cao nhìn nhận vấn đề và nói thật vấn đề thế nhưng không
phải ông không thương nhân vật của mình. Nhà văn càng nói rõ cái tàn ác của Chí bao
nhiêu thì càng thể hiện được tấm lòng thương cảm sâu sắc bấy nhiêu. Bởi vì tô đậm được
cái xấu biểu hiện bên ngoài Chí là nhà văn tố cáo được xã hội tàn ác kia. Chính bởi đồng
cảm với số phận ấy cho nên nhà văn mới dành nhiều tình cảm cho Chí đến thế. Nam Cao
hiểu hết được những suy nghĩ của chí cả lúc say cho đến lúc tỉnh.
Thứ hai giá trị nhân đạo của tác phẩm là sự yêu thương con người. Nhà văn khẳng
định chính tình yêu thương con người sẽ sưởi ấm và làm trỗi dậy bản chất tốt đẹp trong
Chí. Có thể nói Thị Nở là một món quà mà nhà văn dành cho Chí. Cô ta là một người xấu
ma chê quỷ hờn ế chồng, mả hủi thế nhưng lại có công thức tỉnh Chí. Tình yêu dù là bồng
bột của Thị đã làm cho Chí kết thúc những tháng ngày say xỉn của mình. Đặc biệt là bát
cháo hành của Thị Nở càng làm cho Chí ấm lòng và thấy thị giống như là mẹ mình vậy.
Lần đầu tiên Chí khóc sau khi ra tù.
Thứ ba, nhà văn còn giúp chúng ta thấy được bản chất tốt đẹp của người nông dân
qua hình tượng Chí Phèo. Đồng thời nhà văn hướng cho nhân vật của mình đến một
tương lai tươi sáng hơn. Chí thức tỉnh và nhớ đến ước mơ giản đơn của mình.Đó là vợ
chồng có một ngôi nhà để ở hàng ngày chồng cuộc thuê cày mướn vợ ở nhà đan sợi nuôi
tằm. ước mơ ấy cho thấy Chí là một người nông dân rất lương thiện. Kể cả khi ra tù thành
quỷ dữ, Chí vẫn biết rung động trước một người đàn bà là Thị nở. Điều đó chứng tỏ Chí
biết yêu thương. Chí cảm động trước những hành động săn sóc của Thị. Chí khóc và
mong muốn Thi sang ở nhà Chí một nhà cho vui. Và cái viễn cảnh sẽ diễn ra giống như
ước mơ của Chí. Đó chẳng phải là bản chất tốt đẹp bấy lâu nay của Chí, và anh đang
hướng đến một tương lai tươi sáng hay sao?. Chí muốn làm hòa với mọi người và từ đó
phần người trong Chí được trỗi dậy. Ngay đến khi cái kết cục thảm khốc kia Chí vẫn cứ
khẳng định sự thức tỉnh và đòi quyền làm người của mình. Giá trị nhân đạo là ở đấy.
Chí Phèo trải qua biết bao thời gian đến nay vẫn là một tác phẩm được người đọc
yêu thích. Nó không hấp dẫn bởi những lời hoa mĩ sáo rỗng, không cầu kì nhân vật mà
chỉ với giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc Chí Phèo đã lôi cuốn biết bao nhiêu thế hệ
bạn đọc. Quả thật nhà văn Nam Cao đã có công rất lớn trong việc phản ánh số phận
người nông dân trong xã hội cũ.
BÀI MẪU SỐ 2:
Truyện ngắn Chi Phèo in lần đầu có tên là Cái lò gạch cũ (Nhà xuất bản Đời mới,
Hà Nội, 1941). Sau đó đổi thành Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày
(Hội văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), tác giả đặt lại tên truyện là Chí Phèo.
Đây"là thành công tiêu biểu của Nam Cao về đề tài nông dân, được đánh giá là một kiệt
tác trong giai đoạn văn học trước cách mạng tháng Tám. Nội dung truyện Chí Phèo phản
ánh xã hội nông thôn ở khía cạnh đấu tranh giai cấp.
Qua hình tượng Chí Phèo – một nông dân bị lưu manh hóa – Nam Cao đã miêu tả
chân thực và sinh động cuộc sống bị đè nén, bóc lột đến cùng cực của người nông dân và
khẳng định nhân phẩm của họ không bạo lực nào tiêu diệt được.
Suy nghĩ về số phận bi thảm của nhân vật Chí Phèo, người ta thường nói đó là tấn
bi kịch của một nông dân nghèo bị tha hoá trong xã hội cũ. Cuộc đời Chí Phèo là cuộc
đời khốn khổ của kẻ cùng đinh ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm
1945.
Ở phần đầu truyện, tác giả kể về tuổi thơ của Chí. Từ lúc lọt lòng, Chí đã bị mẹ bỏ
rơi trong cái lò gạch cũ giữa đồng. Rồi nó lớn lên như cây cỏ, bơ vơ, hết đi ở cho nhà này
lại đi ở cho nhà nọ. Không người thân thích, không một tấc đất cắm dùi, nó không được
ai ban cho một chút tình thương.
Nhưng điều bất hạnh lớn nhất của Chí Phèo là không được sống bình thường một
đời sống dù nghèo khổ nhưng lương thiện như bao người khác. Chí vốn là chàng trai
nông dân khỏe mạnh, hiền lành. Chỉ vì những cơn ghen bóng gió của lí Kiến mà Chí bị
đẩy vào tù. Bảy, tám năm đoạ đày trong tù, chung đụng với lớp người dưới đáy xã hội,
tâm hồn Chí đã bị nhuộm đen. Từ mặt mũi đến tính cách hắn đều trở nên dị dạng, đáng
sợ. Chí Phèo đã bị xã hội đương thời rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người,
biến thành con quỷ dữ để rồi bị gạt bỏ không thương tiếc ra khỏi cộng đồng làng Vũ Đại.
Chí Phèo là hiện thân của nỗi khổ đau khôn cùng: sinh ra là người mà không được
làm người. Để quên đi nỗi bất hạnh ấy, Chí Phèo uống rượu. Hắn say triền miên, bởi thế
hầu như hắn bị tê liệt về ý thức, sống mù tối trong kiếp sống thú vật. Nhưng đến khi tỉnh
rượu thì hắn lại cảm nhận sâu sắc thân phận bi đát của mình. Dường như trong những cơn
say triền miên, Chí Phèo vẫn tỉnh. Chí luôn ở trạng thái say – tỉnh bất phân. Sự độc đáo
của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó.
Mở đầu tác phẩm, tác giả không chỉ giới thiệu nét độc đáo, hấp dẫn trong tính
cách nhân vật mà còn hé mở cho người đọc thấy tình trạng bất hạnh của một số phận.
Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi… Chính lúc điên rồ
nhất cũng là lúc Chí Phèo tỉnh nhất. Cách thu hẹp dần đối tượng chửi cho thấy hắn tỉnh
chứ không say. Từ đối tượng xa xôi, vu vơ, không đụng chạm đến ai là trời: Bắt đầu hắn
chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào ? Đến đối tượng gần hơn là đời: Rồi hắn
chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức quá, hắn chửi tất cả
làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn và hắn giận dữ điên cuồng khi
không ai lên tiếng cả. Trong cơn say, hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thìa nỗi khốn
khổ của thân phận mình. Đó là nỗi khổ bị khinh bỉ, né tránh, ghẻ lạnh. Không có người
nào chịu chửi nhau với hắn. Không có ai thèm dây vào hắn. Có nghĩa là dân làng Vũ Đại
đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại là còn chịu giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí
Phèo chửi cả làng với hi vọng được nghe người nào đó chửi lại, nhưng hắn chi nhận được
sự im lặng đáng sợ. Hắn cô độc, chửi rồi lại nghe, chi có ba con chỏ dữ với một thằng say
rượu.
Nam Cao đau xót nhận xét: Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi. Nếu hát
được thì đau khổ sẽ vơi bớt. Khổ cho hắn và khổ cho mọi người là trời không phú cho
hắn giọng hát. Không biết hát thì hắn chửi, vậy những tiếng chửi rủa kia cũng là một bài
hát đặc biệt của riêng Chí Phèo chứ sao? Bài hát lộn ngược của một linh hồn méo mó và
đau khổ.
Trong cách chửi của Chí Phèo có cái lôgic của một tâm lí tỉnh táo – tỉnh táo trong
đau khổ cùng cực. Chí Phèo muốn cạy miệng thiên hạ nhưng không được. Hắn đau khổ
vì bị tẩy chay trong khi muốn hòa đồng với mọi người. Cuộc đời Chí Phèo có thể chia
làm hai chặng lớn: trước và sau khi gặp Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, đời Chí cũng diễn
ra hai chặng nhỏ mà cái mốc của nó là nhà tù. Nhà tù thực dân đã biến một chàng trai
lương thiện thành một tên lưu manh. Sau khi ra tù, Chí về làng thì cả thế lực hắc ám như
bá Kiến đã hoàn thành nốt cái công đoạn cuối cùng của quy trình tha hóa là biến một tên
lưu manh thành con quỷ dữ.
Nam Cao miêu tả cuộc đời Chí Phèo là một cơn say dài, và có lẽ hắn chưa bao giờ
tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở trên đời. Chí Phèo rơi vào một tình huống bi thảm. Lúc bấy
giờ, nếu sự tỉnh táo có hiện ra thấp thoáng sau những cơn say thì đấy mới là tỉnh rượu
chứ chưa phải tỉnh ngộ. Mà tỉnh rượu thì chưa mấy ý nghĩa. Chỉ sau khi gặp Thị Nở, Chí
Phèo mới có sự bừng tỉnh của lương tri. Hắn thực sự đau đớn vì đã ý thức được về nỗi
khổ của mình. Ý thức càng sâu sắc thì nỗi khổ càng thấm thía. Thị Nở đóng vai trò là một
bước ngoặt lớn trong cuộc đời mà trước nhất là trong tâm lí của Chí Phèo.
Trong một lần say rượu, vô tình Chí Phèo gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu xí
đần độn và quá lứa lỡ thì. Chút tình yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã khơi lên ngọn
lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng Chí. Đoạn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp
Thị Nở chứng tỏ Nam Cao là bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật.
Sớm hôm ấy, Chí Phèo bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài, lòng
mơ hồ buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót ríu rít, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi
cá, tiếng cười nói của những người đi chợ… Những tiếng quen thuộc đó hôm nào chẳng
có nhưng bấy lâu nay, Chí Phèo đâu có nghe thấy, bởi hắn luôn chìm ngập trong những
cơn say. Giờ đây, những âm thanh ấy vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi thiết tha
của sự sống, gợi dậy cái ước mơ chính đáng một thời: Hắn đã ao ước có một gia đình nho
nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn
liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm… Đó cũng là mong muốn một cuộc sống
hạnh phúc giản đơn của bao nông dân nghèo trong xã hội cũ.
Khi thấy Thị Nở bưng nồi cháo hành nóng hổi đến, Chí Phèo ngạc nhiên và xúc
động. Ăn bát cháo từ tay Thị Nở, hắn bỗng nhận ra rằng cháo hành rất ngon; bát cháo của
Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chi gây thù? Hương vị
cháo hành lúc này chính là hương vị của tình yêu thương chân chất, của hạnh phúc giản
dị mà lần đầu tiên trong đời Chí Phèo được hưởng.
Lần đầu tiên, mắt hắn như ươn ướt. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi
sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chi Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm
chém người? Lúc này, Chí Phèo đã trở tại con người thật của mình, trở lại là anh canh
điền chất phác, thật thà năm xưa.
Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần
người trong Chí cũng hồi sinh. Hắn khao khát được trở lại với cuộc đời bình thường: Trời
ơi Ị Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao Ị Thị Nở sẽ mở
đường cho hắn, sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại… Chí băn khoăn, háo hức
nghỉ tới một tương tai tốt đẹp: mọi người sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân
thiện của những người lương thiện.
Vậy Thị Nở là ai? Đó là hiện thân của tình người. Chỉ có tình người mới cứu
được tính người. Tình người là một sức mạnh nhưng tình người cùng thật mong manh.
Đối diện với một định kiến hà khắc, tình người rất dễ tiêu tan, Chút tình thương yêu của
Thị Nở không đủ khả năng để cứu Chí Phèo. Con đường trở lại làm người của Chí Phèo
vừa hé mở đã bị đóng sầm lại. Định kiến ghê gớm của xã hội (thông qua bà cô Thị Nở)
không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hi vọng. Chí Phèo một lần nữa lại bị hắt hủi, ruồng
bỏ phũ phàng. Bị từ chối, bị bỏ rơi, Chí Phèo đau đớn, uất ức cùng cực và lại mang rượu
ra uống.
Trạng thái tâm lí phức tạp của Chí Phèo ở đoạn này được Nam Cao miêu tả thật
sống động với những diễn biến tinh vi nhất bằng độc thoại bên trong, bằng hành động
bên ngoài, bằng lời bình trực tiếp của người kể chuyện… Tuy nhiên, độc đáo nhất vẫn là
dùng chi tiết. Đó là chi tiết hơi cháo hành. Hơi cháo hành là dư vị của tình thương ít ỏi
mà Chí Phèo đang rất cần, rất khát khao: Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại
càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoáng hơi
cháo hành…
Lần này khác mọi lần, càng uống vào Chí Phèo lại càng tỉnh ra. Rượu cũng bất
lực, không thể làm lương tri đau đớn của Chí Phèo tê liệt được. Hắn cứ ôm mặt khóc
rưng rức. Đã bao lâu nay hắn mới có được cử chi và những giọt nước mắt của con
người?! Từ hi vọng đến tuyệt vọng, khởi đầu là nước mắt cảm động khi hắn bưng bát
cháo hành trên tay và kết thúc lại là nước mắt đau khổ vì bị Thị Nở bỏ rơi. Vào lúc tuyệt
vọng nhất, hơi cháo hành cứ thoang thoáng khiến cho hắn chìm sâu hơn vào nỗi tuyệt
vọng. Sang bên kia dốc cuộc đời rồi mà lần đầu tiên hắn mới được ăn cháo hành. Muộn
màng, nhưng còn là có. Cháo hành tuy được nấu bằng bàn tay Thị Nở… nhưng dẫu sao
có còn hơn không. Đã tưởng đời mình từ nay đã có hơi cháo hành của riêng mình rồi, nào
ngờ Chí Phèo không có quyền được hưởng. Cuộc đời nhẫn tâm cướp nốt của hắn. Mất
Thị Nở, Chí mất luôn hơi cháo hành. Mất hơi cháo hành là mất cái hi vọng cuối cùng của
hắn vào cuộc đời này. Nhưng tại sao nó lại thoang thoáng hiện lên vào lúc này? Để trêu
ngươi, để chọc tức Chí Phèo chăng?! Nó cứ chờn vờn đâu đó. Hạnh phúc nhỏ bé ấy, hắn
ngỡ trong tầm tay nhưng không sao giữ được vì nó quá đỗi mong manh. Nó cứ thoang
thoáng hiện lên để làm cho Chí Phèo thêm tủi, thêm đau; để đẩy tấn bi kịch của hắn lên
đến tột cùng. Mất hơi cháo hành – tình thương đồng nghĩa với sự bấu víu cuối cùng cũng
hết. Chẳng còn gì để hi vọng nữa. Lòng Chí tan hoang!
Không gì bình thường đến vô nghĩa như hơi cháo hành, vậy mà qua cái nhìn và
tấm lòng nhân hậu sâu thẳm của Nam Cao, hơi cháo hành thoáng qua ấy đã hằn như một
vết cứa rớm máu trong tâm linh con người. Viết được như vậy chỉ có thể là bút lực tài
hoa của một thiên tài!
Bản chất lương thiện của Chí Phèo bị vùi lấp bấy lâu nay giờ đã trỗi dậy lương tri
con người đã trở về. Nhưng sự trở về của lương tri, trớ trêu thay, lại nhanh chóng đẩy bi
kịch tha hóa của Chí Phèo lên đến điểm đỉnh của nó. Từ tận cùng tuyệt vọng, Chí Phèo
đã chuyển sang tột cùng căm uất và hắn đã giắt dao đi… Cũng như mọi lần, Chí Phèo
vừa đi vừa chửi… Chí Phèo đau đớn vì tuyệt vọng, đồng thời hiểu rõ hơn bao giờ hết tội
ác của kẻ đã huỷ hoại đời hắn. Chí Phèo đã đến thẳng nhà bá Kiến, trợn mắt, chi tay vào
mặt lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình.
Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo ở cuối tác phẩm: Tao muốn làm người lương
thiện!… Ai cho tao lương thiện ?… Tao không thể là người lương thiện được nữa! Biết
không! Chi có một cách… biết không… Lời nói của Chí Phèo đanh thép và phẫn nộ, âm
điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đọc sững sờ và day dứt.
Kẻ thù đã bị đền tội nhưng ngay sau đó, Chí Phèo tự sát. Chí Phèo phải chết vì ý
thức nhân phẩm đã trở về, Chí không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú hoang. Chí Phèo
đã chết trước ngưỡng cửa trở về cuộc sống bình thường, chết trong tâm trạng bi kịch đau
đớn. Trước đây, để được tồn tại, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, phải bán linh hồn cho
quỷ dữ. Giờ đây, khi ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về thì Chí Phèo lại phải từ
bỏ cuộc sống của mình. Chí Phèo chết quằn quại giữa vũng máu trong niềm đau thương
tột độ vì mong ước giản dị, chính đáng và được làm người lương thiện không thể trở
thành hiện thực.
Chí Phèo chết nhưng chưa hết chuyện. Khi nghe tin hắn chết, Thị Nở nhìn nhanh
xuống bụng và thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không xa nhà cửa và vắng
người lại qua… Một “Chí Phèo con” sắp ra đời?! Nam Cao đã gióng một hồi chuông
cảnh báo: Còn những “cái lò gạch cũ” trong xã hội ấy thì vẫn còn có những Chí Phèo
khác ra đời. Nghĩa là tuy Chí Phèo đã chết nhưng bi kịch Chí Phèo vẫn còn, nếu không
xoá bỏ cái xã hội thối nát ấy đi.
Từ hình tượng Chí Phèo, tác phẩm toát lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu
sắc.
Thứ nhất là giá trị hiện thực. Câu chuyện là bức tranh phản ánh sự tha hoá của
người nông dân nghèo khổ dưới ách thống trị của thực dân phong kiến thời Pháp thuộc.
Phản ánh nỗi khổ của nông dân, Nam Cao không đi sâu vào nạn sưu thuế, nạn chiếm đoạt
ruộng đất, nạn tô tức, quan lại tham nhũng, thiên tai địch hoạ,..
mà ở truyện ngắn Chí Phèo, tác giả tập trung khai thác trên phương diện người,
nông dân nghèo bị bạo lực đen tối tàn phá về tâm hồn, huỷ hoại nhân tính, phu định giá
trị và tư cách làm người.
Chí Phèo phản ứng quyết liệt, gay gắt bằng thái độ ngang ngược, liều mạng, gây
gổ, chửi bới… Lúc nào hắn cũng say, lúc nào cũng sẵn sàng rạch mặt ăn vạ, kêu làng.
Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm. Hắn
biết đâu vì hắn làm tất cả lúc say, hắn say thì hắn làm bất cứ thứ gì người ta sai hắn làm.
Dân làng sợ hãi xa lánh và ghê tởm hắn. Từ anh Chí lương thiện, bị hai thế lực cường
quyền và định kiến làm cho tha hoá, đã biến thành Chí Phèo, con quỷ làng Vũ Đại. Chí
Phèo sống cũng như chết. Sinh ra ở làng Vũ Đại nhưng hắn lại bị chính dân làng Vũ Đại
từ chối, ruồng bỏ. Không những Chí Phèo khổ về vật chất mà còn phải sống kiếp sống tối
tăm như thú vật. Chí Phèo đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, bị cướp đi linh hồn
người để rồi bị loại khỏi cộng đồng xã hội.
Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách của nhân vật Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo
sự huỷ hoại ghê gớm của cái xã hội suy đồi đối với phẩm chất, nhân cách của người nông
dân cùng khổ.
Tác phẩm Chi Phèo là bức tranh phản ánh chân thực và sâu sắc bộ mặt nông thôn
Việt Nam trong xã hội thực dân, phong kiến trên bình diện đấu tranh giai cấp. Hành động
Chí Phèo vung dao đâm chết bá Kiến không phải là vô thức, càng không phải là vụ giết
người của gã Chí Phèo lưu manh mà cao hơn thế, đó là hành động lấy máu rửa thù của
người nông dân cùng khổ đã thức tỉnh về quyền sống, uất ức vùng lên. Nhà văn Nam Cao
đã khẳng định tính chất khốc liệt của mối xung đột giai cấp ở nông thôn là không thể hòa
giải được. Xung đột ấy càng nén xuống càng dễ bùng nổ. Mâu thuẫn giai cấp dường như
đã lên tới đỉnh điểm, cần phải được giải quyết theo chiều hướng tích cực nhất.
Hình tượng Chí Phèo còn thể hiện giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm. Nhà văn
Nam Cao đã phản ánh sự cùng cực không lối thoát của nông dân trong xã hội đương thời
bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo và sự thông cảm, thương xót chân thành. Nam Cao đi sâu
thể hiện tình cảnh khốn khổ của người nông dân nghèo bị áp bức, mà Chí Phèo là đại
diện.
Hổi trẻ, Chí là người thấp cổ bé họng nhất và cũng bị ức hiếp nhiều nhất ở làng Vũ
Đại. Càng ở hiền thì càng không gặp lành, Chí bị hắt hủi, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị
lăng nhục một cách bất công. Chí khốn cùng hơn cả hạng cùng đinh. Vốn hiền như đất,
nhưng càng hiền thì hắn lại càng bị đạp sâu xuống bùn đen và cuối cùng thì không còn
được coi là con người, phải sống kiếp thú hoang. Tuy nhiên, Chí Phèo vẫn mong muốn
được sống một cuộc đời bình thường, được hưởng hạnh phúc đơn sơ như mọi người.
Chất nhân văn thấm đẫm trong ngòi bút của nhà văn toát lên từ những chi tiết ấy.
Đoạn viết về sự thức tỉnh của tính người trong lương tri Chí Phèo sau đêm gặp
Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ, thể hiện tư tưởng nhân đạo cao cả của ngòi
bút Nam Cao: khi cái ác gặp tình thương thì nó sẽ được hoá giải và bản tính lương thiện
sẽ trở về.
Tư tưởng nhân đạo còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả điểm đỉnh tấn bi kịch tinh thần
của Chí Phèo. Tuy là con quỷ của làng Vũ Đại nhưng tính thiện trong con người Chí
Phèo chưa chết hẳn. Chí Phèo thà chết chứ quyết không chịu quay về kiếp sống thú vật
nữa. Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao muốn đặt ra một vấn đề lớn về quyền sống của
con người: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn
bạo, phi nhân tính đương thời? Đó là câu hỏi mà xã hội khi ấy chưa thể có lời giải đáp.
Nam Cao đã thành công xuất sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ để diễn tả
quá trình tâm lí phức tạp và khắc hoạ tính cách nhân vật vừa độc đáo vừa có ý nghĩa điển
hình cao độ. Với giá trị nội dung sâu sắc và giá trị nghệ thuật độc đáo, truyện ngắn Chí
Phèo được coi là một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn xuôi hiện đại và Nam
Cao xứng đáng là nhà văn hiện thực nổi tiếng của giai đoạn văn học trước Cách mạng
tháng Tám.
BÀI MẪU SỐ 3:
GIÁ TRỊ HIỆN THỰC
1. Phản ánh những vấn đề cơ bản của xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách
mạng tháng 8.
a. Mối quan hệ của nội bộ giai cấp thống trị, những bè cánh địa chủ cường
hào.
-Một mặt chúng đối nghịch với nhau. Vì bọn chúng là một “quần ngư tranh thực”,
mồi thì ngon mà bè nào cũng muốn ăn. Do đó chúng luôn rình cơ hội để trị nhau, mong
cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ nhau.
- Mặt khác chúng du lại với nhau để bóc lột người nông dân.
=>Phản ánh ý thức tranh chấp và giành địa vị bá chủ trong làng xã.
b.Mâu thuẫn giai cấp đối kháng, gay gắt giữa bọn địa chủ cường hào thống
trị với những người nông dân bị áp bức, bóc lột.
Tiêu biểu là mâu thuẫn giữa bá Kiến với Chí Phèo.Bá Kiến là một tên địa chủ
khét tiếng xảo quyệt, tàn ác, lão biết dùng những phương châm trị dân được đúc kết từ
mấy đời là tổng lí để đối phó với dân lành và cả với những người cùng hơn cả dân cùng.
Lão đã đẩy những người lương thiện, lao động chân chính vào con đường tội lỗi, thậm
chí là tha hoá và biến thành quỷ dữ, bị xã hội loài người coi khinh, xa lánh rồi chặn mọi
cánh cửa trở về với cuộc đời lương thiện của họ.
Mối mâu thuẫn này không thể điều hoà được phải giải quyết bằng những biện
pháp quyết liệt, dữ dội. Cả hai đều phải chết.
2. Hiện thực đời sống tăm tối, đau khổ của người nông dân, người lao động
lương thiện được thể hiện tập trung qua số phận của nhân vật Chí Phèo.
Chí là đại diện, điển hình cho bi kịch bị chà đạp cả nhân hình, nhân tính: từ một
ngwòi lao động lương thiện, bị tha hoá thành kẻ lưu manh và trở thành “con quỷ dữ của
làng Vũ Đại”, cuối cùng chết một cách thảm khốc trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống
lương thiện.
Cuộc đời Chí với cả chuối những khổ đau: tuổi thơ bất hạnh, tủi cực; nhờ lòng trắc
ẩn của dân làng, Chí lớn lên có lòng tự trọng và ước mơ giản dị nhưng Chí lại phải vào tù
mà khôgn rõ lí do; Chí ra tù thay đổi nhân hình nhân tính, biến thành kẻ lưu manh; rồi
Chí trở thành tay sai, thành công cụ gây tội ác tỏng tay Bá Kiến để trở thành con thú
hoang sống triền miên trong cõi say vứoi những hành động đạp phá, đâm chém để dân
làng phải xa lánh đến mưc Chí dùng tiếng chửi để đối thoại, để giao tiếp mà khôg ai đáp
lại; Chí gặp thị Nở và sống lại tất cả những năng lực của con người, năng lực nhận thức
và năng lực cảm xúc, tưởng chừng cuộc đời Chí sẽ ngoặt sang một quãng khác khi hắn
khao khát được trở về với xã hội laoì người, khi Chí đã ăn năn hối hận và có niềm tin để
sống lương thiện. Nhưng Chí lại bị thị Nở từ chối chung sống bằng tất cả sự giận dữ và
nhục nhà của bà cô thị, Chí rơi vào tình thế bi kịch rồi đến thảm kịch, Chí đi báo thù và
chết khi niềm khao khát lương thiện lên đỉnh cao nhất).
3.Cuộc sống tăm tối của những người nông dân thấp cổ bé họng, suốt đời bị
đè nén, áp bức.
Họ hiền lành suốt đời è cổ làm để nuôi bọn lí hào và luôn chỉ nghĩ đến sự yên ổn
của mình, ai biết người đấy, họ không thích những chuyện lôi thôi. (Khi Chí Phèo đến
chửi Bá Kiến, họ ùn đến xem rất đông những chỉ một câu nói ngọt ngào của Bá Kiến, họ
đã kính cẩn dãn ra và ai về nhà nấy để Chí Phèo “độc lực chọi nhau với Bá Kiến”. Khi
Chí Phèo say chửi tất cả nhưng ai cũng vô cảm thấy rằng “không hề gì” đến mình. Khi
chứng kiến cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến, họ cũng tuôn đến xem nhưng không ai tỏ
lòng thương xót.
=>Họ không phải là một thế lực, đồng thời cũng mất tình cảm đồng loại. Thị Nở là
người yêu duy nhất của dời Chí, người duy nhất trong làng Vũ Đại thấy Chí hiền, coi Chí
là người, dám giao tiếp, đi lại với Chí và chăm sóc Chí và “gần gũi” với Chí cũng ái ngại
lo sợ nếu mình không may mang mầm mống của Chí Phèo tron bụng. Người dân làng Vũ
Đại không hề biết Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát là do ý thức người đã trở về, do khát
vọng cháy bỏng được làm người lương thiện, không biết rằng Chí đã phải đổi cả mạng
sống của mình để được lương thiện nên họ vô cảm, thờ ơ trước cái chết của Chí.
4. “Chí Phèo” đã khái quát hiện thực mang tính quy luật trong xã hội cũ:
Có áp bức, có đấu tranh, đấu tranh tự phát thường dẫn đến kết cục bi thảm. Và
những cuộc đấu tranh như thế này chưa thể kết thúc được vì “tre gài măng mọc”. Bá Kiến
chết còn Lí Cường, còn nhiều tên cường hào ác bá khác thì còn những “hiện tượng Chí
Phèo” và còn những cuộc đấu tranh tự phát…
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO
1.Niềm cảm thương sâu sắc đối với những số phận khổ đau, bất hạnh như Chí
Phèo, thị Nở:
-Chí Phèo và thị Nở đều là những con người khốn khổ, bị cộng đồng xa lánh, ghê
tởm.
+Chí Phèo là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. trong nỗi cô đơn thê thảm, sự cô đơn
tuyệt đối, Chí dùng tiếng chửi để đối thoại, để giao tiếp với cộng đồng mà không được.
Chí chửi tất cả, từ những đối tượng khái quát, trừu tượng đến những đối tượng gân gũi,
cụ thể hơn. Chí chửi rủa cả người đẻ ra Chí, nguyền rủa sự tồn tại củ chính mình. Tiếng
chửi của Chí hướng đến cả xã hội thực dân phong kiến lúc ấy, cái xã hội đã đẻ ra Chí
Phèo. Đó là sự phản kháng bất lực và tuyệt vọng của Chí với cuộc đời. Nỗi cay đắng
tuyệt vọng của Chí lên đến đỉnh điểm khi Chí đã thức tỉnh nhân tính muốn thực hiện ước
mơ thời lương thiện với thị Nở nhưng lại bị thị Nở từ chối. Đau đớn tột đỉnh khi nhận ra
cuộc đời không chấp nhận mình, Chí đã phải chết.
+Còn thị Nở thì hiền lành, chẳng có thể làm hại ai nhưng vẫn bị cộng đồng xa
lánh, họ tránh thị “như tránh một con vật gì rất tởm”. Nhưng thị có tình cảm đồng loại, có
tình yêu thương con người. Từ khi Chí Phèo đến ở vườn chuối ven sống, dân làng không
ai dám đi qua đó ra sông lấy nước nứa, người ta đã tìm một lối đi khác dù có xa hơn
nhưng thị Nở vẫn đi qua vườn chuối nhà Chí để ra sông. Thị không sợ Chí Phèo, thị còn
sang nhà hắn xin lửa hay xin rượu nữa. Thị còn nhận ra Chí Phèo hiền lành, vì chẳng làm
hại gì đến thị, thị sẵn sàng chăm sóc Chí khi hắn ốm. Thị yêu Chí thật và cũng muốn sống
chung với Chí nhưng bị bà cô ngăn cản, bị định kiến nghiệt ngã của xã hội ngăn cản.
=> Qua đó, Nam Cao cho thấy nỗi khổ của con người vừa do sự tàn bạo của xã
hội vô nhân tính đem đến vừa do những định kiến khắc nghiệt, vô lí của xa hội làm nên.
2. Khẳng định, đề cao nhân tính, đề cao con người.
-Xã hội tàn bạo đã vúi dập nhân hình nhân tính, đã vò nát bộ mặt người, đã bóp
nát linh hồn người, đã biến Chí Phèo thành quỷ dữ nhưng không thể giết chết bản chất
lương thiện của Chí Phèo. Sống trong làng Vũ Đại khô héo tình người nhưng Chí không
cạn tính người. Nhân tính của Chí ngày thường bị che lấp bởi vỏ ngoài của một thằng
say. Nhưng khi được tình người chạm đến, nhân tính ấy bừng dậy mạnh mẽ.
+Chí Phèo vô tình gặp thị Nở trong một đêm trăng trong vườn chuối nhà hắn, thị
Nở đã đánh thức bản năng ở Chí và quan trọng hơn thị đã đánh thức lương tri của Chí.
Sau đêm gặp thị Nở, Chí Phèo sống dậy những cảm xúc nhân tính: Chí bâng khuâng cảm
nhận vẻ đẹp tươi của cuộc sống, thấy nó đối lập với không gian ẩm thấp, u ám trong căn
lều của hắn; hắn nghe thấy nhịp sống của những con người bình dị mà sống dậy ước mơ
thời quá khứ, nhận ra tình trạng hiện tại của mình và trông rõ cả tương lai. Chí đã nhận ra
chính mình, Chí thấy yêu cuộc sống của con người vô cùng. Chí thấy mình già mà còn cô
độc mà điều hắn sợ nhất lầ sự cô độc. trước đây, dù trong cõi say, dù khi là quỷ dữ Chí
cũng đã thấm thía nỗi cô độc rồi, bây giờ nhân tính trở lại, Chí càng sợ sự cô độc.
+ Chí xúc động khi được thị Nở chăm sóc, Chí ăn cháo hành, Chí nhìn thị cười và
thị giục hắn ăn cho nóng, hắn cảm nhận được tất cả sự nồng ấm của tình người.
=>Nam Cao đã phát hiện ra vai trò quan trọng của tình ngườitrong việc đánh thức
và khơi dậy nhân tính ở Chí, trong việc bảo tồn và phát triển nhân tính trong cộng đồng
người, trong cuộc đời nói chung.
-Thị Nở tuy bề ngoài xấu xí, dở hơi, ngẩn ngơ nhưng thị là một cn người đích
thực. Ở thị có cái nghĩa giản dị mà thiêng liêng không mấy ai có được trong cái làng Vũ
Đại ấy. Thị đã chăm sóc Chí khi hắn ốm. thị có trách nhiệm với Chí, có suy nghĩ rất sâu
sắc: “mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc, dù sao đã ăn nằm với nhau như vợ chồng”.
-Nam Cao khẳng định sức mạnh, sức sống của nhân tính. Cái chết của Chí Phèo
thể hiện điều đó. Khi Chí Phèo thức tỉnh nghĩa là hắn không thể phá phách hay đâm chém
được nữa, nghĩa là hắn không chấp nhận sống cuộc sống của quỷ dữ. Trước đây, để tồn
tại, Chí phải sống trong u mê tăm tối của kiếp thú vật. Khi lương tri trở lại, Chí lại phải
đổi cả mạng sống. Lúc này, với Chí, khao khát được làm người lương thiện cao hơn cả
sinh mạng của mình. Chí phải chết vì cánh cửa lương thiện của cuộc đời không chịu mở.
Chí chết đã không phải thoả hiệp với nhưng tên Bá Kiến, với bọn cường hào địa chủ, với
giai cấp thống trị tàn ác. Chí phải chết để không làm chảy máu và nước mắt của dân làng,
của nhưg người đã từng yêu thương đùm bọc Chí, của những người đã từng cho Chí lớn
lên để Chí mang tất cẩ những phẩm chất trong sáng của một người lương thiện, để Chí có
lòng tự trọng, có ước mơ trong sáng, chính đáng.
3.Nam Cao phê phán những thế lực bạo tàn chà đạp con người.
-Cái chết của Chí Phèo đã đanh thép tố cáo tội ác của xã hội tàn nhẫn, vô nhân
đạo, xã hội đa tiêu diệt đến tận cùng quyền sống, lẽ sống của con người.
-Khi sinh ra Chí Phèo đã bị bỏ rơi bên lề cuộc sống, phải nhờ lòng trắc ẩn của
người đời. Khi Chí lớn lên, muốn sống với ước mơ giản dị, chính đáng, biết rằng sự bền
vững của cuộc sống avf hạnh phúc là phải do chính bàn tay mình làm nên, thế những Chí
bị đẩy vào nhà tù mà không được biết lí do. Khi Chí ra tù thì bị xoá tên ra khỏi xã hội loài
người. Khi Chí thức tỉnh lương tri, muốn được sống lương thiện thì cuộc đời không chấp
nhận Chí, hắn phải chết một cách bi thảm ngay trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của con
người, cuộc sống lương thiện mà Chí khát khao cháy bỏng.
4. Nam Cao đề ra giải pháp mang tính nhân đạo, mang ý nghĩa hiện thực và
triết lí sâu sắc: lật đổ xã hội tàn bạo để bảo toàn nhân tính của con người.
-Hành động dữ dội của Chí Phèo là đâm chết Bá Kiến đã dự báo sự đối đầu gay
gắt cần giải quyết: ngwòi lương thiện phải đứng dậy trả thù quyết liệt để giành lại quyền
sống lương thiện. Điều đó cũng mang ý nghĩa sâu sắc: khi nào xã hội có lương thiện, có
tình người, cái ác không còn thì con ngwoù mới được sống một cách ứng đáng.
-Trong tác phẩm này, Chí Phèo đã đến nhà Bá Kiến 3 lần. Lần thứ nhất đến chửi,
lần thứ hai đến xin đi ở tù và lần thứ ba đến đòi lương thiện. Hí lần trước thì Chí được
sống, bởi Chí sẽ là công cụ, là tay sai trong tay Bá Kiến. Nhưng lần thứ 3 thì Chid phải
chết. Bởi xã hội có nhiều kẻ tàn bạo vầ xảo quyệt như Bá Kiến mà Chí lại đồi lương
thiện, đòi cái mà xã hội ấy không có, cái mà ã hội ấy muốn tàn phá, huỷ diệt. Chí chết là
tất yếu.
=>“Chí Phèo” là một tác phẩm văn học chân chính như trong quan niệm của Nam
Cao: “Tác phẩm văn học có giá trị là tác phẩm phải thể hiện nỗi đau của con người, nó ca
tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn”.
-“Chí Phèo” khẳng định tậm vóc của nhà văn Cam Cao: khả năng khái quát hiện
thực và tư tưởng nhân đạo.
BÀI MẪU SỐ 4:
1. Mở bài
Là nhà vãn trung thành với chù nghĩa chân thực, cũng như các cây bút tả chân
đương thời, Nam Cao quan tâm trước hết tới việc đi sâu thể hiện tình cảm khốn khổ của
người nghèo bị áp bức, trong đó có tác phẩm Chí Phèo. Tác phẩm tượng đậm nét về bức
tranh đời sống xã hội nông thôn. Đó là hệ thống trật tự của làng Vũ Đại: là ấn tượng về
tình trạng khép kín của làng xã phong kiến. Đặc biệt nó đã phơi bày các mối quan hệ xã
hội phức tạp của hiện thực đã miêu tả trung thực những quan hệ thực. Đồng thời là tình
thương đối với những con người bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, bị hắt hủi... Đó
chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của Chí Phèo.
2. Thân bài
Nam Cao được coi là Nhà văn của nông dân trước hết vì có tác phẩm Chí Phèo
Tác phẩm có phạm vi phản ánh hiện thực trải ra cả bề rộng không gian và bề dài thời
gian. Làng Vũ Đại trong tác phẩm chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt
Nam đương thời.
Ngòi bút Nam Cao tỏ ra sắc sảo khi vạch ra mối quan hệ thực trong nội bộ bọn
cường hào. Chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế quần ngư tranh thực như lời ông
thầy địa lí nói nên bọn cường hào chia năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà do chúng là
một đàn cá tranh mồi, mồi thì ngon đây, nhưng năm bè bảy mối. Ngoài mặt tử tế với nhau
nhưng trong bụng muốn cho nhau lụn bại. Đây là hiện tượng có tính quy luật ở nông
thôn, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội - ruồi muỗi phải chết oan uổng khi trâu bò
húc nhau.
Dựng nên bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật
xung đột giai cấp giữa địa chủ cường hào với người nông dân bị áp bức – phản ánh hiện
thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó làm nên giá trị nhận thức và sức
mạnh phê phán to lớn.
- Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình về giai cấp thống trị ở nông thôn: Bá
Kiến - lão cường hào cáo già với giọng quát rất sang, cái cười Tào Tháo cho thấy bản
chất gian hùng, khôn róc đời. Và tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ thói ghen tuông. Bá
Kiến nghiền ngẫm về nghề thông trị, rút ra phương châm: mềm nắn, rắn buông, bám
thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều
thân... Với chính sách: lấy thằng đầu bò trị thằng đầu bò, thu dụng những thằng bạt mạng,
không sợ chết, không sợ đi tù.
- Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, tô tức, tham nhũng mà ở Chí Phèo Nam
Cao đi vào phương diện: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn hủy diệt về nhân
cách, bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo không phải ở chỗ cuộc
đời Chí Phèo chỉ là số không: Không nhà cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích,
không tấc đất cắm dùi... mà chính ở chỗ Chí Phèo bị xã hội rạch nát bộ mặt, cướp đi linh
hồn, bị loại khỏi xã loài người, sống kiếp quỷ dữ.
- Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng vừa đi vừa chủi. Nhưng
đằng sau chân dung gã say rượu cái gì như là sự vật vã của một linh đau đớn, tuyệt vọng.
Tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Tuy nhưng vẫn mơ hồ thấm thìa nỗi khổ
của thân phận. Chí Phèo là điển hình một bộ phận cố nông bị đẩy vào con đường lưu
manh hóa. Chí Phèo trước hết hiện tượng có tính quy luật của tình trạng áp bức bóc lột
tàn bạo ở nông thôn Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là hiện tượng những người nông dân bị đè
nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng việc bán cả nhân phẩm đã trở thành lượng
mù quáng dễ dàng bị bọn thống trị lợi dụng. Vì thế, Chí Phèo từ chỗ liều chết với bố con
lão, chỉ cần lời nói và mấy hào chỉ trở thành tay say mới lão. Sức mạnh tố cáo to lớn của
hình tượng Chí Phèo trước hết đã làm nổi hình tượng có tính quy luật diễn ra ở nông thôn
- hiện tượng lưu manh hóa. Song ý nghĩa khái quát của hình tượng Chí Phèo còn ở cấp độ
cao hơn: sự hủy diệt nhân tính trong xã hội độc ác, không cho con người được làm người.
Tác phẩm Chí Phèo không dừng ở đó mà với câu chuyện về mối tình Chí Thị,
bằng giọng vẫn bông lơn, có lúc như chế giễu chuyện tình của hạng nửa người nửa ngợm
thì đây vẫn là chuyện có nội dung nghiêm túc, chứa đựng tư tưởng nhân đạo mới mẻ.
- Giữa lúc cả làng Vũ Đại không chấp nhận giao tiếp, xem Chí như quỷ dữ thì một
người đàn bà thuộc dòng giống mả hủi, xấu đến ma chê quỷ hờn lại có tấm lòng vàng,
thấy Chí hiền lành, Thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí ở đáy sâu của tha hóa thức tỉnh
bản chất người lao động. Bằng sự chăm sóc giản dị, tình yêu thương mộc mạc mà chân
thành của người đàn bà khốn khổ đã khơi dậy linh hồn Chí Phèo. Chí nghe thấy những
âm thanh cuộc sống thường ngày mà bây lâu nay vùi trong những cơn say nên Chí không
biết đến. Nó vang động sâu xa trong lòng Chí, trở thành tiếng gọi cuộc sống khẩn thiết,
làm Chí nhớ đến ước mơ ngày nhỏ ngày xưa. Có lẽ đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm
Chí tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Để rồi nhận ra sự tác oai, tác quái của mình bấy
lâu nay. Và mong muốn : giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?... Hay mình sang ở với tớ một
nhà cho vui? Khi Thị Nở bê bát cháo hành đến hắn ngạc nhiên bởi đây là lần thứ nhất hắn
được một người đàn bà cho. Hắn nhận ra hương cháo hành - hương vị tình yêu thương
chân thành, hạnh phúc giản dị mà có thật. Hắn thèm lương thiện, làm hòa với mọi người.
Tình yêu của Thị Nở cũng sẽ hé ra cho hắn con đường trở lại tình yêu chân chính đã nhân
đạo hóa con người. Chẳng phải tình yêu có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí đã gọi
dậy linh hồn người trong con quỷ dữ đó sao?
Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo: bi kịch của con
người bị từ chối không được làm người. Khi hiểu ra xã hội không công nhaanh mình, bà
cô Thị Nở - định kiến xã hội đã không chấp nhân cho cháu bà đến với Chí. Chí vật vã đau
đớn. Hắn càng uống càng tỉnh , hắn ôm mặt khóc rưng rức. Chí quằn quại, đau đớn vì
tuyệt vọng, thấm thìa về tội ác kẻ thù. Chí Phèo trợn mắt chỉ tay vào Bá Kiến đòi quyền
làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát. Kẻ thù bị đền tội, và sau đó Chí tự sát. Chí
phải chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, không chấp nhận kiếp thú vật. Chí Phèo chết
giữa ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Chí chết quằn quại trong vũng máu, trong khao khát
được làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện là lời nói đanh thép, phẫn nộ, làm
người đọc sững sờ và day dứt. Đó vẫn là một câu hỏi lớn không lời đáp.
3. Kết bài
Chí Phèo của Nam Cao được đánh giá cao chính ở giá trị tố cáo. Thông qua số
phận Chí Phèo, Nam Cao phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bây giờ thực
trạng người nông dân bị đày đọa, đề nén và âm thầm chịu đựng nỗi tuyệt vọng, liều lĩnh
phản ứng cực đoan. Nam Cao cũng bày tỏ niềm cảm thông, tình thương yêu đối với
người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, phát hiện ràn chất tốt đẹp vốn có
của họ. Song cũng như các nhà văn hiện thực đồng thời, chưa tìm được cho nhân vật của
mình lối thoát. Sau này, bằng con đường cách nạng. Tô Hoài, Kim Lân đã tìm cho nhân
vật mình một hướng đi riêng.

You might also like