You are on page 1of 11

CHÍ PHÈO

MB:
1.Là nhà văn luôn trăn trở về cách sống và cách viết, Nam Cao từng quan
niệm:"Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo 1 vài kiểu
mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có." Với quan niệm sáng tác
ấy, Nam Cao đã có những khám phá, phát hiện độc đáo khi phản ánh hiện thực.Có
thể xem Chí Phèo là 1 minh chứng tiêu biểu cho quan niệm sáng tác ấy của Nam
Cao. Ở tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng được 1 điển hình bất hủ về người nông
dân lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường tha hóa lưu manh- nhân vật Chí
Phèo.Trong đó, những trang văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo từ khi gặp Thị
Nở là những trang văn đặc sắc, thể hiện chiều sâu tư tưởng nhân đạo của ngòi bút
Nam Cao.

2. Khi văn đàn văn học hiện thực phê phán 1930-1945 đã có Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan, Nguyên Hồng…là những vì sao chói lọi, nổi bật và tiêu biểu cho bầu
trời văn học thì Nam Cao bắt đầu xuất hiện. Nhà văn trẻ tuổi ấy đến sau biết bao
cây bút tên tuổi mà không bị chìm lấp đi, trở thành đại diện tiêu biểu xuất sắc nhất
của giai đoạn cuối 1930-1945. Sở dĩ đạt được vị trí trang trọng như thế Nam Cao
đã viết văn với ý thức trọn vẹn và thấm thía thiên chức của nghệ thuật như Nguyễn
Minh Châu từng nhận định rằng “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công
việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ bị cái ác hoặc
số phận đen đủi dồn đến chân tường bênh vực cho những con người không còn
được ai bênh vực”. Đọc những trang văn của Nam Cao mỗi chúng ta đều “giật
mình” tự vấn lương tâm, sám hối để hoàn thiện nhân cách làm một “con người”.
Trong những đóng góp mang tầm khái quát thời đại của nhà văn này không thể
không nhắc đến việc xây dựng nhân vật điển hình Chí Phèo trong tác phẩm cùng
tên là đại diện tiêu biểu cho nỗi khổ về vật chất và nỗi đau về tinh thần của người
nông dân An Nam trong hoàn cảnh thuộc địa. Một tác phẩm đã có thâm niên hơn
nửa thế kỉ tồn tại, mọi vấn đề dường như đã được lật xới nhưng ý nghĩa của nó đã
vượt qua “sự băng hoại của thời gian” để hậu thế về sau vẫn còn nhiều bài học cần
phải suy ngẫm về con người, cuộc sống. Trong đó, những trang văn viết về sự thức
tỉnh của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở là những trang văn đặc sắc, thể hiện chiều
sâu tư tưởng nhân đạo của ngòi bút Nam Cao.
TB:
Truyện ngắn “Chí Phèo” ban đầu có tên là “Cái lò gạch cũ” – một hình ảnh thể
hiện cho sự quẩn quanh, bế tắc của người nông dân nhưng chưa thể hiện một cách
đầy đủ và sâu sắc về vấn đề có ý nghĩa lớn lao của tác phẩm. Đó là tiếng nói đòi
quyền sống, đòi lương thiện của con người. Sau đó nhà xuất bản tự ý đổi tên thành
“Đôi lứa xứng đôi” – một nhan đề rơi vào chủ nghĩa tự nhiên, làm giảm đi tư tưởng
nhân đạo mà tác phẩm hướng tới. Đến năm 1946, khi Nam Cao đổi lại thành “Chí
Phèo”, người đọc mới thấy rõ được ý nghĩa nhan đề. Tên tác phẩm cũng chính là
tên nhân vật chính, nhân vật điển hình cho một bộ phận người nông dân bị đẩy vào
con đường lưu manh hóa mà nhà văn cương quyết bảo vệ. Truyện viết về một đề
tài quen thuộc là người nông dân trước cách mạng nhưng ở mảnh đất đã được cày
xới rất kĩ càng, Nam Cao lại có sự sáng tạo rất mới, rất riêng, bởi lẽ ông quan
niệm: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài
kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm
tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (“Đời thừa” –
1943). Nếu như trước đó Nguyễn Công Hoan hay Ngô Tất Tố khi viết về cái đói,
cái nghèo, họ thường xoáy sâu vào nỗi khổ đời sống vật chất thì Nam Cao với
truyện ngắn “Chí Phèo” lại khai thác nỗi khổ về đời sống tinh thần. Dười ngòi bút
tỉnh táo, sắc lạnh nhưng cũng thấm đượm tình người của mình, Nam Cao đã đã
khám phá và khẳng định bản chất lương thiện đẹp đẽ- vẻ đẹp còn sot lại của người
nông dân ngay cả khi họ bị vùi dập đến mất cả nhân hình lẫn nhân tính mà điển
hình đó chính là nhân vật Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
1.ND tóm tắt đoạn trước đoạn cần phân tích
Lật lại trang đời của Chí Phèo ta sẽ thấy hoàn cảnh của Chí thật đáng thương.
Hành trang vào đời của Chí là một con số không tròn trĩnh: ngay từ khi mới ra đời,
Chí đã bị bỏ rơi bên chiếc lò gạch cũ rồi được dân làng nhặt về nuôi nấng, từ anh
đi thả ống lươn đến người đàn bà góa mù sau đó là bác phó cối. Từ khi bác phó cối
chết, Chí bơ vơ một mình, đứa trẻ bị bỏ rơi ấy có những tháng ngày tuổi thơ bất
hạnh, cơ cực, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Trước khi trở thành “con
quỷ” làng Vũ Đại, Chí cũng từng là người lương thiện. Chàng trai 20 tuổi khỏe
mạnh, rắn rỏi đã bị Bá kiến hãm hại và bị bắt vào tù chỉ vì cơn ghen tuông vô lôi .
Nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành con người hoàn toàn khác hẳn. Chỉ vỏn vẹn
7, 8 năm ở tù mà anh canh điền khỏe mạnh ngày xưa đã trở thành một tên lưu
manh nát rượu, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Ở tù về hình hài của Chí thật méo mó, quái dị.Rõ ràng đây không phải dáng vẻ của
một người hiền lành, lương thiện ngày xưa mà là dáng vẻ của một kẻ côn đồ lưu
manh, du thủ du thực. Không những thế khuôn mặt Chí sau biết bao nhiêu lần đâm
thuê chém mướn, rạch mạch ăn vạ, say khướt trong rượu đã biến dạng, bị hủy hoại
đến mức không còn là con người. Chí giờ đây mang bộ mặt của một con vật lạ, bị
đẩy ra khỏi thế giới loài người, hắn vừa lạc loài với vật, vừa quái đản với người,
thử hỏi còn gì đau đớn hơn?
Hủy hoại về nhân hình đã đành, nhưng xã hội ấy đâu có buông tha cho riêng ai,
đến cả nhân tính của mình, Chí cũng không còn giữ nổi.Sau khi ra tù, Chí làm tay
sai cho Bá Kiến hay chính xác là làm tay sai cho bọn địa chủ phong kiến thực dân.
Cứ tưởng Chí Phèo sẽ mãi sống kiếp thú vật, rồi kết thúc cuộc đời bằng cách vùi
xác ở một xó xỉnh nào đó. Nhưng bằng tài năng và bằng trái tim nhân đạo của một
nhà văn lớn, Nam Cao đã tìm thấy trong con người bị tha hóa ấy là khát khao cháy
bỏng được hoàn lương, được trở về sống kiếp người một cách tự nhiên, Ông soi rọi
thứ ánh sáng tình yêu vào tận đáy tâm hồn của con quỷ dữ làng Vũ Đại, nhờ cuộc
gặp gỡ với Thị Nở. Chí hồi sinh nhân tính sau đêm gặp Thị Nở. Đó không chỉ là sự
thức tỉnh về sinh lý mà còn là sự thức tỉnh về mọi mặt trong ý thức làm người của
Chí. Chính hơi ấm tình người, sự mộc mạc chân thành của thị đã thức tỉnh Chí. Bởi
chỉ có Thị nhận ra “hắn lành như đất”, chỉ có thị dám gần gũi hắn cho hắn biết hắn
vẫn là người. Và điều đặc biệt trước tiên là Thị đã đánh thức Chí ,Sau bao năm
triền miên trong cơn say, lần đầu tiên Chí tỉnh táo.
*Tỉnh rượu
Tỉnh dậy sau đêm say sưa gặp Thị Nở, điều đầu tiên Nam Cao để cho Chí nhận ra
ấy là thực tại của bản thân mình. Chí bắt đầu mở rộng các giác quan để đón nhận
cuộc sống với đầy đủ ánh sang, âm thanh sau một trận ốm thập tử nhất sinh. Chỉ
nhận ra” trời sáng đã lâu” và” nắng ngoài kia chắc là rực rỡ”, cảm giác có vẻ vẫn
mơ hồ nhưng đó là sự tiến bộ vượt bậc của Chí bởi trước đó Chí chẳng hề biết,
chẳng cần quan tâm tới thời gian sáng hay tối. Hắn nhận ra mình đang sống trong
một túp lều, túp lều mà hắn đã phải đánh đổi bằng máu, bằng lương tri, làm tay sai
cho bá Kiến mà có được. Một túp lều ẩm thấp, tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều
lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Đây không phải nơi ở của con
người, nó là địa ngục trần gian mà Chí đang chết dần chết mòn trong đó. Vậy mà
chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi Chí Phèo chưa bao giờ hết say. Đây là lần
đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy. Hắn bắt đầu cảm nhận
được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm xúc của một con người. Lần
đầu tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu. Hắn thấy “bâng khuâng” vì dường như
mình được sống lại trong hình hài con người. Thực sự đó là một sự kiện trọng đại
trong đời Chí. Hắn lắng nghe tiếng nói của cơ thể với những cảm giác rất thực
“thấy miệng đắng”, “chân tay bủn rủn” và “lòng mơ hồ buồn”. Đó là dư âm của
trận ốm đêm trước nhưng cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh cho sự xuống dốc về sức
khỏe của hắn. Hắn nghĩ hay là mình đang đoi rượu nhỉ?. Nhưng hôm nay sao mà
khác lạ quá, hắn nghĩ đến rượu mà thấy hơi rùng mình. Ruột gan hắn cứ nôn nao
hết cả lên. Lần đầu tiên trong cuộc đời của Chí, hắn thấy sợ rượu. Trước đó, khi
vừa ra tù, việc đầu tiên hắn làm là uống rượu, và từ đó rượu đã trở thành người bạn
tri kỉ của Chí. Ấy vậy mà, giờ đây hắn có cảm giác"sợ rượu như những người ốm
thường sợ cơm".Ôi sao mà khác lạ với thằng Chí Phèo của mọi ngày quá!
Tiếp đó, nhà văn để cho Chí Phèo cảm nhận được những thanh âm của cuộc sống:
“tiếng chim ríu rít, tiếng trò chuyện của các người buôn hàng, tiếng anh thuyền
chài gõ mái chèo đuổi cá…” Những âm thanh quen thuộc đó ngày nào chả có.
Nhưng đã bảy, tám năm trời nay, từ khi ra khỏi tù, lúc nào Chí cũng chìm trong
cơn say thì làm sao Chí nghe được. Cuộc đời của anh là những cơn say dài mênh
mông, vô tận, “tràn từ cơn say này sang cơn say khác…” đến mức “…Hắn ăn trong
lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say…Hắn làm tấtcả trong lúc người
hắn say…”. Thế đấy, đã bao giờ hắn tình để mà nghe những thanh âm của cuộc
sống thường nhật chứ. Đây là lần đầu tiên sau một giấc ngủ dài Chí nghe thấy
những thanh âm ấy. Những thanh âm của cuộc sống giản dị đã thức kéo thiên
lương trong anh, lòng anh bỗng mơ hổ buồn. Chao ôi buồn rồi lại nao nao buồn!
Cái buồn đó cứ như một cơn gió lúc thì ổ ạt lúc thì nhẹ nhàng. Những câu cảm
thán vừa chứa đựng tâm sự của Chí, một nỗi buồn đầy chất nhân văn,nỗi buồn gột
rửa tâm hồn tội lỗi của con quỷ dữ làng Vũ đại, vừa thể hiện nỗi đồng cảm xót xa
và thương mến của nhà văn trước cảnh đời bất hạnh ấy.

*Tỉnh ngộ

Và theo lẽ thường, khi tỉnh thức con người thường nhìn thấu suốt những sự việc
diễn ra trong cuộc đời mình.Chí cũng vậy, những âm thanh bình dị quen thuộc của
cuộc sống đã nhắc hắn về một thời quá khứ xa xôi mơ hồ:"Hình như có một thời
hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ.Chồng cuốc mướn cày thuê,vợ dệt
vải.Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào
ruộng làm". Mơ ước của Hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng suốt bao năm qua nó
vẫn chưa trở thành hiện thực. Thì ra, những ước mơ tốt đẹp của Chí Phèo không hề
bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn Chí.. Và
hiện tại lại càng không. khi nhìn về hiện tại, hắn thấy mình “già mà vẫn còn cô
độc” , hắn đã “ngoài 40 tuổi đầu…đã tới cài dốc bên kia của cuộc đời”, đã” chịu
đựng biêt bao chât độc, đày đoạ cực nhọc của cuộc đời Chúng nhắc Chí hiểu rằng
hắn không thể sống kiểu liều lĩnh nữa và khởi đầu cho một ước mơ cũng là một
điều thật khó khăn.Chí đủ sáng suốt để hiểu ra tình cảnh của mình, Chí cũng đủ trí
khôn để thấy tương lai mờ mịt của mình dù vẫn còn mơ hồ. Chí Phèo hình như đã
trông thấy trước tuổi già của hắn đói rét ,ốm đau và cô độc- cái này còn đáng sợ
hơn đói rét và ốm đau”. Khi tỉnh rượu Chí đã biết buồn, lo sợ và day dứt. Nam Cao
đã sử dụng một loạt các tính từ, động từ để diễn tả chuyển biến tâm lí tinh tế, phức
tạp của Chí Phèo. Đây là bước thức tỉnh đầu tiên của Chí, hắn đã có chuyển biến
tích cực từ quỷ dữ thành người cho thấy biệt tài phân tích tâm lí sắc sảo của Nam
Cao . Một con quỷ dữ tác oai tác quái dân làng với những hành động cướp giật và
dọa nạt ,nay đã biết sợ cô đơn, sợ tuổi già thì đó chính là một sự thức tỉnh đến triệt
để..Vì trước kia, hắn chả sợ ai, chả sợ bất cứ cái gì. Hắn chửi trời, chửi đời rồi khi
tức mình hắn chửi cả cái làng Vũ Đại, hắn chửi cả những người không chửi nhau
với hắn. Đặc biệt, hắn còn chửi cả nhà cụ Bá Kiến- người mà dân làng ai cũng phải
khép nép, cúi đầu cung kính. Nam Cao đã dùng các tình thái từ thể hiện sự phỏng
đoán không chắc chắn: "chắc là", "hình như" khi nói về những suy nghĩ và cảm
xúc của Chí. Phải chăng nhà văn muốn nói rằng sự thức tỉnh ấy vẫn còn chập chờn
trong men say hay đó chính là sự rụt rè, e ngại và mất tự tin của Chí khi muốn mon
men bước trở lại xã hội loài người. Hay Nam cao muốn dự báo rằng sự thức tỉnh
thức của Chí rồi cũng sẽ lại rơi vào ngõ cụt bởi xã hội tàn bạo ấy làm gì có chỗ cho
con người thiện lương của Chí?

*Ngạc nhiên đên xuc động

Đúng lúc hắn đang chìm trong những suy nghĩ miên man không lối thoát thì may
có thị Nở vào. Nếu thị không đến vào lúc đó, có lẽ hắn sẽ khóc được mất khi cứ bị
chìm đắm, vẩn vơ suy nghĩ mãi về cuộc đời của chính mình. Thị xuất hiện cùng
với 1 nồi cháo hành còn nóng nguyên làm cho Chí"rất ngạc nhiên". Sau khi ngạc
nhiên, thì hắn cảm thấy"mắt hình như ươn ướt" vì đây là lần đầu tiên trong đời"
hắn được một người đàn bà cho".Một con người quá đỗi cô đơn, một con người bị
cả xã hội hắt hủi bấy lâu nay vậy mà vẫn nhận được tình thương, hơi ấm từ một
con người, thì đây là nỗi niềm hạnh phúc, xúc động khôn tả. Trái tim lương thiện
của Chí đã được đánh thức. Chí khao khát muốn được sống như một con người
bình thường hơn nữa.bát cháo hành đơn sơ của Thị Nở cũng đã khiến cho Chí Phèo
tỉnh ngộ. Nam Cao miêu tả đây là bát cháo đơn giản chỉ một ít gạo nấu loãng và
vài cọng hành, bát cháo còn “nóng nguyên” và có mùi thơm. Nhưng với Chí Phèo,
bát cháo đơn giản đến mức tối thiểu ấy lại là món ngon nhất trên đời mà Chí Phèo
có, hắn thấy “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành
ăn rất ngon”. Đây là lần đầu hắn được chăm sóc bởi bàn tay đàn bà, lần đầu hắn
cảm nhận được tình yêu thương con người. Bát cháo đơn sơ nhưng được nêm gia
vị tình người, tình yêu, tình thương của Thị Nở. Cũng bởi đây là lần đầu tiên, hắn
được cho ăn mà không phải cướp giật. Chí nhận được bát cháo của Thị Nở nó
khiến hắn “ngạc nhiên” rồi lại thấy mắt hơi “ươn ướt”. Đây là cảm xúc rất người,
Chí đã trở về bản chât vôn co của mình- hiền lành, lương thiện. Hắn vừa vui lại
vừa buồn, vui vì lần đầu tiên trong cuộc đời có người đồng cảm sẻ chia với hắn,
buồn vì quá nửa đời người hắn mới có được tình cảm dung dị của một người đàn
bà. . Giờ đây, hắn cảm thấy vô cùng ăn năn về những tội ác của mình. Hắn hối hận
vì chính những hành động phi nhân tính của mình , tội ác mà hắn gây ra cứ tăng
dần theo những cơn say, hắn đã “phá nát bao nhiêu tổ ấm, làm đổ máu và nước mắt
của bao nhiêu con người lương thiện”.
*
Khi ăn bát cháo hành, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa và thấm thía nỗi
đau của con người biết tự trọng khi bị vợ Bá Kiến sai làm những việc nhục nhã.
Điều này chứng tỏ một lần nữa Chí Phèo có bản tính tốt lành, nhưng cái bản tính
này trước đây bị lấp đi đến nay mới có cơ hội được thể hiện, bởi vì Chí Phèo vốn là
người nông dân lương thiện có bản tính tốt đẹp. Mặc dù bị xã hội tàn ác – đại diện
là bá Kiến và nhà tù thực dân dẫu có ra sức hủy diệt bản tính ấy nhưng nó vẫn âm
thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi nhân vật này tưởng chừng
đã biến thành quỷ dữ. Khi gặp thị Nở và cảm nhận được tình yêu mộc mạc chân
thành của thị trong lúc yếu đuối và cô đơn, lại trong hoàn cảnh vừa qua một trận
ốm thì bản chất ấy có cơ hội hồi sinh và nó đã hồi sinh. Từ đây, Chí sống đúng với
con người thật của mình: Khao khát tình thương và muốn trở thành những người
lương thiện.
bát cháo hành ấy đã lấy lại sức khỏe cho hắn bởi vì hắn càng ăn mồ hôi lại càng ra
nhiều. Và tất nhiên, điều này rất tốt đối với một người bị cảm gió như hắn
Bát cháo hành của Thị Nở tuy giản đơn, mộc mạc chỉ có một chút cháo trắng với
hành nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hồi sinh thức tỉnh của Chí. Bát
cháo được nấu lên bằng tình yêu thương chân thành, sự cảm thông, thấu hiểu của
Thị Nở dành cho Chí, chính vì vậy mà nó có sức lay động mạnh mẽ bản chất lương
thiện vốn đã bị vùi sâu trong tâm hồn Chí. Nếu như trước đây, hắn chỉ biết uống
rượu, rạch mặt, ăn vạ, rồi gây nên biết bao nhiêu tội ác thì giờ đây sau khi ăn bát
cháo hành của Thị Nở hắn thấy lòng thành trẻ con. Rồi Chí “muốn làm nũng với
Thị như với mẹ”, một so sánh thật xót xa vì hắn đã bao giờ có mẹ? Có lẽ trong tâm
trí hắn, mẹ có thể là người đem lại tình yêu thương, sự hiền hậu bao dung và che
chở mà tất cả điều ấy đều có ở Thị, thậm chí lần đầu tiên trong cuộc đời khốn khổ
của mình, “hắn thấy lòng rất vui”. Như vậy, tình yêu thương đồng loại đã đánh
thức tâm hồn chủa Chí, cứu vớt lấy phần nhân tính tưởng như đã bị cái ác gặm
nhấm, hủy hoại.
Tình yêu thương của Thị Nở như những mạch nước ngọt thấm vào những thớ đất
khô cằn lâu ngày vì nắng hạn, nó đã làm cho Chí Phèo hồi sinh một cách mạnh mẽ.
Cuộc gặp gỡ giữa hai con người ấy giống như tia chớp lóe sáng giữa cuộc đời dằng
dặc tối tăm của Chí. Cánh cửa cuộc đời đang mở ra trước mắt, Chí bắt đầu trên
hành trình hoàn lương.
Nhờ co những cử chỉ ân cần của Thị Nở, Chí thấy “Ôi, sao mà hắn hiền. Hắn thấy
hắn không còn là kẻ mạnh nữa. Mà khi không còn là kẻ mạnh nữa hắn không thể
gây tội ác. Không thể làm điều ác thêm nữa”. Cảm nhận điều đó, lòng hắn khao
khát muốn được lương thiện “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà
với mọi người biết bao?” Chí đã đặt toàn bộ niềm tin vào Thị Nở. Thị sẽ là cầu nối
đưa hắn bước qua với xã hội loài người “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể
sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”. Chí Phèo mong “Họ
sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương
thiện”. Niềm tin ấy chưa bao giờ trong hắn lại mãnh liệt thế. Từ đây, chúng ta
khẳng định Chí đã hoàn toàn hồi sinh trở về làm người lương thiện, thì ra bao năm
bị chà đạp, huỷ hoại nhưng bản chất lương thiện trong hắn vẫn còn nguyên. Từ
đây, Nam Cao khẳng định sức sống mãnh liệt của cái thiện không có thế lực nào
tiêu diệt được.
Nam Cao từng bày tỏ: “Chỉ có tình người mới cứu được tình người, tình người là
một sức mạnh”. Tất cả điều đó đã thể hiện chân thật hơn bao giờ hết trong quá
trình hồi sinh, thức tỉnh của Chí Phèo. Ông đã bày tỏ niềm tin yêu vô bờ bến với
sức sống bất diệt của tính người. Sâu thẳm trong mỗi người dù cuộc đời có xô đẩy
đến đổi thay thì vẫn luôn tồn tại niềm khao khát hạnh phúc và mơ ước lương thiện.
Chính vì thế, chỉ cần một ngọn gió thoảng qua vẫn đủ sức thổi bùng đốm thanh
thành ngọn lửa, chỉ cần hạt mưa rơi xuống, hạt cây vẫn có thể này mầm.
*Bi kịch bị cự tuyệt
Sau những tháng ngày sống gần như vô thức, cuộc gặp gỡ định mệnh này đã đem
đến những biến chuyển tâm lí rõ nét trong Chí Phèo. Chút tình thương mộc mạc, tự
nhiên cộng với sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở- người con gái xấu xí
''ma chê quỷ hờn'' đã đánh thức lương tri trong Chí, đánh thức bản chất lương thiện
vốn có trong con người hắn. Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc
chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm
người lương thiện trỗi dậy. Thị Nở đã đánh thức con người tốt bụng trước kia của
Chí Phèo khiến cho hắn thấy ân hận về những lỗi lầm của mình; sống lại khao khát
có một gia đình nhỏ nhoi và mơ tưởng về một tương lai hạnh phúc với Thị. Chí đã
tỉnh táo và suy nghĩ về cuộc đời mình, triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như
vậy, với sự trở lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm
xúc của một con người, Chí đang dần thức tỉnh một cách toàn diện cả về nhận thức
và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người. Suốt 5 ngày đêm cả hai đều
chìm đắm trong men say của tình yêu.
Nhưng, phũ phàng thay thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức
đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo. Những định kiến của bà cô Thị Nở hay cũng như
thành kiến mà xã hội này dành cho hắn như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt
Chí Phèo dập tắt ngọn lửa hoàn lương vừa nhen nhóm lên trong Chí. Rồi cả Thị
Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” rướn cái
môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Một bi kịch trong một chuỗi
nhưng bi kịch của cuộc đời anh Chí. Thông qua lời nói của bà cô Thị Nở gay gắt là
đại diện cho định kiến xã hội, cho những quan niệm cổ hữu, hà khắc đã ăn sâu vào
suy nghĩ của những con người lạc hậu, ích kỷ, hẹp hòi. Bà cô không muốn cho Thị
Nở đến với Chí Phèo vì hắn không có gia đình, không có công việc ổn định. Bà
ngăn cản tình yêu giữa Chí Phèo và Thị Nở còn vì sự ganh tị. Tình thương đã
mong manh dễ tan vỡ, không dễ gì có được đã bị định kiến kia làm vỡ vụn tình yêu
thương. Thị Nở như chiếc phao cứu sinh cuối cùng mà hắn là người chết đuối vừa
níu được nên hắn tìm mọi cách để níu giữ cơ hội mong manh để quay trở lại làm
người lương thiện nhưng không thành. Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng
hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” rướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi
mắng”. Một bi kịch trong một chuỗi nhưng bi kịch của cuộc đời anh Chí. Hắn lại
đi uống rượu. Hắn tìm đến men rượu để quên đi cảm giác lúc này. Nhưng càng
uống hắn chỉ càng cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng. Càng uống hắn lại càng tỉnh và
càng cảm thấy buồn… Hắn thoáng thấy hương cháo hành và thế là hắn ôm mặt
khóc. Lần này hắn khóc không phải vì bát cháo hành mà là vì hắn tiếc nuối cho
tình cảm, tình yêu thương mà hắn nhận được, đó cũng là giọt nước mắt bất lực,
chính xã hội ấy đã đẩy hắn vào con đường bi kịch này. Đến khi hắn muốn quay trở
lại thì cũng chính xã hội ấy lại không chấp nhận hắn. 
Khi bị Thị Nở ruồng bỏ, Chí Phèo quay lại bản chất của con người hiện tại. Phẫn
uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến
nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận
trong vô thức Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Niềm phẫn uất đã khiến Chí Phèo xác
định đúng kẻ thù của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ
thức tỉnh, đòi quyền làm người, đòi lương thiện. Chí hỏi những câu hỏi mà không
lời giải đáp đầy cay đắng, chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người
thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân, đánh thẳng vào bộ mặt của
xã hội bất lương. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để
giải quyết sự bế tắc của số phận. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp
nhận một cuộc sống của một con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà nhưng xã
hội này không cho phép. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái
xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con
người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa làm lại cuộc đời. 
*Gia trị nhân đạo:
Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Nam Cao còn được thể hiện thông qua thái độ
đồng cảm, trân trọng đối với giá trị của con người. Đó là phần lương thiện bên
trong con người Chí Phèo, tình thương yêu đáng trân trọng bên trong Thị Nở. Nam
Cao đã thể hiện thái độ trân trọng đối với những con người ở đáy sâu tăm tối của
xã hội để thấy được ánh sáng tình người bên trong con người họ.
Có thể nói Chí Phèo là truyện ngắn mang giá trị nhân đạo sâu sắc khi hướng đến
đồng cảm, trân trọng giá trị bên trong tâm hồn của những con người bất hạnh, nạn
nhân của xã hội. Đọc toàn bộ tác phẩm, không thấy xuất hiện một lời bình luận,
nhận xét hay thương cảm về số phận nhân vật và những bi kịch trong xã hội. Nam
Cao đã miêu tả tất cả với một thái độ lạnh lùng của một ngòi bút sắc lạnh. Nhưng
vượt lên trên tất cả, người ta vẫn cảm nhận được ở đó tình thương yêu con người
sâu sắc. Tất cả làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm nghệ thuật đích thực: “vượt
lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn”, “là một tác phẩm chung cho cả loài người.
Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi.
Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người
hơn...”
*Nghệ thuật:
Nghệ thuật kể chuyện có sự kết hợp giọng văn của người kể chuyện và giọng nói
của nhân vật cùng nghệ thuật xây dựng cốt truyện đầy đủ từ phần thắt nút rồi cao
trào cho đến mở nút, kết cấu đầu cuối tương ứng, giọng điệu vừa lạnh lùng lại vừa
chua xót. Nghệ thuật độc đáo và tài năng trong ngòi bút của Nam Cao đã làm nổi
bật nội dung của tác phẩm. 

Chủ đề về người nông dân nghèo, về khát khao được sống trong xã hội công bằng
là ý nghĩa nhân văn mà Nam Cao muốn đề cập đến trong tác phẩm. Phân tích quá
trình thức tỉnh của Chí Phèo cũng khiến người đọc cảm nhận được ý nghĩa sâu xa
về thái độ trân trọng, cũng là đề cao phẩm chất, tin tưởng vào bản chất người nông
dân tuy nghèo nhưng không tham lam, mà thật thà ngay thẳng dù trong mọi hoàn
cảnh. Đồng thời, tác giả đã lên án, tố cáo những thế lực chà đạp lên quyền sống của
con người, đẩy những người có thân phận nhỏ bé vào bước đường cùng, rơi vào bi
kịch đau đớn mà không sao thoát ra được. Nam Cao đã tạo nên tình huống truyện
hợp lí, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. Phong cách trần thuật linh hoạt, kết hợp
ngôn ngữ nhân vật và tác giả, giọng văn bàn bạc thấm đẫm chất thơ làm nên quá
trình hồi sinh thành công góp phần tạo nên giá trị và sức sống tác phẩm
* KB

Nam Cao đã thể hiện sự thương cảm và tấm lòng trân trọng sâu sắc với bi kịch của
những người nông dân trong xã hội cũ. Bên cạnh đó, nhà văn cũng khẳng định sức
sống bất diệt của thiện lương. Mong muốn một cuộc sống đời thường hạnh phúc
chính là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người. Đây là khát khao mà không một
thế lực nào có thể hủy diệt được. Thông qua việc phân tích quá trình thức tỉnh của
Chí Phèo, ta còn thấy Nam Cao đã nhắc nhở và kêu gọi mọi người hãy tin vào bản
chất thiện lương tốt đẹp của mỗi người, đồng thời hãy xây đắp phần người trong
mỗi con người để cuộc đời sẽ ngày một đẹp hơn. 

You might also like