Professional Documents
Culture Documents
M NH
M NH
51.2 Lịch sử
1. Việc sử dụng nẹp kim loại để cố định gãy xương được Lane giới thiệu lần đầu tiên
vào năm 1895. Tuy nhiên, ý tưởng này đã bị loại bỏ bỏ do sự ăn mòn.
2. Sau đó, vào năm 1909 Lambotte và vào năm 1912 Sheman giới thiệu một loại nẹp
cố định, nhưng sau đó các thiết kế của họ đã bị bỏ do độ bền không đạt yêu cầu
3. Eggers vào năm 1948 đã phát triển một loại nẹp có cấu trúc yếu dẫn đến sự không
cố định được.
4. Trong phẫu thuật hàm mặt, sự chú ý đến kết hợp xương bắt đầu từ việc điều trị gãy
xương ở hàm dưới mất răng, vì các trường hợp này dễ điều chỉnh hơn.
5. Chìa khóa của việc tiết kiệm tiền bạc và thời gian trong việc điều trị gãy xương dựa
vào hai yếu tố chính: cố định vững chắc hai đầu xương gãy và bất động khu vực
xung quanh. Cách đơn giản nhất để đạt được điều này là áp dụng phương pháp ép
dọc theo trục xương (axial compression). Phương pháp này ban đầu được một bác
sĩ phẫu thuật người Bỉ tên Davis đề xuất vào năm 1994, sau đó được ASIF (Hiệp hội
nghiên cứu về cố định xương) chấp thuận
Theo Davis, việc tạo lực ép giữa các đầu xương gãy là thực sự cần thiết. Ông đã sử
dụng một loại nẹp có tên gọi là coaptens để đạt được mục tiêu này, bằng cách tăng
cường sự vững ổn và làm giảm chuyển động giữa các đầu xương. Phương pháp
lành xương theo kỹ thuật này được gọi là "soudure autogene" (lành xương tự thân),
hiện tại được gọi là lành xương nguyên phát.
6. Năm 1967, vis ép xương (MCS) đã được sử dụng trong phẫu thuật hàm mặt trong
trường hợp đầu tiên phẫu thuật kết hợp xương ở hàm dưới mất răng bị gãy. Nẹp tự
ép self-tightening/tự động được phát triển bởi Luhr vào năm 1968. Sau đó, nẹp
dynamic được đề xuất trong việc phẫu thuật cố định cách xương dài và sau đó dùng
để cố định xương hàm dưới.
Bảng: Lịch sử phát triển các phương pháp điều trị gãy xương.
1881: Glimer: ở mỗi đầu xương gãy sử dụng hai thanh cứng
1886 Hansmann Dùng nẹp thu hồi được
1945 Christiansen ở gãy xương hàm dưới, dùng nẹp tantalum
Lịch sử phát triển của các phương pháp cố định
Lịch sử phát triển của các phương pháp điều trị
Lành xương nguyên phát (Lành xương tiếp xúc và lành xương gián đoạn)
Quá trình liền xương mà không hình thành callus gọi là lành xương nguyên phát. Khi có sự
tiếp xúc trực tiếp giữa bề mặt xương vỏ, liền xương tiếp xúc diễn ra, Hủy cốt bào mở rộng
các ống havers ở hai đầu xương gãy và di chuyển chúng về phía nhau. Sự kết nối giữa lớp
xương vỏ bắt đầu lúc 8 tuần và hoàn thành lúc 16 tuần. Ở trường hợp liền gián đoạn cũng
xảy ra quá trình liền xương nguyên phát, khe hở rộng 100μm có thể được lấp đầu bằng
xương đặc trưởng thành
51.5.3 Néo ép
Nếu mà phần thân của xương gặp chịu tải lực ở hai đầu, qua một tâm uốn (trục), các lực
căng được tạo ra, lớn nhất ở bên đối diện với trục, hiện tượng gập góc xảy ra. Tuy nhiên,
nếu mà vùng này chịu được lực kéo căng, như một cái nẹp, được cố định vào vị trí chịu lực
căng, thì sẽ tạo ra một lực ép tương đường đi qua đường gãy. Điều này chính là nguyên lý
của néo ép
Liền xương: trong RIF, không có sự hình thành cal trong quá trình liền xương. Các mảnh
xương liền nhờ quá trình tái tạo Havers. Quá trình liền xương nguyên phát/trực tiếp này đòi
hỏi sự cố kết hợp xương một cách tinh tế giữa các mảnh gãy, tức là đạt được khoảng hở tối
thiểu trong cố định hoàn toàn. Các ví dụ về kết hợp xương hoàn toàn trong gãy xương hàm
dưới được biểu diễn ở Hình
51.6.3 Kết hợp xương bên trong không cố định hoàn toàn:
Đây là một loại kết hợp xương, tuy nhiên không đủ vững chắc để ngăn chặn toàn bộ các di
động giữa các mảnh xương. Do đó, sự di động giữa các mảnh xương là yếu tố phân biệt
giữa kết hợp xương cố định hoàn toàn hay không. Nếu có bất kỳ sự di động nào giữa các
mảnh xương trong lúc vận động thì được gọi là kết hợp xương không cố định hoàn toàn.
Buộc xương bằng chỉ thép trong trường hợp gãy hàm dưới là một ví dụ về kết hợp xương
không cố định hoàn toàn. Chỉ thép không thể chống lại các lực làm di lệch như lực xoắn
hoặc lực ngang, vì vậy nên cần thêm các phương pháp kết hợp xương khác như MFF(buộc
cố định liên hàm)
Liền xương: Quá trình liền xương xảy ra dưới điều kiện di lệch gọi là lành xương thứ phát.
Trong trường hợp này. có sự tái tạo xương bề mặt (periosteal) có hình thành mô sẹo
(callus), tiếp theo đó là sự tái hấp thu phần viền của mảnh xương và mô ở các giai đoạn
khác nhau từ lúc hình thành các mô sợi đến lúc liền xương.
Định nghĩa Kết hợp xương bên trong Kết hợp xương có khả năng
không đủ ổn định để chịu chịu chịu được toàn bộ tải
các tải lực lực trong lúc hàm dưới vận
động chức năng
Vật liệu được sử dụng Hệ thống nẹp 2,0mm mini Nẹp tái tạo xương đường
bằng thép không gỉ hoặc kính 2,3 mm 2,4 mm 2,7mm
titanium bằng thép không rỉ hoặc
titanium
Biến chứng Nếu xương xung quanh Thất bại do lỏng vis hoặc
không chịu nổi tải lực thì dễ gãy nẹp
bị vỡ nát