You are on page 1of 35

GÃY PHỨC HỢP

HÀM - GÒ MÁ
B S CKII D OÃN B Á B ÌN H
I. MỤC TIÊU

1. Chẩn đoán đúng gãy phức hợp hàm – gò má


2. Trình bày được các bước và phương pháp điều trị gãy phức
hợp hàm – gò má.
II. GIẢI PHẪU

1. Đặc điểm xương gò má:


• Xương gò má là một xương của khối xương mặt, là một
xương dày và khoẻ hình 4 cạnh tiếp khớp với 4 xương:
xương trán, cánh lớn xương bướm, xương thái dương, xương
hàm trên bằng 4 khớp: trán gò má, bướm gò má, thái dương
gò má.
• Xương gò má có ba mặt, bốn bờ và ba góc.
GÃY XƯƠNG GÒ MÁ – CUNG TIẾP

Giải phẫu xương gò má – cung tiếp (cung gò má)


Giải phẫu xương gò má

4 mỏm (process) của xương gò má:


- Mỏm trán
- Mỏm thái dương
- Mỏm hàm trên
- Mỏm bướm
1. Đặc điểm xương gò má:
1.1 Mặt
• Mặt ngoài lồi, còn gọi là mặt gò má, có vài ba cơ bám da mặt
dính vào.
• Mặt sau lõm, còn gọi là mặt thái dương, liên quan với hố thái
dương và hố tiếp.
• Mặt trong, còn gọi là mặt ổ mắt, là phần trước thành bên
ngoài của mắt.
1. Đặc điểm xương gò má:
1.2 Bờ
• Bờ trước và trên là một phần của vành ổ mắt.
• Bờ trước và dưới tiếp khớp với xương hàm trên.
• Bờ sau và trên, ở dưới và ở phía trước hố thái dương. Có hai
mảnh: mảnh ngang và mảnh thẳng. Mảnh này có mỏm viền.
• Bờ sau và dưới liên tiếp với mỏm tiếp của xương thái dương.
1. Đặc điểm xương gò má:
1.3 Góc
• Góc trên là mỏm trán bướm tiếp khớp với mỏm ổ mắt ngoài
của xương trán.
• Góc dưới và góc trước tiếp khớp cùng với bờ trước và dưới
xương hàm trên.
• Góc sau là mỏm tiếp, tiếp khớp với mỏm tiếp xương .
1. Đặc điểm xương gò má:
1.4 Hình thể trong
• Trong xương, có một ống gò má hình chữ nhân với ba lỗ để
cho dây thần kinh thái dương gò má đi qua.
• Lỗ vào ở trong ổ mắt, trên mảnh ngang của xương, cạnh bờ
trước và trên.
• Hai lỗ ra, một ở mặt ngoài (phía má) và một ở mặt trong
(phía hố thái dương).
2. Các cơ bám vào xương gò má
Góp phần gây di lệch xương gò má khi nó bị gãy.
• Cơ nâng môi trên: nguyên uỷ từ bờ dưới ổ mắt đến bám tận
vào cánh mũi, môi trên.
• Cơ cắn: Nguyên uỷ từ mỏm tiếp đến bám tận ở mặt ngoài
góc hàm dưới. Cơ cắn gồm hai bó nông và sâu.
3. Liên quan của xương gò má với các bộ phận giải phẫu
lân cận

• XGM góp phần tạo nên sàn và thành ngoài ổ mắt, nên mọi thay đổi về vị trí và
hình thể của XGM đều có thể ảnh hưởng đến hoạt động chức năng của mắt.
• Mỏm tiếp của XGM có cơ cắn bám và tiếp giáp ở phía trong với cơ thái dương.
Nên khi XGM gãy thì dễ bị di lệch thứ phát do hoạt động của cơ cắn, và khi mỏm
tiếp gãy lún vào bên trong thì thường làm há miệng hạn chế.
• Cơ thái dương: Nguyên uỷ từ sàn hố thái dương và mạc thái dương đi luồn ở mặt
trong cung tiếp đến bám ở bờ trước mỏm quạ và bờ trước của nghành lên xương
hàm dưới. Vì vậy khi cung tiếp bị gãy lún vào trong thì sẽ chèn ép nhóm cơ này
làm há miệng hạ chế.
3. Liên quan của xương gò má với các bộ phận giải phẫu
lân cận

• Ống dưới ổ mắt: nằm trong xương hàm trên, gần với mỏm gò má, nên khi
gãy xương gò má thì nó dễ bị vỡ, gián đoạn gây chèn ép dây thần kinh hàm
trên nằm ở bên trong ống. Nếu không được điều trị thì dễ để lại di chứng thần
kinh sau này.
• Dây thần kinh mặt: Thoát ra khỏi sọ ở lỗ trâm chũm, đi giữa hai thuỳ của
tuyến mang tai sau đó toả ra các nhánh tận ở nông. Nhánh thái dương, gò má
và má đi gần xương gò má gây cản trở cho phẫu thuật xương gò má.
3. Liên quan của xương gò má với các bộ phận giải phẫu
lân cận

• Xoang hàm: nằm trong xương hàm trên, vì thành xoang mỏng nên nó thường
bị vỡ khi có gãy xương gò má, gây chảy máu trong xoang và đôi khi thoát vị
các thành phần xung quanh vào trong xoang, gây khó khăn cho công việc
điều trị.
• Nhãn cầu: được cấu tạo bởi 3 lớp vỏ. Xung quanh nhãn cầu có các cơ vận
nhãn, trong đó có hai cơ dễ bị ảnh hưởng khi có gãy xương gò má đó là cơ
thẳng dưới và cơ chéo dưới. Hai cơ này dễ bị tụt kẹt dẫn đến giới hạn vận
động nhãn cầu.
4. Vai trò của cấu trúc giải phẫu chịu sang chấn
• Lực sang chấn vào vùng mặt thường là lực hướng tâm hoặc là lực tiếp tuyến.
• Lực này sẽ làm thủng hoặc là dập, tác dụng lên khối xương mặt có cấu trúc không đồng nhất.
• Tầng mặt giữa là tổ chức xương nang, thành của những nang này hoặc là mảnh hoặc là thành
những lá xương (xoang trán, xoang hàm trên, mê đạo sàng, vách mũi), hoặc là những tổ chức
xương dày cứng.
• Phần tổ chức xương dày cứng tạo nên cấu trúc giải phẫu chịu lực, những cấu trúc này thường nằm
trên đường giữa, đó là: Trán, mũi, vùng răng cửa trên, và ở phía bên đó là thân xương gò má.
• Những cấu trúc chịu sang chấn này hoặc bị vỡ ngay lập tức dưới tác dụng của lực tác động, hoặc
dung nạp và truyền lực tác động đến các điểm tiếp khớp làm gãy các điểm tiếp khớp. Nếu lực sang
chấn quá lớn vượt quá khả năng chịu đựng của những cấu trúc chịu lực này thì nó sẽ làm tách rời
các khối xương mặt.
III. CƠ CHẾ CHẤN THƯƠNG
• Do chấn thương trực tiếp vào thân xương hay vào điểm tiếp khớp của nó với
xương khác.
• Thường di lệch theo 2 trục: một trục đứng đi qua khớp trán – gò má, một trục
ngang đi từ cung Zygoma đến lỗ dưới ổ mắt.
• Chấn thương trực tiếp vào thân xương gò má: có thể gãy nhưng không làm di lệch,
hoặc có thể làm lún hẳn xương gò má vào xoang - ổ mắt và làm tách rời các điểm
tiếp khớp của xương gò má.
• Chấn thương ở phía trước của trục đứng: sẽ làm xương gò má xoay gần và lún vào
trong xoang, gián đoạn bờ dưới ổ mắt, mỏm tiếp tách rời khỏi xương thái dương và
nhô lên.
III. CƠ CHẾ CHẤN THƯƠNG
• Chấn thương vào phía sau trục đứng: làm xương gò má xoay về phía xa, lún vào hố thái
dương, gián đoạn bờ dưới ổ mắt, mất độ lồi của của xương gò má
• Chấn thương vào phía trên của trục ngang: làm mỏm trán của xương gò má xoay lún vào
trong, tách khỏi khớp thái dương gò má, thân xương lún vào trong, mất liên tục bờ dưới ổ
mắt, và thường thì xương bị gãy làm nhiều mảnh và hơi bị xệ xuống.
• Chấn thương vào phía dưới của trục ngang, góc dưới của xương gò má: làm góc dưới
xương gò má xoay vào trong, lõm hẳn vào trong xoang, góc trên tách rời hoàn toàn khỏi
khớp thái dương gò má, xương gò má thể lún vào trong, làm mất độ lồi của xương gò má.
• Tuỳ theo vị trí của chấn thương mà các di lệch như trên có thể tách rời hay kết hợp với nhau,
tuỳ từng trường hợp.
IV. PHÂN LOẠI
Phân loại theo Knight J.S. và North J.F.
Là cách phân loại dễ nhớ nên hay được sử dụng hiện nay, có 6 loại gãy xương gò má:
• Loại 1: Gãy xương gò má có di lệch nhưng không đáng kể.
• Loại 2: Gãy cung Zygoma .
• Loại 3: Gãy xương gò má di lệch vào trong (lún) xuống dưới nhưng không bị xoay trục.
• Loại 4: Gãy xương gò má di lệch xoay vào trong. Có hai biến thể:
+ Loại 4A: mấu gò má bật ra ngoài.
+ Loại 4B: mỏm trán của xương gò má xoay vào trong.
• Loại 5: Gãy xương gò má di lệch xoay ra ngoài. Có hai biến thể:
+ Loại 5A: Đầu gãy ở bờ dưới ổ mắt di lệch lồi lên trên.
+ Loại 5B: Mỏm trán của xương gò má xoay ra ngoài.
• Loại 6: Gãy phức tạp (trên 3 mảnh).
IV. PHÂN LOẠI
Phân loại của Larson O.D. và Thomson M.
Là cách phân loại giúp ích nhiều trong việc định hướng điều trị, 4 loại gãy xương gò má:
• Loại 1: gãy không di lệch.
• Loại 2: khớp trán gò má không bị tách rời, xương gò má bị tụt xuống, phần ngoài của sàn ổ mắt bị
giãn ra >> Có thể chỉ cần điều trị bằng nắn chỉnh mà không cần kết hợp xương.
• Loại 3A: XGM vẫn còn dính với XHT ở khớp gò má hàm trên, nhưng bị tách rời hoàn toàn khỏi
xương trán ở khớp trán - gò má, bờ ngoài ổ mắt bị lún vào trong, thường do lực tác động từ trên
xuống dưới, góc mắt ngoài bị xệ xuống dưới do mấu ổ mắt ngoài di lệch xuống dưới, sờ dọc theo bờ
ngoài ổ mắt thấy gián đoạn >> Nắn chỉnh và kết hợp xương.
• Loại 3B: khác với loại 3A là bờ ngoài ổ mắt bị đẩy lên trên và ra sau, làm mất độ vồng của gò má,
xuất hiện một điểm gồ lên ở bờ ngoài ổ mắt do hai đầu gãy lồng vào nhau. Do XGM bị đẩy lên cao
nên nó sẽ không chèn vào mỏm vẹt, không gây đau khi há ngậm miệng >> Nắn chỉnh và KHX.

• Loại 4: XGM bị tách rời hoàn toàn, bờ dưới và bờ ngoài ổ mắt bị xoay xuống dưới, sàn ổ mắt mất
liên tục, góc mắt ngoài có thể bị sa xuống, bệnh nhân thường bị song thị và lõm mắt.
V. TRIỆU CHỨNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA GÃY
XƯƠNG ĐẾN CÁC CƠ QUAN LÂN CẬN
• Sa mi mắt dưới: Do bờ dưới ổ mắt sa xuống dưới và lún vào trong.
• Chảy máu mũi và tràn khí trong ổ mắt: Do vỡ xoang hàm.
• Mất liên tục và đau chói ở cung zygoma, bờ dưới ổ mắt.
• Đau chói, tụ máu dưới niêm mạc ở ngách tiền đình hàm trên.
• Tràn khí dưới da vùng má và mi mắt dưới: Dấu lép bép khi khám, có thể lan đến cổ - ngực gây
tràn khí trung thất.
• Há miệng hạn chế: Mỏm vẹt vướng vào XGM gãy hoặc do sự co thắt phản ứng của cơ thái
dương và cơ cắn.
• Không sai khớp cắn, nhưng há miệng có thể lệch về bên gãy.
V. TRIỆU CHỨNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA GÃY
XƯƠNG ĐẾN CÁC CƠ QUAN LÂN CẬN
• Lõm mắt, chảy máu dưới kết mạc
• Lồi mắt: Do chảy máu sau nhãn cầu, đẩy nhãn cầu ra trước, hạn chế cử động nhãn cầu > gây
tổn thương giác mạc, có thể dẫn đến mù.
• Giảm hoặc mất cảm giác da do TK dưới ổ mắt chi phối (má, cánh mũi, nướu răng trước).
• Song thị: 20 – 30% bị song thị ngay sau chấn thương.
• Lún sàn ổ mắt.
• Thoát vị tuyến lệ, kẹt vào giữa hai đầu gãy.
VI. ĐIỀU TRỊ

• Mục đích: nắn chỉnh biến dạng xương, phục hồi thẩm mỹ cũng như chức
năng.
• Phẫu thuật nên tiến hành ở ngày thứ 4 – 8 sau chấn thương (hết phù nề),
tuy nhiên không nên để quá lâu vì XGM gãy cal xơ nhanh, trẻ em cần
phẫu thuật sớm hơn.
• Điều trị bao gồm 2 bước: Nắn chỉnh và cố định.
VI. ĐIỀU TRỊ
1. Nắn chỉnh:
• Có thể đưa một sonde sắt xuyên qua thành mũi xoang, đi vào trong xoang để nắn xương gò má
• Đi đường trong miệng, qua ngách tiền đình dùng cây bóc tách để nắn.
• Qua một đường rạch ở vùng thái dương, trên đường chân tóc khoảng 5-6 mm, luồn một cây
bóc tách xuống để nắn xương gò má gãy.
• Hiện nay thường sử dụng móc loại lớn Ginester xuyên qua da, luồn dưới thân xương, sau đó
kéo nắn.
• Gần đây một số tác giả đề nghị sử dụng nội soi để nắn chỉnh và kết hợp xương gãy.
• Tuỳ theo loại di lệch mà có thể dùng một hay nhiều phương pháp phối hợp nhau để nắn xương
gãy, áp dụng các hướng kéo nắn khác nhau, khi nắn thì phải kiểm soát được lực kéo, tránh kéo
không kiểm soát làm bật mảnh xương gò má ra ngoài.
NẮN CHỈNH KÍN GÃY CUNG TIẾP
NẮN CHỈNH HỞ GÃY CUNG TIẾP
NẮN CHỈNH HỞ GÃY CUNG TIẾP
NẮN CHỈNH HỞ GÃY XƯƠNG GÒ MÁ DI LỆCH
NẮN CHỈNH GÃY XƯƠNG GÒ MÁ DI LỆCH
VI. ĐIỀU TRỊ
2. Cố định:
• Trường hợp gãy đơn giản, sau khi nắn chỉnh các đầu mảnh gãy cài chắc vào nhau thì có thể
không cần kết hợp xương.
• Cố định xương gò má trong vòng 3 tuần để xương có thể liền vững.
• Sử dụng Mèche kháng sinh: nhét đầy xoang hàm để cố định, và nó được lấy ra ở ngày thứ 10-
11. Đây là một phương pháp đơn giản, dễ thực hiện. Nhưng có nhược điểm là dễ gây nhiễm
trùng và có thể có di lệch thứ phát sau khi rút Mèche ra.
• Đặt một Sonde Foley trong xoang và bơm lên để đỡ xương gò má: Franchebois (1962).
Phương pháp này càng hiệu quả nếu ta kết hợp xương ở khớp trán - gò má. Tuy nhiên nhược
điểm là không đảm cố định vững, và dễ có di lệch thứ phát sau khi rút Sonde ngày thứ 7-10.
Ngoài ra việc mang một sonde Foley trong miệng thì thường gây khó chịu cho bệnh nhân.
VI. ĐIỀU TRỊ
2. Cố định:
• Kết hợp xương bằng chỉ thép: được Adams W.M. đề nghị từ 1942, được nhiều tác giả chấp
nhận và sử dụng cho đến ngày nay. Đây là một phương pháp tương đối hiệu quả, rẻ tiền,
nhưng nó có nhược điểm là không đảm bảo cố định vững mảnh xương gãy ngay cả khi cố định
ở cả 3 điểm (trán-gò má, bờ dưới ổ mắt, trụ gò má - hàm trên). Ngoài ra, phải cố định ở nhiều
điểm nên phải đi vào nhiều đường, ảnh hưởng đến thẩm mỹ.
• Cố định xương bằng nẹp vít: được Duker báo cáo từ năm 1972. Đây tỏ ra là một phương pháp
có nhiều ưu điểm, đảm bảo cố định vững mảnh gãy, phục hồi cấu trúc giải phẫu, dễ thực hiện,
nhưng có nhược điểm là tốn kém.
VI. ĐIỀU TRỊ
2. Cố định:
• Cố định xương gò má gãy bằng đinh Kischner: được Samuels H.S. và Oatis G.W. báo cáo từ
năm 1970 sau đó được Brown J. và Barnard D. (1983) thực hiện thường qui, tác giả đề nghị
đóng một đinh kischner cỡ lớn, dài xuyên từ xương gò má bên lành sang bên gãy để cố định
xương gò má. Phương pháp này có ưu điểm là rẻ tiền, thời gian phẫu thuật nhanh, thời gian
lưu trú của bệnh nhân ngắn và cố định tương đối vững xương gãy.
• Cố định bằng khí cụ ngoài: hiện nay ít được sử dụng.
KẾT HỢP XƯƠNG GÃY XƯƠNG GÒ MÁ CUNG TIẾP
KẾT HỢP XƯƠNG GÃY XƯƠNG GÒ MÁ CUNG TIẾP
KẾT HỢP XƯƠNG GÃY XƯƠNG GÒ MÁ CUNG TIẾP
VII. DI CHỨNG:
Nếu điều trị không tốt thì có thể để lại các di chứng về thẩm mỹ và chức năng như:
• Xẹp gò má.
• Lõm mắt.
• Lạc chỗ mi mắt ngoài.
• Song thị
• Mất cảm giác ở vùng dây thần kinh dưới ổ mắt chi phối.
• Viêm xoang hàm tái diễn.
Click icon to add picture

Add a Slide Title


-5

You might also like