You are on page 1of 4

Nam Cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa

lớn
của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông chủ yếu ở hai
mảng đề tài : viết về người trí thức nghèo và về những người nông dân cùng khổ. Ở
mảng đề tài viết về người nông dân, “Chí Phèo” là một kiệt tác. Trong tác phẩm này,
nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo, ông đặc biệt khắc
họa rõ nét diễn biến tâm trạng của nhân vật này từ sau khi gặp Thị Nở. Đây là một
thành công đáng kể của tác giả trong truyện ngắn này. Truyện ngắn “Chí Phèo” ra
đời trước Cách mạng tháng Tám. Ban đầu truyện có tên là “Cái lò gạch cũ”, khi in
thành sách lần đầu, nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này, khi in
lại trong tập “Luống cày” (1946) nhà văn đổi lại thành “Chí Phèo”.

Truyện kể về nhân vật Chí Phèo. Thuở nhỏ, Chí bị cả cha lẫn mẹ bỏ rơi, sống
bơ vơ bất hạnh. Lớn lên đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù.
Khi ra tù, Chí thay đổi hẳn cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai của Bá
Kiến, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Rồi hắn gặp Thị Nở, một cô gái xấu “ma chê
quỷ hờn”. Bát cháo hành cùng với tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc của Thị
đã thức tỉnh phần người bấy lâu nay bị vùi lấp sâu trong tâm hồn Chí. Chí Phèo ao
ước được trở lại làm người lương thiện, hắn hi vọng rằng Thị Nở sẽ mở đường cho
hắn. Nhưng bà cô Thị ngăn cấm. Chí nhận ra bi kịch đau đớn : bị cự tuyệt quyền
làm người. Chí bèn xách dao đến nhà Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch của hắn, giết
chết Bá Kiến rồi tự vẫn.

Trước cuộc gặp gỡ đầy tình cờ với thị Nở trong đêm trăng ở vườn chuối cạnh bờ
sông, Chí Phèo là một “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Hắn triền miên trong những
cơn say dài bất tận và sống trong tình trạng vô thức. Sau cái đêm định mệnh ấy,
cuộc đời Chí Phèo tưởng như được lật sang một trang mới. Sáng sớm hôm sau,
hắn tỉnh dậy. Hắn bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những
cảm xúc của một con người. Lần đầu tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái
cảm giác “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí Phèo nghe được những
âm thanh quen thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn : “tiếng chim hót
ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, tiếng trò chuyện
của những người đi chợ về…Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ
giản dị từ thuở xa xưa : “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ
dệt vải”. Quá khứ tuy nghèo khổ ấy nay với Chí cũng là một điều thật xa vời. Thực
tại giờ đây của hắn là “già mà vẫn còn cô độc”. Điều ấy khiến hắn buồn và lo lắng
cho tương lai : đói rét, ốm đau và cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nhất
là cô độc. Một kẻ chỉ biết sống bằng giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và
nước mắt của bao nhiêu người lương thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ
nhất là cô độc. Hình như, bản chất người trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy.

Hắn đang nghĩ vu vơ thì thị Nở đến, mang theo một nồi cháo hành còn nóng
nguyên. Đầu tiên, Chí Phèo “rất ngạc nhiên”. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy “mắt hình
như ươn ướt”. Con quỷ dữ Chí Phèo đã biết khóc. Hắn cảm động đến như vậy là
bởi đây là lần đầu tiên hắn được người ta cho, xưa nay, muốn có cái gì, hắn phải
giật cướp và dọa nạt. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà lòng “bâng khuâng”, rồi hắn
nhìn thị Nở đang cười toe toét mà cảm thấy thị “có duyên”. Có cái gì đó đang trỗi
dậy trong lòng Chí Phèo, phải chăng đó là tình yêu ? Có thế thì mới nhìn một người
đàn bà “ma chê quỷ hờn” thành ra “có duyên” chứ ! Rồi thì hắn thấy “vừa vui vừa
buồn” và “một cái gì nữa giống như là ăn năn”. Chí vui bởi vẫn đang còn một người
quan tâm đến hắn. Chí buồn và ăn năn bởi tội ác mình gây ra quá nhiều, con đường
trở về làm một người bình thường của hắn có lẽ là sẽ lắm chông gai. Đưa bát cháo
lên miệng, Chí Phèo thấy cháo “mới thơm làm sao” và húp một húp, Chí cảm thấy
“cháo hành ăn rất ngon”. Cháo hành vốn là thứ quê mùa, không phải cao lương mĩ
vị gì, lại được nấu bởi bàn tay của một người “dở hơi” thì chắc là dở lắm; thế mà với
Chí Phèo thì nó thật ngon. Bát cháo từ tay người đàn bà là thị Nở ấy làm Chí Phèo
nhớ về bà Ba vợ Bá Kiến. Chí Phèo thừa hiểu, “cái con quỷ cái” ấy chỉ lợi dụng hắn
chứ yêu đương gì. Hắn chưa bao giờ được một người đàn bà nào yêu cả. Bởi vậy,
bát cháo hành của Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Ngồi ăn cháo hành cạnh thị Nở,
hắn thấy “lòng thành trẻ con”, “hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”. Ngòi bút
Nam Cao thật sắc sảo và tràn đầy tình thương khi miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng
của Chí. Ông nhận ra phần người không bao giờ mất trong hình hài con quỷ dữ Chí
Phèo. Phần người ấy đã hoàn toàn trở về với Chí và khiến hắn “thèm lương thiện”,
hắn muốn “làm hòa” với mọi người biết bao. Hắn hi vọng thị Nở sẽ mở đường cho
hắn. Hắn hi vọng tràn trề “họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện
của những người lương thiện”. Niềm hi vọng được làm người lương thiện làm Chí
Phèo thấy “lòng rất vui”. Chí thấy mình và thị Nở sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi,
và quyết định lấy thị. Năm ngày sau đó là năm ngày hạnh phúc nhất cuộc đời Chí
Phèo. Hắn và thị Nở sống với nhau như vợ chồng. Hắn đã không còn kinh rượu nữa
nhưng cố uống cho thật ít để tỉnh táo. Bây giờ hắn “say” thị Nở chứ không còn say
rượu. Bây giờ, hắn là con người chứ không còn là “con quỷ”.
Thế nhưng, năm ngày ấy thật ngắn ngủi. Đến ngày thứ sáu thì thị Nở nhớ ra thị
đang còn một bà cô đi làm ăn xa sẽ về trong ngày hôm ấy. Thị phải dừng yêu để về
nhà hỏi cô thị đã. Thị trở về nhà rồi quay lại nhà Chí Phèo với cơn tức giận sau
những lời xỉa xói đay nghiến của bà cô. Thị tới và “trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô”.
Nghe những lời ấy, Chí Phèo “nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu”. Đầu óc bị tê liệt
bấy lâu của hắn phải nghĩ ngợi một tí rồi mới “hiểu” được những lời của bà cô thị
Nở. Hắn hiểu một cách sâu sắc về những lời ấy. Hắn hiểu rằng không còn ai coi hắn
là con người nữa. Một người cuối cùng mà hắn hi vọng nhất cũng đã từ chối hắn.
Hắn hiểu ra rằng người ta không chấp nhận hắn trở lại làm người lương thiện. Đó là
bi kịch đau đớn của cuộc đời hắn : bị cự tuyệt quyền làm người. Nhận ra bi kịch thê
thảm ấy, Chí Phèo lại uống rượu. Nhưng bây giờ, càng uống, hắn “càng tỉnh ra” và
lại càng “buồn” hơn. Hắn cứ thấy hơi cháo hành thoang thoảng đâu đây. Hắn “ôm
mặt khóc rưng rức”. Thương thay, hắn sinh ra là người mà giờ đây muốn làm người
cũng không thể được. Hắn cứ thế uống, uống cho đến say mềm đi. Rồi hắn ra đi với
một con dao ở thắt lưng. Trong cơn say, đầu óc của hắn vẫn không thể nào quên
được bi kịch đau đớn của đời mình, và càng không thể nào quên được kẻ đã đẩy
hắn vào bi kịch ấy. Không ai khác ngoài Bá Kiến. Bởi vậy mà hắn không đến nhà
“con đĩ Nở” như dự định ban đầu mà đi thẳng đến nhà lão bá. Đến đấy, hắn cất
tiếng đòi lương thiện thống thiết : “Tao muốn làm người lương thiện” nhưng cũng
đồng thời hiểu rằng “tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Những câu
nói cuối cùng của Chí nghe sao thật xót xa, cay đắng. hắn chỉ còn một cách nữa,
cách để được nhẹ nhàng, thanh thản, đó là ra đi cùng với bản chất người của mình.
Nhưng trước khi ra đi, hắn phải trả thù, phải giết kẻ đã khiến hắn không được làm
người nữa. Hắn hành động dứt khoát, quyết liệt : giết bá Kiến và tự vẫn. Chí Phèo
tự vẫn bởi hắn có sống tiếp cũng không thể được làm người lương thiện nữa. Cái
chết đau đớn, tức tưởi của Chí Phèo vừa là tiếng nói tố cáo tội ác của tầng lớp
thống trị phong kiến vừa là lời khẳng định, tin tưởng vào bản chất lương thiện không
bao giờ mất đi trong những người nông dân cùng khổ đáng thương.

“Chí Phèo” là minh chứng tiêu biểu nhất cho tài năng truyện ngắn Nam Cao. Bằng
nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn tố cáo sâu sắc xã hội thực dân
nửa phong kiến phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào
“bước đường cùng”. Kết cấu truyện theo kiểu tâm lí, không theo thứ tự thời gian mà
bắt đầu truyện bằng tiếng chửi đổng của Chí vừa gây sự chú ý, tò mò cho người
đọc, vừa nhấn mạnh cái bi kịch đau đớn của Chí. Đồng thời, lời văn kể chuyện nửa
trực tiếp cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của câu chuyện: trong tác phẩm, có
đoạn là lời người kể chuyện hoàn toàn; cũng có đoạn nhà văn như hóa thân vào
nhân vật, làm cho đoạn văn như là lời của chính nhân vật tự kể chuyện mình khiến
người đọc thực sự khám phá được chiều sâu tâm hồn nhân vật. “Đôi mắt” đầy tình
người của Nam Cao cùng với tài năng nghệ thuật của ông đã đưa “Chí Phèo” vào
hàng những kiệt tác văn xuôi hiện đại.

Tóm lại, truyện ngắn “Chí Phèo” đã miêu tả sinh động diễn biến tâm trạng của Chí
Phèo từ sau khi gặp thị Nở. Qua đó, nhà văn thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm
sâu sắc với hoàn cảnh bi đát của người nông dân trong xã hội cũ, đồng thời khẳng
định và tin tưởng vào bản chất lương thiện tốt đẹp của họ. Đó cũng chính là tư
tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao trong dòng văn học hiện thực Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945. Truyện ngắn này đã đưa tên tuổi Nam Cao vào hàng
những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam.

You might also like