You are on page 1of 139

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

-Hồ Chí Minh-


I. GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
- Hồ Chí Minh ( 19/5/1890 – 2/9/1969), lúc nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung, khi hoạt động ở
nước ngoài tên Nguyễn Ái Quốc.
- Quê: Kim Liên – Nam Đàn – Nghệ An.
- Thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho yêu nước.
- Lúc nhỏ học chữ Hán ở nhà, học trung học ở Huế, dạy học ở trường Dục Thanh – Phan
Thiết.
- 1911 ra đi tìm đường cứu nước, bôn ba suốt ba mươi năm trên khắp thế giới.
- 1941 về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng.
- CMT8 thành công, 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đọc bản: “ Tuyên ngôn
độc lập”, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được bầu làm Chủ tịch nước, lãnh
đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng của dân tộc cho đến lúc qua đời.
=> HCM là nhà yêu nước và cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng thời là nhà hoạt động
lỗi lạc của phong trào quốc tế cộng sản. Ngoài sự nghiệp cách mạng, Người còn là một
nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Cách mạng
tháng Tám thành công, ngày 26/8/1945 Chủ tịch HCM từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà
Nội. Tại căn nhà 48 Hàng Ngang, Người soạn thảo bản “ Tuyên ngôn độc lập”. Ngày
2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình Người đọc bản TNĐL khai sinh nước Việt Nam mới.
b. Đối tượng và mục đích sáng tác:
- Đối tượng: TNĐL không chỉ đọc trước toàn dân ta, mà còn để công bố với thế giới, đặc
biệt là với những lực lượng thù địch đang lăm le xâm lược nước ta.
- Mục đích: Tuyên bố trước nhân dân cả nước và thế giới về thắng lợi của cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, khẳng định nền độc lập, tự chủ của đất nước. Ý chí bảo vệ nền
độc lập tự chủ, bác bỏ luận điểm xảo trá của thực dân Pháp.
c. Giá trị của bản tuyên ngôn:
- Giá trị lịch sử: Là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến. Khẳng định chủ
quyền và vị thế bình đẳng của Việt Nam trên toàn thế giới. Là mốc son lịch sử mở ra một
kỷ nguyên độc lập, tự do.
- Giá trị văn học:

1
+ Về tư tưởng: Là một áng văn tâm huyết của HCM, hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm
của Người, đồng thời kết tinh khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của dân tộc ta.
+ Về nghệ thuật: Là một tác phẩm chính luận kiệt xuất: Lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén,
bằng chứng xác thực.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Cơ sở pháp lí và chính nghĩa của bản TNĐL:
a.HCM nêu nguyên lý chung của bản tuyên ngôn: Đó là quyền bình đẳng, quyền
sống tự do,sung sướng, hạnh phúc của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc.
Chân lý đó không ai “ chối cãi được”, vì nó đã rành rành ghi lại trong bản “ Tuyên ngôn
độc lập” năm 1776 của Mĩ và “ Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền” năm 1791 của
Pháp. Đây là những văn kiện lịch sử có tầm vóc toàn nhân loại, đã nêu cao quyền con
người.
=>Khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, là nguyên lý thiêng liêng cao
đẹp của nhân loại.
* Về nghệ thuật: Cách trích dẫn dung đòn “ Gậy ông đập lưng ông” vừa khéo léo, mềm
mỏng, vừa cứng cỏi, kiên quyết. Khéo léo, mềm mỏng bởi vì HCM tỏ ra rất trân trọng
những tuyên bố bất hủ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp. Cứng cỏi, kiên quyết vì Bác
muốn ngăn chặn âm mưu xâm lược nước ta của Pháp và Mĩ. Nếu họ cố tình đi ngược lại
chân lí đã được khẳng định trong bản Tuyên ngôn, tức là họ đã phủ nhận chính tổ tiên
mình, làm vấy bẩn lá cờ nhân đạo đã từng là niềm tự hào của cha ông họ.
b. Đóng góp, sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Từ nguyên lí chung về quyền con người, HCM đã suy rộng ra về quyền sống, quyền
tự do, bình đẳng của các dân tộc trên thế giới.
=>Đóng góp quan trọng vào phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nó là phát sung
lệnh mở đầu cho cơn bão táp cách mạng, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân, giành độc lập ở
các nước thuộc địa.
Chỉ trong một đoạn văn ngắn, chúng ta đã thấy được cách lập luận chặt chẽ, cách
dung văn chương để đánh địch khéo léo, hiệu quả của HCM. Bên cạnh đó, đoạn văn còn
cho thấy niềm tự hào, kín đáo của Bác khi Người đặt ba bản tuyên ngôn, ba cuộc cách
mạng ngang hang nhau; trong đó cách mạng Việt Nam đã cùng một lúc thực hiện được
hai nhiệm vụ mà cách mạng Pháp và cách mạng Mĩ đã làm: Độc lập dân tộc và tự do dân
chủ.
Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Dân quyền và Nhân quyền là tư tưởng thời đại
đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn: “
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí
thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được
tôn trọng và bảo vệ.
2
Cách đặt vấn đề của Bác cũng rất hay, hùng hồn và trang nghiêm. Người không chỉ
nói với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời
bấy giờ, thế chiến thứ hai vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông
Dương làm thuộc địa của thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.
2.Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của
nhân dân ta:
a.Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp:
Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp: “ Lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng,
bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”.
Nếu Pháp kể công khai hóa đối với Việt Nam, thì bản tuyên ngôn đã chỉ ra những tội
ác của chúng như: Năm tội ác về chính trị: Tước đoạt tự do, dân chủ. Luật pháp dã man,
chia để trị. Chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta. Ràng buộc dư luận và thi hành
chính sách ngu dân. Đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện. Năm tội ác lớn về kinh
tế: Bóc lột, tước đoạt. Độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Sưu thuế nặng nề
vô lí làm dân ta bần cùng. Đè nén, khống chế các nhà tư sản của ta, bóc lột tàn nhẫn công
nhân ta. Gây ra thảm họa cho hơn hai triệu đồng bào ta chết đói 1945.
Nếu Pháp kể công bảo hộ An Nam, thì bản Tuyên ngôn đã chỉ ra trong vòng năm
năm ( 1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “ Bán nước ta hai lần cho
Nhật”. Pháp còn thẳng tay khủng bố Việt Minh: “ Thậm chí đến khi thua chạy, chúng
còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”. Qua đó, tố cáo bản
chất đê hèn, khát máu của thực dân Pháp, trái hẳn với chính sách khoan hồng, nhân đạo
của Việt Minh.
b.Quá trình đấu tranh và giành độc lập của nhân dân ta:
Từ mùa thu 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp.
Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật đầu hàng Đồng minh.
Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ, lập nên chế độ
Dân chủ Cộng hòa: “ Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”.
Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn bị xóa bỏ. Trên nguyên tắc dân tộc
bình đẳng mà tin rằng các nước đồng minh: “ Quyết không thể không công nhận quyền
độc lập của nhân dân Việt Nam”, “ Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp
hơn tám mươi năm nay, một dân tộc gan góc về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm
nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập.”
Tóm lại đoạn văn là những bằng chứng lịch sử không ai chối cãi được, đó là cơ sở
thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn, với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn.
3.Lời tuyên bố với thế giới:
Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập ( cơ sở pháp lí ), và sự thật đã
trở thành một nước tự do, độc lập ( từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên ).

3
Nhân dân ta quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy ( được làm nên bằng xương
máu và long yêu nước ).
III. TỔNG KẾT:
“ Tuyên ngôn độc lập” là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và thế giới
về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỷ nguyên độc lập, tự
do của nước Việt Nam mới. Tác phẩm là một áng văn chính luận mẫu mực, với lập luận
chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn; Vừa tố cáo mạnh mẽ tội ác của thực dân
Pháp, ngăn chặn âm mưu tái chiếm nước ta của kẻ thù, vừa bộc lộ tình cảm yêu nước,
thương dân, khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của tác giả cũng như của toàn dân tộc.

TÂY TIẾN
- Quang Dũng –
I.GIỚI THIỆU:
1.Tác giả:
Quang Dũng ( 1921 – 1988 ) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là một nhà
thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Năm 2001 ông được tặng
giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm tiêu biểu: Mây đầu ô, thơ văn Quang Dũng, truyện ngắn mùa hoa gạo…
“ Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách
nghệ thuật của nhà thơ.
2.Tác phẩm:
a.Hoàn cảnh sang tác:
Tây Tiến là một đơn vị quân đội, được thành lập đầu năm 1947, với phần đông là thanh
niên Hà Nội, trong đó đa số là học sinh, sinh viên. Binh đoàn Tây Tiến có nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp
ở Thượng Lào, cũng như miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây
Tiến khá rộng, hoàn cảnh chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến rất gian khổ. Tuy vậy,
nhưng các chiến sĩ Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn, anh hùng. Quang dung là
đại đội trưởng ở đó từ đầu 1947, đến cuối 1948 ông chuyển sang đơn vị khác. Khi nhà
thơ về dự Đại hội toàn quân liên khu III, tại làng Phù Lưu Chanh, Quang Dũng sáng tác
bài thơ: “ Nhớ Tây Tiến”. Đến năm 1975 in lại tác giả đổi tên là “ Tây Tiến”, in trong tập
“ Mây đầu ô”.
b. Ý nghĩa nhan đề:
Tây Tiến là tiến về phía Tây so với Hà Nội. Nhan đề Tây Tiến khiến cho bài thơ
mang âm hưởng của một khúc quân hành. Tên bài thơ trùng với tên binh đoàn, nên đọc

4
lên tạo không khí của một cuộc hành quân đầy dũng khí. Nhan đề còn là tiếng gọi thường
trực trong lòng những người lính Tây Tiến.
c. Chủ đề:
Bài thơ Tây Tiến miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên miền Tây Bắc và nét đẹp
hào hoa, dũng cảm, bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến.
e. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ:
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ chính là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội,
về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt là khi bài thơ khắc họa thành công
hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng: Lãng mạn là cái tôi
tràn đầy tình cảm, là sử dụng các yếu tố cường điệu, đối lập để tô đậm cái phi thường.
Thiên nhiên và con người Tây Bắc thật huyền bí và thơ mộng. Ngoài ra chất lãng mạn
còn là tinh thần xả thân vì nước. Bi tráng là vừa đau thương, vừa hùng tráng. Tức là
không hề che giấu sự thật đau thương, nhưng bi mà không lụy, bi mà rất hào hùng.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1. Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ,
hoang sơ, hiểm trở ( Đoạn 1: 14 câu đầu ):
a.Hai câu đầu: Mở đầu bài thơ là lời thơ mang âm điệu da diết:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Câu cảm thán kết hợp với điệp từ “nhớ”, kết hợp với vần “ơi” đã gieo vào lòng người
đọc một sức gợi cảm to lớn. Bởi câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ của một người không muốn
rời xa nơi mà mình đã từng gắn bó. Nỗi nhớ dâng trào bật thành tiếng gọi “Tây Tiến ơi!”.
Từ láy “Chơi vơi” dung rất sáng tạo, đã hình tượng hóa, cụ thể hóa nỗi nhớ. Đó là nỗi
nhớ da diết, bồng bềnh, khắc khoải, tràn ngập cả không gian và thời gian. Nó như ám ảnh
và hiện hữu trong tâm hồn Quang Dũng.
b.Sáu câu tiếp theo là nỗi nhớ về những chặng đường hành quân gian khổ:
Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu rộng lớn và thời tiết khắc nghiệt:
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Tác giả vận dụng bút pháp lãng mạn bằng cách tô đậm cái phi thường để diễn tả
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại. Trước hết tác giả liệt kê những vùng đất lạ “Sài
Khao, Mường Lát,Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu”. Đó là những vùng đất hẻo lánh,
nằm ở phía Tây biên giới Việt – Lào nơi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng hành quân.
Thời tiết Tây Bắc thật là khắc nghiệt, thể hiện ở cụm từ “sương lấp”. Sương lấp là
sương mù dày đặc, che lấp cả con đường hành quân, sương đêm gây ra nhiều bệnh tật

5
làm cho người chiến sĩ mỏi mệt “Đoàn quân mỏi”, đây là hình ảnh bi thương có thực,
nhưng mà không bi lụy, bi mà hào hùng, lãng mạn, bởi vì họ mệt mỏi nhưng họ vẫn trở
về với chiến công lấp lánh trong đêm sương và vòng hoa chiến thắng được dệt bằng
sương đêm.
Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu hiểm trở:
Với những con dốc:
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
Câu thơ thật là gân guốc với năm thanh trắc trong một dòng thơ bảy chữ, cộng với
điệp từ “dốc” và từ láy giàu giá trị tạo hình “ khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, nhằm diễn tả
dốc lên thì ghập ghềnh, quanh co, dốc xuống thì sâu thăm thẳm. Dù hành quân lên dốc
hay xuống dốc thì người chiến sĩ đều mệt và thở gấp như nhịp đọc của câu thơ.
Địa bàn chiến đấu hiểm trở bởi núi đèo:
“ Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và đặt từ láy “heo hút” lên đầu câu. “ Heo hút
cồn mây” gợi sự cao vút, vắng vẻ của núi đèo. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây
nổi thành cồn gọi là “cồn mây”. Người chiến sĩ hành quân lên ngọn núi cao, họ tưởng
chừng như đang đi trong mây nên mũi súng chạm trời. Cuộc hành quân thật gian nan, lên
đèo, xuống dốc nhưng họ không hề có ý nghĩ bi quan, mà họ lại tỏ ra hào hùng, lãng mạn,
thể hiện ở nghệ thuật nhân hóa “ súng ngửi trời”. Điều này thể hiện sự hồn nhiên, tinh
nghịch của người lính trước độ cao thử thách của núi đèo:
“ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ như bẻ làm đôi: “ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, với điệp từ “ngàn
thước” và đối lên/xuống nhằm diễn tả hai sườn núi cao, thẳng đứng như thách thức, như
cản trở con đường hành quân của người lính Tây Tiến. Họ hành quân lên cao lại xuống
thấp, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, núi cao sừng sững thế mà khi lên đỉnh núi, họ lại thở
phào nhẹ nhõm, thể hiện ở câu thơ toàn là thanh bằng: “ Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi”, họ phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn mưa núi, thấp thoáng họ nhìn thấy một vài
ngôi nhà sàn bồng bềnh trong biển nước.
c.Sáu câu cuối là nỗi nhớ về sự hy sinh của đồng đội và cuộc sống bình dị,
ấm áp tình người của người dân Tây Bắc:
Trong kí ức về Tây Tiến có hình ảnh đồng đội hi sinh gợi ấn tượng sâu sắc trên
chặng đường hành quân gian khổ:
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

6
Hình ảnh bi thương, có thực “ Anh bạn dãi dầu không bước nữa”, bởi thiên nhiên
Tây Bắc thật là khắc nghiệt. Đó là thử thách đối với những chàng trai Hà Nội mới rời ghế
nhà trường, lên đường chiến đấu, với một lí tưởng cao đẹp. Cách gọi “anh bạn” nghe
thật gần gũi, thân thương và từ láy “dãi dầu” nghĩa là chịu đựng gian khổ, vất vả lâu
ngày. Cho nên trên đường hành quân, họ mệt mỏi, kiệt sức, họ không thể bước được nữa,
họ gục xuống trong tư thế đang bước đi “ gục lên súng mũ”, họ hi sinh trong tư thế thật
đẹp, thật hiên ngang. Cái chết của họ là cái chết về thể xác, khởi đầu cho sự bất tử về tinh
thần. Bằng nghệ thuật nói giảm, nói tránh“ bỏ quên đời”, nhà thơ đã diễn tả được cái chết
nhẹ nhàng, thầm lặng của người lính trên chặng đường hành quân gian khổ. Đồng thời
bộc lộ niềm tiếc thương vô hạn về sự hi sinh của đồng đội. Qua đó ngợi ca tinh thần chiến
đấu can trường của người chiến sĩ Tây Tiến. Họ hi sinh trong tư thế không bỏ cuộc, chết
mà “súng, mũ” vẫn bên mình.
Trong kí ức về Tây Tiến còn ghê rợn qua những âm thanh hung dữ:
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Từ láy chỉ thời gian “ chiều chiều, đêm đêm”, dùng để chỉ thời gian lặp lại, có tính
chất thường xuyên, liên tục. Khi màn đêm buông xuống thì núi rừng Tây Bắc có những
âm thanh, hoạt động rất dữ dội. Đó là âm thanh của thác, của cọp beo thể hiện ở từ “ gầm
thét, trêu”.Những âm thanh này tạo thêm uy lực cho núi rừng Tây Bắc. Phải chăng tác
giả đã lấy ngoại cảnh của núi rửng miền Tây đầy nguy hiểm, để tô đậm cái anh hùng của
đoàn quân Tât Tiến?
Nhớ Tây Tiến còn là nhớ về cuộc sống bình dị và ấm áp tình người của nhân dân Tây
Bắc. Khép lại đoạn thơ là hai câu thơ thể hiện cảnh tượng thật đầm ấm:
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Từ cảm thán “nhớ ôi” và các cụm từ “cơm lên khói, thơm nếp xôi” đã kết thúc đoạn
thơ giúp người đọc liên tưởng: sau bao ngày hành quân lội suối, vượt đèo, họ dừng chân
bên một bản làng và quây quần bên nồi cơm nghi ngút khói và thơm nếp xôi. Câu thơ còn
thể hiện tình quân dân cả nước.
*Sơ kết: Với những từ chỉ địa danh, những hình ảnh giàu chất tạo hình, những câu thơ
nhiều vần trắc, gối lên trên những câu thơ nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ. Đoạn thơ
mở đầu đã nêu được cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về
đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt, đoạn thơ đã khắc họa
thành công bức tranh thiên nhiên, núi rừng miền Tây, vừa hiểm trở, dữ dội, vừa hùng vĩ,
thơ mộng. Xuất hiện trong cảnh núi rừng hiểm trở là hình ảnh người lính Tây Tiến hiên
ngang, luôn vững bước trên đường hành quân. Hình ảnh đó như hòa vào rừng núi bí
hiểm. Núi rừng càng hùng vĩ, đường hành quân càng khắc nghiệt, thì càng tôn lên chất
hào hùng, ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan của người chiến sĩ Tây Tiến.

7
2. Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền
Tây Bắc thơ mộng ( Đoạn 2 – 8 câu tiếp theo):
a. Bốn câu đầu thể hiện nỗi nhớ về những đêm liên hoan văn nghệ:
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Sau bao ngày hành quân vất vả, đoàn quân dừng lại ở một địa phương người Lào. Họ
tham dự một đêm liên hoan văn nghệ với đồng bào địa phương. Những cụm từ: “ Bừng
lên, kìa em, khèn lên, nhạc về”, thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, sung sướng của người
lính Tây Tiến trong đêm văn nghệ bởi vì có đuốc hoa ( Đuốc hoa là một loại đuốc trong
đêm tân hôn), bởi vì nhân vật trung tâm của đêm văn nghệ là những cô gái nơi miền núi
rừng bất ngờ hiện ra với bộ trang phục truyền thống đẹp “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”, đã
làm rung động trái tim người chiến sĩ bởi sự thẹn thùng, tình tứ trong cử chỉ của những cô
gái miền sơn cước:“Nàng e ấp” và trong vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ “man điệu”.
Tuy say sưa trong tiếng nhạc, điệu múa, nhưng người lính không quên nhiệm vụ thiêng
liêng của mình là tiến về phía trước, phối hợp với nước bạn Lào bảo vệ biên giới Việt –
Lào được thể hiện ở câu thơ “ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Đây là phát hiện độc
đáo của Quang Dũng về người lính xuất thân từ tầng lớp tri thức. Họ có tâm hồn hào hoa,
lãng mạn so với người lính xuất than từ tầng lớp nông dân.
b. Bốn câu sau nhớ cảnh chia tay trên nền sông nước miền Tây Bắc thơ mộng:
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”
Bằng hàng loạt câu hỏi tu từ “ có thấy, có nhớ”, nhằm tái hiện lại giờ phút chia tay
bên dòng sông. Cảnh và người miền Tây Bắc đang hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ.
Thời gian chia tay là vào buổi chiều, không gian của dòng sông là một màu trắng của
“chiều sương ấy”, hai bên bờ sông hoang vắng như thời tiền sử, chỉ phất phơ, xào xạc
trong gió những “hồn lau”. Nổi bật trên dòng sông là sự mềm mại, uyển chuyển của các
cô gái trên chiếc thuyền độc mộc với những bông hoa rừng “đong đưa” làm duyên cùng
dòng nước lũ. Đoạn thơ giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa.
*Sơ kết:Ngòi bút tài hoa, tinh tế của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi, làm hiển hiện
trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và cái hồn của cảnh vật. Đoạn thơ
chỉ tám câu nhưng chất thơ và chất nhạc, chất họa hòa quyện với nhau đến mức mà khó
tách biệt. Thiên nhiên và con người có sự sóng đôi tạo nên hình ảnh thơ giàu chất trữ
tình. Bút pháp lãng mạn, tài hoa của tác giả đã khắc họa nên bức tranh đặc sắc về cảnh và

8
người miền Tây Bắc. Qua đó, ta thấy tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống của người
lính Tây Tiến.
3. Chân dung của người lính Tây Tiến ( Đoạn 3 – 8 câu tiếp theo):
Tác giả đã lựa chọn những nét có thực, tiêu biểu của người lính Tây Tiến. Đó là bi
mà không lụy, bi mà rất hào hùng, hào hùng mà không xơ cứng, hào hùng mà vô cùng
lãng mạn. Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài bi tráng về hình ảnh đoàn quân Tây Tiến
bằng ngòi bút lãng mạn, được điểm tô bằng tinh thần xả thân vì nước.
a. Hai câu thơ đầu miêu tả ngoại hình của người lính Tây Tiến:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Thơ ca thời kháng chiến chống Pháp, khi viết về người lính, thường nói đến căn bệnh
sốt rét hiểm nghèo. Dưới ngòi bút của Quang Dũng, sự thật nghiệt ngã ấy được thể hiện
bằng hình ảnh “không mọc tóc”.Từ đó, người đọc liên tưởng đến người lính bị sốt rét
rừng rụng tóc, trọc đầu. Nhưng cũng có thể là hình ảnh của anh vệ quốc trọc đầu trong
buổi đầu kháng chiến, vì họ phải cạo trọc đầu để thuận tiện cho việc đánh giáp lá cà với
giặc. Hình ảnh “quân xanh màu lá” giúp người đọc liên tưởng đến nước da xanh xao vì
đói khát, bệnh tật, hay cũng có thể là màu xanh của lá ngụy trang để che mắt quân thù.
Hai hình ảnh trên dù hiểu theo nghĩa nào thì tác giả vẫn khẳng định họ “dữ oai hùm”.
Người lính vẫn giữ được sự oai phong của hổ nơi rừng thiêng, nước độc Tây Bắc, hình
ảnh bi mà rất hào hùng.
b.Hai câu thơ tiếp theo nói về tâm hồn của người lính Tây Tiến:
“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Nét oai hùng của đoàn quân Tây Tiến được thể hiện ở hình ảnh hoán dụ “mắt trừng”.
Mắt trừng là ánh mắt giận dữ khi nhìn kẻ thù. Ngoài ra mắt trừng còn chỉ tư thế gìn giữ
biên cương và tinh thần trách nhiệm cao và họ nuôi giấc mộng tiêu diệt quân thù “ gửi
mộng qua biên giới”. Người chiến sĩ Tây Tiến, đêm đêm vẫn mơ về Hà Nội với “dáng
kiều thơm”. “Dáng kiều thơm” gợi vẻ đẹp yêu kiều, thướt tha, thanh lịch của người thiếu
nữ Hà Thành. Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực mà tinh tế tâm trạng của những
người chiến sĩ xuất thân từ tầng lớp tri thức Hà Nội. Nếu họ xuất thân từ tầng lớp nông
dân thì họ nhớ giếng nước, gốc đa ( “Đồng chí” của Chính Hữu).
c. Hai câu thơ tiếp theo thể hiện lí tưởng chiến đấu cao đẹp của người lính
Tây Tiến:
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Bi thương là nét có thực khi nhớ về Tây Tiến. Nhưng nét bi ấy đã được tác giả nâng
lên thành nét hùng. Hình ảnh “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ” là trên đường hành quân,

9
người chiến sĩ nhìn thấy những nấm mồ của đồng đội nằm rải rác nơi rừng hoang biên
giới lạnh lẽo. Nhưng đó là cái chết bất tử cho Tổ quốc trường tồn, nên được thể hiện bằng
hàng loạt từ Hán Việt trang trọng “biên cương, mồ viễn xứ, chiến trường”. Mặt khác
người chiến sĩ không hề chùn bước khi thấy đồng đội của mình hi sinh. Bởi cái chết đối
với họ nhẹ tựa lông hồng “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ nguyện đem tuổi
thanh xuân mình hiến dâng cho Tổ quốc. Qua đó, ta có thể thấy bức tượng đài về những
người chiến sĩ bỗng trở nên sáng rực, oai phong đến lạ thường.
d. Hai câu cuối: Đoạn thơ khép lại với hình ảnh về sự hi sinh của người
lính Tây Tiếnhùng tráng, mang màu sắc cổ điển:
“ Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sự thật bi thảm “ Áo bào thay chiếu anh về đất”, hình ảnh này giúp người đọc liên
tưởng đến người chiến sĩ Tây Tiến hy sinh trong manh chiếu che thân. Nhưng qua cái
nhìn của Quang Dũng, họ lại được khoác “áo bào”. Bởi Quang Dũng muốn tư thế ngã
xuống của người chiến sĩ hào hùng như những chiến binh năm xưa, nhằm ca ngợi sự hi
sinh cao đẹp của họ. Biện pháp tu từ nói giảm “anh về đất”, nhằm để chỉ cái chết của
người chiến sĩ thật là thanh thản vì họ đã hoàn thành nhiệm vụ đối với Tổ quốc. Nghệ
thuật nhân hóa “ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”, nhằm diễn tả dòng sông như đồng
cảm, nghiêng mình tấu lên khúc nhạc hoành tráng “khúc độc hành” để tiễn đưa linh hồn
người chiến sĩ về với đất mẹ. Câu thơ giàu chất sử thi nhằm ca ngợi sự hi sinh của người
chiến sĩ, đồng thời cũng lí giải vì sao khi nhớ về Tây Tiến thì cảm xúc đầu tiên của tác
giả là nhớ về con sông Mã bằng tiếng gọi thân thương “sông Mã xa rồi”. Trong cái tiếng
gầm của sông Mã, còn có cả tiếng khóc cố nén sự tiếc thương vô hạn đối với những
người con trung hiếu, dũng cảm, kiên cường của Tổ quốc đã mãi mãi ra đi. Đó là sự hi
sinh thấm đẫm tinh thần bi tráng.
*Sơ kết: Hình tượng người lính trong đoạn thơ được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn,
sử thi. Với giọng điệu trang trọng, cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Qua đó, đã khắc họa nên
bức tượng đài về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa.
Đồng thời thể hiện thái độ trân trọng, kính cẩn và niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ
trước sự hi sinh thầm lặng, nhưng anh dũng của người lính Tây Tiến. Đoạn thơ nói riêng,
cũng như toàn bài thơ nói chung, đã góp phần làm phong phú thêm cho thơ ca viết về
hình tượng người lính trong văn học Việt Nam. Đây cũng là đoạn thơ tiêu biểu cho phong
cách thơ Quang Dũng: phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
4. Lời thề của người lính Tây Tiến ( Đoạn 4 – 4 câu cuối):
“ Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
Câu thơ khẳng định “Tây Tiến người đi không hẹn ước”, nhằm khẳng định tinh thần
một đi không trở lại, nếu không lập được chiến công. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn
khắc họa hình ảnh ra đi của người lính không xác định thời gian trở về. Cả loạt từ: “ thăm

10
thẳm, không hẹn ước, chia phôi” thể hiện cuộc trường chinh nhiều gian khổ, mất mát,hi
sinh. Tuy vậy, nhưng người lính ra đi với quyết tâm dứt khoát sống chết cùng đồng đội
và gắn bó với miền Tây Bắc. Lời thề này đã thấm sâu vào trong tư tưởng và tình cảm của
đoàn quân.
“ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Câu thơ khẳng định “ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” là lời thề sống đánh giặc, chết
cũng đánh giặc. Câu thơ này có sự tương đồng với câu thơ: “ Sống đánh giặc, thác cũng
đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh”, trong “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn
Đình Chiểu. Hai câu kết vang lên khỏe khoắn như một lời thề sắt son với Tổ quốc. Qua
đó, ta thấy lý tưởng của họ cao cả biết bao.
III. TỔNG KẾT:
Tây Tiến là một thi phẩm đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Với cảm hứng
lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính
Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng
người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng, không chỉ gợi lên niềm tự
hào về tuổi trẻ Việt Nam anh hùng trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp, mà nó sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc bởi lí tưởng sống cao cả, sẵn
sang xả thân vì Tổ quốc.

VIỆT BẮC
- Tố Hữu –
PHẦN MỘT: TÁC GIẢ
1.Vài nét về tiểu sử:
-Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê Thừa Thiên Huế.
-1938, được kết nạp vào Đảng cộng sản, từ đó sự nghiệp thơ ca gắn liền với sự nghiệp
cách mạng của ông. Tố Hữu từng từng giữ nhiều trọng trách trong bộ máy lãnh đạo của
Đảng và Chính phủ.
-Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 1996.
2. Đường cách mạng – đường thơ:
-Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn học cách mạng Việt Nam. Các chặng
đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng
đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc. Đồng thời cũng
là những chặng đường thể hiện sự vận động trong quan điểm, tư tưởng và bản lĩnh nghệ
thuật của chính nhà thơ:

11
+Chặng đường đầu tiên với tập thơ “Từ ấy” (1937-1946). Đây là chặng đường đánh dấu
bước trưởng thành của người thanh niên yêu nước, quyết tâm đi theo ngọn cờ của Đảng.
+Chặng đường kháng chiến chống Pháp với tập thơ “Việt Bắc” (1946-1954). Đây là khúc
ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến.
+Chặng đường thứ ba với tập thơ “Gió lộng” (1955-1961). Cảm hứng dạt dào, suy ngẫm
về quá khứ, cảm xúc hân hoan về công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc, nỗi
đau chia cắt và tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt.
+Chặng đường chống Mỹ với hai tập thơ “Ra trận” (1962-1971), “Máu và hoa” (1972-
1977). Âm vang, khí thế quyết liệt, hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
và niềm vui toàn thắng.
+Chặng đường sau khi đất nước thống nhất với hai tập thơ “Một tiếng đờn” (1992), “Ta
với ta” ( 1999). Đánh dấu bước chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu, với nhiều cảm xúc,
chiêm nghiệm, suy tư.
3.Phong cách thơ Tố Hữu:
-Về nội dung: Thơ Tố Hữu mang đậm tính chất trữ tình – chính trị:
+Hồn thơ luôn hướng đến cái ta chung, với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của
con người cách mạng của cả dân tộc.
+Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi: Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng lịch sử - dân tộc.
Nổi bật trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh cộng đồng. Những tư tưởng, tình cảm và
vấn đề lớn lao, được nhà thơ thể hiện qua giọng thơ mang tính chất tâm tình, tự nhiên,
đằm thắm.
-Về nghệ thuật: Thơ Tố Hữu đậm tính dân tộc: Thể thơ lục bát truyền thống, sử dụng
ngôn ngữ, cách nói dân gian và phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt.

PHẦN HAI: TÁC PHẨM “VIỆT BẮC”


( Trích )
I.GIỚI THIỆU:
1.Hoàn cảnh sáng tác:
Việt Bắc trong những năm kháng chiến là cơ quan đầu não, là căn cứ địa cách mạng.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ – ne – vơ được kí kết, hòa bình được lập
lại, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền
núi về miền xuôi, trung ương Đảng và Chính Phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện
lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ này và được in trong tập “Việt Bắc”. Bài thơ gồm hai
phần: Đoạn trích sách giáo khoa thuộc phần đầu –Tái hiện những kỉ niệm cách mạng và
kháng chiến.
2.Chủ đề:

12
Qua việc tái hiện cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng, nhà thơ ca ngợi
tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của người Việt Bắc đối với cách mạng. Từ đó bài thơ vẽ
ra viễn cảnh tươi đẹp của đất nước hòa bình trong mối tình gắn bó thủy chung của miền
xuôi – miền ngược và lòng biết ơn sâu nặng đối với Đảng, với Bác Hồ của nhân dân ta.
3.Thể loại, kết cấu:
- Thể thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, phù hợp với khung cảnh chia tay.
- Kết cấu theo lối hát đối đáp giao duyên, nhằm diễn đạt tâm tình người đi – kẻ ở.
- Cặp đại từ nhân xưng “mình-ta”, trong ca dao dùng để thể hiện tình yêu đôi lứa. Còn
trong “Việt Bắc” nhằm để thể hiện sự gần gũi, thân mật, gắn bó không thể tách rời, giữa
cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.
- Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là sự lưu luyến, nhớ nhung, được thể hiện ở điệp từ “nhớ”
và các từ ngữ thể hiện tâm trạng của tình yêu như “thiết tha, mặn nồng, bâng khuâng”…,
làm cho chuyện tình nghĩa của cách mạng đến với lòng người thật nhẹ nhàng, êm ái.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Tâm tình buổi chia tay ( khổ 1 và khổ 2 – 8 câu đầu):
a.Lời người ở lại (Khổ 1):
“ Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Ở đoạn thơ này “mình” là cán bộ cách mạng, “ta” là nhân dân Việt Bắc. Bằng hàng
loạt câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”?, “mình có nhớ không”?, vang lên một cách day dứt,
chứng tỏ người ở lại nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, nên lên tiếng trước để ướm hỏi
người cán bộ cách mạng, khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội có còn nhớ Việt Bắc chăng?
Người ở lại nhắc người ra đi hãy nhớ thời gian mười lăm năm, thời gian ấy mang âm
hưởng ca dao và nghệ thuật trong truyện Kiều, cùng với từ láy “thiết tha”, gợi cho người
đọc liên tưởng đây là thời gian riêng của tình yêu đôi lứa. Nhưng đó lại chính là thời gian
cách mạng từ 1940 khởi nghĩa Bắc Sơn, đến 1954 hòa bình lập lại. Đây là khoảng thời
gian nhân dân Việt Bắc và cán bộ Việt Minh gắn bó máu thịt để cùng nhau kháng chiến
chống thực dân Pháp và phát xít Nhật.
Người ở lại nhắc nhở người ra đi, khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội hãy nhớ không gian
Việt Bắc. Đó là một vùng căn cứ địa cách mạng, được thể hiện ở hình ảnh liên tưởng “
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”, đây còn là cách nói hồn nhiên, chân thật của
người miền núi, nhằm nhắc người cán bộ cách mạng khi về Hà Nội nhìn cây Hà Nội nhớ
núi rừng Việt Bắc, nhìn sông ở Hà Nội nhớ suối nguồn Việt Bắc. Ngoài ra “cây, núi,

13
sông, nguồn” là những hình ảnh thiên nhiên có thực, nhưng gợi ra quy luật của tình cảm
là dù ở đâu cũng cần hướng về cội nguồn cách mạng “ Quê hương cách mạng dựng lên
cộng hòa”.
b. Nhớ cảnh chia tay ( khổ 2):
“ Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
Đại từ phiếm chỉ “ai” và từ láy “tha thiết” đã níu chân người ra đi, cho thấy người
cán bộ cách mạng trong giờ phút chia li lòng bị níu lại, bởi họ cảm nhận được tiếng nói
ân tình của người Việt Bắc gửi gắm trong lời nhắn nhủ thân mật, thiết tha. Tình cảm này
đã làm cho người cán bộ Việt Minh ra đi mang hai tâm trạng hoàn toàn trái ngược nhau,
được thể hiện qua hai từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn”. Tâm trạng “bâng khuâng
trong dạ” cho thấy người ra đi bịn rịn không muốn rời xa cảnh và người Việt Bắc, nhưng
trong lòng lại “bồn chồn bước đi”, họ muốn nhanh chóng trở về Hà Nội, vì ở đó còn có
rất nhiều công việc đang chờ đón họ.
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” ( áo nhuộm bằng củ chàm có màu xanh đen), nhằm để
chỉ nhân dân Việt Bắc là người đưa tiễn cán bộ cách mạng về xuôi. Đây là hình ảnh mà
người ra đi luôn mang theo, là động lực để họ tiếp tục sự nghiệp cách mạng của mình, bởi
áo chàm đã trao cho họ một tình cảm chân thành, mộc mạc.
Hình ảnh “ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” phản ánh đúng tâm trạng của buổi
chia tay, họ không nói được gì vì nghẹn ngào, hay có nhiều điều để nói mà ngôn ngữ
không đủ sức diễn tả cho nên họ không nói gì, họ chỉ cầm tay nhau cũng chính là lúc họ
hiểu nhau nhiều nhất. Ngoài ra dấu chấm lửng ở cuối câu thơ còn là khoảng không im
lặng, nghẹn ngào trong cảm xúc.
*Sơ kết:Hai khổ đầu của bài thơ, đã khắc họa cảnh chia tay đầy xúc động, với những lời
tâm tình chứa chan cảm xúc của hai nhân vật trữ tình. Người đọc thấy được trong đó tình
yêu thương tha thiết, sự gắn bó sâu nặng giữa người đi và kẻ ở. Qua đó, nhà thơ diễn tả
nỗi xúc động, sự lưu luyến, tình cảm thắm thiết của đồng bào Việt Bắc với người cán bộ
kháng chiến. Kết cấu đối đáp, cách sử dụng cặp đại từ nhân xưng mình-ta, vừa diễn đạt
được cảm xúc, vừa tạo tính dân tộc đậm đà cho tác phẩm. Tố Hữu đã diễn đạt vấn đề
chính trị bằng một hình thức nghệ thuật trữ tình, nên gây được sự đồng cảm sâu sắc trong
lòng người đọc.
2.Người ở lại nhắc người ra đi về những năm tháng kháng chiến gian khổ
( khổ 3- 12 câu tiếp theo):
a. Kỉ niệm những ngày đầu kháng chiến gian khổ, nhưng đầy ân tình
( 4 câu đầu):

14
Hình thức lặp “mình đi, mình về, có nhớ” đặt trong hàng loạt câu hỏi khiến đoạn thơ
tràn đầy cảm xúc, gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đầy tự hào và yêu thương. Hai tiếng
“mình đi, mình về” được luân phiên chuyển đổi, gợi hình ảnh người cán bộ kháng chiến
về xuôi mỗi lúc một đi xa dần
“ Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”
Hình ảnh ẩn dụ “mưa nguồn, suối lũ, những mây cùng mù”, kết hợp với cặp từ chỉ
sự tăng cấp “những, cùng” vừa để miêu tả thời tiết ở Tây Bắc thật khắc nghiệt, vừa để
hàm chỉ những gian khổ, thử thách mà cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phải trải
qua trong những năm tháng kháng chiến.
“ Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai.”
Chi tiết có thực “miếng cơm chấm muối”, nhằm phản ánh cuộc sống kháng chiến
thiếu thốn, gian khổ về vật chất, nhưng tinh thần của họ luôn lạc quan. Bởi người cán bộ
cách mạng và nhân dân Việt Bắc có chung một lí tưởng, một mối thù. Cách nói “mối thù
nặng vai”, nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân Pháp, đang đè nặng lên đôi vai của
dân tộc ta.
b. Người dân Việt Bắc thể hiện tình nghĩa gắn bó, sâu nặng đối với người cán bộ
cách mạng ( 4 câu giữa):
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già”.
Nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, lấy nỗi buồn của rừng núi, để thổ lộ thầm kín
nỗi buồn của người dân Việt Bắc khi chia tay người cán bộ cách mạng. Họ buồn đến nỗi
không còn tha thiết trong lao động “ Trám bùi để rụng măng mai để già”, trám bùi và
măng mai là nguồn lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc để nuôi bộ đội đánh giặc,
nay cán bộ cách mạng về xuôi thì họ hái tram, bẻ măng để làm gì? Câu thơ gợi nỗi buồn
trống vắng trong lòng người ở lại.
“ Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”
Cụm từ “những nhà” ý chỉ đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh “hắt hiu lau xám” gợi khung
cảnh hoang vu của núi rừng, mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống nghèo khó. Nghệ
thuật tiểu đối trong câu thơ “ Hắt hiu lau xám><Đậm đà lòng son”, chứa đựng sự tương
phản giữa cuộc sống nghèo khổ về vật chất, nhưng người dân Việt Bắc với phẩm chất cao
đẹp, luôn ân tình thủy chung với cách mạng.
c. Người ở lại nhắn nhủ người ra đi luôn nhớ cội nguồn cách mạng ( 4 câu cuối):
“ Mình về, còn nhớ núi non

15
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”.
Điệp từ “nhớ” và hình ảnh liệt kê “ Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”, nhằm nhắc
nhở người cán bộ cách mạng luôn nhớ đến cội nguồn cách mạng: Nhớ địa điểm thành lập
quân đội đầu tiên của cách mạng đó là cây đa Tân Trào, nhớ mái đình Hồng Thái là nơi
hội họp quốc dân lần đầu, khai sinh ra chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Câu thơ “ Mình đi mình có nhớ mình” cũng là lời nhắc nhở người ra đi khi trở về
thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dạ. Hãy luôn là chính mình, hãy nhớ về quá khứ gian
khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.
*Sơ kết: Mười hai câu thơ tạo thành sáu câu hỏi. Mỗi câu thơ đều khắc khoải tâm tình da
diết, những kỉ niệm không thể nào quên của những ngày đầu cách mạng đầy gian khổ,
khó khăn, nhưng quân dân một lòng cùng nhau đánh giặc. Điệp ngữ “mình đi, mình về”
và cấu trúc đối đã diễn tả tình cảm sâu đậm, thủy chung của người dân Việt Bắc đối với
cách mạng.
3.Người ra đi khẳng định tình cảm sắt son của mình ( Khổ 4 và khổ 5 – 10 câu tiếp
theo):
a.Người cán bộ cách mạng khẳng định tấm lòng sắt son chung thủy của mình đối
với Việt Bắc (Khổ 4 - 4 câu đầu):
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”
Cách ngắt nhịp 3/3 “ta với mình/ mình với ta” làm cho người đọc cảm nhận, ta với
mình tuy hai mà một, gắn bó không thể tách rời. Cấu trúc so sánh và tăng tiến “lòng ta
sau trước mặn mà đinh ninh” nhằm nhấn mạnh tình cảm của người ra đi đối với Việt Bắc
bao la và sâu nặng.
Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”, không còn là câu hỏi mà là một lời tâm tình,
tự nhủ. Nhớ Việt Bắc cũng chính là nhớ về cuộc sống của chính bản thân mình. Cách so
sánh đặc biệt “bao nhiêu, bấy nhiêu”, nhằm để cụ thể hóa tình cảm sâu nặng của cán bộ
cách mạng dành cho nhân dân Việt Bắc. Đặc biệt câu thơ “mình đi mình lại nhớ mình”,
thể hiện sự sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu khi vận dụng cặp đại từ nhân xưng “mình, ta”.
Câu thơ có ba từ “mình”, hai từ “mình” đầu được dùng để chỉ cán bộ cách mạng, từ
“mình” thứ ba dùng để chỉ nhân dân Việt Bắc. Câu thơ như khẳng định, người cán bộ
cách mạng không bao giờ quên chính mình trong những ngày khó khăn, gian khổ nhưng
đậm nghĩa tình với Việt Bắc.
b. Nỗi nhớ về thiên nhiên và cuộc sống của người Việt Bắc (Khổ 5 - 6 câu sau):

16
“ Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”
Qua hồi tưởng của người cán bộ cách mạng, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật
đẹp, vừa hiện thực, lại vừa thơ mộng, tạo nét đẹp riêng biệt không nơi nào có được. Nỗi
nhớ Việt Bắc được tác giả so sánh “ Nhớ gì như nhớ người yêu”, bởi nỗi nhớ Việt Bắc
tựa nỗi nhớ người yêu, nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ bao trùm lên mọi không gian và thời
gian. Nhớ ánh nắng ban chiều, nhớ ánh trăng buổi tối, nhớ bản làng mờ trong sương sớm,
nhớ bếp lửa hồng trong đêm khuya lạnh, nhớ núi rừng, sông suối mang những tên quen
thuộc, được thể hiện bằng hàng loạt hình ảnh liệt kê “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”. Điệp
ngữ “nhớ từng” làm cho nỗi nhớ thêm da diết, vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc
nên thơ sẽ còn đọng mãi trong kí ức người ra đi.
*Sơ kết: Đoạn thơ chỉ là một mảng nhỏ trong hồi tưởng của nhà thơ về những kỉ niệm
không thể quên, với cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống của Việt Bắc. Tuy nhiên, đó là
những kỉ niệm da diết và sâu đậm luôn thường trực trong nỗi nhớ của tác giả.
4.Nỗi nhớ về cảnh sinh hoạt ở Việt Bắc ( Khổ 6 – 12 câu tiếp theo):
“ Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”
Nhớ Việt Bắc không phải là nỗi nhớ chung chung mà rất cụ thể. Nhớ những ngày
gần gũi “mình đây ta đó”, cùng chia sẻ “đắng,cay,ngọt,bùi”. Có những ngày lũ rừng về
xối xả, mưa rừng ào ào, gạo muối bị cuốn trôi, địch phục kích sau lung…Những đêm bị
sốt rét rừng hành hạ, được các mế, các chị chăm sóc…thấm thía vô cùng tình quân dân
keo sơn gắn bó.
Hàng loạt tính từ “đắng, cay, ngọt, bùi” nhằm thể hiện những khó khăn tột cùng,
nhưng nhờ tinh thần đồng cam cộng khổ giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng,
được thể hiện qua những động từ “chia, sẻ, đắp cùng”. Trong kháng chiến chống Pháp họ
thiếu thốn về vật chất, nhưng họ đã vượt qua được, nhờ họ thương yêu, đùm bọc nhau:
chia từng củ sắn, sẻ bát cơm cho nhau, đắp chăn bằng vỏ cây sui cùng nhau để chống cái
lạnh vùng cao…
“ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”

17
Hình ảnh “ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng. Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, giúp
người đọc cảm nhận, người dân Việt Bắc lao động làm ra của cải vật chất thật khó nhọc,
thế mà họ vẫn sẵn sang nuôi dưỡng cách mạng.
“ Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Điệp ngữ “nhớ sao” được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ của tác giả càng
lúc càng day dứt: Nhớ cảnh học tập của lớp bình dân học vụ, nhớ niềm vui trong đêm liên
hoan, nhớ tinh thần lạc quan, yêu đời của quân dân Việt Bắc, đặc biệt tác giả nhớ âm
thanh đặc trưng của núi rừng Việt Bắc đó là tiếng mõ, tiếng chày.
*Sơ kết: Đoạn thơ cho ta thấy hình ảnh người cán bộ cách mạng nhớ phong cảnh quê
hương cách mạng, con người Việt Bắc và những sinh hoạt đời thường của quân dân Việt
Bắc. Qua nỗi nhớ, nhà thơ gợi lên một Việt Bắc thi vị, hài hòa. Đồng thời, nhắc lại một
thời ở Việt Bắc gian khổ mà ấm áp nghĩa tình, tràn đầy tinh thần lạc quan. Âm hưởng trữ
tình vang vọng, đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình quân dân, tình yêu đất
nước, yêu đời.
5.Nỗi nhớ về cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc ( Khổ 7 – 10 câu tiếp theo):
Cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc mang vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng,
nhưng tiêu biểu nhất và đẹp nhất là bức tranh tứ bình của Việt Bắc qua bốn mùa được thể
hiện trong đoạn thơ.
a. Hai câu đầu nêu cảm xúc chủ đạo của cả đoạn thơ đó là nỗi nhớ về Việt Bắc:
“ Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Ở đoạn thơ này có sự thay đổi đại từ nhân xưng: “Ta” là người cán bộ cách mạng,
“Mình” là nhân dân Việt Bắc. Tác giả sử dụng hai lần cụm từ “ta về” vào cùng một thời
điểm chia tay, nhưng “ta về” ở câu lục là để hỏi người Việt Bắc, còn “ta về” ở câu bát là
để giãi bày lòng mình. Câu thơ “ Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, từ “cùng” trong
“hoa cùng người”, nhằm khẳng định thiên nhiên và con người Việt Bắc có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Qua đó, ta thấy hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa
quyện trong nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng về xuôi.
b. Tám câu sau bức tranh tứ bình Việt Bắc:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

18
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
Ở đoạn thơ này, cảnh và người Việt Bắc hiện lên rất đẹp, rất trữ tình, thơ mộng trong
nỗi nhớ của người đi xa. Bốn cặp câu lục bát có kết cấu đan xen độc đáo: Câu lục nói đến
thiên nhiên, câu bát nói đến con người. Nói đến hoa như thể hiện tình người, nói đến
người lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau tỏa
sáng bức tranh tứ bình Việt Bắc.
Cảnh mùa đông không tàn lụi, lạnh lẽo mà sống động, ấm áp. Giữa rừng xanh bạt ngàn
tha thiết, lại đột ngột bùng lên màu “hoa chuối đỏ tươi” như ngọn lửa của rừng ấm áp tình
yêu:

“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi


Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Theo trình tự thời gian xuân, hạ, thu rồi đến đông. Nhưng ở đoạn thơ này tác giả đi theo
trình tự đông, xuân, hạ, thu. Bởi vì, bài thơ được sáng tác vào tháng mười, tức là vào mùa
đông nên mùa đông được nhắc đến trước. bức tranh mùa đông ở Việt Bắc là một không
gian xanh thẳm, bạt ngàn của núi rừng, được điểm tô màu đỏ tươi của hoa chuối. Phải
chăng màu đỏ của hoa chuối làm cho mùa đông bớt lạnh? Bên cạnh bức tranh mùa đông
là nét đẹp khỏe khoắn của con người Việt Bắc với hình ảnh “ Đèo cao nắng ánh dao gài
thắt lưng”. Hình ảnh hoán dụ “dao gài thắt lưng”, lấy con dao đi rừng – vật bất li thân
của người dân miền núi, để vẻ nên nét đẹp đặc trưng của con người Việt Bắc, họ hùng vĩ,
kiêu hãnh, thách thức trước cái lạnh của núi rừng, trước độ cao của đèo. Giữa “ Rừng
xanh hoa chuối đỏ tươi”, đã nổi bật lên hình ảnh người lao động miền núi chăm chỉ làm
việc “ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Cảnh mùa xuân cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân), là sự chuyển màu
trong bức tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi
của hoa mơ khi mùa xuân đến:
“ Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Bức tranh mùa xuân bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ, thời gian ở đây được chỉ rất rõ
“ngày xuân” với gam màu trắng là gam màu đặc trưng. Câu thơ đem lại cho người đọc
cảm nhận không khí xuân lan tràn, không gian núi rừng mênh mông, thiên nhiên Việt Bắc
giàu sức sống. Giữa sự tinh khiết của màu trắng hoa mơ là hình ảnh người đan nón chuốt

19
từng sợi giang. Động từ “chuốt” gợi sự cần mẫn, chịu thương, chịu khó trong lao động
của người dân Việt Bắc. Họ kết từng sợi nhớ sợi thương trong công việc đan nón tỉ mẫn
hàng ngày. Trong sắc xuân của thiên nhiên, đất trời, con người chính là chủ nhân của bức
tranh xuân, đang tô điểm cho sắc xuân bằng tình yêu lao động.
Cảnh mùa hè được chuyển sang gam màu vàng của “rừng phách” – Một loại cây phổ
biến ở rừng núi Việt Bắc:
“ Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Bức tranh mùa hạ buộc người đọc phải cảm nhận bằng cả thính giác và thị giác.
Tiếng ve kêu báo hiệu hè về, những ngày xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ
hoa còn kín kẽ trong lá. Khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề
đồng loạt trổ bông, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Đặc biệt động từ “đổ’, trong “rừng
phách đổ vàng” giúp người đọc liên tưởng trong phút chốc màu vàng nhuộm cả rừng
phách. Nổi bật trên nền bức tranh màu vàng là hình ảnh “cô em gái hái măng một mình”.
Cách gọi trìu mến “cô em gái” và động từ “hái” trong “hái măng”, hái chứ không phải là
bẻ hay chặt, thể hiện sự mềm mại, thành thạo trong lao động của cô gái Việt Bắc.
Cảnh mùa thu khép lại bức tranh với đêm trăng trữ tình, bình yên và huyền ảo:
“ Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Bức tranh thu thật êm đềm, thơ mộng và thanh bình biết bao bởi không gian về đêm,
trăng hiện trong đêm thu, dưới rừng thu để chuyển tải một tình thu. Đó là tình yêu hòa
bình “trăng rọi hòa bình”. Đặc biệt điểm vào bức tranh mùa thu huyền ảo ấy là tiếng thu –
Tiếng hát sắt son, thủy chung, ân tình của người dân Việt Bắc.
*Sơ kết: Thể thơ lục bát và cách diễn đạt bằng lời đối đáp của kẻ ở với người đi bằng cặp
đại từ nhân xưng “mình, ta”, khiến cho tình cảm trong bài thơ được thể hiện một cách
vừa kín đáo, tinh tế, vừa đậm đà ý vị dân tộc. Đoạn thơ giàu màu sắc hội họa, từ ngữ giàu
giá trị tạo hình đã vẽ nên bức tranh đầy màu sắc về vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt
Bắc. Cảnh và người hòa quyện thắm thiết, tô điểm cho nhau, tạo nên nét riêng biệt của
mảnh đất Việt Bắc mà không có vùng quê nào có được. Qua đó, thể hiện tình yêu, sự gắn
bó sâu nặng, nỗi nhớ của cán bộ cách mạng đối với miền đất Việt Bắc ân nghĩa, thủy
chung. Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài thơ, đồng thời cũng tiêu biểu
cho phong cách thơ Tố Hữu: Đậm đà tính dân tộc.
6.Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu ( Khổ 8 –10 câu tiếp theo):
“ Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”.
Động từ “lùng” trong “giặc lùng”, và điệp từ “giặc”, nhằm nhấn mạnh tội ác của thực
dân Pháp, đã gây ra cho nhân dân Việt Nam, chúng lùng sục để giết dân lành và triệt tiêu
phong trào cách mạng. Từ “cùng” trong “ Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”, cho thấy
20
thiên nhiên Việt Bắc cũng góp phần cùng bộ đội ta kháng chiến chống Pháp. Thực dân
Pháp càng điên cuồng, tàn bạo bao nhiêu thì nhân dân Việt Bắc, thiên nhiên Việt Bắc,
càng thể hiện tinh thần đoàn kết bấy nhiêu. Họ tạo ra những địa hình hiểm trở để che giấu
cán bộ cách mạng và gây khó khăn cho thực dân Pháp.
“ Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”.
Hàng loạt hình ảnh nhân hóa “núi giăng thành lũy, rừng che bộ đội, rừng vây quân
thù”, cho thấy thiên nhiên cũng giống như con người, hiểu được ý nghĩa của cuộc kháng
chiến chống Pháp là nhằm đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Vì thế cuộc kháng chiến
chống Pháp là cuộc kháng chiến vì chính nghĩa, nên thiên nhiên Việt Bắc tạo nên một địa
hình hiểm trở để che chở cán bộ cách mạng và vây hãm quân thù. Đoạn thơ còn gợi lại sự
kiện quan trọng là quân và dân ta đã chiến thắng giặc Pháp trận Thu Đông 1947, đập tan
âm mưu của Pháp dự định đánh chiếm vào chiến khu Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu
não của cách mạng. Ngoài ra hình ảnh “núi rừng” còn tượng trưng cho sự đông đảo của
từng lớp người Việt Nam tham gia cách mạng đông như rừng, ý chí vững chắc như núi.
“ Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”.
Hình ảnh “ Mênh mông bốn mặt sương mù”, chỉ thời tiết Việt Bắc thật là khắc
nghiệt, trời đầy sương mù. Sương mù dày đặc đã góp phần che mắt quân thù, cản trở tầm
nhìn và con đường tiến công của giặc. Ngoài ra cặp từ ngữ đối “mênh mông đất trời –
chiến khu một lòng”, nhằm nhấn mạnh sự đoàn kết trong chiến đấu của quân và dân ta,
giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc.
“ Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng nhớ sang Nhị Hà…”
Câu hỏi tu từ “ Ai về ai có nhớ không?”, điệp từ “nhớ” và đại từ phiếm chỉ “ai”, cùng
hàng loạt hình ảnh liệt kê về địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng…nhằm
nhắc nhở người ra đi và người ở lại, hãy nhớ đến những địa danh lịch sử, nơi ấy đã xảy ra
những trận đánh lớn giữa ta và địch, quân dân ta đã giành những chiến thắng vẻ vang.
*Sơ kết: Với thể thơ lục bát, âm điệu sâu lắng, hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, vận dụng thành
công các biện pháp tu từ như nhân hóa, liệt kê, điệp từ, điệp ngữ… Đoạn thơ đã bộc lộ
nỗi nhớ, niềm tự hào của người cán bộ cách mạng về một Việt Bắc anh dũng, kiên cường.
7.Tinh thần chiến đấu và khí thế ra trận của quân dân Việt Bắc ( Khổ 9 –
12 câu tiếp theo):
“ Những đường Việt Bắc của ta

21
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”.
Từ láy hoàn toàn chỉ thời gian “đêm đêm”, nhằm chỉ thời gian liên tục, đêm này sang
đêm khác, không ngừng nghỉ, thường xuyên. Hình ảnh so sánh “ Những đường Việt Bắc
của ta, đêm đêm rầm rập như là đất rung”, nhằm nhấn mạnh khí thế ra trận hùng dũng,
rung trời, lở đất của quân dân ta, bởi cuộc kháng chiến của dân tộc ta là cuộc kháng chiến
chính nghĩa, với mục đích đánh đuổi giặc Pháp xâm lược, giành độc lập tự do cho dân
tộc, nên đã tập hợp được các tầng lớp sĩ, nông, công, thương. Những tầng lớp này đại
biểu cho sức mạnh, cho tư tưởng và khát vọng giành độc lập của dân tộc Việt Nam.
“ Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày


Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”.
Những từ, cụm từ chỉ số lượng đông đảo “điệp điệp, trùng trùng, từng đoàn, muôn
tàn lửa bay”, nhằm thể hiện sức mạnh, khí thế của quân dân Việt Bắc. Sức mạnh được chỉ
ra rất cụ thể gồm “quân” và “dân công” ( Bộ đội và nhân dân Việt Bắc) từng đoàn người
ra trận, đoàn quân này tiếp nối đoàn quân kia, liên tục không ngừng nghỉ.
Con đường Việt Bắc về đêm, không chỉ tấp nập bởi bộ đội, dân công, mà còn rực rỡ
bởi ánh sáng, ánh sáng của niềm tin, hi vọng, được thể hiện ở hàng loạt từ ngữ “ánh sao
đầu súng, đỏ đuốc, đèn pha bật sáng” (ánh sáng sao đêm, ánh sáng đuốc, và ánh sáng của
đèn pha xe vận tải quân sự). Hình ảnh ẩn dụ “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày”, nhằm
để chỉ cuộc sống tối tăm, nô lệ của nhân dân ta dưới chế độ thực dân phong kiến. Hình
ảnh “bước chân nát đá”, lấy từ thành ngữ “chân cứng đá mềm”, nhằm thể hiện ý chí
quyết tâm, vượt qua gian khổ, hi sinh để giành thắng lợi của quân dân Việt Bắc.
“ Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
Tác giả liệt kê hàng loạt các địa danh “Hòa Bình, Tây Bắc, Đồng Tháp, An Khê, Việt
Bắc, đèo De, núi Hồng” và điệp từ “vui” nhằm nhấn mạnh tâm trạng sung sướng của
quân dân ta vì đã chiến thắng giặc Pháp với những chiến dịch lớn. Đặc biệt ở đoạn thơ
này, nhịp thơ dồn dập, tạo nên khí thế hùng dũng của quân dân Việt Bắc.
*Sơ kết: Với bút pháp lãng mạn, đoạn thơ đưa người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến
đấu, với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào

22
hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Đoạn thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng
ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại. Qua đó, thể hiện hào khí ngất trời của quân dân ta trong
cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời, tác giả ca ngợi Việt Bắc, ca ngợi cuộc kháng
chiến chống Pháp oanh liệt, hào hùng và vẻ vang của dân tộc ta.
8.Vai trò của Việt Bắc và Bác Hồ ( Khổ 10 và khổ 11 – 16 câu còn lại):
“ Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc việc công”
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ “ Ai về ai có nhớ không?”, cùng với đại từ phiếm
chỉ “ai” (chỉ người cán bộ cách mạng), khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội thì hãy nhớ những
kỉ niệm ở hang Việt Bắc – Thủ đô kháng chiến, nơi ấy những phiên họp của chính phủ
được diễn ra, cuộc họp “luận bàn việc công” – những công việc to lớn, quan trọng của đất
nước. Cuộc họp đầy tinh thần lạc quan của những người cách mạng, được thể hiện ở hình
ảnh “ngọn cờ đỏ thắm, rực rỡ sao vàng”.
“ Điều quân chiến dịch Thu – đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”
Đoạn thơ liệt kê hàng loạt những công việc của cán bộ cách mạng “điều quân, giao
thông mở đường, giữ đê, phòng hạn, thu lương, gửi dao miền ngược, thêm trường các
khu”. Nghĩa là cách mạng ta vừa phải đánh giặc thắng lợi “ Điều quân chiến dịch Thu –
đông”, vừa phải phát triển kinh tế đảm bảo lương thực cho hậu phương và tiền tuyến “
Giữ đê, phòng hạn, thu lương”, bên cạnh đó còn phải chăm lo phát triển văn hóa “ thêm
trường các khu”. Nghĩa là cách mạng đang thực hiện chủ trương “chống thù trong giặc
ngoài, diệt giặc đói, giặc dốt”.
“ Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”.
Điệp ngữ “ở đâu” nhằm để nhấn mạnh nhân dân cả nước đang hướng về cách mạng.
Động từ “nhìn lên, trông về” dùng để chỉ hành động tuyệt đối tin tưởng của nhân dân đối
với cách mạng. Hình ảnh Bác Hồ hiện lên trong lòng nhân dân – Bác vừa là một vị lãnh
tụ, vừa là người cha, người bác, người anh, với trái tim vĩ đại đủ sức xóa tan sự u ám, đau
đớn cho giống loài Việt Nam.
“ Mười lăm năm ấy ai quên

23
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.
Cụm từ chỉ thời gian “mười lăm năm ấy”, nhằm để chỉ thời gian gắn bó ân tình, sâu
nặng giữa người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu thơ khẳng định “ai quên,
dựng nên Cộng hòa”, nhằm khẳng định tấm lòng thủy chung, son sắt của người ra đi đối
với Việt Bắc. Bởi vì Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, nơi ấy nuôi dưỡng Đảng và Bác
Hồ trong những ngày kháng chiến gian khổ, để giành thắng lợi, lập nên chế độ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
*Sơ kết:Đoạn thơ khẳng định Việt Bắc là căn cứ địa, chiến khu của kháng chiến, là cơ
quan đầu não của kháng chiến. Hình ảnh Bác Hồ được ngợi ca với một niềm tin yêu,
thành kính: Bác là ánh sáng soi đường, là niềm tin yêu của nhân dân Việt Nam.
III.TỔNG KẾT:
“ Việt Bắc” là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng
chiến và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc
thái dân gian. Tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu: Hãy nhớ mãi mãi và
phát huy truyền thống quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của cách mạng,
của con người Việt Nam.

ĐẤT NƯỚC
(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”)
- Nguyễn Khoa Điềm –
I.GIỚI THIỆU:
1.Tác giả:
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Thừa Thiên – Huế. Ông thuộc thế hệ nhà trẻ
trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi cảm xúc
nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về non sông, đất nước và con người Việt
Nam.
2.Hoàn cảnh sáng tác:
Đất nước trích phần đầu, chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Trường
ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Bình Trị Thiên 1971, in
lần đầu 1974 với nội dung thức tỉnh tuổi trẻ thành thị, vùng địch tạm chiếm miền Nam,
có ý thức về đất nước và sứ mệnh của thế hệ mình mà đấu tranh chống đế quốc Mĩ.
3.Chủ đề:

24
Bài thơ thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước – đất nước là sự hội tụ, kết tinh công
sức và khát vọng của nhân dân. Qua đó vẻ đẹp của đất nước được tác giả phát hiện có
chiều sâu, trên nhiều bình diện: Lịch sử, địa lí và văn hóa.
4.Đặc điểm nổi bật:
a.Về nội dung:
Tác giả hòa quyện giữa lí trí và tình cảm, giữa trí tuệ và cảm xúc khi nói về đất nước.
Tác giả tìm về truyền thống để thấy rõ bản chất con người và dân tộc Việt Nam. Ông
không nhìn đất nước qua dáng vẻ bề ngoài mà hướng vào bên trong tâm hồn. Đất nước
xuất hiện gần gũi, thiêng liêng.
b.Về nghệ thuật:
Giọng thơ trữ tình – chính luận. Thể thơ tự do, giàu nhạc điệu. Từ “ Đất Nước” là
danh từ chung nhưng được viết hoa như danh từ riêng, nhằm thể hiện thái độ thành kính
của tác giả. Vận dụng thành công, sáng tạo nhiều yếu tố văn học dân gian.
5.Khái quát chung về bài thơ:
Tác giả mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với người con gái mà mình yêu thương.
Đó là nhân vật “em”, cùng với những dòng thơ tự do, giàu nhạc điệu để giúp người đọc
có điều kiện suy ngẫm về đất nước. Đặc biệt, toàn bài thơ được bao bọc bởi không khí
văn hóa dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của
văn hóa dân gian như ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, truyền thuyết, phong tục tập quán
và văn hóa sinh hoạt trong đời sống hàng ngày của nhân dân. Những chất liệu này đã tạo
nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi thân quen, vừa kì diệu: Đó là sức mạnh gợi lên
hồn thiêng sông núi.

II.PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1. Đất Nước là những gì gần gũi thân quen trong cuộc sống hàng ngày ( 9 câu
đầu):
Đất Nước có từ lâu đời và gần gũi, gắn bó thân thương đối với mỗi con người:
“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Cả một quá trình bốn ngàn năm lịch sử của đất nước được tác giả thể hiện ở hàng loạt cấu
trúc thơ: “Đất Nước đã có rồi, Đất Nước bắt đầu, Đất Nước có từ ngày ấy”, nhằm thể
hiện cả một chiều dài đất nước sinh ra, lớn lên, trưởng thành và trường tồn cho đến ngày
hôm nay. Câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, lời khẳng định rất tự
nhiên, thể hiện sự hình thành lâu đời và bền vững của đất nước ta.
Đất nước hình thành và phát triển từ những phong tục tập quán, văn hóa ngàn đời của
dân tộc:
“ Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể”

25
Đất nước có từ nền văn hóa dân gian ông cha ta để lại. Đất nước gắn liền với những
câu chuyện cổ tích mà thuở ấu thơ ai cũng từng đôi lần nghe bà, nghe mẹ kể. Những câu
chuyện cổ tích ấy, thường bắt đầu bằng cụm từ không xác định thời gian “ngày xửa ngày
xưa”.
“ Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Đất nước gắn liền với phong tục tập quán riêng của dân tộc Việt Nam. Đất nước là
hình ảnh “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Hình ảnh miếng trầu gợi cho ta nhiều liên tưởng.
Trong giao tiếp của người Việt xưa, miếng trầu là đầu câu chuyện. Miếng trầu còn gợi
đến sự tích trầu cau, sự tích này đề cao tình nghĩa vợ chồng, tình cảm anh em. Miếng trầu
còn gợi nhớ phong tục cưới xin của người Việt.
“ Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Đất nước còn là thuần phong mĩ tục quen thuộc của người Việt qua hình ảnh “tóc mẹ bới
sau đầu”. Điều đáng tự hào là từ thuở dựng nước cho đến nay, nước ta thường xuyên có
giặc ngoại xâm. Giặc ngoại xâm luôn nuôi ý đồ đồng hóa dân tộc ta về ngôn ngữ, về văn
hóa, thế mà thuần phong đẹp “tóc mẹ thì bới sau đầu” lại không bao giờ bị đồng hóa.
Đất nước ta từ xa xưa luôn có truyền thống đánh giặc ngoại xâm “giặc đến nhà đàn
bà cũng đánh”, điều này được thể hiện qua câu thơ:
“ Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc”
Đất nước được cảm nhận qua truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân
tộc. Câu thơ gợi nhớ đến bốn ngàn năm lịch sử chống giặc ngoại xâm. Nó còn gắn liền
với truyền thuyết Thánh Gióng và ghi lại giai đoạn dân tộc ta thông minh, sáng tạo biết
chống giặc ngoại xâm bằng vũ khí làm từ tre: gậy tre, đuốc tre, chông tre…Ngoài ra, tre
còn gần gũi với đời sống thường ngày của người Việt Nam: đũa tre, giường tre, rổ tre…
Đất nước còn bắt nguồn từ những đạo lý tốt đẹp:
“ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Đất nước gắn liền với những đạo lí tốt đẹp của dân tộc đó là tình cảm vợ chồng, càng
gian lao khổ ải thì càng phải sắt son, chung thủy, được thể hiện qua thành ngữ “gừng cay
muối mặn”. Thành ngữ này gợi nhớ đến bài ca dao:
“ Tay bưng chén muối dĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”.
Đất nước gắn liền với việc hình thành nên ngôn ngữ:
“ Cái kèo, cái cột thành tên”
Ngôn ngữ được hình thành từ những vật gần gũi, quen thuộc “cái kèo, cái cột”. Cụm
từ “cái kèo, cái cột” là tên gọi những vật dùng để làm nhà – những ngôi nhà tre, nhà lá
mà cha ông ta dùng để che mưa, che nắng.
Đất nước ta có truyền thống cần cù lam lũ:

26
“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng”
Đất nước là truyền thống cần cù, lam lũ trong sản xuất. Đất nước gắn liền với hạt gạo
vì gạo là lương thực chính của người Việt. Nhưng hạt gạo lại được sản xuất theo quy
trình rất Việt Nam, được thể hiện ở hàng loạt động từ “xay, giã, dần, sàng” và thành ngữ
“một nắng hai sương”, chỉ hạt gạo được làm ra bởi bàn tay cần cù, tần tảo của nhân dân.
Bàn tay ấy làm nên sự sống cho đất nước.
*Sơ kết: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn hóa dân gian, với hình thức
thơ trữ tình – chính luận. Chữ “Đất Nước” được viết hoa và lặp lại nhiều lần như một
điệp khúc vừa thể hiện ý nghĩa cao cả, thiêng liêng của đất nước, vừa thể hiện tình cảm
yêu quý, trân trọng đất nước. Từ đó, khắc sâu hình ảnh đất nước vào tâm trí người đọc.
Đất nước không là những khái niệm trừu tượng, mà đất nước là những gì gần gũi, quen
thuộc trong cuộc sống hàng ngày.
2.Cảm nhận đất nước qua phương diện thời gian – lịch sử, không gian – địa lí và
văn hóa phong tục ( Câu 10 – 29 ):
Trong những năm tháng Mĩ – Ngụy chiếm đóng, các đô thị miền Nam chịu ảnh
hưởng nặng nề về tư tưởng, văn hóa nô dịch và phản động, thì việc nhận thức lại khái
niệm đất nước là vô cùng cần thiết. Khi nói về đất nước, tác giả không giải thích, cắt
nghĩa chung chung, mà dùng cách phân hợp khái niệm nhiều lần: “ Đất Nước là…, Đất
là…, Nước là…” để làm rõ đất nước được tạo bởi hai yếu tố “Đất” và “Nước”.
Sáu câu đầu, đất nước là không gian địa lí.
Không gian địa lí hẹp:
“ Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Đất nước là những không gian thân quen, gần gũi, gắn bó với cuộc sống mỗi người.
Đất nước chính là con đường anh đến trường, là cái ao em tắm. Đất nước còn là nơi gieo
mầm hạt giống tình yêu, là nơi mang nỗi tương tư của người con gái “em đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm”. Câu thơ gợi ta liên tưởng đến nỗi nhớ người yêu trong bài ca
dao:
“ Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt…”

27
Không gian địa lí rộng:
“ Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Đất là núi, sông, rừng, biển, khái niệm này thật là quen thuộc. Nhưng Nguyễn Khoa
Điềm rất độc đáo trong việc sử dụng hình ảnh “con chim phượng hoàng, con cá ngư
ông”. Hình ảnh này nhắc ta nhớ đến câu chuyện cổ tích “ hai anh em và cây khế” có con
chim phượng hoàng ăn khế trả vàng. Câu thơ này còn gợi nhớ đến câu hò Bình Trị Thiên:
“ Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc
Con cá ngư ông móng nước ngoài biển khơi”
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo, thay cụm từ “bay ngang hòn núi bạc” thành
“bay về hòn núi bạc”, “móng nước ngoài biển khơi” thành “móng nước biển khơi” để
người đọc dễ dàng cảm nhận niềm tự hào, gắn bó với núi sông hùng vĩ của đất nước.
Bảy câu tiếp theo, đất nước là thời gian lịch sử:
“Thời gian đằng đẳng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Cụm từ chỉ thời gian không xác định “thời gian đằng đẳng”, nhưng người Việt ai
cũng hiểu đó là chiều dài lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc Việt. Chiều dài lịch sử này đã
trải qua biết bao thăng trầm trước nạn ngoại xâm. Đi suốt chiều dài của “thời gian đằng
đẳng, không gian mênh mông”, ta sẽ hiểu rằng đất nước là báu vật, tổ ấm của nòi giống
tiên rồng. Truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ” là bản khai sinh vinh quang cho
nguồn gốc dân tộc Việt. Dải đất này là đất lành nên “chim về”, đất thiêng nên “rồng ở”,
sự kết hợp vĩ đại của rồng tiên đã khai sinh ra dân tộc Việt. Từ đó đến nay đất nước vẫn
che chở và nuôi dưỡng biết bao thế hệ rồng tiên, đất nước là ngôi nhà chung của người
Việt “đất là nơi dân mình đoàn tụ”.
Bảy câu tiếp theo, trách nhiệm của người Việt đối với đất nước:
“ Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại

28
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Đất nước là sự sinh tồn của bao cộng đồng người Việt, trải qua nhiều thế hệ, được thể
hiện ở cặp kết cấu cú pháp “ Những ai đã khuất – Những ai bây giờ”. Vì vậy, mỗi người
đều phải có trách nhiệm bảo tồn nòi giống bằng cách yêu nhau và sinh con đẻ cái. Ngoài
ra còn phải có trách nhiệm, nhắc nhở con cháu hướng về cội nguồn, Tổ tiên với lòng
thành kính thể hiện ở cụm từ “cúi đầu” trong câu thơ “cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ
Tổ”. Câu thơ này gợi đến bài ca dao:
“ Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”.
*Sơ kết: Đoạn thơ sử dụng nhiều chất liệu văn hóa dân gian: ca dao, dân ca, truyện cổ
tích…tạo chiều sâu, định nghĩa sâu sắc và hoàn chỉnh về đất nước, thể hiện sự gắn bó của
mỗi con người đối với đất nước. Đất nước được cảm nhận trên nhiều phương diện: Từ
chiều dài của lịch sử, chiều rộng của không gian địa lí, đến chiều sâu của văn hóa dân tộc.
Đặc biệt, đất nước được cảm nhận trong sự thống nhất, hài hòa giữa cái riêng và cái
chung, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này và thế hệ khác nối tiếp nhau…Đó là
cách cảm nhận mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước bằng quan niệm của tuổi trẻ,
vừa riêng biệt, vừa hết sức độc đáo.
3.Trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đất nước là mối quan hệ giữa cá
nhân và cộng đồng ( Câu 30 – 42 ):
“ Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
Câu khẳng định “Trong anh và em hôm nay, đều có một phần Đất Nước”, nhằm
khẳng định, đất nước không phải là khái niệm xa lạ, mà ở ngay trong máu thịt của ta. Bởi
mỗi người Việt Nam sinh ra đều được hưởng một phần di sản vật chất, tinh thần của đất
nước: Ăn hạt gạo quê hương, lớn lên bằng lời ru yêu thương của bà, của mẹ cũng là của
dân tộc, bập bẹ nói ngôn ngữ Việt…Nên phải có trách nhiệm giữ gìn và truyền lại cho thế
hệ sau.
“ Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Cấu trúc song hành “ Khi hai đứa cầm tay – Khi chúng ta cầm tay mọi người” và
hàng loạt tính từ “hài hòa, nồng thắm, vẹn tròn, to lớn” để chỉ mối quan hệ giữa cá nhân
và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung. Cụm từ “khi hai đứa cầm tay” thể hiện tình
yêu đôi lứa, tình yêu đôi lứa mang đậm dáng dấp quê hương nên “hài hòa nồng thắm”, là

29
cội nguồn để chúng ta “cầm tay mọi người”. Khi ấy mối quan hệ giữa tình yêu đôi lứa và
tình yêu đất nước sẽ làm nên sức mạnh đoàn kết dân tộc trong bốn ngàn năm lịch sử dựng
nước và giữ nước.
“ Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Hình ảnh ẩn dụ “tháng ngày mơ mộng” nhằm chỉ một tương lai sáng ngời của đất
nước mà thế hệ cha ông hằng mơ ước về thế hệ con cháu mai sau “mai này con ta lớn
lên” sẽ đưa đất nước vươn lên tầm cao mới. Ước mơ này của cha ông là lời nhắn nhủ về
trách nhiệm, bổn phận của người Việt và phải luôn tin tưởng vào thế hệ mai sau.
“ Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Cách gọi thân thương “em ơi em” và câu khẳng định “Đất Nước là máu xương của
mình”, nhằm khẳng định để có đất nước hôm nay, ông cha ta phải đổ biết bao xương máu
để giữ gìn và bảo vệ. Điệp ngữ “phải biết”, cùng với các động từ “gắn bó, san sẻ, hóa
thân”, nhằm chỉ ra trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam đối với đất nước. “Gắn bó”
là biết đồng cam cộng khổ với nhân dân, đứng về phía nhân dân chống lại kẻ thù. Cố
gắng vươn lên từ trong gian khó, cống hiến hết sức lực, tài năng để góp phần xây dựng,
bảo vệ đất nước. “San sẻ” là biết chia sẻ ngọt bùi, biết sống tình nghĩa “lá lành đùm lá
rách”, yêu thương giúp đỡ mọi người lúc khó khăn. Sẵn sàng chia sẻ một phần đời sống
vật chất và tinh thần khi Tổ quốc cần. Từ “hóa thân” ở đây có thể hiểu là sự hi sinh của
mỗi con người để làm nên hình hài, dáng vẻ, sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước.
*Sơ kết: Với phong cách thơ trữ tình – chính luận, lời thơ ngọt ngào, tha thiết. Đoạn thơ
thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận sâu sắc về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả
đã nhìn thấy mối quan hệ khăng khít giữa cá nhân và cộng đồng, giữa hiện tại và tương
lai. Từ đó khơi gợi trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đoạn thơ không là
những lời giáo lí khô khan mà là những lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau “em ơi em” và
hình ảnh “khi hai đứa cầm tay”. Lời tâm tình này làm lay động hàng triệu trái tim độc giả.
4.Tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra và do nhân dân cảm thụ
( Câu 43 – câu 89 ):
a.Nhân dân là người làm ra danh lam thắng cảnh ( Câu 43 – Câu 54):
“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những hòn Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

30
Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Những học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Theo cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước chính là những danh lam
thắng cảnh đẹp, kì thú, được tác giả liệt kê: hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non
Nghiên…Những danh lam thắng cảnh này, không chỉ là tặng vật của thiên nhiên, mà còn
phản ánh đời sống của nhân dân và được cảm thụ bằng chính tâm hồn, tình cảm của họ.
Nếu không có những người vợ Việt Nam mòn mỏi chờ chồng đến hóa đá thì làm sao
có núi Vọng Phu
“Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Những học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”
Vậy đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn,
máu thịt của nhân dân. Tác giả đã quy nạp hàng loạt những danh lam thắng cảnh, để đưa
đến một kết luận: Mỗi danh lam thắng cảnh đều mang “một dáng hình, một ao ước, một
lối sống ông cha”. “Một dáng hình” phải chăng đó là dáng hiên ngang của ông cha ta
không chịu khuất phục bất cứ kẻ thù nào? “Một ao ước” của ông cha ta, phải chăng là
một ao ước về cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc? “Một lối sống” phải chăng là lối
sống cần cù, giản dị, thật thà và thủy chung, tình nghĩa?
*Sơ kết: Đoạn thơ có cấu trúc quy nạp, đi từ liệt kê các hiện tượng cụ thể, đến khái quát
manh tính triết lí sâu sắc. Dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng
cảnh, đồng thời cũng là nét đẹp văn hóa của dân tộc nên đã khẳng định: Trên không gian
địa lí đất nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa, được làm ra bởi sự hóa thân của
bao cuộc đời, bao tâm hồn con người Việt Nam.
b.Nhân dân đã làm nên tiến trình lịch sử bốn ngàn năm của đất nước ( Câu 55 – câu
72):

31
“ Em em ơi
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước”
“ Em em ơi” cách xưng hô thân thương, trìu mến và giọng điệu tâm tình như lời nhắc
nhở thế hệ trẻ ngày nay “hãy nhìn rất xa, vào bốn nghìn năm Đất Nước”. Câu thơ hàm
nghĩa, thế hệ trẻ Việt Nam hãy nhìn vào quá khứ, lịch sử bằng cách lật những trang sử
vàng của đất nước với niềm say mê, tự hào.
“ Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng”
Khi Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở thanh niên hãy nhìn về quá khứ lịch sử bốn ngàn
năm, tác giả không nhắc đến những triều đại hùng mạnh như Lý, Trần, Lê…với những
người anh hùng nổi tiếng như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ…mà chỉ muốn
nhấn mạnh đến vai trò của nhân dân – những người bình thường trong xã hội, bằng câu
so sánh “con gái, con trai bằng tuổi chúng ta”. Bởi lẽ trong giai đoạn đất nước hòa bình,
họ quanh năm suốt tháng “năm tháng nào”, họ cũng cần mẫn, chịu thương, chịu khó lao
động trên mặt trận sản xuất, để làm ra của cải làm giàu cho bản thân và đất nước, được
thể hiện ở cụm động từ “cần cù làm lụng”.
“ Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
Cụm từ “khi có giặc” để chỉ đất nước trong thời chiến. Khi đất nước có ngoại xâm,
nhân dân tự giác phân công trách nhiệm gánh vác một cách hợp lí “người con trai ra trận,
người con gái trở về nuôi cái cùng con”. Câu thơ thể hiện khi Tổ quốc lâm nguy, người
con trai phải gánh trách nhiệm bảo vệ đất nước, còn người phụ nữ đảm trách vai trò hậu
phương: nuôi con và sản xuất lương thực.
“ Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
Câu khẳng định “ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” nhằm nhấn mạnh khi Tổ
quốc lâm nguy thì người phụ nữ cũng tham gia giết giặc một cách dũng cảm, kiên cường,
mưu trí. Điệp từ “nhiều”, “anh hùng” trong câu thơ “nhiều người trở thành anh hùng,
nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” đã khẳng định những người phụ nữ bình thường,
quanh năm đầu tắt mặt tối lo ruộng đồng, nhưng khi Tổ quốc gọi họ đã dũng cảm cầm vũ
khí giết giặc và đã trở thành những người anh hùng của đất nước như bà Trưng, bà Triệu,
Lê Chân, Võ Thị Sáu…
“ Nhưng em biết không

32
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm”
Câu hỏi tu từ “nhưng em biết không” và cặp từ đối “sống – chết”, như một lời tự
bạch đầy tự hào về quan niệm sống chết của người Việt “chết vinh còn hơn sống nhục”.
Vì vậy cuộc sống đối với họ thật giản dị, áo nâu chân đất “gái trai cũng một áo nâu
nhuộm bùn”, “canh rau muống cà dầm tương”, nhưng là cuộc sống do chính bàn tay cần
cù lao động của họ làm ra với tình yêu quê hương đất nước. Khi Tổ quốc lâm nguy, họ
không chấp nhận cuộc sống nô lệ, nên họ tình nguyện cầm vũ khí đánh giặc, nếu phải hi
sinh họ cũng xem đó là chuyện bình thường “bình tâm”.
“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Cấu trúc câu phủ định mà ý khẳng định “ Không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng họ đã làm
ra Đất Nước”, cho thấy tác giả đề cao sự hi sinh thầm lặng của nhân dân, họ là những
chiến sĩ bình dị, vô danh trong suốt bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Họ tuy không
để lại tên tuổi, nhưng chính họ là những người làm ra bốn ngàn năm lịch sử của đất nước.
“ Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân”
Điệp từ “họ” kết hợp với phép liệt kê, hình thức lặp cấu trúc cùng các động từ “giữ,
chuyền, truyền, gánh, đắp đập, be bờ”, nhằm nhấn mạnh vai trò của nhân dân. Trong quá
trình sinh sống, các thế hệ bằng sự cần cù, lòng yêu nước đã tạo ra, gìn giữ và truyền lại
cho thế hệ sau những giá trị vật chất (hạt lúa, cách tạo lửa, giữ lửa bằng than, con cúi, đắp
đập, be bờ…), cùng các giá trị tinh thần (ngôn ngữ, tên xã, tên làng…). Những điều ấy,
đã góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc và để lại cho thế hệ sau truyền thống chống giặc
ngoại xâm, nội thù để bảo toàn bờ cõi, được thể hiện qua động từ “vùng lên”, trong lối
điệp cấu trúc “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm, có nội thù thì vùng lên đánh bại”, để
cuối cùng nhà thơ đi đến sự khẳng định đầy tự hào “để Đất Nước này là Đất Nước của
nhân dân”.

33
*Sơ kết: Tác giả đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, vừa cụ thể, gần
gũi với đời sống, vừa có ý nghĩa khái quát, giàu sức suy tư. Bằng giọng thơ trữ tình –
chính luận sâu lắng, thiết tha. Đoạn thơ là bức tượng đài kì vĩ khẳng định, ca ngợi vai trò
chủ thể của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Từ đó góp phần làm nỗi
bật tư tưởng chủ đạo của đoạn trích: Đất nước là của nhân dân.
c.Nhân dân là người làm ra kho tàng văn học dân gian ( Câu 80 – câu 89):
“ Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Câu thơ gồm hai vế song song “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần
thoại”, nhằm đưa người đọc về với cội nguồn văn hóa dân gian.
“ Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Cả một kho tàng văn hóa dân gian, nhưng tác giả chỉ chọn ba câu, nhằm thể hiện ba
phương diện quan trọng nhất trong truyền thống của người Việt Nam: Người Việt nam
say đắm trong tình yêu được thể hiện ở câu thơ: “ Yêu em từ thuở trong nôi”. Câu thơ
này gợi nhớ đến bài ca dao:
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”
Người Việt Nam quý trọng tình nghĩa, xem nhẹ vật chất được thể hiện ở câu thơ: “
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ này gợi nhớ đến bài ca dao:
“ Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
Người Việt Nam quyết liệt trong căm thù và chiến đấu được thể hiện ở câu thơ: “ Biết
trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu”, được tác giả lấy ý từ bài ca
dao:
“ Thù ấy ắt hẳn đợi lâu
Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh quàng”
*Sơ kết: Đoạn thơ có sự đan dệt của những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, vô vàn
phong tục tập quán một cách sáng tạo. Điều có ý nghĩa nhất là chất liệu này được nhà thơ

34
tái sinh bằng cảm xúc mảnh liệt của người nghệ sĩ am hiểu và vô cùng yêu quý, trân trọng
kho tang văn hóa, văn học do chính nhân dân tạo nên. Tất cả cảm xúc được thể hiện trong
nguồn ánh sáng mới của tư tưởng: Quần chúng nhân dân làm nên lịch sử, văn hóa của đất
nước.

III.TỔNG KẾT:
Đoạn trích thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được
phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa…Đóng góp riêng của
đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” bằng hình thức biểu đạt
giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha. Các chất liệu văn hóa
dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích.

SÓNG
- Xuân Quỳnh –
I.GIỚI THIỆU:
1.Tác giả:
Xuân Quỳnh (1942 – 1988), quê ở Hà Tây. Xuân Quỳnh là một trong số những nhà
thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng
lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm
thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Các tác phẩm
chính như: “Hoa dọc chiến hào”, “Gió lào cát trắng”, “Tự hát”…Năm 2001, Xuân Quỳnh
được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
2.Tác phẩm:
a.Hoàn cảnh sáng tác:
“Sóng” được sáng tác năm 1967 trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền
(Thái Bình) và được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968)
b.Chủ đề:
Bài thơ cho thấy trái tim người phụ nữ đang yêu soi mình vào sóng để thấy lòng mình,
nhờ sóng mang tâm trạng của mình đến với đại dương, cuộc đời và biển lớn tình yêu.
c.Ý nghĩa nhan đề:
- Nghĩa thực: Sóng là hiện tượng tự nhiên của biển cả.
- Nghĩa liên tưởng: Sóng là hình ảnh ẩn dụ gợi ra nhiều liên tưởng: Sự phong phú trong
tâm hồn người con gái đang yêu. Sóng là sự hóa thân của nhân vật “em”. Nhân vật “em”
soi mình vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng thể hiện tâm trạng yêu của mình.
3.Cảm nhận khái quát:

35
a.Nét đẹp của hình tượng sóng:
Sóng là gương mặt, là nhịp thở, là mạch đập con tim của biển cả. Sóng hiền hòa dịu
êm, nhưng cũng có lúc phong ba dữ dội. Sóng cứ vỗ vào bờ triền miên như nỗi nhớ tình
yêu không bao giờ tắt. Xuân Quỳnh đã tìm thấy ở sóng một ý nghĩa ẩn dụ cho tình yêu
mãnh liệt. Hay nói khác đi Xuân Quỳnh đã lấy sóng biển để biểu lộ sóng tình của người
con gái đang yêu.
b.Hình tượng sóng được lặp lại nhiều lần trong bài:
Toàn bộ bài thơ, sóng được lặp đi lặp lại nhiều lần, với những vị trí khác nhau: đầu,
giữa, hay cuối câu, với mục đích tái hiện những vẻ đẹp khác nhau, những trạng thái khác
nhau của sóng và những đối cực của nó: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, ngày xưa –
ngày sau, dưới lòng sâu – trên mặt nước…Sóng được soi chiếu ở nhiều góc độ làm cho
nó mang vẻ đẹp phong phú, đa dạng, vừa thực lại vừa ảo. Cùng song song, tồn tại với
hình tượng sóng là “em”, hai hình tượng này soi rọi vào nhau trong biển lớn của tình yêu.
Vì vậy, thật khó phân biệt đâu là trăn trở của sóng, đâu là nhịp đập trái tim của em.

III.PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1. Đặc tính của sóng cũng là của người con gái đang yêu ( Khổ 1 và khổ 2):
“ Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Xuân Quỳnh đã khám phá ra hai mặt đối lập nhau của sóng và khéo léo liên kết
những mặt đối lập ấy bằng hai từ “và”, cùng bốn tính từ liên tiếp “dữ dội, dịu êm, ồn ào,
lặng lẽ”, làm cho câu thơ trở nên gợi hình. Sóng ngoài đại dương rất dữ dội, cuồng
phong, nhưng khi hôn lên bờ cát trắng thì thật dịu êm. Sóng ngoài đại dương thật ồn ào,
nhưng khi vỗ vào bờ thật lặng lẽ. Vậy sóng mang hai trạng thái trái ngược nhau: “dữ dội
– dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ”. Trạng thái đối lập của sóng cũng như muôn hình vạn trạng
của thiên nhiên đất trời: ngày – đêm, buồn – vui, sống – chết… Từ đó, giúp ta liên tưởng
đến quy luật của tình yêu, tình yêu là sự dung hòa của những sắc thái tình cảm, tưởng
chừng như đối lập nhưng lại rất thống nhất ( buồn mà vui, giận mà thương, xa mà gần…).
Tính khí của người con gái khi yêu cũng giống như sóng, như quy luật của tình yêu thôi.
Nó mang nhiều trạng thái đối lập nhau. Vì vậy, theo nhà thơ, muốn hiểu được tình yêu
của người thiếu nữ, người con trai cần phải vượt qua vẻ bên ngoài thất thường, nông nỗi
của người con gái (vui đó rồi buồn đó) thì sẽ khám phá được cái dịu êm, lặng lẽ bí ẩn của
người con gái.
“ Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Câu thơ mang hình ảnh nhân hóa “sông không hiểu nổi mình” cho nên “sóng tìm ra
tận bể”, như một lời khẳng định: Sóng ở sông không thể là sóng lớn, muốn biết sóng lớn
như thế nào thì sóng phải ra biển. Cũng giống như người con gái, khi trái tim đã biết đập

36
“những nhịp đập không bình thường”, họ thường khát khao vượt qua cái giới hạn chật
chội của gia đình để đi tìm “nữa kia” của đời mình. Hai tâm hồn tìm đến nhau, yêu nhau
để hiểu nhau nhiều hơn và cũng là để hiểu mình hơn. Bởi vì, ta chỉ hiểu được giá trị đích
thực của mình trong mắt người yêu ta. Đây là quan niệm mới của Xuân Quỳnh: yêu là tự
nhận thức và vươn tới cái cao cả là quy luật của tự nhiên và quy luật của cuộc sống. Xuân
Quỳnh đã thể hiện khát vọng cháy bỏng của tình yêu nói chung và của người phụ nữ nói
riêng.
“ Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Cụm từ đối lập chỉ thời gian vĩnh hằng “ngày xưa – ngày sau” được kết nối với từ “và”
cùng từ khẳng định “vẫn thế”, nhằm kết nối thời gian, kết nối lịch sử tồn tại của sóng,
cũng là lịch sử tình yêu của loài người. Sóng mãi mãi trường tồn với thời gian, cũng như
con người “nỗi khát vọng tình yêu” là nỗi khát vọng của tôi, của anh, của bạn, của cả thế
giới loài người, ai cũng đều có khát vọng yêu và được yêu. Nhưng nỗi khát vọng ấy rõ
nét nhất, mãnh liệt nhất là ở tuổi trẻ “bồi hồi trong ngực trẻ”. Từ đó, ta hiểu rằng, tình yêu
là điểm sáng để con người hang say sống, chiến đấu, lao động và học tập.
*Sơ kết: Hình tượng “sóng” là một hình tượng ẩn dụ độc đáo, dùng để chỉ tâm hồn người
phụ nữ đang yêu. Hình tượng sóng được gợi ra từ âm điệu dạt dào, nhịp nhàng của bài
thơ. Thể thơ năm chữ, với kết cấu trùng điệp và cách ngắt nhịp linh hoạt, đã tạo nên nhịp
điệu của những con sóng biển có lúc dạt dào, dữ dội, có lúc sâu lắng, dịu êm, đã diễn tả
được những trạng thái tinh tế của tình yêu. Đoạn thơ thể hiện khát vọng tình yêu nồng
nàn, mãnh liệt. Đồng thời, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: vừa
mạnh mẽ vừa dịu dàng.
2.Nghĩ về sóng và cội nguồn của tình yêu đôi lứa ( Khổ 3 và khổ 4):
a.Khát khao tự tìm hiểu, tự phân tích trong tình yêu (Khổ 3):
“ Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Với nghệ thuật điệp cấu trúc và điệp ngữ “ em nghĩ về” và câu hỏi tu từ “ Từ nơi nào
sóng lên?”, nhằm thể hiện sự trăn trở của người con gái khi yêu. Từ chuyện của sóng, câu
thơ chuyển tự nhiên sang chuyện tình yêu, từ chổ là đối tượng để cảm nhận, sóng giờ đây
trở thành đối tượng để người con gái đang yêu giải bày suy tư. Dòng suy tư bắt đầu từ nỗi
băn khoăn, trăn trở, khát khao tìm đến ngọn nguồn của tình yêu. Tâm trạng băn khoăn
này từ ngàn xưa đã có trong ca dao:

37
“ Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”
Hay nhà thơ Xuân Diệu cũng đã từng thốt lên:
“ Đố ai định nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
“Sóng” và “em” tạm tách ra để soi chiếu vào nhau. Trong không gian bao la, trước
muôn trùng sóng bể, nhân vật trữ tình “em” bâng khuâng nghĩ về anh, nghĩ về em và nghĩ
về cuộc đời, về tình yêu. “Em nghĩ” tức là em đã lo lắng, đã thao thức, đã trăn trở về tình
yêu của mình.
b.Tình yêu vốn hồn nhiên, nhưng đầy bất ngờ, đầy bí ẩn, không thể nào hiểu hết,
không thể nào cắt nghĩa đầy đủ (Khổ 4):
“ Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Tâm trạng của người con gái đang yêu luôn suy tư về sự huyền diệu, bí ẩn của tình
yêu nên “em” đã đặt ra nhiều câu hỏi và tự tìm câu trả lời. Xuân Quỳnh đã dựa vào quy
luật của tự nhiên để truy tìm cội nguồn của tình yêu. Nhưng tình yêu cũng giống như
sóng biển, như gió trời không thể hiểu hết được. Điểm khởi đầu của sóng cũng giống như
điểm khởi đầu bí ẩn của tình yêu. Câu thơ vang lên với chút bối rối, đắm say, với cả ngọt
ngào và nũng nịu “Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”. Lời thú nhận nhỏ
nhẹ, thành thực ấy chứa đựng niềm hạnh phúc yêu và được yêu. Đó là cách cắt nghĩa tình
yêu rất trực cảm, chân thành và đầy nữ tính của Xuân Quỳnh.
*Sơ kết: Hình tượng “sóng” song hành với hình tượng “em” gợi sự liên tưởng phong
phú, mang đậm tính triết lí. Kết cấu trùng điệp vừa gợi nhịp điệu của sóng vừa gợi nhịp
điệu tình yêu dạt dào. Lời thơ giản dị, tha thiết, dịu dàng đầy nữ tính và giàu cảm xúc.
Hai khổ thơ trên thể hiện tâm trạng người con gái khi yêu thường trăn trở đi tìm cội
nguồn của tình yêu, nhưng không có lời giải đáp, vì tình yêu không tuân theo quy luật
nào của lí trí.
3.Nghĩ về sóng và nỗi nhớ, sự thủy chung và niềm tin trong tình yêu ( Khổ 5, khổ 6
và khổ 7 ):
Không tìm được ngọn nguồn, nguyên nhân của tình yêu, “em” tìm về để vừa trăn trở,
vừa say sưa với những cung bậc tình yêu muôn thuở. Đó là nỗi nhớ, sự thủy chung và
niềm tin trong tình yêu. Những khổ thơ tiếp theo đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế trong

38
tình yêu của trái tim người con gái. Ở đó có sự đam mê, khao khát, nhưng đẹp nhất là sự
dâng hiến, vẻ đẹp thánh thiện của người con gái đang yêu.
a. Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách ( Khổ 5):
“ Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Tình yêu thường đồng hành với nỗi nhớ, yêu cuồng nhiệt thì nhớ cũng nát tan đất trời,
nỗi nhớ là thước đo chiều sâu của tình yêu. Điều này từ xa xưa đã được thể hiện trong ca
dao:

“ Nhớ ai bổi hổi bồi hồi


Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Sóng luôn vận động như tình yêu, gắn liền với những khát khao, trăn trở không yên.
Cũng như người con gái khi yêu luôn da diết nhớ nhung, nỗi nhớ trong tình yêu được
Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt qua hình tượng con sóng nhớ bờ.
Trong nhịp điệu của sóng ẩn chứa cả nỗi nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ bờ của sóng
luôn thiết tha, khắc khoải. Dù ở “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dù “ngày” hay
“đêm”, sóng vẫn chỉ thương nhớ bờ. Nỗi nhớ bờ của sóng bao trùm mọi không gian và
thời gian. Phép đối và giọng thơ dào dạt, náo nức, mãnh liệt đã diễn tả một nỗi nhớ da
diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi, cứ cuồn cuộn, dạt dào như sóng biển triền
miên. Nhân vật trữ tình “em” nhờ con sóng nói hộ nỗi nhớ triền miên (ngày, đêm), nhớ
da diết (không ngủ được), không chỉ thể hiện ở bề ngoài mà còn chìm sâu trong trăn trở,
nhớ quay quắt, khắc khoải trong lòng. Nhưng sự hóa thân của sóng dường như chưa đủ
để diễn tả nỗi nhớ da diết trong tình yêu, tác giả đã trực tiếp bộc lộ cảm xúc:
“ Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Em nhớ anh như sóng nhớ bờ, nhưng chân thành hơn, sâu sắc hơn. Sóng nhớ bờ
mãnh liệt, tha thiết, còn em nhớ anh say đắm hơn bội phần: “Sóng nhớ bờ” nên “không
ngủ được”, còn “em nhớ anh” đến “trong mơ còn thức”. Câu thơ mới lạ diễn tả nỗi nhớ
choáng ngợp cõi lòng, không chỉ trong ý thức, mà còn thấm sâu vào trong tiềm thức. Em
nhớ anh đến “cả trong mơ còn thức” là cách diễn đạt độc đáo về nỗi nhớ bằng lối nói
cường điệu, có vẻ phi lí, nhưng lại rất hợp lí với trái tim tràn ngập yêu thương. Các biện
pháp điệp từ, điệp cú pháp đã góp phần tạo nên nhịp điệu nồng nàn, say đắm, thích hợp

39
cho việc diễn tả nỗi nhớ mãnh liệt, da diết, cháy bỏng của người phụ nữ trong tình yêu.
Qua đó, tác giả bày tỏ một tình yêu cuồng nhiệt không chỉ tồn tại ở dạng ý thức, mà đã ăn
sâu vào tiềm thức.
b. Tình yêu gắn liền với sự thủy chung, sắt son ( Khổ 6 ):
“ Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Điệp từ “dẫu” và cụm từ chỉ sự đối lập về không gian, địa điểm “xuôi – ngược”,
“phương Bắc – phương Nam” nhằm chỉ độ dài cách trở, sự thay đổi của cuộc đời. Nhưng
đã yêu thì người con gái luôn thủy chung, bởi cây kim la bàn trong trái tim em luôn quay
về “phương anh”. Vậy tình yêu sẽ chiến thắng tất cả sự trở ngại của đời thường nếu đó là
một tình yêu chân thành và thủy chung.
Khi yêu, em không chỉ nhớ anh mà còn “nghĩ về anh” và “hướng về anh”. Bởi sau
nỗi nhớ là niềm tin và lòng thủy chung. Đó cũng là thuộc tính và bản chất của tình yêu.
Bằng biện pháp điệp, kết hợp với hình ảnh đối lập, nhà thơ khẳng định sự chung thủy
trong tình yêu: Mặc dù phải trải qua nhiều thử thách, em vẫn yêu thương, hướng về anh
với sự thủy chung son sắt. Qua đó, ta thấy tình yêu của người con gái vừa tha thiết, mãnh
liệt vừa trong sáng, thủy chung. Tình yêu chiếm cả trái tim, khối óc, là máu thịt, là lẽ
sống, là mục đích, là nơi đến của cuộc đời.
c. Tình yêu gắn liền với niềm tin, sự tin tưởng trong tình yêu là bến bờ hạnh
phúc ( Khổ 7 ):
“ Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Cách nói “chẳng nào…dù” nhằm khẳng định, sóng dù to hay nhỏ cũng sẽ đến bờ.
Mượn hình ảnh thể hiện quy luật tất yếu của tự nhiên, Xuân Quỳnh thể hiện niềm tin của
mình về một tình yêu trọn vẹn, hạnh phúc trong tương lai. Sóng tới bờ dù cách trở, tình
yêu là sức mạnh giúp em và anh vượt qua gian nan, thử thách của cuộc đời để đến bến bờ
hạnh phúc. Xuân Quỳnh bộc lộ cái tôi của một con người luôn có niềm tin mãnh liệt vào
tình yêu.
*Sơ kết: Hình tượng “sóng” song hành cùng hình tượng “em” gợi sự liên tưởng phong
phú, mang đậm tính triết lí. Kết cấu trùng điệp vừa gợi nhịp điệu của sóng vừa gợi nhịp
điệu của tình yêu dạt dào. Lời thơ giản dị, tha thiết, dịu dàng, đầy nữ tính và giàu cảm
xúc. Đoạn thơ thể hiện sâu sắc nỗi nhớ, sự thủy chung và niềm tin tưởng trong tình yêu.
Qua đó, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp tâm hồn vừa truyền thống, vừa hiện đại của người phụ

40
nữ trong tình yêu: nồng nàn, dịu dàng, đắm say, cháy bỏng, chân thành, thủy chung…
Đây là đoạn thơ trung tâm, cũng là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ và tiêu biểu cho hồn
thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh.
4.Khát vọng về một tình yêu vĩnh hằng ( Khổ 8 và khổ 9):
Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim nhạy cảm, nhà thơ cũng sớm nhận ra và thấm
thía trước sự hữu hạn của kiếp người trước dòng chảy thời gian của quy luật tự nhiên.
a. Ý thức về thời gian, đi liền với niềm lo âu và khao khát nắm lấy hạnh phúc
trong hiện tại ( Khổ 8 ) :
“ Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Câu một, câu hai song hành đối xứng với câu ba, câu bốn làm cho giọng thơ tha thiết,
ngọt ngào. Quan hệ chính phụ “tuy…vẫn”, “dẫu…vẫn” làm cho ý thơ được khẳng định
mạnh mẽ. Tác giả khẳng định, thời gian và tình yêu thì vĩnh hằng mà đời người tuy dài
nhưng cũng có giới hạn “Cuộc đời tuy dài thế. Năm tháng vẫn đi qua”. Với trái tim nhạy
cảm, Xuân Quỳnh hiểu rằng: tình yêu dầu đẹp đến đâu, cũng không thoát khỏi quy luật
của thời gian, nên hãy sống hết mình cho tình yêu để nó vĩnh hằng.
Bốn câu thơ nói về một quy luật: cuộc sống tuy dài, tuy rộng, nhưng thời gian không
ngừng trôi, nên đời người hữu hạn và mỗi người phải ý thức được sự hữu hạn của mình.
Thế nhưng tình yêu có thể vượt qua sự hữu hạn để đi đến sự vĩnh hằng.
b. Khao khát được sống hết mình cho tình yêu ( Khổ 9 ) :
“ Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Câu hỏi “làm sao” gợi lên một ước mơ cháy bỏng của người con gái khi yêu. Người
con gái khi yêu muốn tan ra “thành trăm con sóng nhỏ” để hiến dâng cả cuộc đời cho một
tình yêu đích thực “giữa biển lớn tình yêu”, để vĩnh hằng tình yêu của mình “ngàn năm
còn vỗ”. Đối diện với cái vô biên, vĩnh hằng, em ao ước hóa thân thành sóng, giữa biển
lớn tình yêu muôn đời. Đó là khát vọng tình yêu nồng nàn, mãnh liệt như ở bài thơ “Tự
hát” Xuân Quỳnh viết:
“ Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai cũng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa

41
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
Chính vì cuộc đời con người ngắn ngủi, trước sự vĩnh hằng của vũ trụ, nên Xuân
Quỳnh khao khát được sẻ chia, hòa nhập vào cuộc đời. Đó là khao khát sống hết mình
trong biển lớn tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở. Sóng là hiện
tượng thiên nhiên vĩnh cửu, cũng như tình yêu là khát vọng muôn đời của con người.
Nhân vật trữ tình “em’ muốn hiến dâng cuộc đời cho một tình yêu đích thực.
*Sơ kết: Hình tượng “sóng” là một ẩn dụ độc đáo, chỉ tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
Hình tượng “sóng” song hành với hình tượng “em” gợi sự liên tưởng phong phú, mang
đậm tính triết lí. Kết cấu trùng điệp vừa gợi nhịp điệu của sóng vừa gợi nhịp điệu tình yêu
dạt dào. Lời thơ giản dị, tha thiết, dịu dàng, đầy nữ tính và giàu cảm xúc. Mượn hình ảnh
sóng để nói và suy nghĩ về tình yêu, nhà thơ đã bộc lộ khát vọng được sống hết mình
trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh hằng thành tình yêu muôn thuở. Qua đó, tác giả thể
hiện vẻ đẹp tâm hồn vừa truyền thống, vừa hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu, với
khát vọng đầy tính nhân văn.
III.TỔNG KẾT:
Sóng được viết theo thể thơ năm chữ nhưng ngắt khổ không đều nhau, nhịp thơ đa
dạng và linh hoạt, nhờ thế mà bài thơ có những nét hồn nhiên. Tuy vậy, giọng điệu chủ
đạo của bài thơ là giọng điệu tha thiết, chân thành, có ít nhiều sự phấp phỏng, lo âu. Bài
thơ là nhịp đập trái tim hồn hậu, giàu yêu thương, giàu khát vọng của Xuân Quỳnh. Sóng
là bài thơ tình thuộc loại hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại
nói chung. Việc sử dụng hình tượng sóng làm ẩn dụ không mới, nhưng những tâm sự về
tình yêu, cùng cách khai thác sức chứa ẩn dụ này lại có những nét thực sự mới mẻ. Xuân
Quỳnh quả thực đã tìm được một hình tượng thơ đẹp, để giải bày tình yêu dịu dàng, mãnh
liệt, gần gũi, riêng tư, mà rộng mở, phóng khoáng của người phụ nữ. Qua hình tượng
sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa “sóng” và “em”. Bài thơ diễn tả
tình yêu của người con gái thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của
thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó, ta thấy được tình yêu là một tình cảm cao
đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


- Nguyễn Tuân –
A.GIỚI THIỆU:
I.Tác giả:
Nguyễn Tuân ( 1910 – 1987 ) là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi
hiện đại Việt Nam, là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo: tài hoa, uyên bác. Cái
đẹp, cái thiên lương trong cuộc đời được ông nói đến với tâm hồn nghệ sĩ đích thực, bằng
cái nhìn phát hiện đầy sáng tạo. Đặc biệt, Nguyễn Tuân có cách viết độc đáo và thành
công với thể loại tùy bút.

42
II.Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
“ Người lái đò sông Đà” là một trong 15 bài tùy bút được in trong tập “Sông Đà”
(1960), là kết quả của chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân về Tây Bắc 1958.
2. Chủ đề:
Tác giả ca ngợi nét hùng vĩ, uy nghiêm và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc và sông Đà.
Từ đó, ta thấy được tình yêu thiên nhiên và con người lao động ở Tây Bắc của tác giả.
3. Tóm tắt tác phẩm:
Sông Đà bắt nguồn từ dãy núi Vân Nam (Trung Quốc), chảy qua vùng Tây Bắc của nước
ta. Dọc sông Đà có 73 thác nước hùng vĩ và hung bạo. Sông Đà gây nhiều nguy hiểm cho
người đi dọc theo nó. Nhờ kinh nghiệm, trí thông minh và lòng dũng cảm, người lái đò
vượt qua thác trận, thạch trận, thủy trận, sóng trận để đưa con đò về bến bờ bình yên. Tuy
nhiên, sông Đà cũng có những đoạn rất thơ mộng, trữ tình nằm ở phần hạ nguồn con
sông. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, sông Đà là con đường vận chuyển vũ khí và
lương thực cho cách mạng. Sau hòa bình, thủy điện Sông Đà góp phần xây dựng Tổ
quốc.

B.PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


I.Hình tượng con sông Đà:
1.Nguồn gốc:
Sông Đà có những tên gọi khác, tên nào cũng đẹp và thơ mộng như: Li Tiên, Đà
Giang, Bả Biên Giang…Sông Đà dài gần 900km lượn rồng rắn qua những vùng núi rừng
bao la, rồi nó đổ vào địa phận Việt Nam. Sông Đà có độ dốc rất lớn gần 500m với 73 con
thác lớn nhỏ. Đặc biệt, các con sông khác đều chảy hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy
theo hướng Bắc:
“ Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”
Như vậy, Nguyễn Tuân nhìn con sông Đà và phát hiện ra nguồn gốc của nó trên
phương diện địa lí.
2. Tính cách con sông Đà:
Với ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà là nhân vật thực sự, bởi nó có tính
cách rất phức tạp, lúc thì rất hung bạo, lúc thì rất trữ tình “Sông Đà lắm bệnh, lắm chứng,
chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”
a.Sông Đà hung bạo:
*Sông Đà hung bạo ở những nơi có đá:

43
Sông Đà hung bạo bởi vì hai bên bờ sông có đá, đá dựng thẳng đứng giống như
“dựng thành vách”. Vì đá đã che khuất mặt trời, nên những đoạn sông ấy rất là tối, mặt
trời chỉ làm bạn được với sông khi đứng bóng “Mặt sông chổ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có
mặt trời”. Đá làm cho mặt sông vừa tối, vừa lạnh “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy,
đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Đá hai bên bờ sông còn rất ngang ngược, có đoạn đá
lấn ra sông làm cho lòng sông đoạn ấy rất hẹp “Đá chẹt lòng sông Đà như cái yết hầu”,
hẹp đến nỗi đứng bên bờ này sông ném nhẹ hòn đá qua được bờ bên kia, có đoạn con nai,
con hổ có thể vọt từ bờ này sang bờ kia một cách dễ dàng.
Đá dưới lòng sông Đà hình như đã được mai phục từ hàng nghìn năm làm thành một
thạch trận, thạch trận ấy dày đặc cửa tử, boongke, pháo đài. Đặc biệt, đá dưới lòng sông
Đà nó nằm ngồi rất tự do, không biết là do sở thích hay là do nhiệm vụ “Nó đứng, nó
ngồi, nó nằm tùy theo sở thích”. Đá có ngoại hình rất hung bạo “Mặt hòn đá cũng trông
ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhăn, méo mó”, nó chỉ chờ con thuyền nào đi qua là lập
tức “vồ lấy thuyền”. Tác giả đã dùng nhiều giác quan, nhiều biện pháp nghệ thuật như
nhân hóa, so sánh…cùng với trí tưởng tượng phong phú và kiến thức uyên bác để gợi ra
sự hung bạo của sông Đà.
*Nước sông Đà hung bạo:
Nước sông Đà phát ra những âm thanh thật quái dị “nước ở đây thở và kêu như cửa
cống cái bị sặc”. Nhiều đoạn dòng sông hẹp, nước bị xoáy lâu ngày tạo nên những cái
hút nước, cái hút nước ấy “kêu ặc ặc như rót dầu sôi vào”. Đặc biệt cái hút nước sâu
thăm thẳm như cái giếng bê tông sẵn sàng chờ con thuyền nào đi qua thì lôi xuống dưới
rồi đánh cho tan tác. Có những thuyền bị cái hút nước nó hút xuống, thuyền trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi. Cái hút nước thật là khủng khiếp và dữ dội, muốn tránh
cái hút nước người lái đò phải như người lái ô tô “sang số, nhấn ga” để vọt qua ổ gà vậy.
*Thác nước sông Đà hung bạo:
Thác từ trên cao đổ xuống làm thành những âm thanh ghê rợn để hù dọa con người
“tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo”. Rồi đột ngột rống lên “như tiếng một ngàn con trâu mộng đang
lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”, như vậy là thác nước sông Đà gây ra
những âm thanh rất lớn. Nguyễn Tuân rất độc đáo khi dùng lửa tả nước, dùng cách lái xe
tả chèo đò, giúp người đọc tưởng tượng sự hung bạo của thác và nước. Ngoài ra, còn có
sự phối hợp giữa gió, sóng và đá. Hình như từ ngàn năm nay, sóng và đá sông Đà, phối
hợp với nhau ăn ý, làm nên một sức mạnh uy hiếp con đò “nước xô đá, đá xô sóng, sóng
xô gió”. Làm cho sóng sông Đà cuồn cuộn quanh năm, chỉ chờ khi nào người lái đò
khinh suất, không cẩn thận, sơ ý “thì sóng bèn lật ngữa bụng thuyền ra”
*Thạch trận sông Đà hung bạo:
Sông Đà bày thạch trận rất bài bản, thác đá được xếp thành từng tuyến “đám tảng,
đám hòn chia làm ba hàng trên sông”, “những ông tướng đá mặt xanh lè đáng sợ”. Nhà
văn sử dụng nghệ thuật nhân hóa, lối nói ví von, gợi nhiều liên tưởng bất ngờ “những
hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi, một

44
hòn đá khác thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến vào”. Dòng sông còn bày ra ba trùng vi
thạch trận, với nhiều cửa tử, ít cửa sinh, với những thần sông, thần đá trấn giữ “nhổm cả
dậy vồ lấy thuyền, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chổ hiểm”, rồi chực
“đòi ăn chết cái thuyền”. Dòng sông khi xung trận cũng biết “dụ”, biết “khiêu khích”,
nếu cần thì “giở mọi ngón đòn hiểm hóc”, phối hợp với thác, với sóng để tiêu diệt con
thuyền.
*Sơ kết: Một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là không thích sự
bằng phẳng, nhợt nhạt. Bởi thế, khi khắc họa tính hung bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân
đã dùng hết bút lực để thi tài với tạo hóa, bằng những câu văn góc cạnh, giàu tính tạo
hình, sử dụng nghệ thuật nhân hóa, thậm xưng và thuật ngữ quân sự, kết hợp với nhiều
động từ mạnh, để miêu tả đầy ấn tượng về sự dữ dội, hiểm trở, hùng vĩ của sông Đà. Qua
đó, ta thấy được niềm tự hào của tác giả về sự hùng vĩ, giàu đẹp của Tổ quốc.
b.Sông Đà trữ tình:
Bên cạnh tính hung bạo, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà lại rất trữ
tình, mang vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng, gợi bao cảm xúc làm say mê lòng người. Nguyễn
Tuân miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ở nhiều góc độ, nhìn từ trên cao xuống sông Đà
như một “mỹ nhân”, từ trong rừng ra sông Đà như một “cố nhân”, khi ở trên sông Đà như
một “tình nhân”.
*Sông Đà đẹp bởi hình dáng:
Sông Đà từ trên cao nhìn xuống giống như mái tóc người phụ nữ kiều diễm “con
sông Đà tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Khi tả
về dáng con sông Đà, tác giả dùng những câu văn vừa có đường nét, hình khối và màu
sắc, vừa có sự so sánh cảm nhận để người đọc dễ dàng liên tưởng con sông Đà thật là
mềm mại, uyển chuyển và duyên dáng.
*Sông Đà đẹp bởi màu nước:
Tác giả vì yêu con sông Đà nên đã mấy lần bay tạt ngang sông Đà để quan sát màu
nước. Tác giả khẳng định nước sông Đà không hề có màu đen như thực dân Pháp vu
khống cho nó. Ngược lại, nước sông Đà rất đẹp, nó thay đổi theo mùa: mùa xuân nước
màu xanh, mùa thu nước màu đỏ “mùa xuân màu xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà
không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Và cũng có lúc nó mang màu sắc
“nắng tháng ba Đường thi” thật trươi tắn.
*Hai bên bờ sông Đà rất đẹp:
Lạc vào sông Đà, ta như lạc vào một thế giới huyền ảo, vì ở đấy nắng cứ giòn tan và
chuồn chuồn, bươm bướm bay rợp trời, còn con thuyền thì lặng lẽ trôi như thương nhớ ai.
Hai bên bờ sông Đà mang vẻ đẹp bình yên. Bình yên đến nỗi “một đàn hươu cúi đầu
ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Hai bên bờ sông “hồn nhiên và hoang dại như thời
tiền sử”. Sông Đà còn mang vẻ đẹp trù phú “những đàn cá dầm xanh quẩy vọt lên mặt

45
sông”. Không gian sông Đà là một sự yên ắng, tĩnh mịch đến nỗi con người ở đây, thèm
được giật mình bởi một âm thanh nào đó. Để tả vẻ đẹp của con sông Đà, tác giả mượn lời
thơ của Tản Đà:
“ Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhêu tình”
Tâm trạng của tác giả xúc động, ngây ngất, sống dậy những hoài niệm “hình như từ
đời Lí, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi”.
*Sơ kết: Từ cách nhìn nhiều chiều về sông Đà, Nguyễn Tuân đã tạo được một dấu ấn
khó quên trong lòng người đọc về con sông. Qua đó, thể hiện một tình yêu thiên nhiên
tha thiết, với những phát hiện tinh tế, độc đáo của tác giả. Dưới ngòi bút tài hoa của
Nguyễn Tuân, sông Đà được xem như một công trình nghệ thuật tuyệt vời, một kì công
của tạo hóa mang đến cho Tây Bắc, làm đẹp thêm bức tranh thiên nhiên của Tổ quốc.
II.Hình tượng người lái đò sông Đà:
Trong những trang văn của Nguyễn Tuân, hình ảnh người lái đò sông Đà, chính là đối
tượng của cái đẹp, lấp lánh ánh sáng của người nghệ sĩ tài hoa. Bởi lẽ ở đây, lái đò là một
nghệ thuật cao cường trên sông nước.
1. Lai lịch:
Ông lái đò 70 tuổi, quê ở Lai Châu, làm nghề chèo đò dọc sông Đà. Ông xuôi ngược
sông Đà 100 lần, tay ông giữ lái 60 lần. Điều này thật khó tin,vì thế để tang tính thuyết
phục Nguyễn Tuân khẳng định “ông lái đò Lai Châu là bạn tôi”
2. Ngoại hình người lái đò:
Ngoại hình người lái đò gắn liền với nghề nghiệp sông nước của ông “tay ông lêu
nghêu như cái sào”, chân ông lúc nào cũng khuỳnh gò lại như kẹp lấy cái cuống lái
tưởng tượng, “giọng ông ào ào như nước trên mặt ghềnh”. Đặc biệt, trên ngực ông có
nhiều củ nâu, đó là vết tích của những ngày chiến đấu với sông Đà, mà Nguyễn Tuân
ngưỡng mộ gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”.
3. Tính cách ông lái đò:
Ông lái đò là người thích đương đầu với nguy hiểm, khó khăn, nên ông thích đi qua
ghềnh thác. Ông bảo rằng “chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dại chân, dại
tay dễ buồn ngủ”.
4. Ông lái đò là người có kinh nghiệm vượt sông Đà:
Ông thuộc con sông Đà như người ta thuộc một thiên anh hùng ca “thuộc đến dấu chấm
than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Đặc biệt, ông nắm chắc “binh pháp của
thần sông, thần đá”, ông cũng thuộc luôn “quy luậtcủa lũ đá nơi ải nước hiểm”. Ông
biết rằng khi xuôi sông Đà thì đi vào chính giữa cái luồng nước, khi ngược sông Đà thì
người đứng mũi phải đứng bằng sào và đầu con thuyền hướng ra sông.
5. Ông lái đò chiến đấu với sông Đà:

46
Tinh thần dũng cảm, sự dày dạn kinh nghiệm khi chiến đấu với con sông Đà của ông
lái đò, mang cốt cách tài hoa, nghệ sĩ của một viên dũng tướng.
a. Vượt trùng vi thạch trận thứ nhất:
Trùng vi thạch trận thứ nhất gồm năm cửa trận, trong đó có bốn cửa tử và một cửa
sinh nằm “lập lờ phía bên tả ngạn”. Đá sông Đà làm thành ba hàng chặn ngang sông,
mỗi hàng đều có hai tiền vệ làm nhiệm vụ dụ con thuyền vào. Khi thuyền đã lọt vào
tuyến một, sóng nước đánh “quật vu hồi”, thuyền vượt qua được thìlọt vào tuyến hai.
Khi thuyền đã lọt vào tuyến hai, thì đá phối hợp với nước, với thác reo hò làm người lái
đò mất bình tĩnh, thừa cơ hội ấy sông nước xô đến “bẽ gãy cán chèo”, hòng tiêu diệt vũ
khí duy nhất của người lái đò. Thấy không thành công sóng nước lại liều mạng “thúc gối
vào bụng, vào hông thuyền” với mục đích để thuyền vỡ ra và chìm, khi không được
chúng bèn dùng sóng nước “đội cả thuyền lên” giống như đô vật túm lấy thắt lung ông
đò rồi lật ngữa ra. Không có tác dụng thì chúng đánh miếng đòn hiểm độc nhất “bóp chặt
lấy hạ bộ ông lái đò”. Trước tình hình ấy, ông lái đò cố nén vết thương dù “mặt ông thì
méo bệch đi, mắt thì nổi đom đóm”, ông vẫn bình tĩnh, hai chân kẹp chặt cuống lái,
miệng thì rành rọt chỉ huy “sáu tay bơi chèo còn lại đi vào luồng sinh”.
b. Vượt trùng vi thạch trận thứ hai:
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, sông Đà bố trí thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con
thuyền, còn cửa sinh nằm ở bên bờ hữu ngạn. Vượt trùng vi thứ hai không một phút nghỉ
tay, nghỉ mắt và phải đổi luôn chiến thuật. Ông lái đò quan niệm “cưỡi lên thác sông Đà
phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, có nghĩa đây là cuộc chiến một mất, một còn của
người lái đò và sông Đà. Ông lái đò bình tĩnh “nắm chặt lấy cái bờm sóng”, chọn đúng
tim luồng, ông đò ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh. Khi tiến vào cửa sinh thì
“bọn thủy quân liền xô ra, níu thuyền lại để lôi vào tập đoàn cửa tử”. Ông lái đò nhớ mặt
bọn này “đứa thì ông rảo bơi chèo”, “đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi để mở đường
tiến”, vượt qua trùng vi thạch trận thứ hai.
c.Vượt trùng vi thạch trận thứ ba:
Ở trùng vi thạch trận thứ ba này ít cửa hơn nhưng “bên trái, bên phải đều là luồng
chết cả, cửa sinh duy nhất nằm giữa bãi đá hậu vệ”. Ông lái đò cứ phóng thẳng thuyền
lao qua thác nước nhanh và chính xác như “một mũi tên tre xuyên nhanh qua làn hơi
nước”, bản hùng ca vượt thác lên đến cao trào. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng,
sóng của nước sông Đà và sóng của ngôn ngữ Nguyễn Tuân đã khắc họa được hình ảnh
người lái đò bình tĩnh, chủ động xử lí những tình huống nguy hiểm của ba trùng vi bằng
sự gan dạ, thông minh, động tác chính xác, nhanh nhẹn, điêu luyện, thành thục và tài hoa.
6. Trong đời thường:
Khi đối mặt với sông Đà ông lái đò dũng cảm, bình tĩnh, lạnh lùng. Nhưng khi trở lại
với cuộc sống đời thường, Nguyễn Tuân miêu tả ông như một nghệ sĩ tài hoa. Trải qua
cuộc vật lộn với thần sông, thần đá, mà vị thuyền trưởng ấy lại rất trầm tĩnh, ung dung.
Đêm ấy trong hang đá, đốt lửa nấu ống cơm lam, ông lái đò chỉ bàn tán về “cá anh vũ, cá

47
dầm xanh”, về “những hầm cá nhiều như mìn bộc phá”. Đối với ông chuyện vượt thác
vừa rồi chẳng có gì hồi hộp, đáng nhớ.
*Sơ kết: Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ. Nghệ thuật ở
đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Qua hình tượng người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động Tây bắc, họ
là những người dũng cảm, tài hoa, giàu ý chí nghị lực, đó là yếu tố làm nên chất “vàng
mười” của người dân Tây Bắc nói riêng và người dân lao động nói chung.
III.TỔNG KẾT:

1. Nghệ thuật:
Nguyễn Tuân luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con người ở phương diện cái đẹp.
Ông có cảm hứng đặc biệt đối với những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ.
Tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Ngòi bút của Nguyễn Tuân tài hoa và
uyên bác, giàu tri thức, thông hiểu nhiều lĩnh vực, tác phẩm của ông có tính chất khảo
cứu, có giá trị thông tin lớn. Văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện
và phong phú, hình ảnh giàu sức liên tưởng bất ngờ và độc đáo.
2. Nội dung:
“Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp, được làm nên từ một tình yêu đất nước say
đắm, thiết tha, của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ,
hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là người lao động bình dị ở
miền núi Tây Bắc. Qua việc khắc họa vẻ đẹp đa dạng của con sông Đà vừa hung bạo, vừa
trữ tình, gắn với hình ảnh vừa kì vĩ, vừa giản dị của người lái đò, Nguyễn Tuân thể hiện
tình yêu, sự say đắm trước thiên nhiên và con người lao động trên miền Tây Bắc của đất
nước.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ?


(Trích)
- Hoàng Phủ Ngọc Tường –
I.GIỚI THIỆU:
1.Tác giả:
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế, là nhà văn gắn bó máu thịt với
mảnh đất miền Trung và quê hương xứ Huế. Là nhà văn chuyên về bút kí, bút kí của ông
có sự kết hợp giữa trữ tình và chính luận, giữa trí tuệ và cảm xúc, cảm hứng lịch sử và
chiều sâu văn hóa, khả năng liên tưởng, tưởng tượng và ngôn từ trong sáng, đẹp đẽ.
2.Tác phẩm:
a.Hoàn cảnh sáng tác:

48
Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết tại Huế ngày 4 – 1 – 1981, in trong
tập sách cùng tên. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Hoàng Phủ
Ngọc Tường: Tri thức phong phú, cảm xúc sâu lắng, văn phong tao nhã. Bài bút kí gồm
ba phần, đoạn trích thuộc phần thứ nhất.
b.Chủ đề:
Qua việc miêu tả và cảm nhận vẻ đẹp sông Hương ở nhiều góc độ, bài kí đã thể hiện
tình yêu tha thiết, say đắm đối với thiên nhiên và con người xứ Huế của tác giả. Qua đó,
bộc cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một cái tôi đầy tài hoa, uyên bác, giàu
tình cảm và trí tưởng tượng phong phú.
c.Ý nghĩa nhan đề:
Tác giả đặt nhan đề và kết thúc bài bút kí bằng câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?”, không chỉ nhằm mục đích lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sông, mà còn
gợi lên lòng biết ơn đối với những người khai phá miền đất này. Nhan đề mang ý nghĩa là
một câu hỏi, mà nội dung bài kí là câu trả lời. Bài kí ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng
sông, có cái tên cũng rất đẹp và phù hợp với nó – sông Hương. Nhan đề còn mang tính
chất biểu cảm: Là cái cớ để nhà văn đi vào miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông Hương,
gắn với vùng đất cố đô cổ kính, tươi đẹp. Đồng thời, thể hiện tình cảm ngỡ ngàng,
ngưỡng mộ, thái độ trân trọng, ngợi ca của tác giả với dòng sông Hương và thành phố
Huế thân yêu.
d. Cảm nhận khái quát:
Sông Hương là hình tượng nổi bật và xuyên suốt tác phẩm và cũng là đối tượng trữ
tình của bài kí. Với một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, vốn văn hóa phong phú và tình yêu tha
thiết quê hương xứ Huế, tác giả đã viết nên những dòng kí tràn đầy cảm xúc về dòng
sông Hương – Con sông chỉ chảy duy nhất qua một thành phố - thành phố Huế. Sông
Hương được nhìn từ nhiều góc độ nên vẻ đẹp con sông được phát hiện bất ngờ và khá
độc đáo.
Trong trí tưởng tượng đầy tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông nhìn dòng sông
Hương như một cô gái Huế. Cô gái Huế ấy khi trái tim chưa biết đập nhịp đập của tình
yêu, thì tựa như cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại. Khi biết yêu rồi thì đó là một
thiếu nữ tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình mà kính đáo, lẳng lơ mà rất mực chung
tình, khéo trang sức mà không lòe loẹt, phô trương.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Vẻ đẹp thiên nhiên (địa lí) của sông Hương:
a. Sông Hương ở thượng nguồn:
Sông Hương ở thượng nguồn gắn liền với núi rừng Trường Sơn hùng vĩ, nên dưới cái
nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường dòng sông như một cô gái đầy sức sống mãnh liệt,
dòng sông được ví như “cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”. Đây là một liên

49
tưởng độc đáo, bởi những cô gái Di – gan là những cô gái bộ tộc Bô – hê – miêng thích
sống lang thang, tự do và yêu đời, yêu cuộc sống ca hát. Sông Hương được ví như cô gái
Di – gan, tạo cho con sông một vẻ đẹp hoang dại và tình tứ. Cảnh sông ở đây được khắc
họa bằng những câu văn dài và nhiều động từ mạnh, tạo nên cái dư vang của rừng già và
cái mạnh mẽ của con sông: “Đó là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ bóng cây đại
ngàn, mãnh liệt qua thác ghềnh, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí
ẩn”.Nhưng có những lúc dòng sông lại dịu dàng say đắm: “Dặm dài chói lọi màu đỏ của
hoa đỗ quyên rừng”. Như vậy, để hiểu dòng sông, ta không chỉ “nhìn ngắm khuôn mặt
kinh thành của nó”, mà phải lên tận phía thượng nguồn, để thấy được hành trình gian
truân mà nó vượt qua thì mới hiểu “tâm hồn sâu thẳm của nó”.
*Sơ kết:Bằng nghệ thuật nhân hóa, so sánh và sự liên tưởng độc đáo, vẻ đẹp sông Hương
ở thượng nguồn là một vẻ đẹp hoang dã, mạnh mẽ, đầy cá tính, có sức sống mãnh liệt.
Nhưng cũng có lúc dịu dàng và say đắm.
b.Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế:
Ở vùng đồng bằng, tác giả nhận ra sông Hương có sự thay đổi về tính cách. Nếu ở
rừng già Trường Sơn, sông Hương sống một cuộc sống tự do, phóng khoáng của một cô
gái Di – gan đầy bản lĩnh, thì khi ra khỏi rừng già, sức mạnh bản năng ấy đã được chế
ngự, để con sông mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ của một dòng sông chảy nặng phù
sa“sông Hương trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, nhưng “dòng
sông hình như không muốn bộc lộ” công lao lớn ấy, đó là vẻ đẹp tính cách của sông
Hương.
Bằng cặp mắt quan sát tinh tế và lãng mạn, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn sông
Hương như một người con gái đa tình đang mãi miết đi tìm “một nửa kia của đời mình”.
Trên hành trình đi tìm người tình mong đợi, sông Hương bộc lộ bao nhiêu là tâm trạng
trong dòng chảy của mình. Có lúc sông Hương như một người con gái đẹp “nằm ngủ mơ
màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, có lúc bừng tỉnh “chuyển dòng liên tục,
vòng giữa những khúc quanh đột ngột”, rồi “uốn mình theo những đường cong thật
mềm”, bất ngờ“vẽ một hình cung thật tròn ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”,
đây là câu văn giàu chất họa.
Hành trình sông Hương đi qua, đó là những địa danh “ngã ba Tuần, điện hòn chén,
bãi Nguyệt Biều…”. Có những đoạn sông quanh co, khúc khuỷu như những gian truân
trên hành trình đi tìm hạnh phúc, nhưng có lúc sông Hương lại trầm mặc trôi qua những
cánh rừng thông u tịch, nơi có những lăng tẩm của vua chúa, tỏa niềm kiêu hãnh âm u.
Đoạn này sông Hương chảy lặng lờ, như đang suy nghĩ về một quá khứ xa xôi của đất
nước. Vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương kéo dài cho đến khi mặt nước phẳng lặng của nó
gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga. Vậy là bằng ngòi bút tài hoa, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động từng bước đi của sông Hương, khiến người
đọc đi từ ngạc nhiên này đến thú vị khác.

50
*Sơ kết: Bằng kiến thức địa lí phong phú, năng lực quan sát tinh tế, nghệ thuật nhân hóa
độc đáo, các động từ gợi hình, gợi cảm. Tác giả đã miêu tả sông Hương thật ấn tượng,
sống động, toát lên vẻ đẹp lịch lãm, tài hoa trong văn phong của tác giả.
c. Sông Hương trong lòng thành phố Huế:
Trước khi đến với Huế, sông Hương còn dịu dàng khoác nhiều màu áo đẹp cho mình,
đó chính là vẻ đẹp biến ảo, nhờ phản quang nhiều màu sắc của nền trời Tây Nam thành
phố, làm cho nước sông Hương có nhiều màu: sáng xanh, trưa vàng, chiều tím, mà người
dân Huế gọi là dòng sông đa sắc.
Sông Hương khi tìm được đúng hướng về với thành phố, dòng sông vui tươi hẳn lên,
sông nhận ra Huế bởi chiếc cầu Tràng Tiền như Nguyễn Bính viết:
“ Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông bờ”
Hoàng Phủ Ngọc Tường độc đáo hơn, khi vẽ chiếc cầu Tràng Tiền vắt ngang sông
Hương, như một tín hiệu để sông Hương nhận ra mình đã đến với Huế “chiếc cầu trắng
của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn những vầng trăng non”.
Sông Hương trong lòng thành phố Huế “dòng sông mềm mại hẳn đi như một tiếng
vâng không nói ra của tình yêu”. Nhà văn phải trôi theo dòng liên tưởng để tìm lời giải
cho tiếng vâng không nói ra của tình yêu, bằng cách bắt cho được nhịp đập riêng của trái
tim sông Hương. Giữa lòng thành phố Huế, sông Hương lặng lờ chảy, như tận hưởng cho
hết thời gian của tình yêu, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường phải chọn cho mình sự tiếp cận
âm nhạc để diễn tả, để tưởng tượng đó là “điệu slow”, trong tiếng Anh “slow” có nghĩa
là chậm, vậy là sông Hương đã chọn cho mình một giai điệu trữ tình, chậm rãi dành riêng
cho Huế yêu.
Nhà văn đặt sông Hương bên cạnh sông Nê – va của thành phố Lêningrat, để chúng
ta thêm yêu quý “vẻ ngập ngừng vương vấn của sông Hương”.Nếu như nhiều dòng sông
khác trên thế giới, vội vã qua phố thị để mau chóng về với biển cả, thì sông Hương lại
không muốn giã từ Huế nên sông Hương chảy thật chậm “sông Hương khi qua thành phố
đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Phải chăng vì quá yêu
thành phố, yêu Huế nên sông Hương muốn ngắm nhìn nhiều hơn nữa Huế yêu của mình,
trước khi phải rời xa nó?
*Sơ kết: Bằng ngôn ngữ uyển chuyển đầy chất thơ và nhạc, tác giả đã thể hiện cuộc gặp
gỡ của sông Hương và Huế như một cuộc hội ngộ của tình yêu. Sông Hương và Huế hòa
vào làm một, sông Hương làm nên vẻ mộng mơ của Huế, Huế làm nên vẻ trầm tư sâu
lắng của sông Hương. Sông Hương như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa.
Tác giả vẻ nên vẻ đẹp của sông Hương ở nhiều góc độ: địa lí, hội họa, âm nhạc và tình
yêu say đắm.
d. Sông Hương từ biệt Huế để về với biển:

51
Trước khi từ biệt Huế, sông Hương chếch về hướng chính Bắc. Tuy nhiên do đặc
điểm địa lí ở nước ta (hầu hết các con sông đều chảy về hướng Đông để đổ ra biển), vì
vậy nó phải chuyển dòng sang hướng Đông và “gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn
Bao Vinh cổ xưa”. Nhưng trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương lưu
luyến không muốn rời xa Huế nên quay lại thị trấn Bao Vinh như ôm Huế lần cuối. Sông
Hương “như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói” khi từ giã Huế, tựa như nàng Kiều
muốn trở lại gặp Kim Trọng “để nói một lời thề trước khi về biển cả”.
*Sơ kết: Bằng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, năng lực quan sát tinh tế, trí tưởng tượng
phong phú và đặc biệt là tình yêu Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thổi hồn vào dòng
sông Hương làm cho nó có sự quyến luyến, không muốn rời Huế, trước lúc đổ ra cửa
biển Thuận An.
2. Vẻ đẹp văn hóa của sông Hương:
a. Sông Hương là dòng sông của âm nhạc:
“Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Đó là một vẻ đẹp
dịu dàng, thanh thoát, uyển chuyển, đầy quyến rũ. Tác giả khẳng định: Toàn bộ nền âm
nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương. Phải đến với Huế, vào một
đêm khuya trên dòng sông Hương, lắng nghe tiếng nước vỗ mạn thuyền, tiếng mái chèo
khua “tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khua”, thì mới hiểu được âm nhạc cổ
điển Huế. Phải thưởng thức nhạc Huế trên sông Hương thì mới thấy hết giá trị của nó.
Tác giả đã cảm nhận sông Hương bằng nét văn hóa của Huế.
b.Sông Hương là dòng sông của thi ca:
Nếu nhìn ở phương diện thi ca thì sông Hương là “dòng sông không bao giờ tự lặp
lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Trong thơ Tản Đà, sông Hương là “dòng sông
trắng lá cây xanh”. Trong thơ Cao Bá Quát, sông Hương có vẻ đẹp hùng tráng. Trong thơ
Bà Huyện Thanh Quan, sông Hương đẹp với bóng chiều hoài cổ. Trong thơ Tố Hữu,
“sông Hương quả thật là Kiều”. Lời nhận xét của Tố Hữu có nhiều nghĩa: “Kiều” chỉ
những người con gái làm nghề ca kĩ trên sông Hương (tiếng hát sông Hương). Mặt khác
“Kiều” cũng là vẻ yêu kiều của một dòng sông hội đủ vẻ đẹp của thi, ca, nhạc, họa. Sau
này nhà thơ Thu Bồn cũng viết về sông Hương rất hay:
“ Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Có thể nói, sông Hương đã khơi nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Với mỗi nhà thơ
sông Hương là một khám phá, một tuyệt tác riêng.
3.Vẻ đẹp lịch sử của sông Hương:
Thời các vua Hùng, sông Hương là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước. Trong
sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, sông Hương mang tên Linh Giang, nghĩa là dòng
sông linh thiêng, có sứ mệnh bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt. Ở thế kỉ mười tám,
sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, của người anh hùng Nguyễn Huệ.

52
Thế kỉ mười chín và hai mươi, sông Hương sống những giây phút hào hùng của cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Với lịch sử, sông Hương là một chứng nhân, điều đó đã
khiến thành phố Huế mang sức hấp dẫn về văn hóa và du lịch.
4.Sông Hương với vẻ đẹp đời thường:
Sông Hương tri ân xứ sở, cưu mang nó bằng cách tặng cho những ngôi làng ven sông
dòng nước trong mát và phù sa màu mỡ. Con người cũng tặng sông Hương một huyền
thoại “vì yêu quý con sông, con người hai bên bờ sông đã nấu nước trăm loài hoa, đổ
xuống sông để làm cho nước thơm tho mãi”. Vẻ đẹp sông Hương còn in dấu trong sắc áo
điều lục của cô dâu Huế ngày xưa “đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông
Hương”. Vẻ đẹp của con sông Hương cũng chính là vẻ đẹp của Huế, của con người xứ
Huế.
III. TỔNG KẾT:
Bài kí thể hiện chất trí tuệ, tình yêu, trí tưởng tượng tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Bài kí đậm chất sử thi, giàu cảm hứng trữ tình lãng mạn. Dùng nhiều biện pháp tu từ như
nhân hóa, so sánh, ẩn dụ…Ngôn ngữ giàu hình ảnh nên người đọc dễ dàng liên tưởng.
Tùy bút được xây dựng bằng nhiều kiến thức: địa lí, lịch sử, văn hóa…Đoạn trích bài bút
kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông
Hương. Qua đoạn trích, người đọc cảm nhận được tình yêu và niềm tự hào của tác giả về
quê hương xứ sở.

ĐỀ VÀ ĐÁP ÁN NGỮ VĂN QUỐC GIA


ĐỀ THINGỮ VĂNTRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2015
(Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề)
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
“Chúng tôi đứng đây trần trụi giữa trời
Cho biển cả không còn hoang lạnh
Đứa ở đồng chua
Đứa vùng đất mặn
Chia nhau nỗi nhớ nhà
Hoàng hôn tím ngát xa khơi
Chia nhau tin vui
Về một cô gái làng khểnh răng, hay hát
Vầng trăng lặn dưới chân lều bạt
Hắt lên chúng tôi nhếnh nhoáng vàng

53
Chúng tôi coi thường gian nan
Dù đồng đội tôi, có người ngã trước miệng cá mập
Có người bị vùi dưới cơn bão dữ tợn
Ngày mai đảo sẽ nhô lên
Tổ quốc Việt Nam, một lần nữa nối liền
Hoàng Sa, Trường Sa
Những quần đảo long lanh như ngọc dát
Nói chẳng đủ đâu, tôi phải hát
Một bài ca bằng nhịp trái tim tôi
Đảo à, đảo ơi!”
Đảo Thuyền Chài, 4 - 1982
(Trích Hát về một hòn đảo - Trần Đăng Khoa, Trường Sa, NXB Văn học, 2014, tr.51)
Câu 1. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Cuộc sống gian khổ và hiểm nguy trên đảo của người lính được miêu tả qua
những từ ngữ, hình ảnh nào?
Câu 3. Chỉ ra và nêu hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ: “Những
quần đảo long lanh như ngọc dát.”
Câu 4. Đoạn thơ đã gợi cho anh/chị tình cảm gì đối với những người lính đảo? (Trình bày
khoảng 5 đến 7 dòng)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 5 đến câu 8:
“Hội chứng vô cảm hay nói cách khác là căn bệnh trơ cảm xúc trước niềm vui, nhất là
nỗi đau của người khác, vốn là một mặt trong hai phương diện cấu trúc bản chất Con -
Người của mỗi sinh thể người.Tính “con” và tính “người” luôn luôn hình thành, phát
triển ở mỗi con người từ khi lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Cái thiện và cái
ác luôn luôn song hành theo từng bước đi, qua từng cử chỉ, hành vi của mỗi con người
trong mối quan hệ với cộng đồng, với cha mẹ, anh chị em, bạn bè, bà con làng xóm, đồng
bào,đồng loại. Trong cuộc hành trình lâu dài, gian khổ của một đời người, cái mất và cái
được không phải đã được nhận ra một cách dễ dàng. Mất một đồng xu, một miếng ăn,
mất một phần cơ thể, mất một vật sở hữu,con người nhận biết ngay. Nhưng có những cái
mất, cái được nhiều khi lại không dễ gì cảm nhận được ngay.Nhường bước cho một cụ
già cao tuổi, nhường chỗ cho bà mẹ có con nhỏ trên tàu xe chật chội, biếu một vài đồng
cho người hành khất,... có mất có được nhưng không phải ai cũng đã nhận ra cái gì mình
đã thu được;có khi là sự thăng hoa trong tâm hồn từ thiện và nhân ái. Nói như một nhà
văn lớn, người ta chỉ lo túi tiền rỗng đi nhưng lại không biết lo tâm hồn mình đang vơi
cạn, khô héo dần. Tôi muốn đặt vấn đề là cùng với sựbáo động những hiểm họa trông
thấy, cần báo động cả hiểm họa không trông thấy hay khó trông thấy. Hiện nay đã có quá

54
nhiều dấu hiệu và sự kiện trầm trọng của hiểm họa vô cảm trong xã hội ta, nhất là trong
tuổi trẻ.Bạo lực đã xuất hiện dữ dằn những tháng ngày gần đây báo hiệu nguồn gốc sâu
xa ở sự xuống cấp nghiêm trọng về nhân văn, về bệnh vô cảm.”
(Trích Nguồn gốc sâu xa của hiểm họa, Bài tập Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục
Việt Nam, 2014, tr.36-37)
Câu 5. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 6. Theo tác giả, nguồn gốc sâu xa của nạn bạo lực xuất hiện gần đây là gì?
Câu 7. Tác giả đã thể hiện thái độ gì khi bàn về hiểm họa vô cảm trong xã hội hiện nay?
Câu 8. Anh/Chị suy nghĩ như thế nào khi có những người “chỉ lo túi tiền rỗng đi nhưng
lại không biếtlo tâm hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần”? (Trình bày khoảng 5 đến 7
dòng)
II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (3,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng: Việc rèn luyện kĩ năng sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến
thức.
Anh/Chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ suy nghĩ của mình về vấn
đề trên.
Câu 2 (4,0 điểm)
“Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách
mạng về đã đỡđói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng
tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối...
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? - Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái
lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày
cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác
uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới
xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi
vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...

55
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, -
trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần
phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một
sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con,
rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng
tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú
lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn
mặtxấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có
lúc vợ chồng con cáichúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? - Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...”
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục
Việt Nam, 2015, tr.75-76)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó,
bình luận ngắn gọn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh
Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.

ĐÁP ÁN ĐỀ NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNGQUỐC GIA 2015


ĐỌC HIỂU 3,0
Câu 1:Đoạn thơ được viết theo thể thơ tự do. (0,25 điểm)
Câu 2:Cuộc sống gian khổ và hiểm nguy trên đảo của người lính được miêu tả qua
nhữngtừ ngữ, hình ảnh: trần trụi giữa trời, lều bạt, gian nan, có người ngã trước miệng cá
mập, có người bị vùi dưới cơn bão dữ tợn...(0,25 điểm)
Câu 3:
- Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ là so sánh. (0,25 điểm)
- Hiệu quả: làm nổi bật vẻ đẹp của những quần đảo; thể hiện tình yêu, niềm tựhào về biển
đảo. (0,25 điểm)
Câu 4:Bày tỏ được tình cảm chân thành, sâu sắc dành cho những người lính đảo. (0,5
điểm)
Câu 5:Phương thức biểu đạt chính là nghị luận. (0,25 điểm)
Câu 6: Theo tác giả, nguồn gốc sâu xa của nạn bạo lực xuất hiện gần đây là do bệnh vô
cảm, do sự xuống cấp nghiêm trọng về ý thức nhân văn.(0,25 điểm)

56
Câu 7: Thái độ của tác giả khi bàn về hiểm họa vô cảm: lo ngại, trăn trở... (0,50 điểm)
Câu 8:Thể hiện được suy nghĩ chân thành, sâu sắc trước hiện tượng: có những người“chỉ
lo túi tiền rỗng đi nhưng lại không biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khôhéo dần”. (0,5
điểm)
LÀM VĂN
Câu 1: Viết bài văn nghị luận bày tỏ suy nghĩ về vấn đề: Việc rèn luyện kĩ năng sống
cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức (3 điểm)
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,25
Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai
được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,50
Việc rèn luyện kĩ năng sống cũng cần thiết như việc tích lũy kiến thức.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lậpluận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; rút ra bài học nhận thức và hànhđộng
- Giải thích: Từ việc giải thích khái niệm kĩ năng sống và kiến thức, thí sinh nêu khái
quát nội dung ý kiến.
- Bàn luận
+ Khẳng định ý kiến nêu ra là đúng hay sai, hợp lí hay không hợp lí.
+ Bày tỏ thái độ, suy nghĩ về ý kiến bằng những lí lẽ, dẫn chứng phù hợp, có sức thuyết
phục.
Phần Câu Nội dung Điểm
- Bài học nhận thức và hành động: Rút ra bài học phù hợp cho bản thân. 0,25
d. Sáng tạo 0,25
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Câu 2:Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích. Từ đó,bình luận
ngắn gọn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của Nguyễn Minh Châu trong tác
phẩm Chiếc thuyền ngoài xa (4 điểm)
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,25
Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai
được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,50

57
Nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích; cách nhìn nhận cuộc sống và con
người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận
dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích và nhân vật người đàn bà hàng
chài.
- Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích: cuộc đời, sốphận
(nghèo khổ, bất hạnh...); tính cách, phẩm chất (cam chịu, giàu đức hi sinh, thấu trải lẽ
đời...); nghệ thuật xây dựng nhân vật...
- Bình luận về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong
tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa:
+ Khám phá bản chất cuộc sống và con người ở góc độ thế sự bằng cái nhìn đa diện,
nhiều chiều (cuộc sống của người dân chài còn nhiều nghịch lí, nhân vật người đàn bà
vừa nhẫn nhục đến mức phi lí vừa có những phẩm chất đẹp đẽ...).
+ Đánh giá về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn trong tác phẩm.
d. Sáng tạo 0,50
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
e.Chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
ĐỀ THI NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2016
(Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề)
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
“Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh
Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối

58
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường
Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa Thành đã mất
Nàng Mị Châu quỳ xuống lạy cha già.
Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.”
(Trích Tiếng Việt - Lưu Quang Vũ, Thơ Việt Nam 1945-1985,NXB Giáo dục, 1985,
tr.218)
Câu 1. Sự mượt mà và tinh tế của tiếng Việt được thể hiện ở những từ ngữ nào trong khổ
thơ thứ nhất?
Câu 2. Kể tên hai biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ thứ hai và thứ ba.
Câu 3. Nêu nội dung chính của đoạn trích.
Câu 4. Từ đoạn trích, anh/chị hãy bày tỏ cảm nghĩ của mình về tiếng Việt. (Trình bày
khoảng 7 đến 10 dòng)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 5 đến câu 8:
“Cuộc sống riêng không biết gì hết ở bên kia ngưỡng cửa nhà mình là một cuộc sống
nghèo nàn, dù nó có đầy đủ tiện nghi đến đâu đi nữa. Nó giống như một mảnh vườn được
chăm sóc cẩn thận, đầy hoa thơm, sạch sẽ và gọn gàng. Mảnh vườn này có thể làm chủ
nhân của nó êm ấm một thời gian dài, nhất là nếu lớp rào bao quanh không còn làm họ
vướng mắt nữa. Nhưng hễ có một cơn dông tố nổi lên là cây cối sẽ bị bật khỏi đất, hoa sẽ
nát và mảnhvườn sẽ xấu xí hơn bất kì một nơi hoang dại nào. Con người không thể hạnh
phúc với mộthạnh phúc mỏng manh như thế. Con người cần một đại dương mênh mông
bị bão táp làm nổi sóng, nhưng rồi lại phẳng lì và trong sáng như trước. Số phận của
những cái tuyệt đối cá nhân, không bộc lộ ra khỏi bản thân, chẳng có gì đáng thèm
muốn.”
(Theo A. L. Ghéc-xen, Ngữ văn 11, Tập hai,NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr.31)
Câu 5. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 6. Vẻ bề ngoài đẹp đẽ của “cuộc sống riêng không biết gì hết ở bên kia ngưỡng cửa
nhà mình” được thể hiện rõ nhất qua hình ảnh so sánh nào?
Câu 7. Tại sao tác giả cho rằng: “Số phận của những cái tuyệt đối cá nhân, không bộc lộ
ra khỏi bản thân, chẳng có gì đáng thèm muốn”?

59
Câu 8. Anh/Chị suy nghĩ như thế nào về cuộc sống của con người khi thoát ra khỏi “cái
tuyệt đối cá nhân”? (Trình bày khoảng 7 đến 10 dòng)
II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (3,0 điểm)
Sự hèn nhát khiến con người tự đánh mất mình, còn dũng khí lại giúp họ được là chính
mình.
Anh/Chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) bàn luận về ý kiến trên.
Câu 2 (4,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng: “Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được
một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con
người.”
Từ việc phân tích tình huống truyện của tác phẩm Vợ nhặt, anh/chị hãy bình luận
ý kiến trên.

ĐÁP ÁN ĐỀ NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2016
ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Câu 1:Những từ ngữ thể hiện sự mượt mà và tinh tế của tiếng Việt: vẹn tròn, vầng trăng
cao, đêm cá lặn sao mờ, bùn, lụa, óng tre ngà, mềm mại như tơ. (Thí sinh cần chỉ ra ít
nhất 02 từ ngữ trong các từ ngữ trên).0,25
Câu 2: Kể tên được hai biện pháp tu từ trong các biện pháp: so sánh, liệt kê, điệp, ẩn dụ.
0,25
Câu 3 Nội dung chính của đoạn trích:
- Khẳng định vẻ đẹp và sức sống của tiếng Việt.
- Thể hiện niềm tự hào và tình yêu của tác giả đối với tiếng Việt.0,50
Câu 4: Bày tỏ cảm nghĩ chân thành, sâu sắc của bản thân (có thể trình bày theo hướng: tự
hào, yêu quý, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt,...).0,50
Câu 5: Phương thức biểu đạt chính: nghị luận/ phương thức nghị luận. 0,25
Câu 6: Hình ảnh so sánh: một mảnh vườn được chăm sóc cẩn thận, đầy hoa thơm, sạch
sẽ, gọn gàng.0,25
Câu 7: Số phận của những cái tuyệt đối cá nhân, không bộc lộ ra khỏi bản thân, chẳng có
gìđáng thèm muốn vì:
- Đó là cuộc sống nghèo nàn.
- Đó là hạnh phúc mỏng manh và sự êm ấm tạm thời.
- Nó khiến con người không có khả năng vượt qua những dông tố của cuộc đời.0,50

60
Câu 8: Thể hiện suy nghĩ hợp lí, thuyết phục về cuộc sống thoát ra khỏi cái tuyệt đối cá
nhân
(có thể trình bày theo hướng: cuộc sống con người có ý nghĩa hơn khi xác lập được
mốiliên hệ giữa cái tôi với cái ta, giữa cá nhân với cộng đồng,...).0,50
LÀM VĂN 7,0
Câu 1:
Viết bài văn bàn luận về vấn đề: Sự hèn nhát khiến con người tự đánh mất mình, còndũng
khí lại giúp họ được là chính mình.3,0
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài
nêuđược vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.0,25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Sự hèn nhát khiến con người tự đánh mất
mình, còn dũng khí lại giúp họ được là chính mình.0,50
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận;kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; rút ra bài học nhận thức và hành động.
* Giải thích:
- Hèn nhát: thiếu can đảm đến mức đáng khinh; dũng khí: sức mạnh tinh thần trên
mứcbình thường, dám đương đầu với những trở lực, khó khăn, nguy hiểm.
- Nội dung ý kiến: một mặt phê phán những kẻ hèn nhát tự đánh mất chính mình;
mặtkhác đề cao những người có dũng khí dám sống là chính mình.0,25
* Bàn luận: 1,25
Thí sinh có thể trình bày quan điểm cá nhân nhưng cần hợp lí, thuyết phục; dưới đây
làmột hướng giải quyết:
- Sự hèn nhát khiến con người tự đánh mất mình:
+ Sự hèn nhát làm cho con người thiếu tự tin, không dám bộc lộ chủ kiến, dễ a dua;
không đủ nghị lực để thực hiện những mong muốn chính đáng của bản thân.
+ Sự hèn nhát khiến con người không thể vượt qua những cám dỗ, dục vọng tầmthường;
không dám đấu tranh với cái xấu, cái ác; không dám lên tiếng bênh vựccái thiện, cái
đẹp.0,50
- Dũng khí giúp con người được là chính mình:
+ Dũng khí giúp con người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; dám dấn thântheo
đuổi những đam mê chính đáng, phát huy cao độ năng lực bản thân.
+ Dũng khí tạo nên sức mạnh kiên cường giúp con người dám đương đầu với nhữngthách
thức; dám bênh vực lẽ phải, bảo vệ chân lí.0,50
- Mở rộng:

61
+ Dũng khí không đồng nghĩa với sự liều lĩnh, bất chấp; sống là chính mình không
đồngnghĩa với chủ nghĩa cá nhân cực đoan; do đó, con người cần tôn trọng cá tính, sự
khácbiệt và cũng cần biết hợp tác vì chính nghĩa.
+ Việc dám sống là chính mình của mỗi người sẽ góp phần làm nên bản lĩnh sống củadân
tộc.0,25
* Bài học nhận thức và hành động:
Cần nhận thức đúng đắn sự tiêu cực của lối sống hèn nhát và sự tích cực của lối sống
códũng khí; từ đó, bày tỏ quan niệm sống của chính mình và rút ra bài học hành động
phùhợp cho bản thân.0,25
d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đềnghị luận.0,25
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25
Câu 2:
Phân tích tình huống truyện và bình luận ý kiến: Trong tác phẩm “Vợ nhặt”, nhà văn
KimLân đã xây dựng được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường
màchính đáng của con người.4,0
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu
được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề gồm nhiều ý/ đoạn văn, kết bài kết luận
được vấn đề.0,25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Tình huống bất thường nói lên khát vọng bình
thường mà chính đáng của con người trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.0,50
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
- Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, chuyên viết về cuộc sống và con
người nông thôn.
- Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc, tác giả đã sáng tạo được tình huống “nhặt vợ” độc
đáo.0,25
* Nêu nội dung ý kiến: khẳng định thành công của tác giả trong việc xây dựng tình huống
độc đáo (tính chất bất thường), giàu ý nghĩa nhân bản (thể hiện khát vọng bình thường
của con người).0,25
* Phân tích tình huống: 1,25
- Nêu tình huống: Tràng - một nông dân ngụ cư nghèo khổ, ngờ nghệch, xấu xí, đang ếvợ
bỗng nhiên “nhặt” được vợ giữa nạn đói khủng khiếp.0,25
- Tính chất bất thường: giữa nạn đói kinh hoàng, khi người ta chỉ nghĩ đến chuyện
sống - chết thì Tràng lại lấy vợ; một người tưởng như không thể lấy được vợ lại “nhặt”
được vợ một cách dễ dàng; Tràng “nhờ” nạn đói mới có được vợ còn người đàn bà vì đói
62
khát mà theo không một người đàn ông xa lạ; việc Tràng có vợ khiến cho mọingười ngạc
nhiên, không biết nên buồn hay vui, nên mừng hay lo;...0,50

- Khát vọng bình thường mà chính đáng của con người: khát vọng được sống (người đàn
bà đói khát theo không về làm vợ Tràng); khát vọng yêu thương, khát vọng về mái ấm
gia đình (suy nghĩ và hành động của các nhân vật đều hướng tới vun đắp hạnh phúc gia
đình); khát vọng về tương lai tươi sáng (bà cụ Tứ động viên con, người vợ nhặt nhắc đến
chuyện phá kho thóc, Tràng nghĩ đến lá cờ đỏ sao vàng,...);...0,50
* Bình luận:
- Thí sinh cần đánh giá mức độ hợp lí của ý kiến, có thể theo hướng: ý kiến xác đáng vì
đã chỉ ra nét độc đáo và làm nổi bật ý nghĩa quan trọng của tình huống truyện trong việc
thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác giả.
- Có thể xem ý kiến là một định hướng cho người đọc khi tiếp nhận tác phẩm Vợ
nhặt, đồng thời là một gợi mở cho độc giả về cách thức tiếp cận truyện ngắn theo
đặc trưng thể loại.0,75
d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận. 0,50
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25

ĐỀ THI NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2017
(Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề)
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
“Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sự thấu cảm. Thấu cảm là khả năng nhìn thế giới bằng
con mắt của người khác, đặt mình vào cuộc đời của họ. Giống như cái lạnh thấu tủy hay
cái đau thấu xương, thấu cảm là sự hiểu biết thấu đáo, trọn vẹn một ai đó, khiến ta hiểu
được những suy nghĩ của họ, cảm được những cảm xúc của họ, và tất cả xảy ra mà không
có sự phán xét. Khả năng đọc được tâm trí và tâm hồn của người khác là một khả năng
phát triển ở những người mẫn cảm. Thấu cảm khiến ta hồi hồi khi quan sát một người
đang đi trên dây ở trên cao, làm chúng ta vui buồn với một nhân vật trong truyện.
Thấu cảm xảy ra trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Một đứa trẻ ba tuổi chìa con
gấu bông của mình cho em bé sơ sinh đang khóc để dỗ nó. Một cô gái nhăn mặt khi theo
dõi bạn mình trên giường bệnh chật vật uống một viên thuốc đắng. Mùa EURO 2016 kết
thúc với một hình ảnh đẹp: một cậu bé Bồ Đào Nha tiến tới an ủi một fan người Pháp cao
to gấp rưỡi mình, đang ôm mặt khóc vì đội Pháp thua trận chung kết. Anh người Pháp

63
cúi xuống ôm cậu bé mà người vẫn rung lên nức nở. Cậu đợi cho tới khi anh đi khuất hẳn
rồi mới tiếp tục phất cờ mừng chiến thắng .”
(Trích Thiện, Ác và Smartphone – Đặng Hoàng Giang,NXB Hội nhà văn, 2017, tr.275)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?
Câu 2. Theo tác giả, thấu cảm là gì?
Câu 3. Nhận xét về hành vi của đứa trẻ 3 tuổi, cô gái có bạn bị ốm, cậu bé Bồ Đào Nha
được nhắc đến trong đoạn trích.
Câu 4. Anh/Chị có đồng ý với ý kiến: “Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sự thấu cảm?”Vì
sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng
Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

64
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
(Trích Đất nước, trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, Tập
một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr.118 – 119)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, bình luận quan niệm về đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm

ĐÁP ÁN ĐỀ NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2017
ĐỌC HIỂU: 3.0
Câu 1: Chỉ ra được phương thức biểu đạt chính: nghị luận0.5
Câu 2: Theo tác giả, thấu cảm là khả năng nhìn thế giới bằng con mắt của người khác,
đặt mình vào cuộc đời của họ; là sự hiểu biết thấu đáo, trọn vẹn một ai đó...0.5
Câu 3: Nhận xét được đó là những hành vi tưởng như bình thường nhưng có ý nghĩa
trong đời sống; thể hiện sự thấu cảm, chia sẻ;... 1.0
Câu 4: Nêu rõ quan điểm đồng tình hoặc không đồng tình; lí giải hợp lí, thuyết phục về
mối quan hệ giữa lòng trắc ẩn và sự thấu cảm. 1.0
LÀM VĂN 7.0
Câu 1: Trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống 2.0
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn Thí sinh có thể trình bày đoaṇ văn theo cách
diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoăc̣ song hành. 0.25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận Ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống.0.25
c. Triển khai vấn đề nghị luận Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển
khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng cần làm rõ ý nghĩa của sự thấu cảm đối với
cá nhân và xã hội. Có thể theo hướng sau:
- Sư thấu cảm bồi đắp lòng nhân ái, giúp con người biết sống yêu thương, biết chia sẻ và
có trách nhiệm.
- Sự thấu cảm tạo nên mối quan hệ thân thiện giữa người với người, giúp cho xã hội tốt
đẹp hơn. 1.0
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu Đảm bảo chuẩn chı́nh tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Viêṭ.
0.25
e. Sáng tạo Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận. 0.25

65
Câu 2: Cảm nhận đoạn thơ và bình luận quan niệm về đất nước của Nguyên Khoa Điềm
5.0
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: Mở bài giới thiêụ được vấn đề. Thân bài triển khai
được vấn đề. Kết bài khái quát được vấn đề. 0.25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Cảm nhận đoạn thơ và bình luận quan niệm về
đất nước. 0.5
c. Triển khai vấn đề nghị luận: Vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa
lí lẽ và dẫn chứng.
* Giới thiêu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, đoạn trích 0.5
* Cảm nhận đoạn thơ: Thí sinh có thể cảm nhận theo nhiều cách nhưng cần đáp ứng các
yêu cầu sau:
- Về nôi dung ̣ : Đoạn trích thể hiện cảm xúc, suy tư và là sự cắt nghıã khái niệm đất nước
của tác giả từ nhiều phương diện:
+ Địa lí: không gian đất nước rộng lớn, mênh mông mà gần gũi, thân quen; thiêng liêng
mà bình dị; là nơi sinh tồn của bao thế hê,̣...
+ Lịch sử: gắn với cội nguồn, sự tiếp nối của các thế hê ̣ từ quá khứ đến hiện tại và tương
lai, làm nên đất nước trường tồn,...
+ Văn hóa: gắn với những quan niệm, ̣phong tục, tập quán,... kết tinh vẻ đẹp tâm hồn
nhân dân.
- Về nghê thuật: Đoạn trích sử dụng hiệu quả, sáng tạo thể thơ tự do, chất liệu văn hóa và
văn hoc dân gian; kết hợp hài hòa giữa chất trữ tı̀nh và chính luận; cách cắt nghĩa khái
niệm Đất Nước theo lối chiết tự,... 2.0
* Bình luận quan niệm về đất nước: Thí sinh cần bình luận hợp lí, thuyết phục. Có thể
theo hướng sau:
- Nguyễn Khoa Điềm quan niệm đất nước là sự tổng hợp, thống nhất các phương diện
lịch sử, địa lí và văn hóa trong mối liên hệ gắn bó với đời sống nhân dân. Điều đó góp
phần thể hiện tư tưởng cốt lõi của đoạn trích Đất Nước - tư tưởng Đất Nước của Nhân
dân.
- Đây là quan niệm mới mẻ , sâu sắc, tiêu biểu cho quan niệm về đất nước trong văn học
Cách Mạng 1945 ̣ - 1975; góp phần thức tı̉nh tinh thần dân tộc ở thế trẻ đô thị vùng địch
tạm chiếm miền Nam thời chống Mı̃ ; khơi gợi tình yêu, trách nhiệm với đất nước của
tuổi trẻ ngày nay. 1.0
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo chuẩn chı́nh tả , ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếngViệt.
0.25
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận. 0.5

66
ĐỀ THI NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2018
(Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề)
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Hãy thức dậy, đất đai!
cho áo em tôi không còn vá vai
cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn…
xin bắt đầu từ cơm no, áo ấm
rồi thì đi xa hơn - đẹp, và giàu, và sung sướng hơn
Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non
châu báu vô biên dưới thềm lục địa
rừng đại ngàn bạc vàng là thế
phù sa muôn đời như sữa mẹ
sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể
còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào?
lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao?
***

Lúc này ta làm thơ cho nhau


đưa đẩy mà chi mấy lời ngọt lạt
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên…”
Tp. Hồ Chí Minh 1980 - 1982
(Trích “Đánh thức tiềm lực”, Ánh trăng - Cát trắng - Mẹ và em, Nguyễn Duy, NXB Hội
Nhà văn, 2015, tr. 289-290)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Đoạn trích được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Trong đoạn trích, tác giả đã nhắc đến những yếu tố nào thuộc về tiềm lực tự nhiên
của đất nước?
Câu 3. Nêu hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi tu từ trong đoạn trích.
Câu 4. Theo anh/chị, quan điểm của tác giả trong hai dòng thơ: ta ca hát quá nhiều về
tiềm lực/tiềm lực còn ngủ yên có còn phù hợp với thực tiễn ngày nay không? Vì sao?
67
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về sứ mệnh đánh thức tiềm lực đất nước của mỗi cá nhân trong cuộc
sống hiện nay.
Câu 2 (5.0 điểm)
Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia
đình hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu)
Từ đó, anh/chị hãy liên hệ với sự đối lập giữa cảnh phốhuyện lúc đêm khuya và hình ảnh
đoàn tàu (Hai đứa trẻ - Thạch Lam)để nhận xét về cách nhìn hiện thực của hai tác giả.

ĐÁP ÁN ĐỀ NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2018
ĐỌC HIỂU 3.0
Câu 1: Đoạn trích được viết theo thể thơ tự do. 0.5
Câu 2: Trong đoạn trích, tác giả đã nhắc đến các yếu tố thuộc về tiềm lực tự nhiên của
đất nước: đất đai, khoáng sản, rừng, phù sa, sông, bể.0.5
Câu 3:
- Câu hỏi tu từ: còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào?/lòng đất rất giàu, mặt đất
cứ nghèo sao?
- Hiệu quả: tạo giọng điệu suy tư; bộc lộ sự trăn trở của tác giả trước thực trạng đất
nước giàu tài nguyên nhưng vẫn còn nghèo.1.0
Câu 4: Thí sinh có thể trả lời: Quan điểm của tác giả còn phù hợp/không còn phù
hợp/phù hợp một phần nhưng phải lí giải hợp lí, thuyết phục.1.0
II LÀM VĂN 7.0
Câu 1: Trình bày suy nghĩ về sứ mệnh đánh thức tiềm lực đất nước của mỗi cá nhân
trong cuộc sống hiện nay.2.0
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp,
móc xích hoặc song hành.0.25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Sứ mệnh đánh thức tiềm lực đất nước của mỗi cá nhân trong cuộc sống hiện nay.0.25
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo

68
nhiều cách nhưng phải làm rõ sứ mệnh đánh thức tiềm lực đất nước của mỗi cá nhân
trong cuộc sống hiện nay. Có thể theo hướng sau:
Xuất phát từ thực tiễn đất nước, mỗi cá nhân cần ý thức được sứ mệnh của mình, có hành
động cụ thể để đánh thức tiềm lực của bản thân; từ đó tác động tích cực đến cộng đồng
nhằm đánh thức tiềm lực của đất nước.1.0
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.0.25
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.0.25
Câu 2: Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo
lực ở gia đình hàng chài. Từ đó, liên hệ với sự đối lập giữa cảnh phố huyện lúc đêm
khuya và hình ảnh đoàn tàu để nhận xét về cách nhìn hiện thực của hai tác giả.5.0
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn
đề.0.25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình
hàng chài; liên hệ với sự đối lập giữa cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh đoàn
tàu; nhận xét về cách nhìn hiện thực của hai tác giả.0.5
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận,
kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:
* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
0.5
* Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo
lực ở gia đình hàng chài
- Sự đối lập:
+ Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa với những con người được bao phủ trong lớp sươngmờ
ảo và màu hồng của ánh ban mai tạo nên vẻ đẹp hài hòa, toàn bích; điều đó khiến nghệ sĩ
Phùng xúc động, say mê, hạnh phúc.
+ Những con người bước ra khỏi màn sương mờ ảo bỗng trở thành tội nhân và nạn
nhân của bạo lực gia đình; điều đó khiến nghệ sĩ Phùng kinh ngạc, phẫn nộ.
- Ý nghĩa của sự đối lập:

69
+ Thể hiện những thay đổi trong nhận thức của nhân vật Phùng về nghệ thuật và đời
sống.
+ Thể hiện những trăn trở của Nguyễn Minh Châu về cuộc sống, con người.2.0
* Liên hệ với sự đối lập giữa cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh đoàn tàu
- Sự đối lập giữa ánh sáng lấp lánh và bóng tối dày đặc; giữa âm thanh vang động và
không khí tịch mịch; giữa hành khách trên tàu sang trọng, ồn ào và người dân phốhuyện
nghèo khổ, âm thầm.
- Ý nghĩa của sự đối lập: thể hiện khát vọng đổi đời của con người trong hiện thực tăm
tối, tù đọng; cái nhìn vừa cảm thương vừa trân trọng của Thạch Lam đối với cuộc sống bế
tắc và mơ ước xa xôi của những kiếp người nhỏ bé.0.5
* Nhận xét về cách nhìn hiện thực của hai tác giả
- Tương đồng: Bằng việc tạo dựng những tương quan đối lập, cả hai tác giả đều hướng
tới khám phá hiện thực ở bề sâu, phát hiện bản chất đời sống, từ đó đặt ra những vấn đề
mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc; thể hiện sự đồng cảm, xót thương với những con người
bé nhỏ, bất hạnh.
- Khác biệt:
+ Nguyễn Minh Châu: nhìn hiện thực với cảm hứng thế sự, bằng cái nhìn đa chiều để
khám phá những nghịch lí của đời sống; cách nhìn hiện thực mang phong cách tự sự -
triết lí.
+ Thạch Lam: nhìn hiện thực với cảm quan lãng mạn, không chỉ nhìn thấy hiện thực tăm
tối, tù đọng của đời sống mà còn đi sâu vào tâm hồn để khám phá khát vọng của con
người; cách nhìn hiện thực mang phong cách tự sự - trữ tình.0.5
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.0.25
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.0.5

ĐỀ THI NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2019
(Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề)
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc đoạn trích
“Biết nói gì trước biển em ơi!
Trước cái xa xanh thanh khiết không lời
Cái hào hiệp ngang tàng của gió

70
Cái kiên nhẫn của nghìn đời sóng vỗ
Cái nghiêm trang của đá đứng chen trời
Cái giản đơn sâu sắc như đời

Chân trời kia biển mãi gọi người đi


Bao khát vọng nửa chừng tan giữa sóng
Vầng trán mặn giọt mồ hôi cay đắng
Bao kiếp vùi trong đáy lặn mù tăm
Nhưng muôn đời vẫn những cánh buồm căng
Bay trên biển như bồ câu trên đất
Biển dư sức và người không biết mệt
Mũi thuyền lao mặt sóng lại cày bừa
Những chân trời ta vẫn mãi tìm đi”
(Trước biển – Vũ Quần Phương, Thơ Việt Nam 1945 – 1985, NXB Văn học,1985,Trang
391)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2: Anh chị hiểu nội dung các dòng thơ sau như thế nào:
“Vầng trán mặn giọt mồ hôi cay đắng
Bao kiếp vùi trong đáy lặn mù tăm”
Câu 3. Hãy cho biết hiệu quả của phép điệp trong các dòng thơ sau:
“Cái hào hiệp ngang tàng của gió
Cái kiên nhẫn của nghìn đời sóng vỗ
Cái nghiêm trang của đá đứng chen trời
Cái giản đơn sâu sắc như đời”
Câu 4: Hành trình theo đuổi khát vọng của con người được thể hiện trong đoạn trích gợi
cho anh chị suy nghĩ gì?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2 điểm). Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh chị hãy viết đoạn văn ngắn
khoảng 200 chữ về sức mạnh về ý chí của con người.
Câu 2 (5 điểm)

71
“Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông
Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó
đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở
nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái
Digan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một
tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể
lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình
để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở
thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn
mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất
của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu
phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín
lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng..”
(Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn lớp 12, Tập Một)
Cảm nhận của anh chị về hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét
cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của Hoàng phủ Ngọc Tường

ĐÁP ÁN ĐỀ NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2019
Phần I: Đọc hiểu
Câu 1: Đoạn trích được viết theo thể thơ tự do.
Câu 2: Nội dung của các dòng thơ:
- Khắc họa cuộc sống cơ cực, tăm tối của kiếp người.
- Sự gắn bó, khát vọng chinh phục biển khơi dẫu có khó khăn, nghiệt ngã.
Câu 3: Hiệu quả của phép điệp:
- Nhấn mạnh, ngợi ca vẻ đẹp, tầm vóc của biển cả quê hương.
- Tạo nhịp điệu thơ nhanh; thể hiện sự tự hào, kiêu hãnh.
- Bộc lộ cái nhìn tinh tế, sự chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về mối quan hệ giữa biển cả
và con người.
Câu 4: Học sinh nêu rõ quan điểm, suy nghĩ cá nhân. Cần lý giải thuyết phục, hợp lý.
Phần II: Làm văn
Câu 1:
1. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn: Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách
diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.
72
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Sức mạnh ý chí của con người trong cuộc sống.
3. Triển khai vấn đề nghị luận:
Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều
cách nhưng phải làm rõ sức mạnh ý chí của con người trong cuộc sống. Có thể theo
hướng sau:
- Giải thích: Ý chí là khả năng vượt khó, sức mạnh của sự nỗ lực ở con người.
- Sức mạnh ý chí của con người trong cuộc sống:
+ Ý chí thôi thúc hành động, giúp con người vượt lên chính mình.
+ Ý chí tạo niềm tin, động lực mãnh mẽ cho con người trong hành trình chinh phục khát
vọng.
+ Ý chí tạo nên thành công cho con người trong cuộc sống.
4. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.
5. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Câu 2:
1. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: Mở bài giới thiệu được vấn đề, Thân bài triển khai
được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Hình tượng sông Hương và cách nhìn mang tính
phát hiện về dòng sông của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
3. Nội dung
* Giới thiệu khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác phẩm Ai đã đặt tên cho
dòng sông và vị trí đoạn trích.
* Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích.
- Sông Hương mang vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa trữ tình:
+ Sông Hương là "bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt".
+ Nét "dịu dàng và say đắm" được toát lên giữa màu đỏ của những bông hoa đỗ quyên
rừng.
→ Câu văn dài, chia làm nhiều vế, kết hợp với những động từ, tính từ nhằm nhấn mạnh
hai vẻ đẹp đối lập của dòng sông.
- Sông Hương còn mang vẻ đẹp "phóng khoáng, man dại" và giàu chất trí tuệ:
+ Vẻ đẹp hoang sơ lại hết sức tình tứ được khắc hoạ bằng hình ảnh so sánh "một cô gái
Di-gan phóng khoáng và man dại" kết hợp biện pháp tu từ nhân hoá qua từ "hun đúc".
+ Vẻ đẹp giàu chất trí tuệ thể hiện qua hình ảnh so sánh "người mẹ phù sa của một vùng
văn hoá xứ sở".

73
* Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường
Tác giả không chỉ nhìn sông Hương trong thuỷ trình mà còn nhìn nhận và phát hiện ra
bản chất của dòng sông. Sông Hương hiện lên vừa là một thực thể tự nhiên, vừa như một
con người với vẻ đẹp phong phú và tâm hồn "sâu thẳm".
→ Cái nhìn sâu sắc, toàn diện và hết sức mới mẻ của tác giả. Từ đó, người đọc cảm nhận
được tình yêu quê hương và trân quý cái đẹp của nhà văn.
4. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.
5. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận

ĐỀ THI NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2020
(Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề)
I.ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Không cần ngôn ngữ, mọi sự sống nhỏ nhoi trong tự nhiên đều dạy cho loài người
chúng ta biết tầm quan trọng của việc “sống hết mình ở thời khắc này”. Chẳng hạn tại
vùng Tsunoda thuộc Bắc cực, giữa mùa hè ngắn ngủi, các loài thực vật đua nhau nảy
mầm, nở thật nhiều hoa, kết hạt, chen chúc vươn mình trong khoảng không với mảnh đời
thật ngắn ngủi. Có lẽ chúng chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với mùa đông dài khắc nghiệt
sắp tới và phó thác sinh mạng mình cho tự nhiên. Rõ ràng là chúng thực sự sống hết
mình cho hiện tại, không ảo tưởng, không phân tâm. Ngay cả vùng sa mạc khô cằn
Sahara, nơi mà mỗi năm chỉ có một hai cơn mưa, nhưng mỗi khi có những giọt nước mưa
hiếm hoi trút xuống thì các loài thực vật lại vội vã nảy mầm và nở hoa. Và trong một
khoảng thời gian từ một đến hai tuần ngắn ngủi, chúng ra hạt, oằn mình chịu đựng trong
cát, trong cái nóng như thiêu như đốt, tiếp tục sống chờ đến trận mưa sau để nòi giống
của chúng sẽ lại trỗi dậy… Quả thật là muôn loài trong tự nhiên đều sống hết mình, sống
nghiêm túc trong từng khoảnh khắc, trong suốt khoảng thời gian sống được hạn định.
Sống hết mình cho hiện tại sẽ đưa sự sống, dù nhỏ bé, vươn đến ngày mai. Vậy thì loài
người chúng ta lại càng phải biết trân trọng cuộc sống mỗi ngày để không thua kém cỏ
cây muông thú.”
(Trích Cách sống: từ bình thường trở nên phi thường, Inamori Kazuo,NXB Lao động,
2020, tr. 103-104)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2: Theo đoạn trích, các loài thực vật ở vùng Tsunoda thuộc Bắc cực sinh trưởng như
thế nào giữa mùa hè ngắn ngủi?

74
Câu 3: Chỉ ra những điểm tương đồng về sự sống của các loài thực vật ở vùng Tsunoda
thuộc Bắc cực và ởvùng sa mạc Sahara trong đoạn trích.
Câu 4: Anh/Chị có đồng tình với nhận định của tác giả “Sống hết mình cho hiện tại sẽ
đưa sự sống, dù nhỏ bé, vươn đến ngày mai”? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ của bản thân về sự cần thiết phải trân trọng cuộc sống mỗi ngày.
Câu 2. (5,0 điểm)
Phân tích tư tưởng Đất nước của Nhân dân được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện
trong đoạn trích sau:

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhỏ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

75
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước là Đất Nước nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
(Trích Đất nước – trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ Văn 12,
Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, tr. 121)

ĐÁP ÁN ĐỀ NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA 2020
PHẦN I: ĐỌC HIỂU
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích là nghị luận. (0,5
điểm)
Câu 2: Các loài thực vật ở vùng Tsunoda thuộc Bắc cực đua nhau nảy mầm, nở thật
nhiều hoa, kết hạt, chen chúc vươn mình trong khoảng không với mảnh đời thật ngắn
ngủi giữa mùa hè. (0,5 điểm)
Câu 3: Sự tương đồng về sự sống của các loài thực vật ở vùng Tsunoda ở Bắc cực và ở
vùng sa mạc Sahara trong đoạn trích: Dù sống trong điều kiện khắc nghiệt với vòng đời
ngắn ngủi, các loài thực vật vẫn nảy mầm, đơm hoa, kết hạt và gieo mầm sự sống cho thế
hệ sau. (1,0 điểm)
Câu 4: Học sinh nêu rõ quan điểm đồng tình hoặc không đồng tình, suy nghĩ cá nhân.
Cần lí giải thuyết phục, hợp lí. (1,0 điểm)
Sau đây là gợi ý:
– Tương lai được tạo nên từ quá khứ và hiện tại. Bởi vậy, sống hết mình ở hiện tại chính
là tiền đề để tạo nên một tương lai tốt đẹp, dù là nhỏ bé.
– Sống hết mình ở hiện tại sẽ mang lại cho con người những kinh nghiệm vô giá, những
trải nghiệm đáng quý sẽ trở thành hành trang đưa con người đến tương lai…
PHẦN II: LÀM VĂN
Câu 1:Đề bài: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về sự cần thiết phải trân trọng cuộc
sống mỗi ngày.
1. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn (0,25 điểm)

76
– Viết thành đoạn văn (khoảng 200 chữ).
– Có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng-phân-hợp, móc xích hoặc
song hành.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,25 điểm)
Sự cần thiết phải trân trọng cuộc sống mỗi ngày.
3. Triển khai vấn đề nghị luận (1,0 điểm)
Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều
cách nhưng phải làm rõ sự cần thiết phải trân trọng cuộc sống mỗi ngày. Có thể theo
hướng sau:
– Giải thích: Trân trọng cuộc sống mỗi ngày là thái độ quý trọng, nâng niu, tận dụng mọi
khoảnh khắc của hiện tại, không bỏ phí dù chỉ một giây phút nhỏ bé.
– Sự cần thiết phải trân trọng cuộc sống mỗi ngày:
+ Mỗi ngày là một phần tạo nên dòng chảy dài của cuộc sống. Trân trọng cuộc sống mỗi
ngày giúp ta hiểu được ý nghĩa của từng điều nhỏ bé để tạo nền tảng vững chắc cho
tương lai.
+ Trân trọng cuộc sống mỗi ngày giúp con người sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc,
sống có ý nghĩa.
+ Trân trọng cuộc sống mỗi ngày là thái độ sống tích cực, chỉ những người biết trân trọng
từng khoảnh khắc, tân dụng nó mới có thể tạo nên thành công.
4. Chính tả, ngữ pháp (0,25 điểm)
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.
5. Sáng tạo (0,25 điểm)
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Câu 2:Đề bài: Phân tích tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm thể hiện trong đoạn thơ.
1. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận (0,25 điểm)
Mở bài giới thiệu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được
vấn đề.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm)
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được thể hiện trong đoạn thơ.
3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
a. Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm, trường ca Mặt đường khát vọng và
đoạn trích (0,5 điểm)
b. Triển khai hệ thống luận điểm (3,5 điểm)

77
* Giải thích: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” thể hiện quan niệm, suy nghĩ sâu sắc
của nhà thơ về đất nước: gắn đất nước với công lao của những người dân vô danh.
* Biểu hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”
– Lịch sử 4000 năm của dân tộc được tạo nên từ mồ hôi và xương máu của nhân dân:
+ Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng thường trực tình yêu nước, vừa hăng
say lao động, vừa dũng cảm chiến đấu.
+ Tác giả đề cao vai trò của những con người vô danh làm nên lịch sử.
– Nhân dân đóng vai trò chủ thể trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước:
+ Nhân dân là những người đã làm ra, giữ gìn và sáng tạo những giá trị vật chất, tinh
thần, văn hóa cho đất nước: “truyền hạt lúa”, “chuyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh
theo tên xã, tên làng”…
+ Họ chiến đấu với ngoại xâm và nội thù để bảo vệ đất nước.
– Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” của Nguyễn Khoa Điềm có sự kế thừa và phát
triển trong thời đại mới, thời đại chống Mĩ cứu nước.
* Nghệ thuật
– Thể loại trường ca với các câu thơ dài ngắn đan xen.
– Sử dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo các chất liệu văn hóa dân gian.
– Giọng điệu thiết tha, thủ thỉ.
– Cách viết hoa “Đất Nước”, “Nhân dân”.
4. Chính tả, ngữ pháp (0,25 điểm)
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.
5. Sáng tạo (0,5 điểm)
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

HỌC KÌ II
VỢ CHỒNG A PHỦ
- Tô Hoài –
I.GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:

78
Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh năm 1920, quê ở Hà Tây trong gia đình
thợ thủ công. Tuổi thơ và thời trai trẻ phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề. Trong
kháng chiến, ông làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Tác phẩm tiêu biểu: Dế
mèn phiêu lưu kí, O chuột, nhà nghèo…
2.Hoàn cảnh sáng tác:
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, nhân chuyến Tô Hoài
cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi dài tám tháng, giúp Tô Hoài hiểu sâu
hơn về cuộc sống và con người miền núi. “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “truyện Tây
Bắc” (1953), được tặng giải nhất của hội văn nghệ Việt Nam (1954 – 1955). Tập “truyện
Tây Bắc” gồm ba truyện ngắn: Cứu đất cứu mường, mường Giơn và vợ chồng A Phủ.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” gồm hai phần: Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, vợ chồng A
Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích sách giáo khoa thuộc phần Mị và A phủ ở Hồng Ngài.
3.Chủ đề:
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” cho thấy cuộc sống tối tăm, khổ nhục và quá trình tự
vùng lên giải phóng, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách
thống trị của bọn chúa đất và thực dân.
4.Tóm tắt văn bản:
Mị là một cô gái Mèo, vì cha mẹ mắc nợ nhà thống lí nên bị bắt về làm dâu trừ nợ,
làm vợ cho A Sử. Cuộc sống làm dâu, làm vợ vô cùng khổ, Mị muốn chết. Nhưng vì
thương cha già không đủ sức làm nương trả nợ, Mị đành chấp nhận cuộc sống hiện tại và
lâu dần trở thành con người vô cảm. Mùa xuân đến Mị muốn đi chơi, A Sử không cho,
trói Mị Lại. A Phủ là một thanh niên nghèo, mồ côi, lao động giỏi, vì đánh A Sử, con
quan, nên bị thống lí phạt vạ. A Phủ không có tiền nộp phạt nên phải ở đợ cho nhà thống
lí. Vì hổ bắt mất một con bò, A Phủ bị cha con thống lí trói đứng cho đến chết. Mị đồng
cảm cắt dây trói cho A Phủ rồi cùng trốn đến Phiềng Sa chung sống và giác ngộ cách
mạng.
5. Dàn ý chi tiết về nhân vật Mị:
5.1. Cuộc đời làm dâu khổ đau, tủi nhục
a. Trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra:
- Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. (Mị có tài thổi sáo, nhiều trai làng theo đuổi).
- Mị đã có người yêu, không muốn về làm dâu nhà thống lí để trừ nợ.
- Mị quyết tâm trả nợ bằng sức lao động của mình.
→ Mị khát khao được sống tự do, hạnh phúc; cô muốn làm chủ cuộc đời mình.
b. Khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí:
- Mị làm con dâu nhưng thực chất là con nợ. Để trả món nợ truyền kiếp, Mị bị trói chặt
cuộc đời mình vào kiếp sống nô lệ.

79
- Mị sống trong khổ đau, vật vả âm thầm “đêm nào Mị cũng khóc”. Mị muốn ăn lá ngón
để giải thoát mình. Nhưng vì thương cha Mị không thể chết. Mị đành nén nỗi đau riêng
mà chấp nhận kiếp sống đọa đày.
→ Vì chữ hiếu, Mị đã hi sinh tự do, hạnh phúc. Từ đó, Mị rơi vào hoàn cảnh bế tắt,
không lối thoát.
c. Kiếp sống đọa đày:
* Đọa đày về thể xác:
- Mị phải làm lụng quanh năm suốt tháng không được ngơi nghỉ. Thân phận Mị còn thua
cả con trâu, con ngựa.
- Mị bị chồng đối xử tàn nhẫn. A sử đánh Mị vô tội vạ: Trói đứng, đạp vào mặt, tự dưng
đánh ngã xuống cửa bếp.
* Đọa đày về tinh thần:
- Mị sống cam chịu, nhẫn nhục: Lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi, tưởng mình là
con trâu, con ngựa “chỉ biết ăn cỏ, đi làm mà thôi”.
- Mị sống cô độc, âm thầm: Mỗi ngày càng không nói “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa”.
- Mị không còn ý niệm về thời gian và thế giới xung quanh. Mị là một tội nhân bị giam
cầm ở chốn ngục tù “Ở cái buồng Mị nằm kín mít, có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn
tay… trông ta chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”.
- Mị mất hết niềm tin vào cuộc sống, không ý thức về tương lai, hoàn toàn tuyệt vọng
“Cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy đến bao giờ chết thì thôi.”
→ Mị tồn tại với trạng thái gần như đã chết. Sức sống của Mị gần như bị tê liệt. Mị trở
nên vô cảm với mọi thứ quanh mình.
=> Nhà văn đã cảm thông sâu sắc cho số phận bất hạnh của Mị. Đồng thời tố cáo tội ác
của bọn thống trị tàn bạo chà đạp quyền sống của con người.
5.2. Sức sống tiềm tàng
a. Khung cảnh mùa xuân ở vùng cao:
- Mùa đông năm ấy “gió và rét dữ dội”. Nhưng mùa xuân vẫn cứ đến ở Hồng Ngài: “Trẻ
con đi hái bí đỏ, cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa được đem ra phơi…”. Như một
niềm mong đợi, vui sướng khi ngày tết người nghèo cơ cực mấy ai cũng được đi chơi.
- Ở mỗi đầu làng, trai gái, trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy.
Những đêm tình mùa xuân đang tới, vang trong đêm là tiếng sáo vọng lại, tiếng sáo rủ
bạn đi chơi.
→ Vẻ đẹp gợi cảm của không khí ngày xuân cùng với lẽ sống phóng khoáng , tự do của
người Mông trở thành mãnh lực tác động đến tâm hồn Mị, một tâm hồn đang khô héo.
b. Mị dần tỉnh lại, thoát khỏi trạng thái vô cảm bấy lâu:
80
- Mị lắng nghe tiếng sáo bằng tâm trạng “thiết tha, bổi hổi”. Cảm giác nhớ nhung da diết
về kỉ niệm của quá khứ và cảm giác rạo rực, xao xuyến của hiện tại.
- Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”.
+ Khát vọng tìm đến tình yêu, hạnh phúc của lời bài hát như đánh thức niềm khát khao
cuộc sống tự do, hạnh phúc bị chôn vùi đã lâu trong tiềm thức Mị.
- Mị lén lấy hũ rượu “cứ uống ực từng bát”. Cách uống đầy tâm trạng. Mị uống như thể
nuốt những đắng cay của phần đời đã qua và đang uống cho cả những khát khao cho phần
đời sắp tới.
- Mị lắng nghe tiếng sáo gọi bạn, Mị “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi
sáo”. Mị sống lại những kí ức đẹp thời thiếu nữ, Mị thổi sáo giỏi, có biết bao nhiêu người
mê, đi theo Mị.
- Sức sống trong Mị bắt đầu hồi sinh “Mị thấy phơi phới trở lại”, trong lòng đột nhiên
vui sướng. Mị ý thức mình còn rất trẻ. Mị muốn được đi chơi. Chính tiếng sáo đã làm
sống dậy cái sức sống ẩn tàng trong cơ thể trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị.
- Nhưng lúc này, Mị cảm nhận sâu sắc nỗi tủi nhục của mình vì biết chồng Mị không đời
nào cho Mị đi chơi tết. Mị chỉ muốn ăn lá ngón để chết ngay. Đây là một biểu hiện của
một tâm hồn đang sống lại, tỉnh táo để nhận ra và thấm thía nỗi đau bị tước đoạt quyền
được sống.
- Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lững bay ngoài đường, kéo Mị trở về nỗi khát khao tự do,
hạnh phúc. Mị thắp đèn cho căn buồng sáng lên, Mị quấn lại tóc, định mặc cả váy hoa để
đi chơi. Khát vọng tự do trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị bất chấp thực tại khổ đau.
- Bị A Sử trói nghiến vào cột nhà, Mị không phản ứng vì lúc này tâm hồn Mị vẫn miên
man theo tiếng sáo. Nỗi đam mê cuộc sống trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị không còn cảm
giác thể xác đau đớn.
- Mị không còn nghe tiếng sáo nữa. Mị thổn thức khóc cho thân phận “mình không bằng
con ngựa”. Mị nhớ về câu chuyện một người vợ bị chồng trói đến chết. Mị sợ chết. Sợ
chết có nghĩa là không muốn chết. Mị vẫn rất ham sống và muốn sống.
→ Tiếng sáo chính là âm thanh của tình yêu, tự do, hạnh phúc. Tiếng sáo gợi kỉ niệm quá
khứ, đánh thức sức sống tiềm ẩn trong tâm hồn Mị.
=> Nhà văn đã sử dụng bút pháp tương phản giữa hoàn cảnh tù túng, khắc nghiệt với
lòng người tha thiết cuộc sống tự do để khẳng định: Sức sống của con người rất kì diệu.
Dù bị đè nén, vùi dập tới đâu cũng không thể hủy diệt.

81
5.3. Sự phản kháng mạnh mẽ, táo bạo
- Khát vọng sống trở thành ngọn lửa âm ỉ trong lòng Mị. Khi có cơ hội, ngọn lửa ấy sẽ
bùng cháy, trở thành một sự phản kháng mãnh liệt không ai có thể ngờ tới.
- Những đêm mùa đông trên núi cao, Mị thường dậy sớm trong nỗi cô đơn hiu quạnh một
mình lặng lẽ. Thấy A Phủ bị trói, lúc đầu Mị thản nhiên “nếu A Phủ là cái xác chết đứng
đấy cũng thế thôi”. Nhưng đến lúc bất chợt nhìn thấy dòng nước mắt đau đớn, tuyệt vọng
của A Phủ thì tâm hồn Mị hồi sinh một tình người sâu sắc:
+ Mị thấy đồng cảm với A Phủ, “Mị nhớ lại đêm năm trước A Sử cũng trói Mị, Mị cũng
phải trói đứng thế kia”. Mị và A Phủ là những phận người đồng cảnh ngộ, vừa nghèo khổ
vừa bị bọn thống trị đày đọa tàn nhẫn.
+ Trong phút chốc Mị nhớ lại những ngày tháng tủi nhục trước đây. Mị sống và làm việc
như một con vật, bị bắt trói đứng suốt đêm. Mị nhớ đến người đàn bà bị chồng trói đến
chết. Trong Mị bừng lên sự căm phẫn tột cùng “Chúng nó thật độc ác”.
+ Mị lo lắng, cảm thương cho tình cảnh hiểm nghèo của A Phủ “ Chỉ đêm mai là người
kia chết chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Một cái chết thê thảm sẽ đến với A Phủ.
+ Mị thấy thật bất công, vô lí nếu A Phủ phải chết “người kia việc gì phải chết thế”. Mị
nhận ra nếu phải chết thì đó là một cái chết đầy oan ức cho A Phủ.
+ Mị nghĩ rằng nếu giải thoát cho A Phủ thì Mị sẽ là người thay thế nhưng “làm sao Mị
cũng không thấy sợ”. Sức mạnh của tình người thôi thúc Mị, khiến Mị chiến thắng sự sợ
hãi.
+ Mị quyết tâm cởi trói cho A Phủ, Mị đem hết nghị lực để thực hiện hành động táo bạo
ấy. Dù trong lòng rất hồi hộp, lo lắng đến “nghẹn lại” nhưng cách Mị cắt, gỡ dây trói thì
rất dứt khoát. Sự dũng cảm, lòng thương người đã giúp Mị giải thoát cho A Phủ.
+ Mị đứng lặng trong bóng tối. Đó chính là giây phút Mị suy nghĩ về bản thân và lựa
chọn. Mị đang đứng ở ranh giới ở lại thì chết mà chạy đi có thể được sống. Một khoảnh
khắc định mệnh và Mị phải sáng suốt quyết định.
+ Mị đã vùng chạy theo A Phủ. Một sự lựa chọn sáng suốt. Chỉ có giải thoát mới mong
thay đổi được số phận, mới được sống đúng nghĩa. Hàng loạt động từ: “Vụt chạy, băng
đi, đuổi kịp, lăn…” cho thấy Mị đã dồn hết sức mạnh cố thoát khỏi cõi chết để tìm đến sự
sống. Mị và A Phủ “đỡ nhau lao chạy” trong niềm thôi thúc mãnh liệt của lòng khao khát
được sống tự do.
→ Đây là kết quả tất yếu của một quá trình Mị bị dồn nén, chà đạp. Sức sống tiềm tàng
đã thúc đẩy Mị phản kháng và tự giải thoát mình.
=> Mị, tiêu biểu cho người phụ nữ lao động người Mông nghèo khổ, bị vùi dập trong
hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng vẫn tỏa sáng một tâm hồn đẹp: Khát khao tự do, hạnh
phúc, dũng cảm vùng lên giải thoát số phận nghiệt ngã.

82
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:
1.Nhân vật Mị:
a. Cách giới thiệu nhân vật độc đáo:
Mở đầu tác phẩm, tác giả buộc người đọc phải chú ý hình ảnh: “Người con gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa” và “lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt,
buồn rười rượi”, gợi sự tò mò cho người đọc vì là con dâu một gia đình quyền thế, giàu
có thì tại sao lại nhẫn nhục, buồn bã vậy, tại sao lại đơn côi, âm thầm như hòa lẫn vào các
vật vô tri vô giác vậy? Đây là thủ pháp tạo tình huống có vấn đề để lôi cuốn người đọc
khám phá những bí ẩn của số phận nhân vật.
b.Mị thời con gái ( Mị trong quá khứ ):
Mị sinh ra và lớn lên trong nghèo khổ, nhưng rất hạnh phúc với cuộc sống tự do.
Thời con gái Mị đẹp như một bông hoa rừng Hồng Ngài. Có rất nhiều chàng trai theo
đuổi: “Có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.
Mị rất yêu lao động, yêu tự do và đặc biệt là ghét bọn nhà giàu. Vì vậy khi thống lí
đến nói với bố Mị về làm dâu trả nợ (Món nợ mà cha mẹ Mị mượn không trả nỗi vì lãi
quá cao). Mị nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô
giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Mị có tài thổi sáo, tiếng sáo của một tâm hồn nhạy cảm, yêu tự do, yêu núi rừng
Hồng Ngài “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Mị đã có người
yêu.
Với những phẩm chất tốt đẹp trên, Mị xứng đáng được hưởng tình yêu và hạnh phúc
đời thường. Nhưng người con gái miền sơn cước ấy phải sống những tháng ngày đọa đày
trong đau khổ, tủi nhục bởi chế độ vay nặng lãi đã bóc lột những người nghèo như gia
đình Mị một cách dã man của bọn thống trị vùng Tây Bắc giai đoạn trước cách mạng
tháng tám.
c.Mị trong hiện tại (Sau khi làm dâu thống lí):
* Nguyên nhân Mị rơi vào nhà thống lí:
Mị bị cha con thống lí bắt cóc theo tục cướp vợ của người Mèo. Vào đêm tình mùa
xuân, Mị hồi hộp chờ người yêu đến đón ra rừng chơi, khi thấy ngón tay lách vào khe gỗ,
Mị cẩn thận kiểm tra ngón tay đeo nhẫn của người yêu và giở tấm vách gỗ bước ra thì
bỗng “mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi”. Mị buộc
phải làm dâu để trừ nợ, vì sau khi bắt cóc được Mị rồi, A Sử đến nhà nói với bố Mị:
“Tiền bạc để cưới thì bố tôi đã đưa cả cho bố rồi”. Mị bị cha con thống lí dùng thần
quyền để trói buộc cả cuộc đời bằng cách cúng trình ma.
*Phản ứng đầu tiên của Mị (Sức sống tiềm tang trỗi dậy lần thứ nhất):
Phản ứng đầu tiên của Mị khi về làm dâu nhà thống lí là Mị khóc: “Có đến hàng mấy
tháng đêm nào Mị cũng khóc”. Mị khóc vì tình yêu tan vỡ, vì ghét bọn nhà giàu mà vẫn
83
phải sống chung với chúng, khóc vì thân phận tủi nhục, phải làm dâu trừ nợ, phải làm
một tên nô lệ không công. Mị quyết định tự tử để tìm được tự do ở thế giới bên kia. Mị về
chào cha với nắm lá ngón trên tay, nhưng vì thương cha già, không đủ sức làm nương
ngô trả nợ, Mị đành quay về nhà thống lí.

*Những tháng ngày làm dâu:


Cha con thống lí biến Mị thành một tên nô lệ không công: “Con ngựa, con trâu làm
còn có lúc đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi
vào việc làm cả đêm cả ngày”. Cha con thống lí biến Mị từ một cô gái trẻ trung, tràn đầy
sức sống, yêu tự do thành một cái xác không hồn: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi
như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị không suy nghĩ, không nói và không có khái
niệm về thời gian và không gian, bởi cái buồng của Mị giống như nhà tù: “Cái buồng Mị
nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng gỗ vuông bàn tay. Lúc nào trông ra cũng thấy
trăng trắng không biết là sương hay nắng”. Mị giống như một tù nhân bị giam cầm trong
một căn buồng mờ tối. Mị nghĩ mình cứ ngồi trong ấy mà trông ra cho đến bao giờ chết
thì thôi.
Tóm lại, cha con thống lí (đại diện cho bọn thống trị phong kiến), đã biến người lao
động miền núi thành những nô lệ không công, cái xác không hồn. Mặt khác tác giả tố cáo
tội ác của bọn thực dân, chúa đất, cảm thông sâu sắc với người lao động nghèo. Đó cũng
chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
*Sức sống tiềm tàng, lòng khát khao tự do, hạnh phúc trỗi dậy lần thứ hai:
Nguyên nhân sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy lần thứ hai là: “Mùa đông năm ấy gió
và rét dữ dội”, nhưng mùa xuân cứ đến. Người Mèo dù nghèo khổ đến đâu cũng đi chơi
xuân. Đã lâu rồi, mắt Mị mới nhìn thấy “những chiếc váy hoa sặc sỡ đem phơi trên mõm
đá xòe như con bướm sặc sỡ”, trai gái rủ nhau ra sân, chơi ném pao, thổi sáo, thổi kèn.
Mị chợt nhớ đến mùa xuân năm nào của thời con gái. Tai Mị thì nghe tiếng sáo từ rất xa
(lấp ló ngoài đầu núi) vọng lại, lòng Mị bổi hổi, bồi hồi, Mị ngồi nhẩm thầm theo lời bài
hát của người đang thổi:
“ Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
Sáo vốn là một phần tâm hồn của Mị, thấm vào da thịt Mị, lay động tâm hồn câm
lặng bấy lâu, Mị nhớ lại thời con gái. Buồn quá, Mị uống rượu “cứ uống ừng ực từng
bát” như nuốt cái cay đắng của đời mình. Rượu đã làm Mị lãng quên thực tại (Mị nhìn
mọi người nhảy đồng, hát mà lại không nghe, không thấy gì, thậm chí tiệc rượu tàn lúc
nào cũng không biết). Mị say, nhưng tai Mị vẫn nghe văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu
làng. Mị thấy phơi phới trở lại như những đêm trước thời con gái. Mị suy nghĩ: “A Sử với

84
Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Mị quyết định nếu phải sống với A
Sử thì Mị sẽ ăn lá ngón chết, nhưng Mị lại không có lá ngón trong tay. Còn sống thì phải
sống tự do, mà biểu hiện đầu tiên của tự do là đi chơi xuân, vì “Mị còn trẻ, Mị còn trẻ
lắm” và từ ngày lấy A Sử, không có năm nào A Sử cho Mị đi chơi xuân.
Mị đi chơi xuân: Mị từ từ vào buồng, thắp sáng đèn lên như thắp sáng tình yêu, thắp
sáng cuộc sống tự do và hạnh phúc của mình. Đối với Mị đi chơi xuân bây giờ chính là
hành động nỗi loạn để chấm dứt kiếp sống tù nhân, giành lại quyền được sống tự do như
một con người, càng nghĩ Mị càng trở nên mạnh mẽ, quyết liệt, Mị vấn lại tóc, sửa soạn
váy áo. Đúng lúc đó thì A Sử xuất hiện, A Sử ngạc nhiên hỏi: “Mày muốn đi chơi à?”.
Bình thường, Mị rất sợ A Sử, nhưng hôm nay A Sử hỏi Mị vẫn thản nhiên rút thêm một
cái váy hoa. A Sử im lặng rồi dùng thắt lưng, một thúng dây đay và cả tóc Mị để trói Mị
lại. Độc ác hơn là ở buồng riêng của hai vợ chồng, vì không muốn ai cứu Mị, buộc Mị
phải chết, nên hắn tắt đèn, sập cửa buồng lại rồi đi chơi. Cha con thống lí có thể trói Mị
về mặt thể xác, nhưng không thể trói Mị về mặt tinh thần: “Hồn Mị vẫn đi theo tiếng
sáo”, theo cuộc chơi, có lúc vui quá Mị vùng bước đi nhưng không được vì đang bị trói.
Đau khổ, thổn thức, Mị khóc.
*Sức sống tiềm tàng trỗi dậy lần thứ ba (Mị cứu A Phủ):
Nguyên nhân: Sau đêm bị A Sử trói, Mị lại rơi vào cuộc sống âm thầm, lặng lẽ, đau
đớn như trước. Nhưng lòng khát khao tự do lại trỗi dậy khi Mị nhìn thấy A Phủ bị cha
con thống lí đánh đập rất dã man, vì tội đánh A Sử - con quan, cho dù con quan có làm
điều bạo ngược. Mị lại nhìn thấy A Phủ bị trói đứng cho đến chết vì tội để hổ bắt mất một
con bò của nhà thống lí.
Mị cứu A Phủ: “Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn”, Mị không ngủ
được vì cái lạnh buốt giá của mùa đông, hay cái lạnh cô đơn trong lòng Mị, Mị thường
trở dậy làm bạn với lửa “Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay”, dù cho có bị A Sử đánh ngã ngay
xuống bếp, thì Mị vẫn lặng lẽ như cái bóng, đêm sau lại thổi lửa hơ tay, vì vậy khi nhìn
thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế
thôi”, vì cảnh đánh và trói người ở nhà thống lí là chuyện bình thường.
Đêm nay, Mị lại dậy thổi lửa, hơ tay, ngọn lửa – người bạn duy nhất của Mị bỗng
bùng sáng lên để Mị nhìn thấy A Phủ khóc “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại”. Dòng nước mắt uất hận của A Phủ - Một con người dũng cảm,
yêu cuộc sống tự do và ghét bọn nhà giàu cậy quyền thế làm điều bạo ngược, thế mà giờ
đây lại bất lực trước sự tàn bạo của cha con thống lí. Giọt nước mắt của A Phủ đã tác
động vào trái tim Mị, phải chăng đây là giọt nước mắt cuối cùng của A Phủ trước khi
chết đã đưa Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ? Mị nhớ đến ngày nào mình cũng bị A Sử trói,
mình cũng khóc “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được”. Mị bắt đầu
biết thương mình và thương cho người đồng cảnh ngộ bị cha con thống lí đày đọa “trời
ơi nó bắt trói đứng người ta cho đến chết”. Mị kết luận “cơ chừng đêm mai là người kia
chết”, chết vì đói, vì rét và đau đớn.

85
Mị thấy cha con thống lí “chúng nó thật độc ác”, Mị nhận ra sự vô lí “ta là thân đàn
bà, nó bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết ngày rũ xương ở đây thôi”, nhưng “người
kia việc gì phải chết”. Nỗi bất bình ấy, khiến Mị không hề cảm thấy sợ, kể cả khi phải
chết thay cho A Phủ. Rồi Mị tưởng tượng, lúc nào đó A Phủ trốn được, Mị sẽ bị cha con
thống lí buộc tội và Mị bị trói vào cái cột kia “Mị cũng không thấy sợ”. Lòng thương
người và căm ghét bọn thống trị đã trao sức mạnh cho Mị cầm dao, cắt dây, cởi trói cho
A Phủ.
A Phủ đi rồi, “Mị đứng lặng trong bóng tối” và bản năng muốn sống, Mị chạy theo
A Phủ. Khi đuổi kịp A Phủ, Mị nói: “A Phủ cho tôi đi, ở đây thì chết mất”. Mị đâu có sợ
chết, Mị đã từng tìm đến cái chết, vậy câu nói đó hàm nghĩa Mị không muốn tiếp tục
cuộc sống như kiếp trâu ngựa.
Tóm lại, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị là ngọn lửa không thể dập tắt. Nó tất
yếu chuyển thành hành động, đấu tranh chống lại cường quyền và thần quyền để đòi cuộc
sống tự do.
2.Nhân vật A Phủ:
a. A Phủ với số phận đặc biệt
- A Phủ thoát khỏi trận dịch đậu mùa, mồ côi cha mẹ, sống một mình không người thân
thích. Từ bé, A Phủ đã gan bướng trốn lên vùng núi cao để sống cuộc đời tự do.
→ A Phủ là một mầm sống khỏe, vượt qua sự sàng lọc khắc nghiệt của tự nhiên, bướng
bỉnh gan lì với mọi thử thách với cuộc đời.
- Lớn lên, A Phủ trở thành chàng trai Mông khỏa mạnh, tháo vát “chạy nhanh như ngựa”,
nhiều cô gái trong làng mơ ước được lấy A Phủ làm chồng.
→ Dù nghèo khó, cơ cực nhưng A Phủ thản nhiên đối mặt với cuộc sống, trưởng thành
khỏe khoắn, tốt đẹp.
- A Phủ rất nghèo, “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc”, A Phủ không lấy
nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo. Nhưng tết đến, A Phủ vẫn đi chơi, đi
tìm người yêu.
→ Bất chấp thân phận, A Phủ là một chàng trai khát khao cuộc sống tự do, hạnh phúc.
=> Cuộc sống hoang dã ở núi rừng đã hun đúc cho A Phủ một sức sống mạnh mẽ, một
bản lĩnh vững vàng trước mọi gian khổ, khó khăn.
b. A Phủ với cá tính đặc biệt:
- Tự lập từ thuở bé, khiến khi lớn lên A Phủ là một chàng trai mạnh mẽ, táo bạo, gan góc.
Biết A Sử là kẻ xấu, ỷ thế con quan nên A Phủ đã thẳng tay trừng trị “chạy vụt ra vung
tay ném con quay rất to vào mặt A Sử…xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống , xé
vai áo , đánh tới tấp”.
→ Hàng loạt động từ mạnh cho thấy sức mạnh, sự ngang tàng của A Phủ trước thế lực
cường quyền.

86
- A Phủ trả giá rất đắt cho hành động đó, trở thành người làm công gạt nợ cho thống lí;
thế nhưng:
+ Làm lụng vất vả“một thân một mình bôn ba ngoài gò ngoài rừng”, A Phủ vẫn phăng
phăng làm mọi thứ như trước kia.
+ Để hổ ăn mất một con bò, A Phủ vác nửa con bò hổ ăn dở về gặp thống lí nói chuyện đi
bắt hổ một cách thản nhiên.
+ A Phủ lặng lẽ đo lấy cọc, lấy dây mây rồi đóng cọc cho người ta trói thế mạng cho con
hổ cũng rất thản nhiên.
→ A Phủ mạnh mẽ, gan góc. Dù sống kiếp nô lệ nhưng những biểu hiện cho thấy A Phủ
vẫn là một chàng trai của tự do.
- Bị trói đứng nhiều đêm, A Phủ đã khóc “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm
má đã xám đen lại”.
→ Đó là lúc A Phủ đã ý thức được nỗi đau của mình, khóc mà uất ức, đau đớn cho số
phận của mình.
- Khi được Mị cứu, A Phủ khuỵu xuống nhưng chợt bừng tỉnh “ quật sức vùng lên chạy”.
A Phủ cũng hiểu được hoàn cảnh của Mị nên đã mang Mị theo cùng.
→ Sức sống mãnh liệt đã chiến thắng áp bức đọa đày.
->Một người như A Phủ thì không dễ gì buông xuôi số phận. Đó là sức mạnh tiềm tàng
của một mầm sống luôn gan lì đối mặt với môi trường khắc nghiệt và vươn lên tìm tới tự
do.
=> A Phủ tiêu biễu cho người thanh niên lao động Mông có số phận bất hạnh nhưng có
sức sống mãnh liệt , có tinh thấn phản kháng mạnh mẽ.

III. TỔNG KẾT:


Với ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo, Tô Hoài đã phân tích những diễn biến tâm lí hết
sức phức tạp, nhưng cũng đầy tự nhiên của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông
giải cứu A Phủ. Khác với vẻ ngoài gan góc, mạnh mẽ, bộc trực của A Phủ, nhân vật Mị
tuy vẻ ngoài trầm lắng nhưng đời sống nội tâm lại sôi nổi, phức tạp. Nhưng cũng vì thế
mà Tô Hoài đã tái hiện lại những nỗi đau, sự đè nén của nhân dân lao động miền núi và
khát vọng mạnh mẽ của họ thông qua nhân vật này. Truyện có những đặc sắc về nghệ
thuật như: Nghệ thuật trần thuật, cách miêu tả phong tục tập quán của người miền núi,
nghệ thuật xây dựng và khai thác tâm lí của nhân vật…

VỢ NHẶT
- Kim Lân -
I.GIỚI THIỆU:

87
1. Tác giả:
Kim Lân (1920 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở Bắc Ninh. Kim Lân là cây
bút chuyên viết về truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân bằng
sự am hiểu sâu sắc, tình cảm chân thành. Tác phẩm chính: “Nên vợ nên chồng” (Tập
truyện ngắn – 1955), “Con chó xấu xí” (Tập truyện ngắn – 1962). Ông được tặng giải
thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật 2001.
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
“Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân. Tiền thân của truyện ngắn này là
tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám, nhưng dang dở và
thất lạc bản thảo. Sau hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ
viết thành truyện ngắn “Vợ nhặt”, in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
b.Chủ đề:
Truyện tố cáo thực dân Pháp, phát xít Nhật đẩy nhân dân ta vào cảnh đói thê thảm.
Đồng thời, ca ngợi những người lao động trong đói khổ vẫn cưu mang, đùm bọc lẫn
nhau, vẫn khao khát sống, khao khát hạnh phúc và hướng về cách mạng đầy tin tưởng.
c.Tình huống truyện:
Tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: Tràng xấu xí, thô kệch, ngờ nghệch, lại còn
không bình thường, nên không ai thèm lấy, bỗng nhặt được vợ một cách dễ dàng, nhanh
chóng chỉ bằng bốn bát bánh đúc và câu nói nửa đùa nửa thật.
*Nhận xét:
- Tình huống lạ lùng: Tràng nghèo xơ, nghèo xác, lại là dân ngụ cư mà “nhặt” được vợ.
- Tình huống éo le: Tràng có vợ thật bất ngờ, ngay trong nạn đói, cái chết luôn đe dọa,
ám ảnh mọi người thì Tràng lại nhặt được vợ với tâm trạng sung sướng.
- Tình huống cảm động: Người dân xóm ngụ cư chia sẻ niềm vui với Tràng. Tràng thì
trân trọng người vợ mới, còn bà cụ Tứ thì rộng lòng đón nhận con dâu.
- Tình huống giàu ý nghĩa, có tác dụng làm nỗi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
của tác phẩm.
d. Ý nghĩa nhan đề:
- Nghĩa thực: Vợ nhặt là người vợ không được cưới xin theo phong tục, tập quán của
người Việt.
- Nghĩa liên tưởng:
+ Nhan đề “Vợ nhặt” gợi sự rẻ rúng của con người trong nạn đói 1945.
+ Nhan đề “Vợ nhặt” rất phù hợp với nội dung câu chuyện: Tràng ngờ nghệch, xấu xí,
nghèo không ai thèm lấy, bỗng nhặt được vợ một cách nhanh chóng, chỉ bằng bốn bát
bánh đúc và một câu nói nửa đùa, nửa thật.
88
+ Nhan đề “Vợ nhặt” góp phần tô đậm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
e.Tóm tắt tác phẩm:
Truyện kể về nạn đói 1945 ở miền Bắc nước ta. Làng xóm xơ xác, tiêu điều, người
chết như ngả rạ. Giữa lúc ấy, Tràng ( làm nghề kéo xe bò, xấu trai, dân xóm ngụ cư ),
nhặt về một cô vợ là thị ( không nhà cửa, không người thân, không họ hàng ), khiến cả
xóm và bà cụ Tứ kinh ngạc. Thương con, bà cụ Tứ chấp nhận, vui mừng. Bữa cơm đầu
tiên họ ăn cháo loãng với muối, ăn thêm rau chuối thái rối và cháo cám. Bà cụ Tứ khuyên
các con bảo ban nhau làm ăn rồi sẽ khá. Cuối truyện là hình ảnh đoàn người đi phá kho
thóc của Nhật và lá cờ đỏ bay phất phới hiện lên trong óc Tràng.

II. DÀN Ý CHI TIẾT:


1. Nhân vật Tràng
*Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:
- Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.
- Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại.
 Hoàn cảnh xuất thân: khó lấy được vợ.
- Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được
vợ.Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua
hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:
+ Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt
“Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích
lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến
như thế.
+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá,
trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì
thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta
lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng
đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính
sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị
“Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng
cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”
* Niềm hạnh phúc khi có vợ :
- Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư: tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm
tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của
người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất
hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ.

89
- Tràng khi đưa vợ về đến nhà : Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói
“Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói
cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc
với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn
ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu
trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng
mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái.
-> Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ.
Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao
hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây.
- Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau:
+ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.
+ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước
sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong;
hai cái ang nước vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng
những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với
anh thật giản dị.
+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi
nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm - đó là một người đàn bà hiền hậu,
đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình.
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một
nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người,
hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng,
như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của
cái đói tung lưới bủa vây.
+ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của ba con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn
ngập sự đầm ấm, hoà hợp.
- Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi
trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự
vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại
sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm
đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt
vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.
=> Tóm lại, Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình huống nhặt vợ
hết sức đặc biệt.Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai trò lớn trong việc thể hiện
tư tưởng chủ đề của tác phẩm :Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn
nghĩ đến sự sống.Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn giúp người

90
đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhựng người dân lao động nghèo: đó là vẻ đẹp
tình người và niềm tin tưởng vào tương lai.
2. Nhân vật thị (người “vợ nhặt”)
- Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một
không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với
mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không
gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã
cướp đi của thị tất cả.
- Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và
tính cách của chị:
+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn
đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”
+ Lần gặp thứ hai: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị
cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh... cắm đầu ăn một chặp
bốn bát bánh đúc... ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy
hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về
hạnh phúc và sự sống.
- Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ
không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của
cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong
cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ
diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong
khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với
hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị,
người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.
- Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong
mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:
+ Thị bước sau Tràng chừng ba, bốn bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa
mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân,
cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận
+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp
nhận bước vào cuộc đời của Tràng.
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng
thương
- Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia
đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong
gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng

91
trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm
thay đổi một con người.
- Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân
+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nạn đói
do chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ
đồ rẻ rúng có thể nhặt được
+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên
cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không
thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau
vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.
=>Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người
thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ
Tràng.Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc
sống gia đình.Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối
của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết.
3. Nhân vật bà cụ Tứ :
- Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn
Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân
đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện
thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất
hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.
- Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ
ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất
định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang
phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường
con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm
giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà
không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà
chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung
nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.
- Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là
cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ
biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà
còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai
mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho
con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân
mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những
giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào
lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.

92
- Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình
người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ.
Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp
với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng
đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt.
Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở
đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực
đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn
khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động
viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng
đầy thương xót.
- Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về
với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo
không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ
ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về
cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu,
thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.
- Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về
một tương lai tươi sáng phía trước:
+Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy
những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời
sẽ có cơ khấm khá.
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái
rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán - cháo
cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn
động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.
+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau.
Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem.
Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng.
Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà
niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay
cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi
nảy cây”.
- Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng
trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả
hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất
này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con
lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.
=> Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người
mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh

93
tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào
lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
4. Nghệ thuật
- Tạo tình huống độc đáo, cảm động .
- Kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc
- Đối thoại sinh động; khắc họa t/c, tâm lí nv chân thật, tinh tế.
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng có sự chắt lọc, giàu sức gợi

III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Bức tranh nạn đói 1945:
Bối cảnh: Nạn đói 1945 đang hoành hành dữ dội ở miền Bắc nước ta, làm hơn hai
triệu người chết đói.
Kim Lân đã miêu tả nạn đói năm Ất Dậu hết sức sống động, tài tình. Nạn đói được so
sánh như một cơn lũ “cái đói đã tràn xuống xóm này tự lúc nào”. Nạn đói đã hiện lên
một cách sinh động, như đọng lại thành nét, có hình ảnh, màu sắc, có mùi và có cả âm
thanh riêng biệt của nó. Đó là hình ảnh của lũ trẻ con “ngồi ủ rũ dưới những xó tường
không buồn nhúc nhích”, những người còn sống thì “những người từ vùng Nam Định,
Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau, nằm ngổn ngang khắp lều chợ, dưới
những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”. Riêng
những người chết vì đói rất nhiều “như ngả rạ”, ngày nào người đi chợ, đi làm đồng về
cũng thấy “ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”. Tác giả rất có hữu ý khi đặt hai
câu văn tả người sống và người chết nằm cạnh nhau. Những hình ảnh này gây ấn tượng
mạnh mẽ về ranh giới mấp mé giữa sự sống và cái chết: tất cả mọi người đều đang đối
mặt với cái chết vì nạn đói khủng khiếp.
Nạn đói 1945 còn có màu đặc trưng với “xanh xám như những bóng ma”, “khuôn
mặt lưỡi cày xám xịt”. Ngoài ra, nạn đói còn có mùi khủng khiếp của nó “không khí vẫn
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, “mùi đốt đống rấm ở những nhà có
người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. Đó còn là những âm thanh đặc trưng “tiếng quạ
gào lên từng hồi nghe thê thiết”, “tiếng hờ khóc người chết”, “tiếng trống thúc thuế”…
Những âm thanh rung rợn, ám ảnh làm cho con người đã đói khổ về thể xác, lại càng
thêm căng thẳng về tinh thần.
Nạn đói 1945 làm thân phận con người trở nên rẻ rung, mà điển hình là người đàn bà
(thị), vì đứng bên bờ vực chết chóc của cái đói, nên đã theo không về làm vợ của người
đàn ông xa lạ (Tràng) sau khi được cho ăn bốn bát bánh đúc.
Nạn đói 1945 còn được hiện lên ở bữa cơm ngày đói “lùm rau chuối thái rối và một
đĩa muối ăn với cháo”, nhưng mỗi người chỉ được hai lung bát và họ ăn thêm cháo cám.

94
Tóm lại: Bối cảnh chuyện đã góp phần tô đậm giá trị hiện thực: Tác phẩm phản ánh
tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói 1945 do thực dân Pháp, phát xít Nhật
gây ra.
2.Nhân vật Tràng:
a. Lai lịch:
Tràng là dân lao động ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê để nuôi mẹ già. Nhà Tràng
rất nghèo, nơi ở thật thảm hại: “Cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại”. Qua đó, ta thấy thân phận nghèo hèn của Tràng.
b.Ngoại hình:
Tràng xấu xí, thô kệch, mặc “chiếc áo nâu tàng”, “hai con mắt nhỏ tí, cái đầu trọc
nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu”. Ngoài ra, Tràng có cách ứng xử lạ lùng “vừa đi vừa
nói”, “ngữa mặt lên trời cười hềnh hệch”. Hay nói khác đi, Tràng là người không bình
thường, ngờ nghệch.
c.Ngôn ngữ:
Tràng ăn nói thật cộc cằn, thô lỗ, chỉ là những câu đối đáp ngắn. Nói chuyện với phụ
nữ mà dùng tiếng Tây bồi “rích bố cu, hở!”, thậm chí thô tục “làm đếch gì có vợ”.
d.Tính tình:
Tràng là người hiền lành, vui vẻ, nên trẻ con trong xóm rất mến Tràng. Tràng rất
nhân hậu, thương người cùng cảnh ngộ: Giữa lúc cái đói hoành hành dữ dội, vì đói quá
người ta có thể làm những điều ti tiện, xấu xa để có miếng ăn, để sống sót. Thế mà Tràng
sẵn sàng cho một người đàn bà xa lạ một bữa ăn. Tràng cho thị ăn không phải để trả ơn
hay lợi dụng, mà vì sự cảm thông, vì tình người. Hành động ấy cho thấy Tràng là người
hào hiệp, bởi vì bản thân Tràng đang bị cái đói đe dọa.
e.Tràng nhặt vợ:
Tràng nhặt vợ trong tình huống thật độc đáo, lạ lùng, pha một chút hài hước. Trong
cái đói quay quắt, nên nhớ “cho một miếng ăn là cho nhau sự sống. Gắn thêm một miệng
ăn vào mình là thêm một nguy cơ chết đói”, thế mà Tràng lại nhặt vợ. Điều này thể hiện
niềm khát khao hạnh phúc của Tràng.
Tràng nhặt vợ thật dễ dàng; chỉ bằng câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có
về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Lời nói đó của Tràng là nói đùa, nhưng
thái độ của Tràng đối với thị thì không hề đùa cợt, vì nó xuất phát từ tình người. Thấy
người phụ nữ quyết định theo mình, Tràng rất lo nhưng lại không nỡ từ chối. Tràng nghĩ
“thóc gạo này đến cái thân mình chả biết có nuôi nỗi không, lại còn đèo bồng”. Nhưng
lòng khát khao hạnh phúc khiến Tràng liều lĩnh, đánh cược với cái đói để có vợ, Tràng
chặc lưỡi “chậc kệ!”, quyết định liều lĩnh này là ánh sáng soi tận đáy tâm hồn nghèo nàn,
xấu xí khao khát có vợ nhưng không dám nghĩ đến.
f.Trên đường dẫn vợ về nhà:

95
Việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn. Dân xóm ngụ cư bàn
tán “ai đấy nhỉ”, rồi họ mừng cho Tràng, khuôn mặt u tối của họ rạng rỡ hẳn lên “hay là
vợ anh cu Tràng”, nhưng nguy cơ chết vì đói đang rình rập, họ lại lo cho Tràng “biết có
nuôi nổi nhau sống qua cái thì này không?”, nên mọi người cùng nín lặng. Còn Tràng thì
khác, trên đường đưa thị về nhà, Tràng như trở thành một con người khác. Tràng không
còn cúi xuống với cái dáng vẻ đầy vất vả, nhọc nhằn “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở
khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Trước
những đôi mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư, người đàn bà tỏ ra lúng túng, ngượng
nghịu…thì Tràng lại “lấy vậy làm thích lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”.
Nhưng cũng có lúc, anh lúng túng “tay nọ cứ xoa xoa vào vai kia”. Kim Lân đã diễn tả
vừa sinh động, vừa cụ thể niềm mơ ước hạnh phúc gia đình và tình thương giữa những
con người nghèo khổ đã vượt lên tất cả, bất chấp cái đói và cái chết: Trong một lúc,
Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cái đói khát
ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ
còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên. Kể cũng lạ, đói là thế, khổ là thế, đến
cám cũng chẳng có mà ăn, nhưng Tràng vẫn sung sướng, hạnh phúc, Tràng nâng niu
hạnh phúc nên không có cái ăn nhưng vẫn mua “hai hào dầu” để đón “vợ mới”, để thắp
lên niềm tin, lòng trân trọng con người, dẫu người đó là do “nhặt được”.
g. Buổi sáng đầu tiên có vợ:
Tràng đã thực sự thấy cuộc đời mình từ đây thay đổi hẳn. Tràng cảm thấy “trong
người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Tràng chợt nhận thấy “xung
quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Trong những giờ phút có tính chất
bước ngoặt ấy, con người bỗng thấy mình trưởng thành hơn. Niềm vui sướng, hạnh phúc
của Tràng đã gắn liền với ý thức, bổn phận và trách nhiệm “bỗng nhiên hắn thấy thương
yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ
cái ở đấy”. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập vào trong lòng. Bây
giờ hắn mới thấy nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
Chữ “người” được nhà văn sử dụng như xác nhận sự biến đổi ở nhân vật Tràng. Từ chán
đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức, Tràng đã phục sinh tâm hồn nhờ hạnh phúc
mới đến.
Ở đoạn cuối truyện, nhờ những thông tin của vợ, Tràng đã hiểu biết hơn về phong
trào Việt Minh. Trong đầu anh đã xuất hiện hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng, tín hiệu của sự
đổi đời. Anh nông dân thất học, xa lạ với chính trị, nay lại khát khao một sự đổi thay. Đó
không còn là mơ ước viễn vông, mà có cơ sở từ hiện thực cuộc sống. Câu chuyện khép
lại nhưng số phận, tương lai của nhân vật lại được mở ra, hướng về ánh sáng và niềm tin.
Đó chính là giá trị nhân đạo và nhân văn của tác phẩm.
*Tóm lại: Nhân vật Tràng xuất hiện hết sức chân thực, sinh động. Tuy là một người lao
động nghèo khổ, thấp kém nhưng Tràng vẫn ấp ủ một khát khao hạnh phúc và anh đã bộc
lộ ước vọng ấy khi đón nhận người “vợ nhặt” của mình.
Ngòi bút miêu tả và khai thác tâm lí của tác giả hết sức tinh tế, sâu sắc khi thể hiện
sự phân vân, do dự trong nội tâm của nhân vật, giữa hiện thực đói khát và khát vọng hạnh

96
phúc. Nhưng sau đó, hạnh phúc đã nâng đỡ tâm hồn, giúp Tràng trở thành con người
trưởng thành. Tràng sống có trách nhiệm với vợ con, gia đình. Hơn thế nữa, anh còn trở
thành con người có mong ước một cuộc đổi thay, một cuộc đổi đời. Anh đang tiến dần về
phía cách mạng.
3.Nhân vật người vợ nhặt (thị):
a. Hoàn cảnh:
Thị là một người phụ nữ lao động nghèo: không nhà cửa, không họ hàng, không
nghề nghiệp, ngay cả cái tên riêng thị cũng chẳng có. Nhà văn chỉ gọi: thị, cô ả, người
đàn bà, người con dâu. Hàng ngày, thị ngồi trước cửa nhà kho để nhặt thóc rơi, hoặc ai
kêu gì làm nấy.
b.Lần thứ nhất gặp Tràng:
Lần đầu gặp Tràng, Tràng kéo xe bò nặng nên Tràng hò cho đỡ mệt, thị hồn nhiên
vui vẻ đẩy xe bò giúp Tràng, còn táo bạo gọi Tràng “nhà tôi ơi” và đưa mắt cười tình với
Tràng.
c.Lần thứ hai gặp Tràng:
Cái đói đã tàn phá ghê gớm ngoại hình của thị “quần áo rách tả tơi như tổ đỉa”, “bộ
ngực gầy lép”, “người gầy xọp hẳn đi trên gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con
mắt”. Chỉ vì đói quá thị đã vinh vào câu hò tầm phào của Tràng “muốn ăn cơm trắng
mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”, để gợi ý đòi ăn, nên vừa thấy Tràng
ngồi uống nước ở cổng chợ, thị rầm rập chạy đến mắng vào Tràng “điêu! Người thế mà
điêu!”. Được Tràng mời uống nước, ăn trầu, thị trơ trẻn nói “có ăn gì thì ăn, chả ăn
giầu”. Khi được Tràng cho ăn, vì đói quá thị sà xuống “cắm đầu xuống ăn một chặp bốn
bát bánh đúc”, thị ăn không kịp thở và chẳng chuyện trò gì. Đáng thương hơn, thị chấp
nhận làm “vợ theo” chỉ sau một câu nói nửa đùa nửa thật của Tràng. Như vậy, cái đói đã
đánh cướp lòng tự trọng, nhân cách con người. Trên dòng sông đói khát, thị là người sắp
chết đuối vì đói, mà Tràng là cái phao, nên thị chẳng còn lựa chọn nào khác là theo Tràng
để được sống.
d.Trên đường theo Tràng về nhà:
Khi chấp nhận theo Tràng về nhà, thị đã trở thành một con người khác, một cô dâu
vừa e thẹn vừa rón rén về nhà chồng “đi sau hắn chừng ba bốn bước, cắp cái thúng con,
đầu hơi cúi xuống, cái nón rách nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi thấy mọi
người trong xóm ngụ cư nhìn chăm chăm vào mình và bàn tán, chị “càng ngượng nghịu,
chân nọ bước díu vào cả vào chân kia”.
e.Thị về nhà Tràng:
Lúc về đến nhà Tràng, thị nhìn thấy căn nhà của Tràng hoang tàn, xơ xác thì “cái
ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Dưới ngòi bút nhân hậu của Kim Lân,
người “vợ nhặt” không tìm được no ấm nhưng chị đã tìm được sự đầm ấm của một gia
đình. Nhà văn đã miêu tả rất tinh tế, cảm động cái thế ngồi rụt rè, ch6ng chênh của chị

97
“ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”, dáng điệu “nàng
dâu mới” e lệ, khép nép trước bà cụ Tứ “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo rách bợt”. Lúc
ở bên Tràng, người đàn bà đã thể hiện niềm khát khao hạnh phúc qua những cử chỉ thân
mật như “thị phát đánh đét vào lưng hắn”, “giơ tay củng vào trán hắn”,…Khi được đón
nhận yêu thương, thị như một con người bơ vơ, đứng bên bờ vực của nạn đói, nay đã tìm
được một chốn dung thân êm đềm.
Ở nhà Tràng, sáng hôm sau có một sự thay đổi khá lạ lùng “nhà cửa, sân vườn được
quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa đã đem ra sân
hong. Hai cái ang nước đầy ăm ắp, đống rác mùn ngay lối đi đã được hót sạch”. Chính
thị đã dọn dẹp, thu vén ngôi nhà. Điều này chứng tỏ tính nết đảm đang của một người vợ
hiền. Vậy cũng như Tràng, thị đã thay đổi hẳn “nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là
người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏng như mấy lần
Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
*Tóm lại: Khi được yêu thương, trân trọng, người “vợ nhặt đã thể hiện những phẩm chất
tốt đẹp của mình. Thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tối tăm, bên bờ
vực cái chết của nạn đói. Hình tượng người “vợ nhặt” có ý nghĩa nhân đạo rất sâu sắc,
bày tỏ khát vọng chính đáng của con người: muốn được sống, được làm người có nhân
cách, có hạnh phúc gia đình và cuộc sống ấm no.
4. Nhân vật bà cụ Tứ:
4.1. Ngoại hình:
Bà cụ Tứ là một nông dân nghèo, già nua, ốm yếu “bước lọng khọng, húng hắng
ho”.
4.2.Vẻ đẹp nội tâm:
Không phải ngẫu nhiên tác giả để cho nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện sau những bồn
chồn, lo lắng của Tràng. Bởi vì, Tràng vừa làm một việc “động trời”, đó là nhặt một
người đàn bà xa lạ ở ngoài đường về làm vợ trong lúc đói kém. Điều Tràng sợ là mẹ
không chấp nhận.
a.Bà cụ Tứ ngạc nhiên:
Bà cụ Tứ không hay biết một chút gì về chuyện “nhặt vợ” của Tràng, nên bà rất ngạc
nhiên khi nhìn thấy người đàn bà xa lạ trong nhà mình. Bao nhiêu câu hỏi dồn dập đến
với bà: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” , “Người đàn bà nào lại
đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “Sao lại chào mình bằng u ?”…
b.Bà hiểu ra:
Khi nghe Tràng giải thích sự việc “vợ nhặt” bà hiểu ngay, bà “cúi đầu nín lặng”. Bởi
cảnh nghèo đói của thị đã phơi bày ra hết ở cái vẻ bề ngoài “áo quần tả tơi như tổ
đĩa”…, “Trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Bà nhìn cô con
dâu đang vân vê tà áo rách, bà thấu hiểu sự tình.
c.Bà hờn tủi, xót thương:

98
Chỉ cần một thoáng ích kỷ của bà mẹ đang trong nghèo khổ, đói khát, thì bà sẽ mắng
mỏ con trai và xua đuổi người đàn bà kia. Nhưng từ giây phút hiểu ra cơ sự, lòng bà tràn
ngập hờn tủi, xót thương. Bà xót thương cho con lấy vợ trong giai đoạn đói khát thê thảm
thế này. Bà hờn tủi cho mình, làm mẹ mà không lo nổi cho con một mâm cơm ra mắt họ
hàng. Bà nhớ lại cả một cuộc đời dài đằng đẳng, nghèo khổ, cực nhọc của mình, của
người chồng đã chết, trong kẽ mắt của bà “rỉ xuống hai hàng nước mắt”.
d.Bà vui mừng và lo lắng:
Tràng “nhặt vợ”, bà nửa mừng nửa lo. Là mẹ, bà mừng lòng chứ không phải là bằng
lòng, có nghĩa là bà vui mừng chấp nhận thị, bà bảo “Ừ ! Thôi thì các con phải duyên,
phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Con trai đã có vợ, yên bề gia thất, nhưng bà
không khỏi lo lắng cho đôi vợ chồng “mới cưới”: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau
sống được qua cơn đói khát này không?”.
e.Bà cảm thông cho con dâu:
Bao nhiêu lo lắng, hờn tủi bà giữ lại trong lòng, bà trao tình thương cho con, cho
người phụ nữ xa lạ, nghèo đói ấy. Bà đón nhận thị bằng sự cảm thông, dù bà biết rằng, cô
ta lấy con trai mình vì sắp chết đói “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người
ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được” … Rồi bà suy nghĩ thật nhân
hậu, bao dung “bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu, là con
trong nhà mình rồi”. Bà tâm sự với con dâu về cảnh nghèo khổ, để xóa đi khoảng cách
giữa hai người.
f.Bà khuyên con chí tình, đôn hậu:
Bà mẹ già nghèo khổ ấy, cố tìm những lời lẽ để xóa đi hai chữ “vợ nhặt” cho con trai và
con dâu. Bà an ủi con “có ra làm dăm ba mâm thì phải, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả
ai chấp nhặt chi cái lúc này”, bà còn chỉ cho con sức mạnh của sự đồng thuận vợ chồng
“chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”, câu nói gợi nhớ đến lời dạy của dân gian “thuận
vợ, thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”.
g.Bà gieo vào lòng con niềm hi vọng:
Có đôi lần bà cụ Tứ quay đi, giấu những giọt nước mắt lo lắng, hờn tủi. Bởi vì xung
quanh ngôi nhà xiêu vẹo là cả một vùng quê sầm tối lại vì cái đói đe dọa, tiếng khóc hờ tỉ
tê, mùi đốt đống rấm của nhà có người mới chết đói bay vào. Nhưng bà đã vượt lên sự lo
âu để tin tưởng vào sự sống, vào tương lai của các con. Bà dùng lời yêu thương để an ủi,
động viên con “ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”.
Bà nhắc Tràng đan lấy tấm liếp mà ngăn buồng ra, nuôi lấy một đôi gà, đó là bà nghĩ về
một cuộc sống lâu dài.
h.Bà hành động:
Sáng hôm sau, bà cụ Tứ dậy sớm, cùng con dâu thu dọn nhà cửa với một niềm tin:
nhà cửa sạch sẽ thì điều may mắn sẽ đến. Gương mặt bà tươi vui hẳn lên “cái mặt bủng
beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới là niêu cháo
loãng, ăn với muối và một lùm rau chuối thái rối, nhưng cả nhà ăn rất ngon. Bà cụ Tứ

99
toàn kể chuyện vui, chuyện làm ăn, chuyện sung sướng về sau. Ăn hết cháo loãng, bà còn
mừng nàng dâu mới bằng nồi chè khoán (cháo cám) mà bà âm thầm nấu từ sớm vì bà biết
cháo không đủ ăn.
*Tóm lại: Nhân vật bà cụ Tứ điển hình cho người mẹ Việt Nam tuy nghèo khổ, đắng
cay, mà rất thương con, đầy lòng hi sinh, giàu lòng vị tha, nhân hậu. Đó chính là giá trị
nhân đạo của tác phẩm.

IV. TỔNG KẾT:


1. Nội dung:
a. Giá trị hiện thực
Phản ánh chân thực nạn đói năm 1945. Lên án thực dân, phát xít đã đẩy người lao động
Việt Nam vào cảnh khốn cùng
b.Giá trị nhân đạo
Xót xa, thương cảm trước cảnh ngộ bi đát của con người trong nạn đói. Phát hiện, ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Hướng tới một tương lai tốt đẹp.
2.Nghệ thuật:
Nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện rất độc đáo. Cách kể chuyện tự
nhiên, hấp dẫn. Miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi
với khẩu ngữ, nhưng có sự lựa chọn kĩ lưỡng, gây ấn tượng với người đọc.

RỪNG XÀ NU
- Nguyễn Trung Thành –

I.GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, bút danh khác là Nguyên Ngọc,
sinh năm 1930, quê ở Quảng Nam. Các tác phẩm chính “Đất nước đứng lên”, “Rẻo
cao”, “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”…Nguyễn Trung Thành là nhà văn
rất có duyên với mảnh đất Tây Nguyên. Hai tác phẩm thành công nhất của ông đều viết
về cuộc sống và con người Tây Nguyên. Trong đó “Rừng xà nu” được đánh giá là “sử thi
Tây Nguyên” thời chống Mĩ.

100
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Mùa hè năm 1965, đế quốc Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Trong hoàn
cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành muốn viết một bản “hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ. Truyện
ngắn “rừng xà nu” ra đời như một biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của
nhân dân Tây Nguyên nói riêng và đồng bào cả nước nói chung.
Truyện được đăng lần đầu trên tạp chí “Quân giải phóng Trung Trung Bộ”, số 2,
1965, sau đó được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.
b.Chủ đề và ý nghĩa nhan đề:
Chủ đề: Thông qua câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô
Man, tác giả ca ngợi tinh thần quật khởi của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ.
Ý nghĩa nhan đề: Cây xà nu, rừng xà nu gắn bó mật thiết với con người Tây Nguyên, là
biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp của dân làng Xô Man nói riêng và nhân dân Tây
Nguyên nói chung. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và
dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ cây xà nu, rừng xà nu.
c.Mối quan hệ giữa Tnú và rừng xà nu:
Hai hình tượng này không tách rời nhau, mà gắn bó, bổ sung cho nhau để trở nên
hoàn chỉnh. Rừng xà nu sẽ mãi mãi phát triển tới chân trời trong xanh bất diệt, nên con
người thấm thía bài học: Chúng nó cầm súng thì chúng ta cầm giáo mác, được rút ra từ
cuộc đời Tnú. Mặt khác, Tnú cầm vũ khí đứng lên là để cho cánh rừng kia mãi mãi sinh
sôi.
d.Tóm tắt tác phẩm:
Tác phẩm “rừng xà nu” gồm hai câu chuyện đan cài vào nhau. Truyện về cuộc đời
Tnú, lồng vào chuyện nổi dậy của dân làng Xô – man. Tnú tham gia cách mạng, để bắt
cho được Tnú, giặc Mĩ bắt vợ con anh, rồi dùng cây sắt đánh đập dã man cho đến chết.
Tnú xông ra cứu vợ con thì bị giặc Mĩ bắt. Giặc dùng nhựa cây xà nu đốt mười đầu ngón
tay Tnú. Dân làng Xô – man vùng lên cứu Tnú. Tnú tham gia lực lượng giải phóng quân
để trả thù nhà, nợ nước và ba năm sau Tnú về thăm quê hương, bản làng.

II. DÀN Ý CHI TIẾT:


1. Hình tượng rừng xà nu:
Cây xà nu là hình tượng xuyên suốt, được miêu tả công phu, đậm nét trong toàn bộ tác
phẩm, đặc biệt xuất hiện ở phần đầu và kết thúc truyện đến “hút tầm mắt cũng không thấy
gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”.
a.Ý nghĩa tả thực:

101
Cây xà nu là một loại cây thuộc họ thông, nhựa thơm, có sức sống dẻo dai, gắn bó mật
thiết với đời sống của nhân dân làng Xô man.
- Trong sinh hoạt: cây xà nu gắn bó với đời sống sinh hoạt, kháng chiến của người làng
Xô man.
+ Ngọn lửa xà nu cháy trong mỗi bếp, cháy trong đống lửa nhà ưng nơi dân làng tập
trung
+ Đuốc xà nu Tnú soi cho Dít dằn gạo
+ Lũ trẻ làng Xô man mặt lem luốc khói xà nu
+ Khói xà nu xông bảng nứa cho Tnú và Mai học chữ
+ Rừng xà nu chứng kiến mối tình của Tnú và Mai….
- Trong những sự kiện trọng đại của làng:
+ Đuốc xà nu cháy sáng trên tay cụ Mết và dân làng trong đêm vào từng lấy giáo mác
chuẩn bị đánh giặc
+ Dân làng mài giáo mác dưới ngọn đuốc xà nu
+ Giặc đốt mười đầu ngón tay Tnú bằng giẻ dầu xà nu
+ Lửa xà nu soi rõ xác lũ lính chết ngổn ngang quanh đống lửa lớn giữa làng
b. Ý nghĩa tượng trưng:
- Rừng xà nu – biểu tượng của đau thương:
+ Hình ảnh mở đầu: Rừng xà nu nằm trong tầm đại bác của giặc, ngày nào cũng bị bắn
hai lần -> sự sống trong tư thế đối mặt với cái chết -> hiện thực khốc liệt của chiến tranh
+ Cả rừng xà nu hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương -> nhân hóa kết hợp
hai lần phủ định “không” -> khẳng định sự đau thương
+ Nỗi đau hiện ra nhiều vẻ:
• Xót xa của những cây non tựa như đứa trẻ thơ: “nhựa còn trong, chất dầu còn
loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”
• Đau dữ dội của những cây xà nu trưởng thành như con người đang tuổi thanh xuân
bị chặt đứt ngang nửa thân mình
• Nhiều cây có tấm thân cường tráng “vết thương chóng lành”, đại bác không giết
nổi
-> phản ánh những đau thương của một thời kì mà dân tộc ta phải chịu đựng
- Rừng xà nu – biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp của người Xô man, đồng bào Tây
Nguyên:
+ Cây xà nu có sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi như sức sống bất diệt và tinh
thần đấu tranh quật cường của nhân dân làng Xô man:

102
• Ít có loại cây nào sinh sôi này nở khỏe như vậy
• Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên -> đại bác
không hủy diệt được cây xà nu
• Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta: cây mẹ ngã, cây con mọc lên như lời
cu Mết nói.
+ Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời như dân làng Xô man ham tự do, vươn tới ánh
sáng của cách mạng: “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong
rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa
cây bay ra, thơm mỡ màng”…
+ Rừng xà nu mang tầm vóc, biểu tượng của người anh hùng chiến đâu bảo vệ quê
hương: hình ảnh rừng xà nu“ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”
+ Những đồi xà nu nối tiếp đến chân trời ở phần đầu và cuối tác phẩm -> kết cấu vòng
tròn -> tượng trưng cho các thế hệ dân làng Xô man nối tiếp nhau đứng lên chống giặc,
cho cả Tây Nguyên, cả miền Nam và dân tộc Việt Nam đau thương mà anh dũng: anh
Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai ngã xuống thì có Dít lớn lên thay chị, những thế hệ tiếp
theo sẵn sàng tiếp bước như bé Heng,…
-> Phép nhân hóa: cây xà nu được nói đến như như về con người, rừng xà nu luôn được
đặt trong sự chiếu ứng với con người, trong mối quan hệ mật thiết với con người.

=> Rừng xà nu là một phần sức sống của Tây Nguyên, mang đặc trưng Tây Nguyên,
phân biệt địa bàn vùng này với các vùng cao khác của Tổ quốc. Rừng xà nu gắn bó với
con người Tây Nguyên là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, phẩm chất cao đẹp của
nhân dân Tây Nguyên và cảm hứng sử thi hoành tráng tuyệt đẹp.
2. Hình ảnh con người Tây Nguyên ( dân làng Xô man)
a. Nhân vật Tnú:
Lấy nguyên mẫu từ người anh hùng trong lịch sử là anh Đề (Tnú tiếng Xê-đăng có
nghĩa là dũng sĩ).
* Lai lịch, hoàn cảnh:
- Là người con của núi rừng Tây Nguyên, của làng Xô man, là người anh hùng tiêu biểu
cho vẻ đẹp của thế hệ trẻ Tây Nguyên trong những năm tháng chống Mĩ . Đây là 1 nhân
vật độc đáo giàu chất sử thi.
- Tnú sớm mồ côi cha mẹ, sống trong tình thương yêu đùm bọc của dân làng Xô man,
có lẽ hơn ai hết Tnú gắn bó với dân làng và có những phẩm chất của dân làng . Cụ Mết
nhận xét đầy yêu thương: “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
* Tính cách:
- Tnú là một con người gan góc và táo bạo, thông minh, dũng cảm:

103
+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, bỏ ra ngoài suối, lấy đá “tự đập vào đầu máu chảy
ròng ròng”.
+ Tnú rất gắn bó với cách mạng, từ nhỏ đã nuôi giấu cán bộ, hoàn thành xuất sắc công tác
giao liên. Khi làm liên lạc: Tnú thường chọn những chỗ thác mạnh mà bơi ngang, không
lội chỗ nước êm, không đi đường mòn vì sợ giặc phục kích.
+ Khi bị địch phát hiện, Tnú nuốt lá thư để giữ gìn bí mật cho cách mạng, bị bắt và bị tra
khảo, Tnú chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở đây”.
- Anh là người giàu lòng thương yêu:
+ Có tình yêu thiết tha với bản làng:
• Đi bộ đội anh vẫn nhớ da diết tiếng chày giã gạo rộn rã và chuyên cần của làng
anh, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, dòng suối “nỗi nhớ day dứt trong lòng
anh suốt ba năm nay chính là tiếng chày đó”.
• Lúc về làng, Tnú ra máng nước đầu làng “xúc động để cho vòi nước của làng
mình giội lên khắp người như ngày trước”; chia muối cho người làng, những hạt muối
giàu tình nghĩa.
+ Thương yêu vợ con (gia đình):
• Không đi Kon Tum mua vải được, anh xé đôi tấm dồ của mình để làm đồ địu con
cho Mai.
• Chứng kiến cảnh kẻ thù giết vợ con với tâm trạng đau đớn “Hai bàn tay anh bíu
chặt lấy gốc cây “và “anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay” -> hi sinh bản thân
để cứu vợ con, xuất phát từ tình yêu thương sâu sắc dành cho vợ con.
=> Chính tình yêu quê hương bản làng, gia đình đã trở thành động lực và sức mạnh để
Tnú chiến đấu với kẻ thù.
- Tnú biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân, là người trung thành với cách mạng:
+ Chứng kiến cảnh kẻ thù giết vợ con với tâm trạng đau đớn “Hai bàn tay anh bíu chặt
lấy gốc cây “và “ anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”. Từ nỗi đau đớn biến
lòng anh thành lò lửa hừng hực căm thù “Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa
lớn”. Tất cả như dồn nén lại để rồi vỡ tung ra, anh không kiềm chế được nữa anh đã lao
ra cứu vợ con.
+ Trước sự tra tấn dã man của quân thù: Hai bàn tay bị tẩm nhựa xà nu rồi đốt “mười
ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”, Tnú nghiến răng chịu đựng chứ quyết” không thèm
kêu van. Tnú nhớ lời anh Quyết: “Người cộng sản không thèm kêu van”.
+Tuy mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt nhưng anh vẫn quyết tâm gia nhập lực lượng giải
phóng để giết giặc trả thù cho quê hương và người thân.
- Anh là người có tính kỉ luật cao: Tuy nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng phải được cấp trên
cho phép anh mới về thăm làng và cũng chỉ về đúng một đêm như quy định trong giấy
phép

104
* Hình ảnh đôi bàn tay Tnú: gây ấn tượng sâu sắc và để làm nổi bật cuộc đời và tính
cách của nhân vật :
+ Bàn tay lành lặn: Bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn, trung thành: cầm phấn học chữ, cầm
đá tự đập đầu khi không nhớ chữ, bàn tay chỉ vào bụng nói: “Cộng sản ở đây”
+ Bàn tay đau thương: Bàn tay trở thành mười ngọn đuốc thiêu cháy cả gan ruột anh, bàn
tay căm thù là một chứng tích đầy căm phẫn mà Tnú mang theo suốt đời, là biểu tượng
của sự kiên cường, bất khuất; Bàn tay còn lại hai đốt nhưng anh vẫn cầm súng chiến đấu
trả thù, bóp chết tên chỉ huy đồn giặc đang cố thủ dưới hầm
-> Tình yêu thương và lòng căm thù đã biến thành hành động cách mạng. Tnú tiêu biểu
cho số phận và con đường đi lên của các dân tộc Tây Nguyên thời chống Mĩ, bút pháp
giàu chất lãng mạn, giàu chất sử thi.
Kết luận:
* Câu chuyện cuộc đời Tnú là minh chứng cho chân lí: “Chúng nó đã cầm súng, mình
phải cầm giáo”. Chỉ có cầm vũ khí đứng lên là con đường duy nhất và là sức mạnh để bảo
vệ những gì thân thương nhất. Đó chính là chân lí ,cái thực chất xương máu của nhân
dân.
* Số phận người anh hùng Tnú gắn bó với cộng đồng:
- Dân làng Xô Man khi chua cầm vũ khí thì họ chứa đầy đau thương. Bọn giặc lung chặt
đầu bà Nhan, treo cổ anh Xút, giết mẹ con Mai, đốt mười đầu ngón Tay Tnú.
- Cuộc sống ngột ngạt đã dồn nén đau thương đến tận cùng, đến khi Tnú bị đốt mười đầu
ngón tay và dân làng nổi dậy, “tiếng chiêng nổi lên”.
- Đó là sự nổi dậy cả đồng khởi, làm rung chuyển ní rừng. Đó là câu chuyện đời người
trở thành chuyện một thời, một nước. Vậy, câu chuyện cuộc đời Tnú mang ý nghĩa của
cuộc đời dân tộc. Nhân vật sử thi của Nguyễn Trung Thành đã gắn trên vai một sứ mệnh
lịch sử to lớn.
b. Nhân vật Cụ Mết:
(Nguyên mẫu là già A Mết) là hình tượng tiêu biểu cho lịch sử, cho truyền thống
hiên ngang bất khuất, cho sức sống bền bỉ mãnh liệt của dân làng Xô Man, là người lưu
giữ truyền thống cộng đồng, dìu dắt các thế hệ tiếp nhau sống xứng đáng với truyền
thống.
* Ngoại hình: 60 tuổi, quắc thước, râu dài tới ngực, khỏe mạnh, giọng nói ồ ồ, dội vang,
bàn tay nặng trịch như cái kìm sắt, ngực căng như một cây xà nu lớn.
-> Dáng vẻ của người anh hùng, dũng sĩ Tây Nguyên.
* Tính cách:
- Ít nói, trầm tĩnh: khi vừa ý nhất chỉ nói “được”; mỗi lời cụ nói dứt khoát như dao chém
đá, như chân lí: “Đảng còn, núi nước này còn”. Khi cụ nói, mọi người im bặt.

105
- Tự hào về quê hương:
+ Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên.
+ Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất núi rừng này đấy.
- Một thủ lĩnh quân sự tài ba và có uy tín: dân làng kính trọng và nghe theo.
+ Sáng suốt và giàu kinh nghiệm: cụ biết khi nào nên nhẫn nhịn, khi nào nên tấn công:
không cho T nú nhảy ra cứu vợ con vì họ chỉ có hai bàn tay không.
+ Hiệu lệnh chiến đấu ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa “thế là bắt đầu rồi, đốt lửa lên”.
+ Nêu lên chân lí đấu tranh: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” -> Tin yêu
Đảng là cầu nối giữa tổ chức Đảng và nhân làng Xô man “Đảng còn núi non này còn”.
- Có ý thức giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ con cháu: kể đi kể lại chuyện
cuộc đời Tnú cho các thế hệ người làng Xôman nghe, nghe để mà nhớ lấy, ghi lấy.
=> Cụ Mết là linh hồn của dân làng Xô Man, là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật
chất có tính truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên, là cây xà nu đại thụ giữa rừng xà
nu bạt ngàn. Tác giả phát huy cao độ sức mạnh của bút pháp sử thi với cảm hứng lãng
mạn, lí tưởng hóa.
c. Nhân vật Mai:
Không phải là nhân vật chính của truyện và cô cũng xuất hiện thật ít trong tác phẩm,
nhưng ấn tượng về cô ở người đọc thật đậm nét.
- Mai thủy chung, thông minh, dịu dàng, kiên cường:
+ Thuở bé, Mai vào rừng tiếp tế và nuôi giấu cán bộ.
+ Học chữ giỏi: ba tháng đọc được chữ, sáu tháng làm toán hai con số, giúp Tnú học chữ.
+ Khi đã trở thành người vợ, người mẹ, Mai hi sinh thân mình che chở cho con, kiên
quyết không khai chỗ nấp của chồng, bất khuất trước trận mưa cây sắt của kẻ thù.
d. Nhân vật Dít:
Là hiện thân, là sự tiếp nối của Mai.
- Dít tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ trong những
đau thương và quật khởi của dân làng.
- Là bí thư chi bộ, chính trị viên xã hội, người chỉ huy nghiêm khắc, có tính kỉ luật cao.
- Tình cảm trong sáng, sâu sắc nhưng lặng lẽ kín đáo, gan dạ dũng cảm hơn cả Mai,
không bao giờ khóc.
=> Dít đại diện cho ý chí kiên cường của thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ, xem nhẹ
cái chết sẵn sàng đối mặt với quân thù.
e. Nhân vật Bé Heng:
Là chú bé liên lạc hồn nhiên, thạo đường và dũng cảm.

106
-> Tượng trưng cho lứa cây xà nu mới lớn đầy nhựa sống “hình nhọn mũi tên lao thẳng
lên bầu trời”, tiêu biểu cho thế hệ tương lai của dân làng Xô Man.
3. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn:
a. Khuynh hướng sử thi:
- Thể hiện ở:
+ Đề tài, chủ đề: Sự vùng dậy của dân làng Xô Man là đề tài có ý nghĩa lịch sử. Truyện
viết về cuộc đấu tranh cách mạng vùng lên của một buôn làng. Nhưng qua đó, tác giả nêu
lên và ca ngợi sức mạnh quật khởi, tinh thần và ý chí không gì dập tắt nổi của một Tây
Nguyên bất khuất.
+ Hình tượng nhân vật: khắc họa thành công những nhân vật anh hùng gắn bó với cộng
đồng Tây Nguyên, có tính cách phi thường, dũng mãnh.
+ Hình tượng nghệ thuật độc đáo kì vĩ: cây xà nu, rừng xà nu, bàn tay Tnú, xây dựng
quang cảnh hùng tráng, không khí sôi động.
+ Giọng văn trang trọng, hùng tráng, sôi nổi, hào hùng.
+ Ngôn ngữ ngắn gọn, súc tích, nhiều chi tiết xúc động.
b.Cảm hứng lãng mạn: Cảm hứng ngợi ca và lí tưởng hóa hình tượng nghệ thuật, niềm
tin vào chiến thắng.

III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Hình tượng cây xà nu:
a. Nghĩa thực:
Cây xà nu đẹp ở dáng vẻ, màu sắc, hương thơm mà những loài cây khác không có
được: Những cây xà nu “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên, lao thẳng lên bầu trời”. Đó
là vẻ đẹp mạnh mẽ, khỏe khoắn, tràn đầy sức sống. Nhựa xà nu “thơm ngào ngạt”,
“thơm mỡ màng”, đầy quyến rũ.
Cây xà nu đẹp ở sự gắn bó mật thiết với người Tây Nguyên: Cây xà nu là loại cây đặc
trưng của núi rừng Tây Nguyên, tác giả đã hai mươi lần nói đến rừng xà nu ở nhiều góc
độ khác nhau: cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu…và
bao trùm là rừng xà nu. Cây xà nu gắn bó với cuộc sống dân làng Xô – man. Củi xà nu
dùng làm chất đốt trong bếp ăn gia đình, củi xà nu còn dùng để soi sáng nhà ưng để dân
làng Xô – man hội họp, khói xà nu dùng để xông bảng đen cho trẻ em học chữ…Ngoài ra
cây xà nu còn tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xô – man trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ. Ngọn đuốc xà nu dẫn đường cho cụ Mết và dân làng vào rừng
mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Đuốc xà nu rực sáng đêm đồng khởi. Đặc biệt,
cây xà nu còn gắn với kỉ niệm đau buồn của dân làng, đó là giặc đốt mười ngón tay Tnú
bằng nhựa xà nu. Cụ Mết kể chuyện cuộc đời Tnú dưới ánh lửa xà nu.

107
b.Nghĩa tượng trưng:
Cây xà nu trước bom đạn giặc Mĩ: Mở đầu tác phẩm là “đến tầm mắt, cũng không thấy
gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”, kết thúc tác phẩm cũng câu nói ấy
nhưng chỉ khác mỗi chữ “đồi” thành chữ “rừng”. Phải chăng Nguyễn Trung Thành muốn
ca ngợi sức sống dẻo dai, mãnh liệt của cây xà nu dưới bom đạn giặc Mĩ “hầu hết đạn
đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”, cũng là của
con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Cây xà nu tượng trưng cho những phẩm chất của dân làng Xô – man:
Cây xà nu chịu nhiều đau thương mất mát: Bom đạn của giặc Mĩ đã tàn phá
những cánh rừng xà nu “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị
thương”, thậm chí “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một
trận bão, chổ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh dưới ánh nắng
hè gay gắt rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”, có những
cây non “nhựa còn trong, chất dầu còn loãng” vết thương không thể lành được nên năm
ba hôm thì cây chết. Chi tiết này gợi lên bao mất mát, hi sinh mà dân làng Xô – man phải
nếm trải. Trong mỗi dáng cây xà nu bị chặt đứt, hoặc mang đầy thương tích như có một
cuộc đời, một con người Xô – man hiển hiện lên. Bà Nhan, anh Xút bị bọn giặc chặt đầu
treo trên cây vả, hoặc cột tóc treo trên mũi súng. Mai và đứa con chưa đầy một tháng tuổi
bị giặc dùng cây sắt đánh đập cho đến chết. Đôi bàn tay Tnú bị giặc dùng nhựa cây xà nu
đốt cháy.
Cây xà nu có sức sống mãnh liệt: Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, nó sinh sôi nảy nở
rất nhanh, bất chấp sự tàn phá, giết chóc của giặc Mĩ “cạnh một cây xà nu mới ngã gục
đã có bốn năm cây mọc lên”, giúp người đọc liên tưởng đến sự tiếp nối truyền thống cách
mạng của dân làng Xô – man , lớp trước hi sinh thì lớp sau tiếp tục, anh Quyết hi sinh thì
có Tnú, Mai. Mai ngả xuống khi tuổi tràn đầy sức sống thì Dít lớn lên nhanh đến không
ngờ, trở thành bí thư chi bộ, rồi bé Heng, thế hệ tiếp theo của Dít cũng đang tiếp bước
con đường của Dít.
Cây xà nu rất ham ánh sáng mặt trời:“Trong rừng ít có loại cây nào ham ánh sáng
mặt trời đến thế chúng phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh nắng”, cũng giống như dân
làng Xô – man vì yêu ánh sáng cuộc sống tự do nên họ tìm cách vươn đến cách mạng,
đến với Đảng, như lời cụ Mết dạy dân làng “Đảng còn, núi nước này còn”.
Cây xà nu tượng cho nhiều thế hệ dân làng Xô – man: Tác giả đã miêu tả ba lứa cây
(cổ thụ, trưởng thành và cây non), tượng trưng cho ba thế hệ con người. Những cây cổ
thụ đại diện cho lớp người già như cụ Mết. Bom đạn không thể quật ngã cây cổ thụ,
chúng che chở cho cả cánh rừng. Cụ Mết trụ vững trên mảnh đất Tây Nguyên, là chổ dựa
vững chắc cho cả buôn làng trong kháng chiến chống Mĩ. Những cây xà nu trưởng thành
tượng trưng cho lớp thanh niên như Tnú, Mai, Dít. Lớp người ấy lớn lên trong đấu tranh
và chịu nhiều đau thương mất mát, nhưng vô cùng anh dũng, kiên cường, cũng giống như
cây xà nu lớn lên trong tầm đại bác của giặc một cách mãnh liệt. Những cây xà nu mới
mọc tượng trưng cho lớp thiếu niên, nhi đồng như bé Heng. Cây xà nu mới mọc vừa nhô

108
khỏi mặt đất đã nhọn hoắt mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Bé Heng tuy còn nhỏ tuổi
nhưng đã là tay súng của du kích làng. Vậy nếu nhựa xà nu được truyền từ cây cổ thụ
sang cây non mới mọc, thì dòng máu Tây Nguyên bất khuất trước kẻ thù được truyền
nguyên vẹn từ lồng ngực thế hệ già sang trái tim thế hệ trẻ. Hình tượng xà nu đẹp như
hình tượng thơ làm cho truyện giàu chất sử thi.
Cây xà nu biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết của Tây Nguyên: Những con người Tây
Nguyên thật thà, giàu tình thương yêu, đoàn kết, giống như cây xà nu nương tựa vào
nhau, lớn lên trong bom đạn. Cụ mết nói “không cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, sức
mạnh ấy thể hiện qua cuộc đồng khởi của dân làng Xô – man.
Tóm lại: Bằng ngòi bút giàu chất sử thi và tình yêu sâu nặng với Tây Nguyên, tác giả đã
chọn cây xà nu, loài cây đặc trưng ở Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu là một hình
tượng ẩn dụ, tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp của dân tộc ở Tây Nguyên nói riêng và
nhân dân Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
2.Nhân vật Tnú:
Trong dụng ý nghệ thuật của mình, Nguyễn Trung Thành nói “rừng xà nu là là
truyện của một đời, được kể trong một đêm”. Người một cuộc đời được kể trong một
đêm ấy chính là nhân vật Tnú.
a.Tnú trung thành với cách mạng:
Tnú không phải tìm đường đến với cách mạng như A Phủ. Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ
nhưng may mắn được dân làng Xô – man nuôi dưỡng. Được cụ Mết dạy cho tình yêu
cách mạng, lại được sống gần anh Quyết – một chiến sĩ cách mạng kiên cường, nên từ
nhỏ Tnú được tham gia vào việc nuôi giấu cán bộ cách mạng và luôn hoàn thành nhiệm
vụ một cách xuất sắc, với một tinh thần trách nhiệm cao, nhiều đêm Tnú phải ngủ trong
rừng vì sợ “lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy”. Tnú luôn nghe lời chỉ dạy của cán bộ cách
mạng, được anh Quyết dạy chữ, Tnú khắc phục khó khăn, cố gắng học. Không có bảng,
không có phấn “Tnú lấy tre nứa làm bảng”, “Tnú đi ba ngày đường tới núi Ngọc Linh
mang về một xà lét đầy đá trắng làm phấn”. Trong lúc học chữ, Tnú tỏ ra tối dạ, học hoài
không nhớ, Tnú lấy đá tự đập đầu chảy máu, nhưng chỉ một lời động viên của anh Quyết
“không học chữ làm sao làm được cán bộ giỏi”, câu nói ấy đã truyền thêm sức mạnh để
Tnú học tốt, với mục đích sau này thay anh Quyết lãnh đạo phong trào cách mạng quê
hương mình.
b.Tnú gan dạ, dũng cảm, mưu trí:
Làm giao liên, Tnú tỏ ra rất gan dạ, mưu trí. Anh không bao giờ chịu đi đường mòn,
giặc vây các ngả, Tnú nhìn quanh một lượt “xé rừng mà đi”. Qua sông anh không lựa
chổ nước êm mà cứ “lựa chổ thác mạnh” để bơi ngang, vì Tnú biết rằng “qua chổ nước
êm thằng Mĩ – Diệm hay phục, chổ nước mạnh nó không ngờ”.Khi bị giặc bắt, Tnú nuốt
luôn thư vào bụng, cam chịu tù đày, tra tấn chứ nhất định không khai, một lòng trung
thành với cách mạng. Khi giặc đốt mười đầu ngón tay, Tnú gan dạ không hề kêu than, mà
cắn rang chịu đựng “răng anh đã cắn nát môi rồi”…Tnú còn là một con người giàu ý chí
nghị lực, biết vượt lên nổi đau gia đình, bi kịch cá nhân để sống đẹp, sống đúng, sống có
109
ý nghĩa. Thuở nhỏ đã chịu cảnh mồ côi cha mẹ, nhưng biết noi theo gương cụ Mết, dân
làng Xô – man đi nuôi giấu cán bộ. Lớn lên phải tận mắt chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ
thù đánh chết. Bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay nhưng anh vẫn dùng bàn tay cầm
súng đi theo con đường cách mạng trả thù nhà, đền nợ nước. Đúng như lời cụ Mết nhận
định về Tnú “đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
c.Tnú thương yêu quê hương bản làng:
Tnú sinh ra và lớn lên giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, giữa những con người
mộc mạc, chân tình, cho nên Tnú rất yêu thương bản làng của mình. Ba năm đi chiến đấu
xa bản làng, khi trở về Tnú vô cùng xúc động, anh nhớ từng hàng cây, con đường, dòng
suối mát và nhớ nhất là tiếng chày giã gạo. Tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những
người đàn bà, những cô gái Strá, của mẹ anh thời xa xưa, của Mai, của Dít, bởi từ ngày
lọt lòng anh đã nghe tiếng chày đó rồi.
d.Tnú rất yêu thương vợ con:
Tnú yêu Mai bằng một tình yêu chân thành và mãnh liệt, vì nó bắt nguồn từ tình bạn
bè, tình đồng chí. Ba năm đi bộ đội, khi trở về làng nhìn thấy gốc cây xà nu, nơi mà ngày
xưa khi Mai đứng đón anh khi anh đi tù về, những kỉ niệm thời thơ ấu, lúc yêu nhau lại
ùa về “những kỉ niệm đó cắt vào lòng anh như một nhát dao”. Ngày con Tnú chào đời, vì
bận công tác cách mạng, Tnú không đi Kon Tum mua vải cho con được, Tnú phải xé đôi
tấm đồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con. Vì bí mật cách mạng, Tnú buộc
phải núp sau gốc cây và chứng kiến kẻ thù man rợ dùng cây sắt đánh đập, tra tấn dã man
vợ con anh, chúng thực hiện mưu “bắt được cọp cái và cọp con, tức sẽ dụ được con cọp
đực”. Tnú đau đớn dữ dội nhưng anh không làm gì được, tay anh bóp hàng chục trái vả
mà không hề hay biết. Khi nghe tiếng con ré lên rồi im bặt, căm thù dồn nén không chịu
được nữa, Tnú lao vào lũ giặc với một tiếng thét lớn “Tao đây, Tnú đây”. Rồi anh hành
động thật đẹp “anh dang hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc ôm lấy mẹ con
Mai”, mặc dù anh hiểu rằng sau đó anh sẽ bị giặc bắt và giết chết. Tnú không cứu được
hai mẹ con Mai vì Tnú chỉ có hai bàn tay không. Dân làng thương Tnú nhưng cũng
không làm gì được cho anh vì họ cũng chỉ có hai bàn tay không.
e.Tnú rất căm thù giặc:
Lòng căm thù giặc của Tnú mang đậm chất Tây Nguyên. Tnú mang trong tim ba mối
thù: Mối thù của bản thân (Lưng Tnú dọc ngang vết dao giặc chém, mười đầu ngón tay bị
đốt), mối thù gia đình (Vợ con chết thảm khốc dưới cây gậy sắt của giặc), mối thù buôn
làng ( Tnú không bao giờ quên hình ảnh những cánh rừng xà nu bị tàn phá, những người
dân vô tội bị sát hại). Khi Tnú buộc phải nhìn cảnh vợ con mình bị giặc tra tấn, căm thù
dồn nén đã biến đôi mắt anh thành “hai cục lửa lớn”. Khi giặc đốt mười đầu ngón tay
bằng nhựa xà nu, ngay lập tức mười đầu ngón tay Tnú thành mười ngọn đuốc, lửa từ
mười đầu ngón tay thiêu đốt gan ruột Tnú đau đớn“anh không cảm thấy lửa ở mười đầu
ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy ở trong lồng ngực, cháy ở bụng”. Anh không hề kêu
than mà cắn răng chịu đựng, rồi căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng,
tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét, tạo thành sức mạnh căm hờn để

110
dân làng Xô – man vùng lên giết sạch một tiểu đội Mĩ. Lòng căm thù của Tnú còn được
thể hiện ở việc Tnú dùng chính bàn tay thương tật của mình cầm súng trả thù nhà, nợ
nước.
f.Tnú có tính kỷ luật cao:
Ba năm tham gia lực lượng giải phóng quân, Tnú rất nhớ nhà, nhớ quê hương. Được
cấp trên cho phép về một đêm và Tnú cũng chỉ về một đêm đúng quy định.
g.Tnú mang tính cách của người Tây Nguyên:
Tnú mạnh mẽ và kiên quyết trong căm thù, Tnú trả thù một cách lạnh lùng và dứt
khoát. Vẻ đẹp Tây Nguyên còn kết tụ tại hai bàn tay Tnú: Bàn tay trung thực ấy dám lấy
đá đập vào đầu để trừng phạt mình vì học hay quên. Bàn tay ấy đã từng đặt lên bụng
mình và nói với giặc “cộng sản ở đây này”. Bàn tay ấy cũng đã từng che chở cho mẹ con
Mai trước đòn roi của giặc. Bàn tay Tnú là bàn tay của sự hận thù, vì bàn tay ấy đã thành
thương tật do giặc Mĩ gây ra. Bàn tay Tnú là bàn tay của sự trả thù, mặc dù bàn tay Tnú
đã thành thương tật Tnú vẫn cầm súng trả thù nhà, nợ nước.
*Tóm lại: Câu chuyện về cuộc đời và con đường cách mạng của Tnú, tiêu biểu cho số
phận và con đường cách mạng của dân tộc Tây Nguyên trong giai đoạn chống Mĩ cứu
nước.
3. Tập thể dân làng Xô – man:
a. Nhân vật tập thể:
Ngày quân Mĩ – Diệm kéo đến tàn sát dân làng Xô – man: Treo cổ anh Xút, chặt đầu
bà Nhan, đại bác bắn ngày hai lần. Trước hành động tàn ác, dã man của giặc, dân làng
căm thù nổi dậy đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng: Cả làng Xô – man từ già tới trẻ, từ
đàn ông tới đàn bà, ai cũng có trong tay một cây giáo, một cây mác, một cây rựa sáng
loáng được mài bằng đá núi Ngọc Linh do Tnú gùi về, ai không có giáo mác thì có năm
trăm cây chông. Vậy là mỗi người dân là một chiến sĩ, họ chiến đấu bằng sự nhiệt tình
cách mạng, bằng lòng dũng cảm, kiên cường và bằng một niềm tin tuyệt đối vào Đảng
“Cán bộ là Đảng, Đảng Còn, núi nước này còn”. Vì vậy kẻ thù có ra sức lùng sục, khủng
bố, dân làng vẫn thay nhau vào rừng tiếp tế cho cán bộ cách mạng và bảo vệ họ. Dân làng
Xô – man tự hào “trong suốt năm năm trời, không có một cán bộ cách mạng nào bị bắt”.
Vậy nên, tập thể dân làng Xô – man là mảnh đất màu mỡ cho những hạt giống cách mạng
nảy mầm và vươn lên thành những con người vinh quang của Tổ Quốc ( Tnú, Mai, Dít).
b.Cụ Mết:
*Ngoại hình:
Cụ Mết ngoài 60 tuổi mà vẫn khỏe mạnh “bàn tay nặng trịch như cái kìm sắt”, “râu
dài tới ngực mà vẫn đen bóng”, “mắt sáng và xếch ngược”, “ngực căng như một cây xà
nu lớn”.
*Tính cách:

111
Cụ Mết là một già làng rất có uy tính, khi cụ nói “mọi người đều im bặt”, đặc biệt cụ
không bao giờ khen tốt, giỏi, vừa ý lắm thì cụ nói “được”.
Cụ Mết là người có kinh nghiệm trong chiến đấu, cụ biết khi nào là phải nhẫn nhịn là
khi mình chỉ có “hai bàn tay không” (Cụ không cho Tnú nhảy vào khi bọn lính đang
đánh đập mẹ con Mai), nhưng cụ lại kịp thời lãnh đạo giết chết mười tên lính.
Cụ Mết giáo dục lòng yêu nước và tinh thần cách mạng cho dân làng Xô – man
“Đảng còn, núi nước này còn”, cụ dạy cho dân làng Xô – man chống giặc Mĩ bằng con
đường vũ trang “chúng cầm súng, mình cầm giáo”.
*Tình yêu quê hương, bản làng:
Cụ rất tự hào về bản làng, về con người Strá, cụ nói: “không gì mạnh bằng cây xà nu
đất ta”, “gạo người Strá mình làm ra ngon nhất núi rừng này”. Yêu quê hương bản làng,
cụ nuôi giấu cán bộ và quyết cùng dân làng Xô – man đấu tranh bảo vệ buôn làng, Tổ
quốc.
Cụ yêu thương dân làng tha thiết: Nhường muối cho người đau, gặp lại Tnú sau ba
năm xa cách, cụ vừa vui, vừa cảm động và đãi Tnú ăn những món đặc biệt của làng.
c.Mai:
Mai là một phụ nữ thông minh, dịu dàng, thủy chung và kiên cường. Thuở nhỏ Mai
đã làm giao liên, cùng T nú vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ. Mai thông minh học chữ
giỏi, mau nhớ. Khi đã trở thành người vợ, người mẹ, Mai dũng cảm lấy thân mình bảo vệ
cho đứa con và kiên quyết không khai một lời nào với giặc.
d.Dít:
Dít thuở nhỏ là một cô bé can đảm, nhanh nhẹn. Ngày làng bị khủng bố, Dít bò theo
máng nước vào rừng để tiếp tế lương thực cho bộ đội, bị giặc bắt, giặc bắn dọa “đạn sượt
qua tai, sém tóc, Dít khóc thét lên nhưng đến viên thứ mười, nó im lặng và bình thản nhìn
bọn giặc”.
Dít căm thù giặc thật là lạnh lùng: Ngày mẹ con Mai chết cả làng đều khóc, cụ Mết
và Tnú cũng khóc, riêng Dít không khóc, dồn nén yêu thương để nung nấu căm thù bằng
cách giã gạo cho Tnú đi trả thù cho chị. Dít lớn lên trở thành một bí thư chi bộ thật vững
vàng, nhiệt huyết, việc công tư rất rõ ràng. Ngày Tnú về thăm làng, Dít rất mừng, nhưng
chị vẫn hỏi giấy phép, khi biết Tnú về có phép Dít mới thể hiện sự vui mừng.
e.Bé Heng:
Là một cậu bé lầm lì, ít nói và là một du kích giữ làng tốt. Bé Heng rất rành hầm
chông, hố chông của làng mình.

IV. TỔNG KẾT:


“Rừng xà nu” là một thiên mang ý nghĩa và vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn
xuôi hiện đại. Với lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp

112
tráng lệ, hào hùng của núi rừng, của con người và của truyền thống văn hóa Tây Nguyên.
Thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh
rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân
tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có
cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.

NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH


- Nguyễn Thi –
-
I.GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
Nguyễn Thi (1928 – 1968) tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca, bút danh khác là
Nguyễn Ngọc Tấn, quê quán Nam Định, vào Sài Gòn năm 1943 vừa đi làm kiếm sống,
vừa tự học. Nguyễn Thi là một trong những cây bút hàng đầu của văn nghệ giải phóng
miền Nam, thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông là người miền Bắc, nhưng gắn bó sâu
nặng với nhân dân miền Nam và trở thành nhà văn của người nông dân Nam Bộ.
2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Truyện ngắn “ những đứa con trong gia đình” được viết vào tháng 2/1966 khi nhà
văn Nguyễn Thi đang chiến đấu chống Mĩ trên chiến trường Nam Bộ. Đây là thời điểm
Mĩ đang ồ ạt đổ quân vào miền Nam để thực hiện chiến tranh cục bộ, nên nhiều thanh
niên miền Nam tình nguyện lên đường chống Mĩ. Truyện được đưa vào tập “truyện và
kí” của Nguyễn Thi, xuất bản năm 1978.
b.Chủ đề:
Truyện ngắn “những đứa con trong gia đình” phản ánh sự gắn bó sâu nặng giữa tình
cảm gia đình và tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình và truyền thống dân tộc, tạo
nên sức mạnh tinh thần cho người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
c.Tình huống truyện:
Truyện “những đứa con trong gia đình” là câu chuyện về anh giải phóng quân tên
Việt. Việt rơi vào tình huống đặc biệt: Trong trận đánh với giặc Việt bị thương nặng, phải
nằm lại chiến trường. Anh nhiều lần ngất đi, tỉnh lại, cho nên truyện được kể lại theo
dòng ý thức của nhân vật, có khi câu chuyện bị đứt quãng vì Việt ngất đi, rồi câu chuyện
được nối lại khi Việt tỉnh dậy.
d.Tóm tắt tác phẩm:

113
Truyện kể về gia đình anh giải phóng quân tên Việt. Trong một trận đánh quyết liệt
giữa đơn vị của Việt với một chiến đoàn lính Mĩ, Việt đã tiêu diệt được xe bọc thép của
giặc, Việt bị thương nặng phải nằm lại chiến trường vì lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại
nhiều lần. Trong tình trạng ngất đi tỉnh lại ấy, Việt nhớ về người thân, gia đình và đồng
đội. Từ đó, người đọc có thể hình dung ra cả một tình yêu nước và mỗi thành viên là một
chiến sĩ diệt Mĩ kiên cường. Sau ba ngày, đơn vị đã tìm thấy Việt trong một lùm cây rậm,
đặc biệt Việt vẫn ở tư thế tiến công.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Má Việt:
a. Ngoại hình:
Má Việt là một người nông dân Nam Bộ có ngoại hình chắc khỏe “cái gáy đo đỏ, đôi
vai lực lưỡng, một mình má có thể bưng thúng lúa từ dưới thuyền lên đặt trên giường
ngủ”. Cuộc sống nghèo khổ hiện lên ở cái nón, cái áo bà ba “cái nón rách, áo bà ba đẫm
mồ hôi”.
b.Má là người phụ nữ đảm đang:
Sáng nào cũng vậy, má miệng thì dặn con mà chân thì đẩy xuồng ra giữa sông. Chiều
về, cái nón rách chưa kịp quạt cho khô mồ hôi trên mặt, lại bơi đi canh hai mới trở lại nhà
nên người lúc nào cũng sặc mùi “lúa gạo và mồ hôi”, cái mùi của dầm nắng, dãi sương
để nuôi con.
c.Má là người biết kìm nén đau thương:
Chồng bị giặc chặt đầu, nhưng má Việt vẫn cố không để rơi nước mắt. Nhưng chiều
hôm ấy về nhà má mới khóc, và nhiều năm sau đó, ai nhắc lại chuyện đau thương ấy “má
chỉ nằm khóc chứ không hề kể gì hết”. Nghĩa là, má nén đau thương vào lòng, một mình
chịu đau khổ.
d.Má rất mực yêu thương chồng con:
Ngày ba Việt bị giặc chặt đầu, má Việt “một tay bồng em mày, một tay tao cắp rổ đi
theo thằng giặc để đòi đầu chồng”, miệng thì đối đáp với kẻ thù, còn hai bàn tay to thì
che lên đầu đàn con đang đứng nép dưới chân mình. Trong cuộc sống thì đôi chân luôn
dính đầy sình đất, lội hết đồng này sang bưng khác để làm công nuôi con và dò tình thế
của bọn lính làng.
2.Chú Năm:
a. Lai lịch:
Chú Năm xuất thân là người nông dân Nam Bộ, chú là em của ba Việt (ba Việt là
ông tư Năng), chú tham gia kháng chiến chống Pháp, bị thương chú trở về quê hương
sông nước Nam Bộ. Từ ngày ba rồi má Việt mất, chú thay anh chị nuôi và dạy dỗ các
cháu bằng một tình yêu thương vô bờ bến. Vì vậy, việc gì quan trọng trong đời Việt và

114
Chiến, hai chị em cũng đều nghe theo quyết định của chú (từ việc đi bộ đội đến những lời
căn dặn của chú).
b.Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ của chú Năm đậm chất Nam Bộ “trọng trọng”, “thỏn mỏn”, nghĩa là lớn
một chút nữa và chuyện nhỏ, ngôn ngữ ấy làm cho người đọc thích thú.
c.Sở thích:
Sở thích đầu tiên của chú Năm là “thích đi đây đi đó” và cũng “ham sông ham bến”.
Ngoài ra chú còn thích sống theo đạo nghĩa, theo tinh thần của Nguyễn Đình Chiểu thuở
xa xưa “gọn bề gia thế, đặng bề nước non”, nghĩa là đảm việc nhà sẽ giỏi việc nước.
d.Chú là người yêu quê hương đất nước:
Tình yêu nước của chú Năm được thể hiện qua câu hò Nam Bộ, vui buồn chú đều hò,
mặc dù giọng hò của chú “đục và tức như gà gáy”. Đặc biệt, chú còn hò để tuyên truyền
tinh thần yêu nước cho cháu, bằng cách đặt bàn tay lên vai Việt, mắt nhìn vào mắt Việt
như gởi gắm hết nỗi lòng của mình.
e.Chú là người viết cuốn sổ gia phả cho gia đình Việt:
Chú viết cuốn sổ gia phả cho dòng họ mình bằng chữ viết “lòng còng”, lời văn mộc
mạc. Đặc biệt, cuốn sổ ghi rất chi tiết: ông nội bị bắn vào giữa bụng, bà nội bị chúng
đánh ba roi, bọn lính chửi bác hai một câu…
3.Việt:
a. Lai lịch:
Việt là con trai thứ hai của chú Tư Năng, Việt có người chị nuôi là chị hai, chị ruột là
chị Chiến và thằng em là thằng Út. Gia đình Việt là một gia đình giàu truyền thống cách
mạng. Ông nội và ba má đều bị giặc giết, từ đó Việt nuôi chí căm thù, nhất định sẽ đi bộ
đội để trả thù.
b.Việt là người thanh niên Nam Bộ có phẩm chất hồn nhiên:
Việt là chiến sĩ trẻ chưa qua tuổi mười tám, ở Việt vẫn còn giữ được nét hồn nhiên
của một chàng trai mới lớn. Việt đã “cầm súng tự động”, “đánh Mĩ bằng lê”, thế mà
Việt vẫn luôn mang bên mình cái ná thun từ thuở nhỏ.
Khi Việt bị thương nặng đến đêm thứ hai, trong đêm tối nằm một mình giữa chiến
trường, Việt không sợ bom đạn của kẻ thù, không sợ chết vì vết thương nặng mà lại sợ
bóng đêm, sợ “con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chõng thụt lưỡi
hay nhảy nhót trong những đêm mưa”, Việt sợ bóng đêm, sợ đến nổi “nằm thở dốc” và
mong gặp lại anh Tánh “níu chặt lấy tay anh mà khóc”.
Việt tranh giành đi bộ đội với chị để lập được chiến công trả thù cho ba má. Việt
tranh giành rất trẻ con bằng cách so chiều cao. Nhưng Việt lại phó thác hết việc nhà cho
chị, chị Chiến nói gì Việt cũng ừ. Trong khi chị Chiến bàn bạc việc nhà với Việt một
cách nghiêm túc thì Việt lại hết sức vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, rồi lại rình

115
chụp một con đom đóm và “ngủ quên lúc nào không biết”. Ở đơn vị Việt rất yêu quý
đồng đội, nhưng lại không nói cho đồng đội biết là mình có chị, vì Việt sợ mất chị nên
“giấu chị như giấu của riêng vậy”.
Việt là hình ảnh của tuổi trẻ sinh động Việt Nam trong cuộc sống đời thường của giai
đoạn chống Mĩ cứu nước.
c.Việt rất giàu tình yêu thương gia đình và đồng đội:
*Tình cảm của Việt dành cho má:
Việt là người thanh niên rất giàu tình yêu gia đình, mặc dù bị thương nặng, ngất đi
tỉnh lại nhiều lần, nhưng khi nào tỉnh dậy, người Việt nhớ đầu tiên là má. Má là người để
lại trong anh nhiều kỉ niệm, mỗi kỉ niệm được đong bằng tình yêu “xoa đầu Việt, đánh
thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn”. Má luôn
hiện hữu trong cuộc sống của Việt. Trong cái đêm thiêng liêng hai chị em bàn tính thu
xếp chuyện gia đình để lên đường chiến đấu, Việt thấy “hình như má cũng về đâu đây”.
*Tình cảm của Việt dành cho chị Chiến:
Tình cảm của Việt dành cho chị được thể hiện ở việc Việt tuyệt đối tin tưởng chị,
ngày mai lên đường nhập ngũ, chị Chiến sắp xếp việc nhà cửa thế nào Việt cũng đồng ý,
Việt nói “chị tính sao cứ tính mà”. Từ ngày má mất, đối với Việt chị Chiến là hình bóng
của má, lúc nào Việt cũng so sánh, liên tưởng chị với má “chị nói in như má vậy”. Đặc
biệt đoạn văn tả cảnh hai chị em Việt – Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm “Việt
khiêng trước, chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương
chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ thế”. Ngày thường chị Chiến sẽ bảo Việt
đi chậm lại, nhưng hôm nay thì không, chị cứ lầm lũi đi theo, Việt phát hiện ra điều này
bởi tiếng chân chị cứ bịch bịch nặng nề, Việt xót xa và thương chị đến lạ lùng. Bởi lẽ
trước giờ khắc chia tay, ngày mai chị em mỗi người mỗi ngả, ra chiến trường biết ai còn,
ai mất, mà mối thù của cha mẹ thì vẫn còn đè nặng trên vai hai chị em. Mối thù ấy khiến
họ yêu thương gắn kết nhau hơn, họ yêu thương nhau bằng tình máu mủ, bằng thù nhà,
nợ nước.
*Tình cảm của Việt dành cho chú Năm:
Việt rất thương chú Năm, tình cảm ấy đã có từ ngày Việt còn rất nhỏ, hồi đó chú hay
bênh Việt, Việt nhớ chú hay hò. Ngày chị em Việt lên đường tòng quân, chú Năm lại cất
tiếng hò, tiếng hò như thổi vào tâm hồn Việt hồn thiêng sông núi.
*Tình cảm của Việt dành cho đồng đội:
Việt nhớ đồng đội, nhớ từng khuôn mặt anh em “cái cằm nhọn hoắt của anh Tánh,
nụ cười và cái nheo mắt của anh Công...”.
d.Việt có phẩm chất anh hùng và lòng căm thù giặc sâu sắc:
Việt sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu nước và gắn bó cách
mạng từ thời kháng chiến chống Pháp đến chống Mĩ (Ông nội, ba Việt, chú Năm đều
tham gia kháng chiến). Việt căm thù giặc sâu sắc bởi cha bị giặc chặt đầu, mẹ trúng pháo

116
của giặc mà chết, ông nội bị giặc bắn, bà nội bị chúng đánh ba roi. Nên Việt chưa đủ
mười tám tuổi, nhưng vẫn cương quyết đòi đi bộ đội, vì Việt nóng lòng muốn trả thù cho
ba má và ý thức về truyền thống cách mạng của gia đình. Nhưng chị Chiến không cho
Việt đi, quá bức xúc “Việt đá trái dừa rụng dưới chân xuống mương cái đùng: Bộ mình
chị biết đi trả thù à?”. Đối với Việt, cầm súng trước hết là thực hiện ý nguyện của má và
trách nhiệm nối tiếp dòng sông truyền thống cách mạng của gia đình.
Việt bị thương rất nặng, toàn thân đau đớn, mắt không còn nhìn thấy gì, bàn tay chín
ngón đều bị thương, duy còn một ngón cái là có thể nhúc nhích được. Một mình nằm lại
chiến trường Việt không hề sợ hãi, nghe tiếng súng giặc vây bốn bề, Việt nghĩ “trên trời
có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng
bắn được mày”, bởi vì với Việt giặc chỉ là kẻ tàn bạo nhưng hèn nhát “mày chỉ giỏi giết
gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Mặt khác Việt còn luôn lạc quan
hướng về tiếng súng của đồng đội. Sau ba ngày trải qua cái đau, cái đói và kề bên cái
chết, Việt vẫn cầm chắc tay súng mặc dù đã kiệt sức Việt vẫn luôn ở tư thế tiến công
“một ngón tay Việt vẫn còn nhúc nhích được đặt ở cò súng, đạn đã lên nòng”, điều này
cho thấy Việt anh dũng chiến đấu đến giờ phút cuối cùng.
Nguyễn Thi đã giúp người đọc nhìn thấu tỏ tính cách anh hùng trong con người Việt.
Ông bà, ba má, chú Năm, chị Chiến là điểm tựa, sức mạnh tinh thần thôi thúc Việt lên
đường chiến đấu. Ra trận Việt muốn giết được nhiều giặc, vì đó là cách “tính điểm” tình
thương dành cho má và gia đình. Bởi vậy, với câu chuyện gia đình Việt là một dòng sông
cách mạng, thì Việt là khúc sông sau tiếp nối truyền thống cách mạng ấy, anh đã dùng
tuổi trẻ của mình diệt giặc Mĩ để trả thù nhà, nợ nước.
4.Chị Chiến:
a. Ngoại hình:
Chị Chiến có ngoại hình khỏe mạnh, rất giống má “hai tay tròn vo”, “thân hình to
và chắc nịch”, ngoại hình ấy phù hợp để gánh vác công việc làm đồng và nuôi em khi ba
mẹ mất.
b.Ngôn ngữ:
Khi dành đi bộ đội với em, chị xưng hô bình đẳng “tao, mày”. Nhưng khi thu xếp
chuyện gia đình để mai lên đường chiến đấu, chị xưng chị em với Việt để thể hiện vai trò
là một người chị lớn trong gia đình. Khi thề không đội trời chung với giặc, chị dùng ngôn
ngữ sắc bén “là thân con gái”, đặc biệt cái đêm thu xếp chuyện gia đình chị nói nghe y
hệt má, Việt phải thốt lên “chị nói in như má vậy”.
c.Chị Chiến đảm đang tháo vát:
Chị chiến có nét rất giống má – đó là người phụ nữ Nam Bộ đảm đang, tháo vát.
Trước ngày lên đường gia nhập bộ đội, chị Chiến tính toán thu xếp việc gia đình thật chu
đáo, từ việc gửi thằng Út cho chú Năm, đến việc ruộng nương nhà cửa, nhắn tin cho chị
hai biết, rồi việc gởi bàn thờ ba má...Chị Chiến đều thu xếp hợp tình, hợp lí khiến cho
Việt và chú Năm rất thán phục. Trước sự chu đáo của chị Chiến, Việt chỉ còn biết trả lời

117
“chị nói nghe thật gọn”, còn chú Năm khi nói về đứa cháu gái của mình, thì chú nói với
một niềm tự hào và tin tưởng tuyệt đối “việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở
rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”, có nghĩa là đảm việc nhà thì tất sẽ giỏi việc
nước.
d.Chị Chiến là người thanh niên có phẩm chất hồn nhiên:
Chiến tính khí còn rất trẻ con, chị thương em nhưng vẫn tranh giành nhau từ việc soi
ếch ngoài ruộng, đến việc lập chiến công bắn tàu Mĩ trên sông Định Thủy. Chiến hồn
nhiên tranh giành đi bộ đội với em bằng cách so tuổi chứ không chịu so chiều cao, nhưng
Chiến vẫn luôn ý thức được mình là chị phải nhường nhịn em.
e.Chị Chiến rất yêu thương gia đình:
Trước ngày lên đường, chị dặn dò Việt “xa nhà thì ráng học chúng, học bạn, thù cha
mẹ chua trả mà bỏ về thì chú Năm chặt đầu”. Câu nói mộc mạc, chân thành hàm ý
khuyên Việt khi không còn trong vòng tay chị, Việt hãy cố gắng phấn đấu cho bằng bạn,
bằng bè và đừng làm buồn lòng chú Năm, bởi chú đối với hai chị em bây giờ là người
cha. Khi hai chị em chiến đấu ở chiến trường, chị thường xuyên viết thư động viên, khích
lệ em. Đặc biệt trước ngày lên đường chị không còn xưng hô mày tao với em, mà xưng
chị em thật là ngọt ngào, bởi chị biết rằng từ ngày má mất, ngoài chuyện hoàn thành
nhiệm vụ thay cho má lo cho em, chị còn rất thương em vì côi cút.
f.Chị Chiến anh dũng, kiên cường và căm thù giặc sâu sắc:
Bước vào tuổi mười chín – cái tuổi đẹp nhất của thời con gái, với mối thù nhà sâu
nặng, chị Chiến xin gia nhập bộ đội, giết giặc trả thù cho ba má với một lời thề “đã làm
thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Lời thề hàm
nghĩa không bao giờ đội trời chung với giặc Mĩ.

III. TỔNG KẾT:


Truyện kể về những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống
yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương, cách mạng. Chính sự gắn bó
sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền
thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Tác phẩm thể hiện những đặc sắc về
nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Thi: trần thuật qua dòng hồi tưởng của nhân vật, khắc
họa tính cách và miêu tả tâm lí sắc sảo; ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam
Bộ.

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA


- Nguyễn Minh Châu –
I.GIỚI THIỆU:

118
1. Tác giả:
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội- Từ năm 1952 đến 1958 ông công tác và chiến
đấu tại sư đoàn 320.- Năm 1962 ông về phòng văn nghệ quân đốị sau chuyển sang tạp chí
văn nghệ quân đội.
- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn
Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám
phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât
của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh
phúc và hoàn thiện nhân cách.
- Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta
hiện nay. Năm 2000, ông được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính : “Dấu chân người lính”,“Chiếc thuyền ngoài xa”,...
2. Xuất xứ:
- “Chiếc thuyền ngoài” xa được viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước đã đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của
đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay
được đặt ra.
- Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng
nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.
3. Tóm tắt:
- Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền
Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau.
- Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt
trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương.
- Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính
chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì
muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình.
- Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can
thiệp...
- Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng
chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và
Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và
đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên.
- Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch
“tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm

119
ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn
lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ
bức tranh.
4. Nhan đề:
- “Chiếc thuyền ngoài xa” trước hết là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ thụât
đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm
hồn mình được thanh lọc.
- Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của
những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
- Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người
nghệ sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực
của nghệ thụât nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của
cuộc sống.
- Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật.
5. Tình huống truyện:
- Tình huống: một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm
ảnh về cảnh biển buổi sớm có sương. Tại đây, anh đã phát hiện và chụp được một cảnh
tượng “trời cho” - đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ
sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, người nghệ sĩ đã chứng kiến cảnh một gã chồng
vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man. Ba hôm sau, cảnh tượng ấy lại diễn ra, người
đàn bà được mời đến tòa án huyện, tại đây, người nghệ sĩ lắng nghe câu chuyện về cuộc
đời của người đàn bà hàng chài kể lại và đó như một lời giải thích vì sao chị ta không bỏ
chồng dù người chồng tàn bạo.
- Đây là một “tình huống nhận thức”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời
sống, chân lí nghệ thuật. Phùng đã phát hiện sau cảnh đẹp như mơ kia là những ngang
trái, nghịch lí của đời thường.
- Tình huống truyện, thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Chánh án Đẩu và nghệ sĩ
Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp
xúc với người đàn bà hàng chài.Từ tình huống truyện, tác giả đã đặt ra vấn đề “đôi mắt”,
cách nhìn đời, nhìn người trong cuộc sống.

II. DÀN Ý CHI TIẾT:


1. Nhân vật Phùng:
a. Thể hiện quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu:
* Phùng là người yêu nghề, có trách nhiệm với nghề:
- Anh đã phục kích mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào.

120
- Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm anh mới chụp được bức ảnh ưng ý.
->Phùng không đơn giản, qua loa với công việc mà anh luôn hết lòng vì công việc.
* Phùng là một nghệ sĩ tài năng:
- Anh đã phát hiện bức tranh thiên nhiên giàu giá trị nghệ thuật:
+ Trước mặt Phùng là một khung cảnh thiên nhiên như “bức tranh mực tàu của một danh
hoạ thời cổ”.
+ “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi
chút màu hồng hồng của mặt trời chiếu vào”.
+ “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum
khum, đang hướng mặt vào bờ”.
+ Khung cảnh được nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới giữa hai chiếc gọng vó
giống hệt “cánh một con dơi”, đẹp từ đường nét đến ánh sáng.
->Phùng là người nghệ sĩ săn tìm cái đẹp. Anh thực sự biết quan sát bằng đôi mắt tinh
tường, "nhà nghề” để lựa chọn cái đẹp hài hoà giữa thiên nhiên, cảnh vật, con người - vẻ
đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ gặp một lần.
* Phùng là người nghệ sĩ thật sự rung cảm trước cái đẹp:
- Cái đẹp đã làm Phùng xúc động và nhận ra sự rung cảm của tâm hồn mình.
+ Anh liên tưởng tới câu nói của ai đó “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
+ Và tưởng chính mình vừa khám phá “cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn".
->Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc khi khám phá và sáng tạo, khi cảm nhận cái đẹp
hài hoà, lãng mạn giữa thiên nhiên và cuộc đời. Trong hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa”
giữa biển trời mờ sương, Phùng đã cảm nhận cái đẹp toàn bích và thấy tâm hồn mình
như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi. Từ đây, ta thấy người nghệ sĩ phải là
người phát hiện và mang cái đẹp đến cho đời.
* Nhân vật Phùng thể hiện quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh
Châu:
- Qua việc khám phá bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” của Phùng, tác giả muốn đề ra một
quan niệm về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống và
phục vụ cho cuộc sống; người nghệ sĩ phải có tài năng, có sự lao động miệt mài và phải
có sự xúc động trước cái đẹp thì mới sáng tạo được những tác phẩm có giá trị.
b. Nhân vật Phùng thể hiện cách nhìn về cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh
Châu:
* Phùng là người có tấm lòng nhân hậu:
- Chưa thoả thuê ngắm bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” thì ngay lúc ấy, chiếc thuyền
đâm thẳng vào nơi Phùng đứng.
121
- Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến: từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ bước ra một
người đàn bà xấu xí, một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, đánh vợ như một phương cách để
giải tỏa những uất ức, khổ đau... Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn
thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của
cuộc sống.
- Chứng kiến cảnh ấy, Phùng đã “kinh ngạc đến mức (…) há mồm ra mà nhìn” rồi sau đó
thì “vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng
Phác (con lão đàn ông) đã kịp tới để che chở cho người mẹ .
- Đến lần thứ hai, bản chất người lính ở người nghệ sĩ được thể hiện. Anh xông ra buộc
lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác … Hành động của Phùng cho thấy anh
không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác.
->Đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại
chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lí của sự toàn thiện” mà nó là những ngang trái, xấu
xa, những bi kịch còn tồn tại trong cuộc sống.
* Phùng luôn ý thức để hoàn thiện nhân cách:
- Tận mắt chứng kiến vẻ đẹp của bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa”, cảnh người đàn ông
đáng vợ và khi lắng nghe câu chuyện của người đàn bà ở toà án (vì tình thương con, vì ý
thức phải sống cho con, vì mong nuôi con cho đến khi khôn lớn mà chị chấp nhận gánh
lấy cái khổ), Phùng nhận thức rất nhiều điều qua các cảnh ấy.
+ Đằng sau bức ảnh như “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” là những điều
nghịch lý trong cuộc sống đời thường với biết bao số phận, bao mảnh đời éo le.
+ Để Phùng chứng kiến hành động vũ phu của người chồng, Nguyễn Minh Châu muốn
phê phán tình trạng bạo lực trong gia đình, một mảng tối của xã hội đương đại.
+ Phùng đã hiểu về người đàn bà hàng chài kia: Ẩn bên trong sự xấu xí, nhẫn nhục là vẻ
đẹp tình mẫu tử đầy vị tha, là khát khao hạnh phúc bình dị đời thường của người phụ nữ
còn đói nghèo, lạc hậu.
+ Nỗi trăn trở của Phùng trong nhiều năm dài về hình ảnh người đàn bà hàng chài cứ hiện
ra sau mỗi lần anh ngắm bức ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” chính là quá trình tự ý thức
của Phùng để hoàn thiện nhân cách của mình.
=>Phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của thiên nhiên, về sự thật cay đắng, đầy bi kịch,
nghèo khổ của những con người lao động bằng nghề chài lưới, đã bộc lộ những lo lắng,
trăn trở của nhà văn về nhân cách, đời sống con người; bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn,
trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động. Truyện đậm chất tự sự, triết
lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài
a. Số phận:
- Người đàn bà vùng biển trong truyện ngắn hiện lên qua cái nhìn của Phùng – người
nghệ sĩ nhiếp ảnh đã tình cờ chứng kiến những bi kịch gia đình của chị.

122
+ Chị không hề có tên. Tác giả chỉ gọi chị là “người đàn bà” một cách phiếm định. Có lẽ
đây là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
+ Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển
khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc
quan tâm nhất trong truyện ngắn.
-> Cách gọi tên nhân vật như vậy vừa cụ thể nhưng lại vừa khái quát, vừa phiếm định
nhưng lại vừa xác định.
– Chị là một người phụ nữ lao động lam lũ ở làng vạn chài, cả nhà sống lênh đênh trên
một chiếc thuyền đánh cá.
– Chị là một người phụ nữ đau khổ – nạn nhân đáng thương của sự lạc hậu đói nghèo, chị
thường xuyên bị chồng đánh đập, ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.
-> Nhân vật người đàn bà trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là hiện thân cho những mảnh
đời tăm tối cơ cực vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta.
b. Ngoại hình:
- Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng người đàn bà hàng chài lại là một người
phụ nữ có ngoại hình thô kệch, xấu xí.
-> Người đàn bà với cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như tất cả những người người đàn bà ở
vùng biển – nơi mà con người ta luôn phải đối diện với hiểm nguy, cuộc sống luôn phải
đặt trong vòng vây của sự đói khát, bấp bênh.
c. Phẩm chất, tính cách:
– Sức chịu đựng ghê gớm: Cam chịu, nhẫn nhục chịu để chồng đánh một cách bình tĩnh
như thực hiện một nghĩa vụ. Chị chấp nhận những đòn roi như một phần cuộc đời mình,
chấp nhận nó như cuộc sống của người đi biển đánh cá phải đương đầu với sóng to, gió
lớn vậy.
– Rất tự trọng. Sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người
khách lạ (Phùng) chứng kiến, chị thấy “đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục
nhã”. Và chị đã khóc.
– Thương chồng: Chị cầu xin vị chánh án đừng bắt mình phải li hôn với gã chồng thường
xuyên hành hạ chị: “Con lạy quý toà… Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng
được, đừng bắt con bỏ nó”.
– Chị là người mẹ thương con:
+ Chị lo sợ thằng Phác sẽ có những hành động nông nổi với bố, chị đã gởi con cho bố
ruột mình nuôi. Không muốn con nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ, chị xin với chồng mỗi lần
đánh chị thì lên bờ mà đánh khi không có mặt con. Đó cũng là một cách ứng xử rất nhân
bản.
+ Chị nhẫn nhục chịu đựng đòn roi của chồng vì chị nghĩ đến đàn con: “Ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái

123
khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở
trên đất được!”. Hoá ra, chị không thể bỏ chồng vì cuộc sống trên thuyền không thể thiếu
một người đàn ông trong những lúc phong ba, bão táp, các con chị phải được nuôi nấng,
phải được lớn lên,…
– Chị là một người hiểu thấu lẽ đời, tuy ít học mà tỉnh táo và sáng suốt.
+ Chị xưng hô: quý toà – con tự nhận mình là thân phận thấp hèn. Khi chánh án Đẩu
khuyên chị bỏ chồng. Chị cảm ơn Phùng và Đẩu về lời khuyên ấy và khẳng định: “Lòng
các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được
cái việc của những người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”. Chị quả rất hiểu lẽ đời.
+ Không chỉ hiểu mình, chị hiểu cả tấm lòng của những người phụ nữ hàng chài. Họ biết
mình đau khổ nhưng vẫn nhẫn nại, hi sinh, bao dung chịu đau khổ để cho đàn con được
dưỡng nuôi, khôn lớn. Bởi người phụ nữ hàng chài không thể sống như những người phụ
nữ khác, do hoàn cảnh rất riêng của họ, lúc nào cũng sống trên sóng nước, gia đình nào
cũng trên dưới chục đứa con. Câu chuyện của chị ở toà án huyện đã mang lại cho chánh
án Đẩu và nghệ sĩ Phùng những nhận thức mới mẻ mà trước đó họ chưa từng nghĩ tới.
– Chị yêu thương gia đình và cuộc sống đạm bạc của gia đình. Như chị nói: “Trên thuyền
cũng có những lúc cha con, vợ chồng vui vẻ với nhau, nhất là khi nhìn đàn con được ăn
no”. Chính vì vậy, khi chánh án Đẩu đề nghị chị li hôn với chồng chị đã nhất định không
chấp nhận.
-> Ở Chị là người phụ nữ bao dung, vị tha, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhà văn đã có dụng ý tạo nên ấn tượng cho người đọc
về hình ảnh ngừơi đàn bà bằng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo kết hợp với thủ pháp đối
lập giữa ngoại hình và nội tâm, giữa một số phận bất hạnh và tấm lòng nhân hậu, bao
dung, thương con hơn tất cả mọi thứ trên đời.
=> Khép lại câu chuyện về người đàn bà vô danh vùng biển, nhưng người đọc không
khỏi băn khoăn, day dứt. Vấn đề dặt ra là làm thế nào để số phận những người phụ nữ
như người đàn bà kia thoát khỏi những bi kịch của cuộc đời? Bằng việc khắc hoạ rõ nét
chân dung người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã gửi đến người đọc một thông
điệp đầy tinh thần nhân văn: Thời đại nào con người ta cũng cần phải có sự thương yêu,
lòng thông cảm, phải có niềm tin vào cuộc đời.
3. Chánh án Đẩu
- Là người đại diện cho công lý, luật pháp; có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lý.
- Nhưng Đẩu mới nhìn cuộc đời của người đàn bà vùng biển ở một phía, anh chưa thực
sự đi sâu vào đời sống nhân dân.
4. Nhân vật người chồng
- Vốn là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”.
- Một gã đàn ông vũ phu, tàn nhẫn, ích kỉ.

124
- Một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
5. Thằng bé Phác
- Một cậu bé giàu tình cảm yêu thương đối với mẹ.
- Nhưng cũng giống như Đẩu, Phùng, nó mới chỉ nhìn thấy ở cha nó ở khía cạnh độc ác,
tàn nhẫn mà chưa hiểu được “lẽ đời” bên trong.
- Hình ảnh tiêu biểu của những đứa trẻ trong những gia đình có nạn bạo hành.
6. Đặc sắc nghệ thuật
- Tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.
- Tác giả lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi,
chân thực, giàu sức thuyết phục (ngôi kể là nhân vật.
- Ngôn ngữ các nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc,
đa nghĩa.

III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Tình huống khám phá (Nghệ sĩ Phùng phát hiện ra bức tranh đẹp):
a. Nghệ sĩ Phùng phát hiện ra bức tranh thiên nhiên đẹp:
Phùng xuất thân là bộ đội, hiện là một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, luôn khao khát đi
tìm cái đẹp. Phùng phát hiện ra bức tranh đẹp ở vùng biển miền Trung. Đó là một chiếc
thuyền ngoài xa trong sương sớm “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh
họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa, có
pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Và bức tranh còn đẹp hơn khi có sự
xuất hiện của con người“vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng
trên chiếc mui khum khum” đang hướng mũi vào bờ. Như vậy, con người đã làm cho bức
tranh có bố cục hài hòa, sinh động từ đường nét đến ánh sáng.
b.Tâm trạng của Phùng khi phát hiện ra bức tranh đẹp:
Khi phát hiện ra bức tranh đẹp, Phùng cảm thấy bối rối như bị bóp nghẹt trái tim, bởi
vì tâm hồn người nghệ sĩ chân chính ấy đã rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp của bức
tranh. Sung sướng, Phùng bấm liên tục hết một phần tư cuốn phim, để vĩnh cửu hóa cảnh
đẹp tuyệt vời đó. Hạnh phúc của nghệ sĩ Phùng là hạnh phúc của sự khám phá và sáng
tạo. Để có được khoảnh khắc hiếm hoi ấy, người nghệ sĩ phải kiên trì vượt khó, phải đam
mê vì nghệ thuật. Đặc biệt, cái đẹp kì diệu có khi lại đến với người nghệ sĩ một cách bất
ngờ nhất.
2.Tình huống tâm trạng (Nghệ sĩ Phùng phát hiện ra bức tranh cuộc sống gia đình
hàng chài ):
a. Phùng vô cùng ngỡ ngàng khi tai nghe tiếng quát:

125
Phùng vô cùng ngỡ ngàng khi chiếc thuyền tiến vào bờ, vì bước xuống từ chiếc
thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy là vợ chồng hàng chài với ngoại hình nghèo khổ,
lam lũ, mệt mỏi và kèm theo là một tiếng quát đầy chết chóc “cứ ngồi yên đấy. Động đậy
tao giết cả mày đi bây giờ”. Tiếng quát đã làm rạn nứt cái hạnh phúc mà Phùng vừa có
được, đó là vẻ đẹp của “chiếc thuyền ngoài xa”.
b.Phùng choáng váng khi nhìn thấy cảnh người đàn ông đánh vợ:
Phùng choáng váng trước sự nghiệt ngả của cuộc sống, bởi vì mắt Phùng nhìn thấy
cảnh người đàn ông hàng chài đánh vợ. Đầu tiên lão ta đang “áp giải” vợ lên bờ, bằng
cách để vợ đi trước, lão đi sau “đôi mắt độc dữ” luôn dán vào lung người đàn bà. Sau đó,
họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn, lập tức người đàn ông dữ dằn, độc ác ấy đánh vợ thật
dã man “lão rút trong người ra chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa” và lập tức “quật
tới tấp vào lưng người đàn bà”. Đặc biệt, vừa đánh lão vừa thở hồng hộc, nghiến răng
ken két, cứ một nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn “mày
chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Bị chồng đánh rất dã man,
nhưng người đàn bà chỉ nhẫn nhục, chịu đựng “không hề kêu lên một tiếng, không chống
trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.
c.Phùng kinh ngạc hơn khi chứng kiến cảnh thằng Phác lao tới cứu mẹ:
Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ khi chứng kiến cảnh đứa con trai bé bỏng lao vào cứu
mẹ và cảnh ẩu đả của hai bố con trên bãi cát “thằng con trai giựt cái thắt lưng quật thẳng
vào ngực người đàn ông, còn người đàn ông thì tát thằng bé hai cái dúi mặt xuống cát”,
rồi lão đàn ông lặng lẽ về thuyền, người đàn bà ôm chầm lấy con, buông con ra, lạy con,
rồi lại ôm chầm lấy con mà khóc, sau đó chạy theo người đàn ông.
d.Phùng là người nhân hậu:
Phùng là người nhân hậu nên anh rất bất bình khi vài ngày sau Phùng lại chứng kiến
cảnh lão đàn ông đánh vợ, Phùng lao tới bênh vực, che chở cho người đàn bà không quen
biết kia. Phùng trừng trị gã đàn ông ấy “không phải bằng bàn tay của một anh thợ chụp
ảnh, mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng”. Cảm xúc và hành động
của Phùng cho thấy anh là một người nghệ sĩ nhạy cảm, thiết tha gắn bó với cuộc sống.
Phùng cũng cay đắng nhận ra rằng: đằng sau cái đẹp không phải bao giờ cũng là chân lí
hoàn thiện của đạo đức.
3.Tình huống nhận thức (Phùng nhận ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực
cuộc sống khi người đàn bà đứng trước tòa):
a. Tâm trạng của Phùng khi người đàn bà hàng chài đứng trước tòa:
Phùng vô cùng xúc động, cảm thông, kính phục và chia sẻ trước tình yêu thương của
người đàn bà hàng chài dành cho chồng con. Sau khi biết được cuộc đời cùng khổ của
người đàn bà, Phùng và Đẩu đã mời chị lên tòa để giúp chị thoát khỏi người chồng tàn
bạo kia. Khi chánh án Đẩu khuyên người đàn bà hãy li dị chồng vì lí do “ba ngày một
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Lí
do mà Đẩu đưa ra là hoàn toàn hợp lí để người đàn bà li hôn, nhưng người đàn bà chắp

126
tay vái lấy vái để “con lạy quý tòa…quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng
được, đừng bắt con bỏ nó”.Lời van xin khẩn thiết ấy xuất phát từ trái tim người mẹ
thương con, nên chấp nhận nuốt hết nỗi đau đớn vào lòng, cam chịu sống với người đàn
ông vũ phu. Người đàn bà càng trở nên sắc sảo khi đưa ra ba lí do không thể li dị chồng.
Thứ nhất, gã chồng là chổ dựa quan trọng trong cuộc đời những người đàn bà hàng chài
như chị, nhất là khi biển động “cần phải có một người đàn ông chèo chống khi phong ba,
để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Thứ
hai, chị quan niệm thật đơn giản, người đàn bà sinh ra là để đẻ con và nuôi con khôn lớn
nên “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Thứ ba, chị trân trọng những
hạnh phúc nhỏ nhoi mà mình có được “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng
tôi sống hòa thuận vui vẻ”, vui vẻ nhất là khi chúng tôi nhìn thấy lũ con “chúng nó được
ăn no”.
b.Tâm trạng của Phùng mỗi khi ngắm nhìn bức tranh:
Phùng tự hào mỗi khi ngắm bức tranh vì nó ẩn chứa cái đẹp thực sự của cuộc đời.
Phùng mang những tấm ảnh chụp con thuyền ngoài xa, thơ mộng trong sương sớm ửng
hồng về Hà Nội, để được treo trong những gia đình sành nghệ thuật. Để mỗi lần nhìn
ngắm anh lại thấy “người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm lịch”, với vô vàn những nghịch lí:
người đàn bà ngoại hình xấu xí, nhưng tâm hồn rất đẹp, chồng đánh đập dã man, nhưng
người đàn bà cương quyết không chịu li dị chồng, người đàn bà quê mùa, dốt nát nhưng
rất hiểu lẽ đời…
Qua đó, bài học mà Phùng rút ra từ người đàn bà: Nghệ thuật thì ở ngoài xa như chiếc
thuyền, nhưng sự thật cuộc đời thì lại rất gần, đừng vì nghệ thuật mà quên mất sự khắc
nghiệt của cuộc sống, vì nghệ thuật chân chính luôn gắn liền với hiện thực cuộc sống.
Hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản mà vẫn ngoài tầm tay. Sự tàn bạo nhiều
khi được sinh ra từ đói nghèo, thất học. Lời giải cho bài toán nghèo đói, thất học rất phức
tạp cần có sự chung tay của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Người nghệ sĩ phải có cái nhìn
đa chiều về con người và cuộc sống. Khi đánh giá về một vấn đề cần phải có cái nhìn
toàn diện về hiện tượng và bản chất.
4.Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài:
a. Người đàn bà hàng chài không có tên:
Người đàn bà hàng chài không có tên, tác giả chỉ gọi chung chung là “người đàn bà
hàng chài, mụ, chị ta…”. Bởi chị là hiện thân cho số phận của những người đàn bà hàng
chài ở vùng biển miền Trung này với cuộc sống nghèo khổ, cam chịu và giàu đức hi sinh.
b.Ngoại hình:
Người đàn bà hàng chài chừng bốn mươi tuổi, thân hình “cao lớn với những đường
nét thô kệch”. Gương mặt “đầy vết rỗ” và “mệt mỏi” vì phải thức đêm để kéo lưới.
Ngoài ra, người đàn bà còn ăn mặc thật rách rưới “áo bạc phếch có miếng vá”. Vậy chỉ
cần quan sát bề ngoài cũng dễ dàng nhận thấy người đàn bà có cuộc sống nghèo khổ vất
vả trên con thuyền mưu sinh kia. Đặc biệt, tác giả còn tập trung miêu tả đôi mắt của chị,
bởi đôi mắt ấy thay đổi theo từng hoàn cảnh, ẩn giấu nhiều điều bí ẩn về cuộc đời chị.
127
Khi chuẩn bị cho chồng đánh chị “đưa cặp mắt nhìn xuống chân” với vẻ cam chịu. Khi
chuẩn bị đối thoại với quý tòa, chị “đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá”,
nơi ấy có người thiếu nữ mặc áo dài tím (con gái chị đang ngồi chờ mẹ) với cặp mắt buồn
bã. Khi đối thoại với Đẩu và Phùng đôi mắt chị “nhìn thẳng vào chúng tôi”, đôi mắt của
sự thật. Khi bắt đầu kể về đời mình “con mắt chị như đang nhìn suốt cả cuộc đời mình”.
c.Số phận người đàn bà hàng chài:
Người phụ nữ không tên ấy có số phận bất hạnh, cuộc sống đầy tủi nhục, đắng cay.
Cái xấu theo đuổi chị như một định mệnh từ khi còn nhỏ. Vì không ai lấy, lỡ có mang rồi
trở thành vợ chồng với một anh hàng chài. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, bấp
bênh, đông con, thuyền lại chật, họ phải triền miên sống trong nghèo túng, khổ cực. Có
lúc biển động hàng tháng “cả nhà ăn xương rồng luộc chấm muối”. Những lúc khổ quá
lão chồng lại lôi chị ra đánh.
d.Người đàn bà hàng chài sống cam chịu:
Người đàn bà hàng chài sống cam chịu, đau đớn về thể xác trước những trận đòn dã
man của chồng. Khi thuyền vừa cập bờ, lão hàng chài áp giải vợ lên bờ “chị đi trước, lão
đàn ông đi sau mắt luôn dán vào lưng người đàn bà”, họ lẳng lặng đi đến bên chiếc xe rà
phá mìn, người đàn ông lập tức rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày
xưa, quất tới tấp vào lưng người đàn bà, nhưng lạ thay người đàn bà thầm lặng chịu đựng
“không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Chị lặng
lẽ chịu đau đớn về thể xác, vì chị hiểu trên chiếc thuyền mưu sinh ngoài biển đầy sóng
gió kia, rất cần một người đàn ông để làm và nuôi con khôn lớn.
Người đàn bà hàng chài còn cam chịu đau đớn về tinh thần: Thứ nhất, chị luôn nơm
nớp lo sợ các con nhìn thấy cảnh cha bạo hành, chúng sẽ bị tổn thương tâm hồn. Vì vậy,
khi các con lớn, chị van xin chồng đưa lên bờ mà đánh. Thứ hai, chị luôn che giấu nỗi
đau của mình. Vì vậy, khi thằng Phác đến cứu chị, chị “vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu
hổ, nhục nhã”, chị mếu máo gọi “Phác con ơi!”. Thứ ba, người đàn bà đau đớn hoảng
loạn khi thấy con đánh cha, cha đánh con (khi nhìn thấy cha đánh mẹ, thằng Phác lao vào
giật chiếc thắt lưng trên tay người đàn ông rồi quất vào ngực cha, người đàn ông tát vào
mặt thằng Phác làm nó chúi mặt xuống cát). Người đàn bà ôm chầm lấy con, buông con
ra, rồi chắp tay vái lấy vái để. Chị lạy con để xin con đừng vì thương mẹ mà làm điều tội
lỗi là đánh cha mình. Chị lạy con còn là lời xin lỗi con vì “không đem đến cho con một
mái ấm hạnh phúc và chị lạy con vì hiểu rằng mình đã làm tổn thương tâm hồn thơ dại
của con”.
Như vậy, sự cam chịu của người đàn bà hàng chài thật đáng thương, đáng để ta cảm
thông, chia sẻ. Bởi nó xuất phát từ tình thương con vô bờ bến.
e.Người đàn bà hiểu biết sâu sắc về thiên chức làm mẹ:
Vì thương con nên chị nuốt hết nỗi đau đớn vào lòng, cam chịu sống với người chồng vũ
phu, nên khi chánh án Đẩu khuyên người đàn bà hãy li dị chồng, vì lí do “ba ngày một
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, cả nước không có một người chồng nào như hắn”, thì
người đàn bà chắp tay vái lấy vái để “con lạy quý tòa…quý tòa bắt tội con cũng được,
128
phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Người đàn bà không chịu li dị chồng, bởi
chị ý thức được thiên chức làm mẹ. Chị chỉ raba lí do để không thể li dị chồng, nghe thật
đơn giản nhưng vô cùng mãnh liệt và giàu đức hi sinh. Thứ nhất, gã chồng là chổ dựa
quan trọng trong cuộc đời của những người đàn bà hàng chài như chị, nhất là khi biển
động “cần phải có một người đàn ông chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi
nấng đặng một sấp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Thứ hai, chị quan niệm thật
đơn giản “người đàn bà sinh ra là để đẻ con rồi nuôi con khôn lớn”, nên phải sống vì
con chứ không chỉ sống cho riêng mình “phải sống cho con chứ không thể sống cho
mình”. Thứ ba, chị trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi trong kiếp sống đọa đày trên
thuyền “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng, con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”, vui
vẻ nhất là khi chúng tôi nhìn thấy lũ con “chúng nó được ăn no”. Như vậy, người đàn bà
đã trao cả cuộc đời mình trên con thuyền mưu sinh để nuôi con khôn lớn, chị hiểu rõ thân
phận mình giống như biển có lúc êm đềm, có lúc sóng gió, nên chị chấp nhận cuộc sống
đau đớn, tủi nhục để hoàn thành thiên chức làm mẹ.
f.Người đàn bà có lòng vị tha, nhân hậu với chồng:
Đối với chồng, người đàn bà hàng chài có cái nhìn đầy vị tha, nhân hậu và chị rất
hiểu lẽ đời. Trước sự bất bình của Phùng và Đẩu, chị thanh minh rằng, chồng chị trước
kia là một anh thanh niên cục tính, nhưng rất hiền lành và không bao giờ đánh vợ, nay lão
ta đánh vợ vì quá nghèo khổ. Chị bao dung nhận lỗi bạo hành của chồng là do mình “giá
tôi đẻ ít đi” hay có một chiếc thuyền rộng hơn. Cuối cùng chị bênh vực cho chồng một
cách tội nghiệp, chị cho rằng người đàn ông cũng có một tật xấu “những người đàn ông
trên thuyền khác uống rượu”, còn chồng chị có tật “khi nào thấy khổ quá lão lại xách tôi
ra đánh”.
g.Người đàn bà luôn biết chắt chiu hạnh phúc:
Người đàn bà hàng chài luôn kiên nhẫn, nhặt những mảnh hạnh phúc nhỏ nhoi lại để
tạo gia đình hạnh phúc. Từ việc van xin chồng đưa chị lên bờ mà đánh để con chị không
bị tổn thương tâm hồn trẻ thơ, đến việc gửi thằng Phác lên bờ ở với ông ngoại để con
không phạm tội đánh cha…và gương mặt chị ửng hồng khi nói về “có lúc vợ chồng con
cái chúng tôi sống vui vẻ, hạnh phúc”. Tất cả đều được nuôi dưỡng từ suy nghĩ bảo vệ
hạnh phúc gia đình.
Vì vậy, người đàn bà chịu nhiều đau khổ ấy là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam,
dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng đều tỏa sáng những phẩm chất tốt đẹp: đảm đang,
chịu thương chịu khó và giàu đức hi sinh.

III.TỔNG KẾT:
Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh,
truyện ngắn “ chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận

129
cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật
sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện, sử
dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo đã góp phần làm nổi bật chủ đề - tư tưởng của tác
phẩm.

HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT


- Lưu Quang Vũ –
-
I.GIỚI THIỆU:
1. Tác giả
- Lưu Quang Vũ (1948 – 1988), quê Đà Nẵng, sinh ở Phú Thọ. Ông là một tài năng đa
dạng : làm thơ, sáng tác văn xuôi, vẽ tranh nhưng đặc sắc nhất là kịch.
- Lưu Quang Vũ được coi là hiện tượng đặc biệt của sân khấu, kịch trường những năm 80
của thế kỉ XX. Và là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam
hiện đại.
- Tác phẩm : Nàng Xi-ta, Tôi và chúng ta, Chết cho điều chưa có; Hồn Trương Ba, Da
hàng thịt,…
2. Tác phẩm
- HTB, DHT viết (1981), ra mắt công chúng (1984), dựa theo cốt truyện cổ dân gian cùng
tên, gồm 7 cảnh.
- Cảm hứng sáng tác vở kịch :
+ Tình hình đất nước, xã hội Việt Nam những năm 80 của TK XX và công cuộc đổi mới
toàn diện bắt đầu diễn ra trên đất nước ta.
+ Cảm hứng phê phán những tiêu cực trong xã hội, cuộc sống, con người Việt Nam của
tác giả.
+ Mượn và viết tiếp truyện dân gian HTB, DHT với nhiều sáng tạo mới mẻ, hiện đại, sâu
sắc.
- Đây là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của LQV. TP chứa đựng nhiều vấn đề mới
mẻ, có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân sinh sâu sắc.
3. Đoạn trích
- Đoạn trích thuộc cảnh VII và là đoạn kết của vở kịch.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:


1.Nhan đề:

130
- Nghĩa thực: Tâm hồn thanh cao, nhân hậu của TB phải sống trong thân xác hàng thịt thô
lỗ, phàm tục.
- Nghĩa liên tưởng:
+ Khi con người sống chung với sự dung tục, thì sẽ bị cái dung tục ngự trị và tàn phá
những gì đẹp đẽ nhất của con người.
+ Được sống làm người thì quý giá thực, nhưng phải sống đúng là mình, sống trọn vẹn
những giá trị mà mình có và phải biết đấu tranh trước những nghịch cảnh của cuộc sống.
+ Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi sống hài hòa giữa tâm hồn và thể xác.
- Nhan đề xây dựng trong nghệ thuật tương phản giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, có
ý nghĩa tương phản giữa thể xác bên ngoài và linh hồn bên trong.
Chính vì vậy hồn Trương Ba và da hàng thịt chính là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu
tượng sâu sắc.
- Nếu như da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài thể xác con người thì hồn Trương
Ba là biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong. Đó là sự mâu thuẫn
giữa hình thức và bản chất trong một con người. Nhưng hồn Trương Ba còn là biểu tượng
cho vẻ đẹp trong sáng thanh cao, còn da hàng thịt lại là biểu tượng cho cái xấu xa, cái
dung tục tầm thường, cái bản chất thấp kém trong một con người.
 Nhan đề hồn Trương Ba da hàng thịt là một hình tượng nghệ thuật phản ánh một hiện
thực cuộc sống con người khi bị rơi vào nghịch cảnh, phải sống giả tạo bên ngoài một
đằng, bên trong một nẻo, không được sống đích thực là chính mình. Nhan đề còn gửi gắm
một ý nghĩa sâu sắc: Đó là sự cảnh tỉnh con người khi không làm chủ được hoàn cảnh,
không làm chủ được bản thân để lối sống dung tục tầm thường lấn át lối sống thanh cao
trong sáng, để thể xác sai khiến linh hồn, để những ham muốn bản năng thấp kém làm
cho nhân cách lệch lạc, nhoà mờ khiến tâm hồn và thể xác không còn là một thể hài hoà
thống nhất.
=> Nhan đề đã thâu tóm cả giá trị phản ánh hiện thực lẫn nội dung nhân đạo của tác
TP.
2. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt
- Hồn bắt đầu cuộc đối thoại bằng sự phủ nhận quyết liệt, mạnh mẽ về vai trò, tầm ảnh
hưởng của xác hàng thịt với mình: “Vô lý, mày không thể biết nói! Mày không có tiếng
nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…”, “Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa
gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc”.
- Xác đáp lại bằng sự khẳng định chắc nịch về sức mạnh ghê gớm cũng như sự sai khiến,
chi phối của nó đối với hồn: “Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói
của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến, chính vì âm u đui mù mà tôi có sức
mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy!”.

131
- Trước cái lí lẽ sắc sảo của xác, hồn trở nên bối rối, từ chỗ phủ nhận quyết liệt, hồn đã
buộc phải thừa nhận sự tồn tại của xác nhưng quy nó gắn với nhiều thứ xấu xa, thấp hèn:
“Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được”.
- Nhận thấy sự thắng thế của mình, xác bắt đầu lấn lướt bằng việc đưa ra dẫn chứng cụ
thể, xác thực về việc hồn Trương Ba đã rung động, bối rối trước sự trẻ đẹp của cô vợ
hàng thịt cùng những thói quen tầm thường, dung tục như xác trước đây: “Tôi chỉ trách
là sao đêm ấy ông lại tự dưng bỏ chạy, hoài của!...Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu
đuôi và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?”
- Bằng chứng không thể chối cãi đó đã làm cho hồn trở nên xấu hổ. Hồn chỉ còn phủ
nhận được một cách yếu ớt bằng cách đổ lỗi cho xác: “Im đi! Đấy là mày chứ, chân tay
mày, hơi thở của mày…” rồi ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn,
trong sạch, thẳng thắn…”.
- Lời ngụy biện yếu ớt của hồn đã làm cho xác thấy nực cười, nó đã chế giễu các “nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn” của hồn bằng hành động tàn bạo: tát thằng con tóe máu
mồm, máu mũi, trong đà thắng thế, xác còn tiếp tục lên giọng khẳng định vai trò, tầm
quan trọng của mình: “Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới…Nhờ có đôi mắt của
tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi”…và nó còn chỉ trích về thói
tật của những kẻ lắm sách, những chữ, đã vịn vào cớ tâm hồn cao quý để bỏ bê, hành hạ
thân xác. Nó đã đưa ra một lý lẽ quan trọng mà hồn không thể chối cãi được: “Mỗi bữa
tôi đòi ăn 8 - 9 bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có
đủ 8 – 9 bát cơm cho tôi ăn chứ!”
- Đến đây, hồn Trương Ba đã bế tắc, tuyệt vọng và thất thế hoàn toàn, chỉ còn đáp lại
bằng thứ ngôn ngữ rời rạc, đứt quãng.
- Lấn át hoàn toàn được hồn bằng sự mạnh mẽ, trâng tráo, sau đó xác đã rất khôn ngoan
khi hạ giọng để dụ dỗ, ve vuốt hồn tham gia vào “trò chơi tâm hồn” vô cùng nguy hiểm:
“Làm xong điều gì xấu ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Hà hà, miễn
là ông vẫn làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm khát của tôi!”.
- Kết thúc màn đối thoại, xác đã đạt được mục đích đó là thuyết phục hồn nhập trở lại làm
một với mình.
=> Từ diễn biến này, kết quả tất yếu của màn đối thoại là hồn đã thua một cách thảm
hại, buộc phải quy phục, buộc phải quay trở lại thân xác anh hàng thịt.
3. Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân
3.1. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với người vợ
- Người vợ không chấp nhận việc chồng mình ngày nào cũng sang nhà hàng thịt để giúp
cô vợ hàng thịt bán hàng, đôi lúc còn bị cái trẻ đẹp của cô vợ hàng thịt làm cho xao
xuyến.
+ Bà đau khổ còn bởi nhận thấy sự thay đổi ở Trương Ba: “Ông đâu còn là ông, đâu còn
là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.

132
+ Tâm trạng đau khổ đó càng trở nên nhức nhối khi đi kèm với nỗi tự ti về bản thân mình
đã già, đã yếu.
-> Người vợ đã giải quyết bi kịch đầy vị tha, bao dung và đức hi sinh là chấp nhận, bỏ đi
nơi khác để Trương Ba được thảnh thơi sung sướng.
3.2. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và cái Gái
- Trương Ba đã nhận thái độ gay gắt cùng sự căm ghét của cái Gái – vốn chỉ là một đứa
trẻ ngây thơ, non nớt. Cái Gái chưa thể hiểu được những uẩn khúc, éo le của cuộc đời.
Hơn nữa, với bản chất hồn nhiên, trong sáng, thánh thiện của trẻ thơ, nó không thể chấp
nhận được sự xấu xa, thô lỗ, đê tiện.
- Cái Gái không ngần ngại gọi Trương Bà là “lão đồ tể”, định danh đôi bàn tay của
Trương Ba là “đôi bàn tay giết lợn”, gọi đôi chân của Trương Ba là “to bè như cái xẻng”.
- Trong cái nhìn của cái Gái, Trương Ba là hiện thân của sự thô lỗ: “bàn tay giết lợn của
ông làm gẫy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quy
mới ươm!”.
- Cái Gái còn nhìn thấy ở Trương Ba sự độc ác, xấu xa khi nó nghĩa ông cố tình lách rách
cái diều của cu Tị -> xua đuổi Trương Ba ra khỏi nhà.
-> Trương Ba đã buộc phải thừa nhận sự thay đổi của mình trong đau đớn, tuyệt vọng.
3.3. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với chị con dâu
- Chị con dâu của Trương Ba là người chín chắn, sâu sắc, điềm đạm và cũng là người
hiểu và thương Trương Ba nhất.
- Cô thấu hiểu “Con biết bây giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm, hơn cả hôm thầy mới từ
nhà người hàng thịt trở về”.
- Nhưng dù có thương và hiểu Trương Ba đến đâu, dù đã cố gắng tế nhị thì cô cũng
không thể phủ nhận được thực tế: “Con cảm thấy, đau đớn thấy, …mỗi ngày thầy một đổi
khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con
cũng không nhận ra thầy nữa…”
- Cô đặt ra cho cha mình câu hỏi đau buốt, nhức nhối: “Làm sao, làm sao giữ được thầy ở
lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”
-> Sau cuộc đối thoại với người con dâu, nỗi đau khổ vốn đã chất chồng trong tâm trạng
Trương Ba từ hai cuộc đối thoại trước đã bị dồn nén để đẩy lên đến đỉnh điểm.
4. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích
- Ngay mở đầu màn đối thoại Trương Ba đã đề xuất nguyện vọng, mong muốn của mình
một cách rõ ràng với Đế Thích: “Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh
hàng thịt được nữa” -> “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn”.

133
+ TB từ chỗ phủ nhận một cách quyết liệt: “Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý
nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!”, từ chỗ cực đoan “Cái bên ngoài là
không đáng kể, chỉ có cái bên trong mới là quan trọng” -> TB nhận thức vô cùng sáng rõ
“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”.
-> Cuộc sống tốt đẹp của người chỉ có thể được tạo nên từ sự hài hòa giữa hai đời sống
của thể xác và tâm hồn.
+ TB đã không còn chấp nhận chung đụng với cái thô lỗ tầm thường, dung tục và để nó
sai khiến mà muốn được trở về sống trọn vẹn với cái lương thiện, trong sáng, tốt đẹp vốn
có.
+ Tuy nhiên, để được sống là mình lại là một điều không hề dễ dàng, nó đòi hỏi Trương
Ba phải chấp nhận từ bỏ trò chơi tâm hồn, nghĩa là không thể làm điều xấu để thỏa mãn
những dục vọng thấp hèn, rồi sau đó lại đổ lỗi cho xác hàng thịt.
-> Được sống là mình thực sự là một đòi hỏi bức thiết và quan trọng.
- Đế Thích bác bỏ đề nghị, yêu cầu của Trương Ba bằng việc đưa ra một hình tượng
mang tính chất phổ biến đó là: không chỉ mình Trương Ba mà rất nhiều người không
được sống là mình, ngay cả những người ở vị trí tối cao, nắm trong tay mọi quyền lực
như Ngọc Hoàng cũng không được sống là mình.
-> Lời nói của Đế Thích đã chỉ ra một bi kịch mang tính nhân loại về việc số đông người
không được sống là mình.
- Lý lẽ mà Đế Thích đưa ra không thể thuyết phục được Trương Ba bởi tất cả đều là để
ngụy biện cho khát vọng được sống của người, còn điều mà Trương Ba quan tâm không
chỉ đơn giản là được sống mà là sống như thế nào.
+ TB: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến
cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống,
nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”.
-> Lòng tự trọng cần phải có trong quá trình sống của mỗi người, điều đó sẽ quyết định
việc người không sống nhờ vào tiền bạc, của cải cũng như danh vị, nhân phẩm của người
khác.
-> Ý nghĩa của sự sống không do sự dài ngắn quyết định mà quan trọng là sống như thế
nào và sống để làm gì.
- Để tiếp tục thuyết phục Trương Ba, Đế Thích đã phân biệt phần hồn trong sáng, cao quý
của Trương Ba với phần hồn tầm thường, thấp kém của anh hàng thịt -> Lý lẽ này cũng
không thể thuyết phục TB -> thà để phần hồn tầm thường của anh hàng thịt hòa hợp với
thân xác thô lỗ, dung tục của anh ta còn hơn con quái vật mang tên hồn Trương Ba – da
hàng thịt.
- Trương Ba đã đi đến hành động dứt khoát quyết liệt: “Nếu ông không giúp tôi, tôi sẽ…
tôi sẽ…nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác
anh hàng thịt cũng mất…” -> tìm đến cái chết để từ bỏ sự tồn tại vô nghĩa của mình.

134
- Trương Ba từ chối cơ hội được sống trong thân xác cu Tị, nhận về mình cái chết để đem
đến sự sống và hạnh phúc cho mọi người.
-> TB đã phục sinh những giá trị tốt đẹp của bản thân, trở nên bất tử trong suy nghĩ của
tất cả những người thân bằng tình cảm nhớ thương, yêu quý.
- Trương Ba chết nhưng một không khí tươi sáng, ấm áp, tràn ngập tiếng cười, niềm vui
và hạnh phúc: “vườn cây rung rinh ánh sáng”, là tiếng đôi trẻ ríu rít chia cho nhau quả na
do chính Trương Ba trồng và những điều tốt đẹp mà Trương Ba để lại vẫn hiện hữu hàng
ngày trong suy nghĩ, tư tưởng của người thân: “Cho nó mọc thành cây mới, ông nội tớ
bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn mãi mãi…”
- Hình ảnh của những đứa trẻ ngây thơ, trong sáng cùng với những mầm non đang nhú
mà LQV dựng lên trong đoạn kết mang đầy ý nghĩa biểu tượng, đó chính là hình ảnh của
một tương lai tươi sáng, của sự hồi sinh, phát triển do chính lòng nhân hậu, đức hi sinh vị
tha cao cả của Trương Ba tạo thành.
* Ý nghĩa:
- Người ta không thể sống bằng bất cứ giá nào, người chỉ thực sự được là mình khi có sự
thống nhất, hòa hợp giữa hoạt động bên ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong.
- Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người không chỉ biết sống vì mình mà còn biết sống,
biết vun đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của những người xung quanh (Hình
tượng người làm vườn chính là đại diện cho những người biết vun xới, chăm lo cho hạnh
phúc của người khác).
5.Đoạn kết:
Trương Ba trả lại xác anh hàng thịt, rồi hóa thân vào vạn vật, cây cỏ trong vườn, để
tồn tại cùng người thân =>Cái thiện đã chiến thắng.

III. TỔNG KẾT:


Qua đoạn trích vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ muốn gửi tới
người đọc thông điệp: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình,
sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực
sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
Con người phải luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại
sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. Đoạn
trích có những đặc sắc về nghệ thuật: Vở kịch được khai thác từ cốt truyện dân gian. Kịch
tính xoay quanh xung đột bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ hành động và ngôn
ngữ nội tâm được diễn tả sống động, giàu triết lí nhân sinh.

135
136
137
138
139

You might also like