You are on page 1of 2

Chủ đề 18: Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa

lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào thực tiễn phát triển kinh tế nước
ta từ năm 1986 đến nay như thế nào?

- Thời kỳ trước 1986: Giai đoạn này kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay càng gặp
nhiều khó khăn sau cuộc chiến tranh nhiều gian khổ. Lực lượng sản xuất nước ta
thời kỳ này còn thấp và chưa có nhiều điều kiện để phát triển. Trình độ của người
lao động thấp, hầu hết không có chuyên môn, tay nghề, phần lớn lao động chưa
qua đào tạo. Lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và dựa trên
kinh nghiệm ông cha để lại. Tư liệu sản xuất nhất là công cụ lao động ở nước ta
thời kỳ này còn thô sơ, lạc hậu.
– Cho đến thời kỳ sau 1986: Rút kinh nghiệm từ những sai lầm ở giai đoạn trước,
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã thừa nhận thẳng thắn những khuyết điểm,
chủ trương đổi mới phương thức quản lý kinh tế. Đây là dấu mốc quan trọng trong
quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời,
đã đặt cơ sở, nền tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng
bước phát triển nền kinh tế của đất nước. Chính vì vậy đến nay, nước ta đã đạt
được nhiều thành tự to lớn.
– Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan
hệ sản xuất mới. Cụ thể:
+ Người lao động nước ta đến năm 2005 là 44,3 triệu người, trong đó lao động đã
qua đào tạo là 24,79 %. Hệ thống trường dạy nghề các cấp được mở rộng. Đội ngũ
trí thức cũng tăng lên nhanh chóng, năm 2007-2008, cả nước có 1 603 484 nghìn
sinh viên.
+ Năm 2008, nước ta có 160 trường đại học, 209 trường cao đẳng và 275 trường
trung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được phần nào nhu cầu đào tạo lao động cho đất
nước.
+ Máy móc và các trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi trong
các ngành kinh tế. Trong nông nghiệp là máy cày, máy bừa,…các giống cây trồng
mới cũng được tìm ra và phổ biến. Trong công nghiệp, kỹ thuật hạt nhân bắt đầu
phát triển, đẩy mạnh sản xuất.
+ Đảng và Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để hoàn
thiện các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa về sở
hữu, tổ chức – quản lý và phân phối.
+ Trong những năm đổi mới, nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện
pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương
và tổ chức đa phương, như ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, thu hút mạnh mẽ vốn
đầu tư nước ngoài (FDI, ODA…), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng
thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các
nguồn lực về vốn, khoa học và công nghệ.

You might also like