You are on page 1of 9

Cân nhắc lại về ferrule – TÓM LƯỢC

• Một đánh giá cập nhật về y văn liên quan

cách tiếp cận mới cho tình đến hiệu hứng ferrule tập trung đặc biệt

THỰC TIỄN
vào những yếu tố ít được để ý của hiệu
ứng này.

thế tiến thoái lưỡng nan cũ


• Đưa ra phân loại dựa trên sự đánh giá
rủi ro của các tình trạng lâm sàng
khác nhau ở các răng bị mất chất.
• Cung cấp hướng dẫn lâm sàng cập
nhật về cách tiếp cận để phục hồi các
A. Jotkowitz1 and N. Samet2 răng bị mất chất trầm trọng.

VERIFIABLE CPD PAPER

‘Hiệu ứng ferrule’ là một khái niệm lâu đời, được chấp thuận trong nha khoa, nó là nguyên tắc cơ bản cho phục hồi ở các
răng mất chất trầm trọng. Một bài tổng quan y văn dựa vào tìm kiếm trên PubMed được thực hiện để xem xét đến những
thành phần khác nhau của hiệu ứng ferrule, tập trung đặc biệt vào một số khía cạnh chưa được khám phá, cái mà sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả của ferrule khi phục hồi những răng mất chất nghiêm trọng. Chúng bao gồm chiều rộng của ferrule,
ảnh hưởng của ferrule bán phần, sự ảnh hưởng của cả hai, loại răng được phục hồi và sự hiện diện của lực sang bên,
cũng như nguyên tắc chiều cao ferrule là 2mm. Y văn được đối chiếu và phân loại dựa trên sự đánh giá rủi ro từ những
bằng chứng có sẵn. Hệ thống phân loại này phân chia răng dựa vào hiệu quả của hiệu ứng ferrule có thể đạt được dựa
trên lượng mô răng lành mạnh còn lại. Hơn nữa, có thể đánh giá nguy cơ thất bại, nên bác sĩ và bệnh nhân có thể hiểu
rõ hơn về tiên lượng cho một răng cụ thể. Các kiến nghị lâm sàng đã được đưa ra và giới thiệu như những hướng dẫn
để cải thiện khả năng tiên lượng và kết quả điều trị khi phục hồi những răng khó tiên lượng. Bằng chứng liên quan đến
phục hồi những răng đã điều trị nội nha có sự mất cấu trúc lớn vẫn còn thiếu. Bài báo này có mục tiêu nhằm cân nhắc lại
ferrule bằng cách xem xét đến những khía cạnh khác của khái niệm đã được chấp nhận này, và đề xuất sự thay đổi
trong cách suy nghĩ và ứng dụng của nó.

GIỚI THIỆU trên có thể bị đơn giản hoá quá mức, và do


Khi một răng bị mất mô răng nhiều đáng nghiêm trọng thường trùng khớp với tài đó, một số nguyên tắc nền tảng cần được
kể, những lựa chọn phục hình có thể bao liệu nói về phục hình trên những răng đã xem xét và nghiên cứu lại. Bởi vì khó có
gồm phục hồi răng với những quy trình điều trị nội nha, tuy nhiên, quan niệm thể định lượng được lượng mô răng còn
nhiều bước hoặc nhổ răng. Khi phục hồi được trình bày trong bài viết này cũng có lại trên lâm sàng, các hướng dẫn nhằm
những trường hợp này, khả năng của phục thể áp dụng cho những răng gãy vỡ lớn tăng khả năng đánh giá chính xác tình
hình có thể làm vững chắc mô răng lành còn sống tuỷ. trạng của một răng nhất định là điều quan
mạnh là chìa khoá cho thành công lâu Khó khăn trong việc phục hồi nhũng trọng hàng đầu.
dài.1 Tuy nhiên, bác sĩ thường gặp tình thế răng đã điều trị tuỷ là sự liên hệ trực tiếp Sự kết hợp của quan niệm ‘ferrule’
tiến thoái lưỡng nan trên lâm sàng, khi có đến việc mất mô răng rộng thường gặp ở hay ‘hiệu ứng ferrule’ đã được chấp nhận
chỉ định một giải pháp tiên lượng được, những răng này.2 Hơn nữa, người ta đã như là một trong những nền tảng của phục
và việc giữ lại răng có thể dẫn đến tổn chứng minh đươc rằng độ bền của những hình cho răng đã điều trị nội nha. Nguồn
thương mô nha chu nâng đỡ, biến chứng răng đã điều trị tuỷ liên quan trục tiếp đến gốc của thuật ngữ này được cho rằng bắt
về thẩm mỹ và đôi khi ảnh hưởng đến lượng mô răng lành mạnh còn lại.3-5 nguồn từ những thuật ngữ tiếng Latin
răng kế cận Thông thường, những răng đã điều trị ‘ferrum’- sắt, và viriola’-vòng tay, cho nên
Thông thường, tài liệu bàn luận về nội nha và bị mất lượng cấu trúc răng ferrule là một dải vòng kim loại đúc bao
phục hình trên những răng bị hư hại đáng kể sẽ được điều trị bằng mão toàn quanh bề mặt thân răng. Quy tắc được
phần.6 Thông thường những điều trị bổ thiết lập là một ferrule cao 1.5-2 mm ngay
1*Instructor sung như chốt và cùi giả, và/hoặc phẫu trên đường hoàn tất sẽ tăng khả năng tồn
in Restorative Dentistry, Department of
Restorative Dentistry and Biomaterials Science, thuật làm dài thân răng có thể được chỉ tại lâu dài của một răng đã điều trị nội nha
Harvard School of Dental Medicine, 188 Longwood Ave,
Boston, MA 02115, USA; 2Assistant Professor of định. Các điều trị trên thường được với chốt và cùi .8-19 Phục hình đúc bao
Restorative Dentistry, Department of Restorative khuyến khích mặc dù người ta biết rằng sự quanh các thành răng song song còn lại
Dentistry and Bio-materials Science, Harvard School of
Dental Medicine, 188 Longwood Ave, Boston, MA kết hợp giữa những quy trình trên sẽ làm bằng vòng kim loại do đó ‘gia cố’ răng,
02115, USA *Correspondence to: Dr Anna Jotkowitz mất thêm mô răng lành mạnh, do đó có cung cấp khả năng chống bung sút và
Email: anna_jotkowitz@hsdm.harvard.edu
thể gây tổn hại thêm cho răng.7 Một số ngăn ngừa gãy vỡ.
Refereed Paper
hướng dẫn lâm sàng được chấp thuận hiện Một điều cần được làm rõ đó là thuật
Accepted 9 April 2010
DOI: 10.1038/sj.bdj.2010.580 nay về cách tiếp cận với những răng như ngữ ferrule thường bị hiểu sai. Nó thường
©British Dental Journal 2010; 209: 25–33

BRITISH DENTAL JOURNAL VOLUME 209 NO. 1 JUL 10 2010

© 2010 Macmillan Publishers Limited. All rights reserved


PHẦN 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
được sử dụng như là thể hiện cho lượng dày của men răng thành ngoài.
ngà răng lành mạnh còn lại trên đường Y văn nghiên cứu nhiều khía cạnh liên Trên lâm sàng, người ta thường chấp
hoàn tất. Thực chất ‘ferrule’ không phải là quan đến cả chất lượng và số lượng của nhận rằng các thành được coi là ‘quá
lượng mô răng còn lại mà là sự gia cố của cấu trúc răng còn lại sẽ được phục hình, mỏng’ khi chúng mỏng hơn 1mm, như
mão toàn phần trên mô răng sẽ tạo hiệu và sự gia cố của mão răng trên những cấu vậy, chiều cao tối thiểu của ferrule chỉ có
ứng ferule, tức là sự bảo vệ cấu trúc răng trúc răng này. Bốn yếu tố trực tiếp (a-d) giá trị khi ngà răng còn lại dày ít nhất 1
còn lại trước gãy vỡ.20 Có nhiều thiết kế ảnh hưởng đến ferrule đã được đánh giá, mm.35-37 Tác giả nhận thấy chưa có bài
ferrule đã được đề xuất nhưng hiện tại có cũng như hai yếu tố gián tiếp (e-f) có thể viết nào xem xét đến ảnh hưởng của độ
rất ít nghiên cứu ủng hộ thiết kế này hơn ảnh hưởng đến chức năng của ferrule: dày ngà răng khi nó nhỏ hơn 1mm với vai
thiết kế kia.10 Hầu hết các nghiên cứu đều a) Chiều cao ferrule trò là một phần của ferrule.
bàn luận về chiều cao cần thiết của ferrule, b) Độ rộng ferrule Tjan và Whang38 đã nghiên cứu bốn
tuy nhiên, các đặc điểm thiết kế khác như c) Số lượng thành và vị trí của ferrule nhóm độ dày khác nhau: 1 mm, 1 mm vát
độ dày ngà răng, vị trí của những thành d) Loại răng và sự hiện diện của lực 60° , 2 mm và 3 mm của ngà răng còn lại
ngà răng còn lại, và lực tải mà phục hình sang bên mặt ngoài. Không có khác biệt nào đáng
phải chịu chưa được xem xét. e) Loại chốt kể giữa các nhóm ngoài việc hai nhóm có
Chốt thường được sử dụng để lưu giữ f) Loại vật liệu cùi độ dày ngà răng 1mm có vẻ như thất bại
cùi ở những răng có sự mất chất nhiều ở bởi vì gãy vỡ hơn là do thất bại của
thân răng.21 Tuy nhiên, sử dụng chúng có
a) Chiều cao ferrule cement. Năm 1990, Similarly Sorenson và
thể tăng nguy cơ gãy chân răng do lực ép Hầu hết các tài liệu cho thấy tầm quan Engleman10 dường như đã phủ nhận tầm
quá lớn trong quá trình đặt chốt hoặc do trọng của việc có đủ chiều cao của ngà quan trọng của độ dày ngà răng. Tuy
những vận động sang bên của chốt bên răng sẽ được bao quanh bởi mão răng. nhiên, bài viết của họ nghiên cứu đến độ
trong chân răng, vì vậy trớ trêu thay làm Ferrule với chiều cao 1mm sẽ làm tăng dày của ngà răng ở đường hoàn tất khi sử
tăng nguy cơ gãy chân răng22,23 và thất gấp đôi khả năng chống gãy vỡ khi so dụng những thiết kế ferrule vát ngược
bại trong điều trị.24 Do đó, việc sử dụng sánh với những răng không có ferrule, và khác nhau, mà không phải là độ dày của
đúng thiết kế ferrule có vai trò đặc biệt nó được xem là chiều cao ferrule tối thiểu ngà răng. Độ dày phần than răng phía trên
quan trọng trong phục hồi răng với chốt cần thiết.10 Những nghiên cứu khác cho đường hoàn tất mão răng được cho rằng
và cùi.4 thấy lợi ích tối đa đạt được khi có 1.5-2 có tầm quan trọng trong việc đề kháng gãy
Do việc đặt đường hoàn tất sâu đáng mm cấu trúc răng theo chiều đứng.9,19,26,28 vỡ của răng được bọc mão.
kể dưới nướu không được khuyến khích Một số tác giả đề xuất rằng mão răng nên Năm 1990 Joseph và Ramachandran37
vì xâm phạm khoảng sinh học, yêu cầu kéo tới ít nhất 2 mm dưới tiếp giáp răng- nghiên cứu về hiệu quả của sự kết hợp
của một ferrule hoàn hảo có thể dẫn đến cùi giả để đảm bảo hiệu ứng ferrule,13,29 một vòng vùng cổ răng vào việc sửa soạn
sự kết hợp của những điều trị như là làm hoặc thậm chí 3 mm chiều cao nhằm cung với chiều dày ngà răng khác nhau. Các tác
dài thân răng và/hoặc làm trồi răng bằng cấp thêm khả năng kháng gãy vỡ.15 Điều giả kết luận rằng men răng dày hơn 2mm
chỉnh nha.25-27 Rõ ràng, nó lại đưa đến có vẻ rõ ràng là chiều cao của cấu trúc tăng khả năng chống gãy vỡ, tuy nhiên, sự
tình huống khó xử đó là phẫu thuật làm răng còn lại trên đường hoàn tất của phục hiện diện của một vòng vùng cổ răng
dài thân răng có thể đưa đến tỉ lệ thân hình càng lớn, khả năng đề kháng gãy vỡ không ảnh hưởng đến ngưỡng thất bại.
chân răng tệ hơn, ảnh hưởng thẩm mỹ, càng cao.30 Nhìn chung, không có sự đồng thuận nào
mất gai nướu và có nguy cơ ảnh hưởng về những thiết kế ferrule vát ngược, hay
b) Độ rộng ferrule sự kết hợp một vòng vùng cổ răng và do
đến cấu trúc nâng đỡ của các răng bên
cạnh. Can thiệp chỉnh nha có thể giải Mặc dù có sự nhất quán ở y văn ủng hộ đó những thiết kế này không được chấp
quyết một số những nguy cơ trên, tuy quy tắc 2 mm chiều cao, một số câu hỏi nhận rộng rãi.
nhiên, tỉ lệ thân chân răng có thể vẫn bị vẫn được đặt ra về tầm quan trọng của độ Năm 2000 Gegauff 39 thực hiện một
ảnh hưởng và nó làm tăng thêm đáng kể dày thành trục còn lại của ngà răng và vai nghiên cứu trong phòng thí nghiệm để
thời gian cũng như chi phí của cả quá trò của nó trong ngăn chặn gãy vỡ kiểm tra xem liệu việc làm dài thân răng ở
trình điều trị, vì vậy không khả thi trong răng.10,29 Một số nghiên cứu chỉ ra rằng các răng tiền cối đã bị loại bỏ phần thân
nhiều trường hợp. Do đó, tác giả nhận lượng mô răng còn lại theo thành trục là răng để đạt được chiều cao ferrule chấp
thấy rằng cần tìm thêm những thông số yếu tố quan trọng trong đề kháng gãy nhận được có làm tăng khả năng kháng
của hiệu ứng ferrule trong y văn. vỡ,31-33 trong khi đó một số nghiên cứu gãy vỡ của những răng này không. Tác giả
Bài viết này có ba mục tiêu: 1) Xem khác cho rằng chiều rộng của sửa soạn bờ kết luận rằng nó không làm tăng tính
xét y văn liên quan đến hiệu ứng ferrule; vai và đường hoàn tất mão răng không kháng gãy vỡ ở những răng này. Một câu
2) Phân loại những biểu hiện lâm sàng phải là yếu tố quan trọng.34 Tuy nhiên, hỏi được đặt ra bởi Hinkfuss và Wilson, 40
khác nhau của răng mất chất; và 3) Đề chủ đề này cần được tìm hiểu nhiều hơn, rằng liệu ferrule không có hiệu quả trong
xuất những hướng dẫn lâm sàng để thực đặc biệt là khi nhu cầu thẩm mỹ thường nghiên cứu này có phải là do những răng
hiện được kế hoạch điều trị trên các răng đòi hỏi việc sửa soạn xâm lấn ở đường được sử dụng trong nghiên cứu của
khó tiên lượng. hoàn tất, hay sự hiện diện của sang thương Gegauff là răng tiền cối hàm dưới không.
mặt ngoài có thể làm ảnh hưởng nghiêm Những răng này có chân răng hình nón,
trọng đến độ cho nên mặc dù đã được làm dài thân răng,
có thêm ngà răng theo chiều cao, nhưng Họ cho rằng vị trí của cấu trúc răng lành Một phân tích về sự phân bố lực ở các
sự giảm độ rộng ngà răng ở đường hoàn mạnh chịu lực nhai thì quan trọng hơn việc răng khác nhau cho thấy răng trước tải
tất là không thể tránh khỏi khi răng được có thành ngà 360o theo chu vi thành trục ngà trọng không theo trục và răng sau ở chức
sửa soạn thêm cho đường hoàn tất mới. răng. Họ mô tả một bản mô phỏng in vitro năng bình thường có phần lớn lực theo
Đây có thể là nguyên nhân làm cho khả của răng cửa hàm trên. Kết quả của họ cho hướng nhai-nướu. Lực bên có khả năng
năng chống gãy vỡ bị kém đi. Trong thấy rằng việc chỉ có ferrule một phần tốt ở gây tổn hại bề mặt phục hồi-răng lớn hơn
nghiên cứu của mình, Hinkfuss và Wilson mặt trong cũng có hiệu quả như việc có khi so sánh với lực thẳng đứng.41
quan sát được rằng khả năng đề kháng gãy ferrule toàn phần, vì cấu trúc răng này sẽ Tổng quan tài liệu thực hiện bởi
vỡ của răng tăng lên với sự kết hợp giữa 2 chống lại các lực tác dụng lên mặt trong của Torbjorner và Fransson44,45 kết luận rằng
mm ferrule với việc sử dụng răng cối lớn răng cửa hàm trên. Tương tự, một răng cửa thiết kế phục hình khớp cắn thuận lợi thì
có lượng ngà răng còn lại dày (2.4 mm). hàm trên chỉ bị thiếu thành trong, mặc dù quan trọng đối với sự tồn tại của răng đã
Có phải độ dày của thành trục ngà răng còn đủ 3 thành khác nhưng vẫn cho thấy khả điều trị nội nha bị hư tổn cấu trúc hơn là
sau sửa soạn mão răng có vai trò quan năng đề kháng gãy vỡ kém hơn và có nguy loại chốt được sử dụng, vì các lực không
trọng hơn những gì chúng ta đã nghĩ? Họ cơ thất bại cao hơn so với một số trường hợp mong muốn được đưa vào bằng cách can
kết luận rằng những nghiên cứu sâu hơn còn lại ít thành răng hơn nhưng vẫn còn dự trên phục hình là nguy cơ làm gãy răng
cần được tiếnh hành về ảnh hưởng của độ thành trong, ví dụ mất cả thành răng gần và do mỏi.
dày ngà răng còn lại ở những răng đã điều xa. Bởi vì khi thành trong bị mất, tải trọng Do đó, một phương pháp tiếp cận khác
trị nội nha và chuẩn bị bọc mão. không theo trục từ phía vòm miệng lên mão biệt cần được áp dụng khi phục hồi răng
răng trước hàm trên sẽ gây thách thức lên trước và răng sau. Tình trạng khớp cắn sâu,
c) Số lượng các thành và vị trí thói quen cận chức năng và thói quen ăn
mối liên kết của chốt/cùi giả/chân răng. Nên
ferrule khi có thành trong thì nó là thành sẽ chống uống có thể làm tăng thêm nguy cơ đối với
Một khía cạnh khác cần được suy nghĩ lại chịu lại tải trọng đó. các răng trước. Ở các răng sau, kiểu khớp
là giả định rằng cần có hiệu ứng ferrule Arunpraditkal và cộng sự vào năm 200941, cắn và chiều cao múi răng ảnh hưởng đáng
toàn phần trong mọi trường hợp. Điều này đã phủ nhận sự liên quan về vị trí của thành kể đến các loại lực và hướng lực tác động
có ý nghĩa lâm sàng đáng kể. Sâu răng răng mất khi chỉ thiếu một thành để có được lên mỗi răng. Hướng dẫn chức năng nhóm,
thường ảnh hưởng đến một số thành của hiệu ứng ferrule. Nghiên cứu của họ cho đặc biệt là khi các múi ngoài của răng hàm
mô răng (chủ yếu là thành bên), nhưng thấy, mặc dù việc thiếu thành ngoài thể hiện trên cao, tạo ra lực bên lớn hơn, khi so sánh
không ảnh hưởng đến các thành răng tải trọng phá hoại (failure load) trung bình với trạng thái hướng dẫn răng nanh.46,47
khác; trong khi mòn răng do hóa học và thấp nhất, nhưng kết quả không có ý nghĩa Tương tự như vậy, các răng sau có múi cao
sẽ truyền lực bên lớn hơn khi so với các răng
mòn răng do cơ học thường chỉ ảnh thống kê. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, cho dù
bị mòn nặng. Các diện mòn đáng kể cũng
hưởng đến thành ngoài. Tương tự, việc nghiên cứu của họ không tìm được ý nghĩa
ngụ ý cho sự hiện diện của các lực quá tải.
sửa soạn răng để đạt được tính thẩm mỹ trong vị trí của thành răng bị mất đơn độc
Vector lực có thành phần lực bên đáng kể
tối đa có thể làm cho thành ngoài của răng trên răng cối nhỏ thứ hai, nhưng mà nghiên
khi có múi răng hiện diện, có thể đổi chủ yếu
còn lại quá thấp hoặc quá mỏng. Trong cứu này được thực hiện bằng cách sử dụng
thành lực theo chiều đứng khi múi răng được
mỗi ví dụ này, thường chỉ còn lại hiệu lực ở trạng thái tĩnh từ hướng phía ngoài,
làm phẳng.48
ứng ferrule bán phần sau khi sửa soạn điều đó không phản ánh chính xác bối cảnh
mão răng. lâm sàng – không đúng về hướng của lực Vì lý do này, các kết luận rút ra từ y văn
Nhiều nghiên cứu khác nhau đã chứng cũng như tính chất của lực. Họ thừa nhận liên quan đến việc phục hồi các răng trước
minh tính ưu việt của ferrule toàn phần so rằng hướng của lực có thể là điểm giới hạn không nên tự động được giả định cho các
với ferrule chỉ ở một trong các phần khác của nghiên cứu, và việc sử dụng mô hình răng sau và ngược lại. Khuyến cáo rằng
nhau của răng.41-43 Tuy nhiên, không nên chu kỳ nhiệt/mỏi (thermocycling/fatigue trước khi phục hồi một răng, nên xem xét
loại trừ khái niệm ferrule bán phần. Y văn model) có thể mô tả chính xác hơn tình trạng kỹ lưỡng kiểu khớp cắn cũng như các lực
cho thấy, ferrule bán phần thì vẫn tốt hơn là lâm sàng/chức năng. Nếu điều này được thực chức năng và cận chức năng, vì những điều
không có ferrule. Năm 2002 Al-Wahadni và hiện, việc thiếu thành răng phía ngoài có thể này sẽ ảnh hưởng đến sự thành công của
cộng sự34 xem xét sự hiện diện của ferrule có ý nghĩa hơn kết quả mà chúng đã biểu thị. phục hồi cuối cùng của một răng cụ thể.5
bán phần ở răng trước. Họ so sánh giữa việc Do đó, có bằng chứng cho thấy rằng, ferrule e) Loại chốt
không có ferrule với có ferrule ≥3mm chỉ ở bán phần, mặc dù không lý tưởng như đủ
mặt ngoài của răng. Họ kết luận rằng, răng Các tài liệu nha khoa liên quan đến các
360o, 2mm ferrule, nhưng vẫn có giá trị
còn 3mm chiều cao thành ngà mặt ngoài và loại chốt đang hiện hành đưa ra quá nhiều
trong việc đề kháng gãy vỡ.
không còn các thành ngà khác, có khả năng biến số để có thể so sánh thực sự giữa tất
đề kháng gãy vỡ tốt hơn đáng kể so với d) Loại răng và sự hiện diện cả các loại chốt hiện có. Các công bố thiếu
nhóm chứng. Chiều cao >3mm không tạo ra của lực bên kết quả lâm sàng dài hạn với mức độ bằng
cải thiện đáng kể về mặt thống kê. chứng chưa cao, liên quan đến dữ liệu tồn
Hai yếu tố để phân biệt răng trước và răng
Ng và cộng sự20 đã nghiên cứu trường tại của các hệ thống chốt khác nhau.45
sau: kích thước tương đối và hướng của
hợp lâm sàng phổ biến là chỉ có ferrule bán lực mà chúng cần chịu.
phần do tiến trình phá huỷ của sâu răng.
Không có khuyến nghị chung nào được và không thể đạt được hiệu ứng ferrule tốt, chân răng có thể là chìa khóa để củng cố
đưa ra, tuy nhiên, nhiều nghiên cứu chứng thì có thể kỳ vọng một phục hồi với chốt ngà răng hơn là loại chốt/vật liệu cùi giả
minh rằng với sự hiện diện 1.5-2mm dán hơn là chốt kim loại. được sử dụng.45
ferrule xung quanh cấu trúc răng, giữa cùi Tuy vậy, các chốt đúc hoặc thậm chí Một số điều tra81 dựa trên các nghiên cứu
và đường hoàn tất thì quan trọng hơn là chốt đúc dán được khuyến khích sử dụng in vitro đã đề xuất rằng, chốt đúc được liên
thiết kế/loại chốt trong việc đề kháng gãy thay cho chốt sợi gốc nhựa trong nhiều kết với cement resin và cùi composite
vỡ.18,19,30,49 trường hợp.61,62 Tuy nhiên, các hướng dẫn không cho thấy sự khác biệt giữa các răng
Như một sự lựa chọn khác, các bằng rõ ràng cho các tình huống khi một loại điều trị nội nha được phục hồi có hoặc
chứng mới đang liên tục xuất hiện ủng hộ chốt này thích hợp hơn các chốt kia vẫn không có cấu trúc răng còn lại giữa cùi răng
khả năng gia cố của các chốt composite gia chưa có sẵn và các nghiên cứu xa hơn và đường hoàn tất. Khả năng của chốt dán
cố sợi. Một nghiên cứu của Saupe vào năm trong phòng thí nghiệm và nghiên cứu lâm để phủ nhận sự cần thiết của ferrule, cũng
199650 cho thấy không có sự khác biệt về sàng vẫn rất cần thiết.22,36,63,64 như ảnh hưởng của vật liệu dán trong sự
khả năng đề kháng gãy vỡ của răng sử dụng biến thiên về độ dày của ngà răng, cần các
chốt dán với việc có hoặc không có ferrule. f) Các vật liệu cùi răng
nghiên cứu xa hơn nữa. Vì không có sự
Tuy nhiên, kết quả này nên được hiểu một Vật liệu cùi răng có thể là một yếu tố ảnh đồng thuận, nên hiện tại nó không được
cách thận trọng vì mặc dù các chốt dán này hưởng hơn nữa đến độ dày khác nhau của chấp nhận rằng vật liệu dán gốc nhựa có
được ghi nhận là gia cố chân răng lúc ban mô ngà răng còn lại trên phần chức năng khả năng cải thiện tiên lượng của răng bị
đầu,51 nhưng hiệu quả gia cố có thể bị mất của ferrule. Composite với keo dán ngà tổn thương cấu trúc, tuy nhiên có những
theo thời gian.52-54 Điều này được cho là do thường được xem như là vật liệu giúp trường hợp sử dụng các loại vật liệu đó có
sự rỉ dịch từ lỗ chóp và ống tủy bên.45 Hơn vững chắc răng và củng cố các múi khi so thể hỗ trợ các tình huống lâm sàng.
nữa, dán với ngà chân răng đã được chứng
sánh với amalgam.65-68 Răng có xoang sâu
minh là kém tin cậy hơn so với ngà thân PHẦN 2: PHÂN LOẠI FERRULE
MOD rộng, được phục hồi với amalgam
răng.55,56 Điều này đặt ra việc nghiên cứu xa
đã nhiều lần cho thấy các múi răng tái tạo Mặc dù y văn hiện nay không đưa ra một
hơn về khả năng của chốt dán gia cố cho
bị hư hỏng do vật liệu này không có khả mô tả và thiết kế thống nhất của ferrule lý
răng đủ để bảo vệ răng khỏi gãy vỡ. Cũng
năng củng cố các múi răng bị suy yếu.69 tưởng, nhưng sự phân loại dựa trên cấu
tương tự, Oliveira vào năm 2008 đã phát
Điều này đúng bởi vì amalgam không có trúc mô răng còn lại sẽ có giá trị đối với
hiện rằng răng điều trị nội nha được phục
khả năng dán vào răng và nó cần vùng lẹm giới chuyên môn. Việc phân loại như vậy
hồi với chốt sợi dán và cùi răng composite
sẽ cho phép tạo ra các hướng dẫn được
không cho thấy sự biến đổi mức độ đề kháng để tạo lưu giữ, điều đó làm suy yếu các
chuẩn hoá cho điều trị và cho phép các
gãy vỡ với chiều cao ferrule thay đổi từ 0- thành răng còn lại. Ngược lại, nhiều
nhà nghiên cứu đánh giá các bài báo đã
3mm.57 Nghiên cứu của họ được thực hiện nghiên cứu đã chỉ ra khả năng đề kháng
được xuất bản hoặc lập kế hoạch nghiên
trên răng nanh hàm trên - răng lớn và chắc gãy vỡ được cải thiện ở các xoang MOD
cứu trong tương lai bằng cách sử dụng
chắn nhất trong miệng - và do đó, có vẻ hợp được phục hồi bằng composite hoặc nhựa
một chìa khóa đánh giá chung.
lý khi đặt câu hỏi về ảnh hưởng của tính gia cố sợi.70-75
Phân loại răng một chân chết tuỷ dựa
nguyên khối hoặc độ dày còn lại của ngà Có thể suy luận rằng keo dán ngà liên
trên cấu trúc răng còn lại trên nướu đã
răng thêm vào hiệu quả gia cố của phục hồi kết với vật liệu composite có thể củng cố
dán với chốt/cùi răng, đóng vai trò như một được Kurer khuyến nghị vào năm 1991 82
cấu trúc răng còn lại của một răng đã được
phần đề kháng gãy vỡ của răng đã điều trị để hỗ trợ lập kế hoạch điều trị cho răng
sửa soạn, và có thể có hiệu quả khi chỉ còn
nội nha và được phục hồi với chốt dán hoặc được điều trị nội nha. Phân loại này mô tả
thành ngà răng mỏng tạo ferrule. Tác dụng
cùi răng composite. Nhìn chung, chốt năm loại răng chết tuỷ: loại 1 có đủ mô
của composite dán và mức độ nó có thể
composite gia cố sợi cho kết quả khả quan gia cố cho mô ngà còn lại với độ dày thân răng để làm mão, loại 2 cần cùi giả,
khi so sánh với chốt kim loại. Mặc dù mỏng khác nhau thì chưa được nghiên cứu loại 3 không có cấu trúc thân răng, loại 4
ngưỡng chịu tải trọng thấp hơn đáng kể, kỹ lưỡng. Các tài liệu hiện còn trái ngược có gãy sâu, loại 5 biến chứng nha chu.
nhưng sự thể hiện của chúng được xem là nhau. Một số nghiên cứu chứng tỏ phục Theo đề xuất của Stankiewicz và Wilson,9
thuận lợi bởi vì sự thất bại của chốt này hồi dán gia cố cho cấu trúc răng.3,76,77 Một phân loại có thể có giá trị hơn nếu đưa vào
dường như là bảo vệ cấu trúc răng còn lại, số nghiên cứu khác lại cho rằng độ bền một phân nhóm nhỏ tính đến sự hiện diện
bằng cách biểu lộ kiểu thất bại thuận lợi hơn, gãy tương đương với sửa soạn xoang của một ferrule hiệu quả tối thiểu.
hầu như không có gãy chân răng.57-60 Với không phục hồi (unrestored cavity Phân loại đã được đề xuất xem xét
các chốt sợi, gãy cấu trúc răng còn lại cho preparations).78,79 lượng cấu trúc răng còn lại có sẵn để có
thấy là xảy ra nhiều hơn về phía cắn, làm Một câu hỏi khác cần được giải quyết là thể kết hợp vào hiệu ứng ferrule trên
cho những hư hỏng này có thể được phục chất lượng của sự gia cố ngà răng có thể một răng nhất định, nhằm đánh giá nguy
hồi lại lần nữa so với gãy răng xảy ra nhiều
đạt được ở răng có thành chân răng mỏng cơ thất bại về mặt cơ học và lựa chọn
hơn về phía chóp với các chốt kim loại, và
với một chốt kim loại và một lớp mỏng các phương án điều trị thích hợp. Lý
mô răng còn lại không có khả năng phục hồi
cement resin so sánh với chốt gốc nhựa tưởng nhất nên phân loại răng trước khi
lại nữa. Có thể kết luận rằng, mặc dù công
kết hợp vật liệu cùi răng gốc nhựa là như sửa soạn để bác sĩ có thể điều chỉnh kế
nhận về sự cần thiết của ferrule, nhưng
thế nào.80 Một lớp cement resin mỏng hoạch nhằm đảm bảo bảo tồn tối đa độ
trong những trường hợp răng tổn thương
được sử dụng để liên kết chốt với ngà
Loại D: Nguy cơ cao
Chiều cao > 2mm Độ dày >1mm
A: Không có
nguy cơ
Có một thành ngoài hoặc trong suy yếu
trên một răng chịu các lực tải bên mạnh
4 thành
HOẶC một thành ngoài và thành trong bị
suy yếu ở răng bất kì HOẶC một răng chỉ
Thiếu thành B: Nguy cơ thấp
3 thành gần hoặc xa còn hai thành tiếp cận hoặc chỉ còn lại một
Lực tải bên yếu thành riêng lẻ. Các răng này có nguy cơ
Ngoài
2 thành
Trong thất bại do cao cấu trúc răng hay yếu tố cơ
Lực tải bên mạnh học và nên cân nhắc các phương thức điều
Thiếu thành C: Nguy cơ trung
3 thành ngoài hoặc trong
bình trị thay thế thích hợp hơn.
Lực tải bên yếu

Gần
2 thành
Xa
Loại X
Lực tải bên mạnh

2 thành (liền kề)


Không thể tạo được hiệu ứng ferrule, do
đó răng không thể tái tạo.
1 thành
D: Nguy cơ cao

Không thể tái


Điều trị thực tế đưa ra sẽ được quyết
0 ferrule
tạo định dựa trên toàn bộ bộ răng và tổ chức
bám dính, cũng như các yếu tố nguy cơ và
nguyện vọng của bệnh nhân.
Hình. 1 Phân tích đánh giá nguy cơ

PHẦN 3: HƯỚNG DẪN LÂM SÀNG


hiện bằng mặt răng tương ứng)
d) Các vectơ sang bên của lực trên răng. ĐƯỢC KHUYẾN NGHỊ
Chúng được định nghĩa là các lực tải Một kế hoạch sửa soạn cẩn thận như mong
bên yếu hoặc các lực tải bên mạnh muốn tối đa hoá độ bền của ferrule sẽ
dựa trên loại răng và kiểu khớp cắn. giảm thiểu nguy cơ khi tái tạo các răng bị
gãy vỡ nghiêm trọng.
Những yếu tố này cho phép các tác giả Ngoài việc cân nhắc đảm bảo chiều cao
phát triển một phân loại dựa trên đánh giá ferrule thích hợp được chấp nhận theo
nguy cơ (Hình 1). truyền thống, các khía cạnh bổ sung mà y
văn ủng hộ đưa vào khi tái tạo là: a) chiều
Loại A: Không có nguy cơ dự rộng của ngà răng còn lại, b) số lượng và
Hình. 2 Loại A: Không có nguy cơ thất
đoán
bại được dự đoán do yếu tố cơ học vị trí các thành răng còn lại và c) loại răng
Các thành ngà còn lại quanh răng lành và lực tải bên tác động lên răng.
mạnh với chiều cao lớn hơn 2mm và độ
dày và chiều cao của cấu trúc răng còn
dày tối thiểu 1mm. Các răng không có yếu a) Cân nhắc về độ rộng
lại, nhưng vẫn đạt được việc sửa soạn
tố nguy cơ thất bại được dự đoán do cấu Các kỹ thuật nhằm phục hồi thẩm mỹ cho
như mong muốn. Các hướng dẫn lâm sàng
trúc răng hay yếu tố cơ học (Hình. 2). các răng trước đòi hỏi mài nhiều mô răng.
được đề xuất dựa trên các kết luận rút ra
từ việc xem xét các tài liệu hiện nay. Các phục hồi bằng sứ yêu cầu độ dày ít
Loại B: Nguy cơ thấp
Bốn khía cạnh liên quan đến cấu trúc nhất 1,5 mm ở các đường hoàn tất để đạt
Mặt bên không có ferrule hiện diện hoặc
răng tự nhiên còn lại được xem là những được thẩm mỹ.83 Kiểu sửa soạn này làm
suy yếu (có nghĩa là chiều cao thấp hơn
yếu tố quan trọng cần được cân nhắc khi giảm đáng kể độ dày của ngà răng còn lại
2mm và/hoặc độ dày nhỏ hơn 1mm)
phân tích ferrule tiềm năng hiện diện ở khu vực quan trọng nhất - đường viền ở
HOẶC hai thành bên bị suy yếu trên một
trong một răng bị suy yếu cấu trúc. Các vùng cổ răng. Vùng cổ răng là vùng có
răng chịu lực tải bên yếu. Các răng có
khía cạnh này là: nguy cơ chịu nhiều áp lực nhất khi thực
nguy cơ thất bại thấp do cấu trúc răng hay
a) Chiều cao của ngà răng còn lại sau khi hiện chức năng và là nơi xảy ra phần lớn
yếu tố cơ học.
sửa soạn. Một thành được xem là nứt gãy18 và việc sửa soạn đường hoàn tất
đóng góp vào ferrule chỉ khi đạt được Loại C: Nguy cơ trung bình rộng thêm làm suy yếu răng hơn nữa tại
chiều cao 2 mm và liên tục dọc theo vùng quan trọng nhất của nó. Soew, Toh
Có hai thành bên suy yếu trên một răng
hơn nửa bề mặt răng. và Wilson84 đã xem xét độ rộng ngà răng
chịu lực tải bên mạnh HOẶC một thành
b) Độ dày của ngà răng còn lại sau khi sửa còn lại sau khi sửa soạn nhiều loại phục
ngoài hay thành trong suy yếu trên một
soạn. Một thành được xem là đóng góp hồi khác nhau. Sửa soạn phục hình
răng chịu các lực tải bên yếu. Các răng
vào ferrule chỉ khi đạt độ dày 1mm. inlay/onlay để lại độ dày của ngà răng
này có nguy cơ thất bại trung bình do cấu
c) Số lượng các các thành ngà răng còn nhiều nhất, rồi đến mão kim loại, và cuối
trúc răng hay yếu tố cơ học.
lại và vị trí của chúng (vị trí được thể

© 2010 Macmillan Publishers Limited. All rights reserved


cùng là mão sứ toàn phần. Họ kết luận nhai-nướu thì vị trí của thành trở nên trọng được cân nhắc. Trong những trường hợp đó,
rằng các quyết định về loại phục hình cuối yếu. Vì răng trước hàm trên chịu lực từ các ưu và nhược điểm của kĩ thuật làm dài
cùng để khôi phục răng tiền cối thứ hai phía khẩu cái nên ferrule đầy đủ ở phía thân răng lâm sàng phải được đánh giá lại và
hàm trên đã được điều trị nội nha nên trong của răng trước hàm trên là điều quan có thể được lựa chọn để thành phương thức
được cân nhắc bởi độ dày của mô răng trọng chủ yếu để kháng lại lực tải.20 điều trị được ưu tiên.
còn lại. Tương tự với các răng trước của hàm dưới Nhiều tác giả khuyến nghị rằng một phục
Tương tự, cần lưu ý đặc biệt với việc chịu lực tải từ phía ngoài nên sự hiện diện hồi bao phủ bán phần nên được cân nhắc nếu
sửa soạn thành trục ở những bệnh nhân trẻ của thành ngoài ở đây để kháng lại lực là ta lường trước được việc sửa soạn cùi răng sẽ
tuổi, nơi có kích thước tuỷ răng lớn và độ quan trọng nhất. làm cho thành ngoài và/hoặc thành trong có ít
Ở cả răng trước và răng sau, xoang hình hơn 1mm độ dày ngà còn lại. Trong những
dày ngà răng do đó cũng giảm tương
hộp sâu ở mặt bên là hậu quả thường thấy trường hợp đó, việc sử dụng phục hồi onlay
đương. Vì những lý do này, các tác giả
của sâu răng ở mặt bên, thường dẫn đến cho phép bảo tồn các thành, mà quá trình sửa
khuyến nghị ở các răng như trên hoặc soạn mão toàn diện không làm được.
ferrule suy yếu ở những vùng này. Do đó,
răng có kích thước nhỏ, sửa soạn tối thiểu Răng cối nhỏ: Khi nhắc đến tải lực sang
một quyết định lâm sàng cần phải cân
ở thành trong và các thành không mang bên, răng cối nhỏ có thể hoạt động như răng
nhắc giữa lợi ích và rủi ro của việc đạt
tính thẫm mỹ, và sử dụng vật liệu kim loại cối lớn hoặc như răng trước. Các răng cối
được một ferrule toàn phần "bao quanh
hay một sườn lót toàn sứ mỏng để đảm nhỏ hàm dưới có một vấn đề đặc biệt. Do
toàn bộ". Các mối liên hệ lâm sàng của
bảo độ dày tối đa của các thành ngà răng các răng này có múi trong nhỏ, thành trong
quy trình làm dài thân răng với nguy cơ
không ảnh hưởng đến thẩm mỹ của phục sẵn có có thể bị mất đi sau quá trình sửa
gây chấn thương răng kế cận nên được
hồi cuối cùng. soạn cùi răng. Bởi vì thẩm mỹ không phải là
đánh giá dựa trên các rủi ro sinh cơ học
Điều trị tủy và sửa soạn khoảng đóng mối bận tâm lớn ở vùng này, cho nên sửa
của một mão không có hiệu ứng ferrule
chốt cho răng với hình thái chân răng soạn tối thiểu nên được lựa chọn cho mặt
360°. Khi các lực tải bên kéo dài không dự
mỏng thường để độ dày ngà răng còn lại ít trong răng này. Tuy nhiên, ngay cả khi nếu
đoán trước, một ferrule không hoàn chỉnh
hơn 1mm so với khuyến cáo, thậm chí thành trong của các răng này còn lại mỏng,
dường như là một thay thế phụ hợp hơn
trước khi răng được sửa soạn làm mão.85 về mặt cơ sinh học thì đấy cũng không phải
trong trường hợp bị thiếu thành bên. Ý
Vì lý do này, những chiếc răng này là một tình huống nguy hại trong đa số các
tưởng này nên được áp dụng cho việc điều
thường có tiên lượng kém hơn do giải trường hợp, các lực được tác động từ vùng
trị các răng như một nỗ lực để giảm thiểu
phẫu chân răng của chúng.86 Trong những phía ngoài đi về phía trong, điều đó làm cho
tổn thương cho các răng lân cận và bảo
tình huống này, thường tốt hơn là thử và thành ngoài quan trọng hơn ở trên răng này.
tồn xương càng nhiều càng tốt cho việc
tránh sửa soạn chốt và/hoặc bọc mão các cấy ghép implant trong tương lai nếu cần
Ngược lại, răng cối nhỏ hàm trên chịu tải
răng này để không làm chúng suy yếu lực sang bên theo hướng từ phía trong ra
thiết. Nghiên cứu sâu hơn nên hướng đến
thêm. ngoài. Các múi ngoài thường cao hơn, và
việc xem xét câu hỏi này.
ngay cả ở khớp cắn bảo vệ bởi răng nanh,
b) Cân nhắc về ferrule bán phần c) Cân nhắc về loại răng và tải một số tải lực sang bên có thể hiện diện khi
Mặc dù rõ ràng chúng ta mong muốn tạo lực sang bên bắt đầu thực hiện vận động sang bên. Chính
được một hiệu ứng ferrule toàn phần 360°, vì vậy, hiệu ứng ferrule ở mặt ngoài và trong
Không phải răng nào cũng chịu một dạng
nhưng có những trường hợp lâm sàng cho mang tính quyết định. Ngược lại với răng cối
tải lực giống nhau. Ngay cả cùng một loại
thấy việc áp dụng ferrule bán phần vẫn tốt lớn, răng cối nhỏ hàm trên nằm trong vùng
răng cũng có thể chịu các lực khác nhau, tuỳ
hơn các lựa chọn điều trị thay thế. Nhìn thẩm mỹ, yêu cầu mài nhiều ở mặt ngoài,
thuộc vào khớp cắn của bệnh nhân và vị trí
chung, càng có nhiều thành hiện diện hiệu thường không thể thực hiện thủ thuật làm dài
của chúng trên cung răng.
ứng ferrule thì khả năng kháng nứt gãy thân răng lâm sàng đáng kể mà không có sự
Răng cối lớn: Ở khớp cắn lý tưởng, răng
đánh đổi về mặt thẩm mỹ, và thường có hình
càng tốt, nhưng đôi khi số lượng thành cối thường chịu các lực theo phương thẳng
dạng chân răng ít mong muốn. Một kế hoạch
của răng không phải là trọng tâm của việc đứng và tải lực sang bên không ảnh hưởng
sửa soạn chi tiết là cần thiết để bảo tồn mô
cân nhắc điều trị, mà đúng hơn là vị trí nhiều lên các răng này. Trong trường hợp
răng tối đa, nhờ vậy mà tuổi thọ của răng và
của chúng. chức năng nhóm, và khi các múi răng cao,
độ bền của phục hồi được bảo đảm.
Hầu hết các lực tác động ở phần phía sau vector phía bên có thể đáng kể. Trong tình
Răng trước: Ở khớp cắn lý tưởng, những
của miệng có hướng nhai-nướu và ngoài- huống phổ biến hơn đối với răng mất chất
răng này luôn chịu các vector lực sang bên
trong, do đó cũng hợp lý khi cho rằng các nhiều ở vùng bên, nhưng thành ngoài và
tương đối lớn. Điều này càng rõ ràng hơn
lực trong miệng không gây tác động lên thành trong vẫn còn đủ dày, quá trình sửa
trong trường hợp bệnh nhân cắn sâu. Ngoài
soạn được khuyến nghị nên giữ nhiều nhất
một răng thiếu hiệu ứng ferrule đầy đủ 2 ra, các răng trước hàm trên (bao gồm cả răng
có thể thành ngoài và thành trong, và nhắm
mm ở mặt bên nhiều như khi tác động lên nanh) đòi hỏi vấn đề thẩm mỹ, chính vì thế
đến hạn chế tối đa việc vượt qua cùi
một răng thiếu các thành ngoài và/hoặc nên cần mài nhiều ở mặt ngoài. Giống như
giả/đường nối với răng ở vùng bên mà
thành trong. Đối với các răng trước nơi răng cối nhỏ hàm dưới, sẽ tốt hơn khi bảo
không xâm phạm khoảng sinh học. Khi
mà lực tải nhìn chung có hướng ngoài tồn mặt trong của răng trước bằng việc sử
thành ngoài và thành trong còn lại mỏng,
trong và thiếu thành phần lực theo chiều hoặc khi tải lực sang bên nhiều hơn dự kiến, dụng kim loại ở mặt trong, bởi vì nó không
mm s
hiệu ứng ferrule bổ sung ở phía bên nên
nhìn thấy được từ ngoài, và để bảo đảm độ
bền tối đa của cấu trúc mô răng. Cách tiếp
cận này được đề nghị sử dụng đặc biệt khi
mô răng tự nhiên không còn nhiều, hoặc do
yếu tố khớp cắn, ví dụ như là cắn sâu.

d) Bọc mão hay không?


Cần nhấn mạnh rằng không có đồng thuận ý
kiến về loại phục hồi cuối cùng cho răng đã
được điều trị nội nha.87 Mặc dù đa số các tác
giả ủng hộ cho quan điểm phục hồi che phủ
toàn bộ cho phần lớn các răng đã được điều
trị nội nha, và có sự liên quan mạnh mẽ đã
thấy được giữa thành công của răng đã được
điều trị nội nha và răng được bọc mão,88-90
các giải pháp thay thế cũng được đề xuất.
Bao gồm việc sử dụng phục hồi bằng phức
hợp amalgam,91,92 overlays65 hoặc phục hồi
composite.67,93 Các phục hồi bán phần mới
đây như phục hồi onlay gián tiếp được đề
xuất như là một phục hồi bảo tồn cấu trúc
mô răng hơn là làm mão bao phủ toàn diện,
trong khi đó nó cũng bao phủ múi răng để
bảo vệ cho các múi răng bị suy yếu.7 Bằng
việc thực hiện đầy đủ phân loại đánh giá rủi
ro của phần ngà răng còn lại ở răng bị hư
hỏng nặng, các nha sĩ sẽ cân nhắc được
phương pháp thay thế để phục hồi những Hình 3. Quy trình điều trị để tiếp cận phục hồi cho răng với mão che phủ toàn diện.
răng đấy.
mm Nhu cầu bọc mão cho răng liên quan che phủ múi răng đã được ủng hộ để sử dụng Trong những trường hợp đó, ta nên giả định
trực tiếp đến sự suy yếu cơ học gây ra bởi trên răng cối để loại trừ việc phá huỷ thành rằng chỉ còn một lượng nhỏ ngà răng còn lại.
phục hồi trước đó, sâu răng và/hoặc lối mở trục.100,101 Với sự cải thiện về đặc tính mòn ở Vì nguyên nhân đó, sửa soạn răng không có
vào buồng tủy trong điều trị nội nha. Niềm các dòng composite mới hơn cho thấy loại cùi giả ở trong là một lợi thế, khi nhìn vào
tin trước đây cho rằng sự suy yếu cơ học của phục hồi này có thể là một lựa chọn, cụ thể ở một răng đã được sửa soạn không có cùi giả,
răng đã được điều trị nội nha do sự mất đi những răng có tiên lượng kém, dù hiện tại có ta có thể phân tích được chính xác độ cao, độ
độ ẩm so với răng sống tuỷ đã bị bác bỏ. 94 ít thông tin dài hạn về tuổi thọ của loại phục
dày và vị trí của thành ngà hiện diện. Giải
hồi thay thế múi răng bằng composite.102
Ngược lại, không có sự thay đổi sinh hoá rõ phẫu chân răng cũng cần được cân nhắc vì
Những giải pháp phục hồi không truyền
rệt nào đã được chứng minh cho thấy răng như chân răng hình nón hoặc chân răng chia
thống này cho răng đã điều trị nội nha vẫn
đã được điều trị tuỷ dễ gãy vỡ hơn.95 Độ uốn đôi ở răng cối nhỏ thứ nhất hàm trên có thể
cần thử nghiệm in vivo.
của múi, độ dày của thanh và múi răng còn đưa đến ngà răng còn lại bị mỏng. Dựa trên
lại là những nhân tố then chốt. Khi kích e) Quy trình đề nghị cho phục hồi các cân nhắc và tranh luận y văn, các tác giả
thước của xoang tăng lên, đặc biệt sau khi răng với mão che phủ toàn diện đề xuất quy tr điều trị dưới đây cho chỉ định
mở tuỷ,96 và gờ bên bị mất, sự ổn định cấu mão che phủ toàn diện. (Hình 3).
Bởi vì sửa soạn cùi răng cho các mão răng
trúc giảm xuống.97,98 Vì lý do đó, việc sử A. Xác định nếu mão răng là khả thi?
có độ thẩm mỹ cao thường xâm lấn nhiều và
dụng các phương pháp phục hồi thay thế nên • Lựa chọn loại mão che phủ toàn diện
làm tổn hại đến độ bền của cấu trúc mô răng,
được cân nhắc cho các ca lâm sàng cụ thể, mong muốn sau khi cân nhắc đến yếu tố
cho nên việc lên kế hoạch sửa soạn cẩn thận,
nhờ khả năng bảo tồn được thành răng dày thẩm mỹ và độ bền của cấu trúc.
cũng như đánh giá khả năng tiềm tàng có thể
hơn so với việc làm mão răng. Các phương • Lên kế hoạch cho cách sửa soạn tối thiểu
làm suy yếu mô răng nếu thẩm mỹ là mục
pháp thay thế bao gồm mão kim loại vàng nhất mà vẫn đạt được kết quả mong
tiêu sau cùng, phải được thực hành như bước
và gần đây là mão composite sửa soạn tối muốn, và phải lưu ý đến cách sửa soạn lý
đầu tiên. Độ cao 2mm tối thiểu cho hiệu ứng
thiểu với đường hoàn tất bờ cong dày tưởng nhất cho phục hồi được chọn.
0.5mm, được dán bằng xi măng nhựa. 99 ferrule xung quanh răng là kích thước được
• Loại bỏ tất cả vật liệu phục hồi cũ và
Tương tự, phục hồi composite trực tiếp hoặc chấp thuận để sử dụng, và thường nhìn thấy đánh giá độ cao, độ dày, vị trí của ngà
gián tiếp được sau khi mài cùi. Tuy nhiên, răng đã răng còn lại:
được phục hồi với chốt và/hoặc cùi giả thì • Trong những tình huống khi mô răng
không biết được độ dày của ngà răng khoẻ còn lại ít, bệnh nhân cần được thông
mạnh còn lại là bao nhiêu. báo về rủi ro đi kèm với răng đấy.
Một lựa chọn thay thế và rẻ tiền hơn Cần nhớ rằng có nhiều loại phục hồi khác ít 18. Milot P, Stein R S. Root fracture in endodontically
treated teeth related to post selection and crown
(như là phục hồi bằng composite hoặc xâm lấn hơn đã được đề xuất có khả năng design. J Prosthet Dent 1992; 68: 428–435.
sử dụng chốt và cùi giả) nên được cân bảo tồn nhiều mô răng lành mạnh hơn khi 19. Isidor F, Brondum K, Ravnholt G. The
nhắc là một giải pháp tạm thời. phục hồi răng mất chất nhiều. Điều này rất influence of post length and crown ferrule
length on the resistance to cyclic loading of
có giá trị khi độ dày thành ngà trục còn lại là bovine teeth with prefabricated titanium
B. Nếu mão răng được xác định là khả thi: quá mỏng. posts. Int J Prosthodont 1999; 12: 78-82.
20. Ng C C, Dumbrigue H B, Al-Bayat M I, Griggs J A,
• Thực hiện sửa soạn tối thiểu, dựa trên kế Nhiều khía cạnh của hiệu ứng ferrule đã Wakefield C W. Influence of remaining coronal
hoạch ban đầu được thừa nhận trước đây vẫn chưa được tooth structure location on the fracture resistance
of restored endodontically treated anterior teeth. J
• Đánh giá mô răng còn lại xem còn rủi ro nghiên cứu sâu hơn, bao gồm sự ảnh hưởng Prosthet Dent 2006; 95: 290–296.
nào khác không, và dựa theo đó thay đổi của độ dày của ferrule, ảnh hưởng của 21. Christensen G J. When to use fillers, build-ups or
posts and cores. J Am Dent Assoc 1996;
kế hoạch điều trị. Nếu độ dày mô ngà ferrule bán phần, và tác dụng của các vật liệu 127: 1397-1398.
còn lại cho phép thực hiện sửa soạn dày gốc nhựa (chốt, cùi giả và xi măng) trong 22. Heydecke G, Peters M C. The restoration of endo-
hơn một cách an toàn, hãy làm vậy. Nếu việc gia cố cấu trúc mô răng. Cách phân loại
dontically treated, single-rooted teeth with cast or
direct posts and cores: a systematic review.
không, thảo luận với bệnh nhân để điều tiêu chuẩn của các điều kiện lâm sàng nên J Prosthet Dent 2002; 87: 380–386.
chỉnh kế hoạch điều trị với mão răng yêu 23. Trope M, Maltz D O, Tronstad L. Resistance to
được thông qua, nhờ vậy cách tiếp cận nhất fracture of restored endodontically treated teeth.
cầu sửa soạn ít hơn.
quán và chỉ dẫn lâm sàng đã được chấp Endod Dent Traumatol 1985; 1: 108-111.
• Chốt và/hoặc cùi giả – đánh giá nhu cầu 24. Sorensen J A, Martinoff J T. Endodontically treated
thuận có thể thích ứng để phục hồi răng mất
đặt chốt, dựa trên khả năng của mô răng teeth as abutments. J Prosthet Dent 1985;
chất nhiều. 53: 631-636.
còn lại có giữ được cùi giả hay không. 25. Smukler H, Chaibi M. Periodontal and dental
Phục hồi cùi giả với loại vật liệu phù hợp. 1. Cheung G S, Chan T K. Long-term survival of con-siderations in clinical crown extension: a
primary root canal treatment carried out in a dental rational basis for treatment. Int J Periodontics
• Hoàn tất quá trình sửa soạn – đảm bảo teaching hospital. Int Endod J 2003; 36: 117-128. Restorative Dent 1997; 17: 464-477.
sự cân bằng tối đa giữa nhu cầu thẩm 2. Robbins J W. Restoration of the endodontically 26. Libman W J, Nicholls J I. Load fatigue of teeth
restored with cast posts and cores and complete
mỹ và độ bền của cấu trúc mô răng. treated tooth. Dent Clin North Am 2002;
crowns. Int J Prosthodont 1995; 8: 155-161.
46: 367-384.
3. Dietschi D, Duc O, Krejci I, Sadan A. Biomechanical 27. Kocadereli I, Tasman F, Guner S B.
Trong tất cả trường hợp răng bị mất chất considerations for the restoration of endodontically Combined endodontic-orthodontic and
treated teeth: a systematic review of the literature - Part prosthodontic treat-ment of fractured teeth.
nhiều, cần phải đánh giá lợi ích và nguy cơ 1. Composition and micro-and macrostructure Case report. Aust Dent J 1998; 43: 28–31.
để xác định xem liệu thủ thuật cải thiện hiệu alterations. Quintessence Int 2007; 38: 733-743. 28. Zhi-Yue L, Yu-Xing Z. Effects of post-core
4. Schwartz R S, Robbins J W. Post placement and design and ferrule on fracture resistance of
ứng ferrule (phẫu thuật làm dài thân răng restoration of endodontically treated teeth: a endodontically treated maxillary central incisors.
lâm sàng hoặc chỉnh nha làm trồi răng) sẽ literature review. J Endod 2004; 30: 289-301. J Prosthet Dent 2003; 89: 368–373.
29. Trabert K C, Cooney J P. The endodontically treated
5. Fernandes A S, Dessai G S. Factors affecting
tạo ra một cách thành công nhiều hiệu ứng the fracture resistance of post-core reconstructed tooth. Restorative concepts and techniques. Dent Clin
North Am 1984; 28: 923-951.
ferrule (cả về chiều cao lẫn độ dày) mà teeth: a review. Int J Prosthodont 2001;
14: 355-363. 30. Akkayan B. An in vitro study evaluating the effect of
không làm tổn hại đến các mô nâng đỡ răng 6. Hobo S, Whitsett L D, Jacobi R, Brackett S E, ferrule length on fracture resistance of endodonti-
cally treated teeth restored with fiber-reinforced and
và cấu trúc xung quanh. Cần phải phân tính Shillingburg H T. Fundamentals of fixed
prosthodon-tics. Quintessence Publishing, 1997. zirconia dowel systems. J Prosthet Dent 2004;
trước khi tiến hành sửa soạn, cũng như 7. Murphy F, McDonald A, Petrie A, Palmer G, 92: 155-162.
31. Mattison G D. Photoelastic stress analysis of cast-
quyết định sự khả thi của phục hồi bằng mão, Setchell D. Coronal tooth structure in root-treated
gold endodontic posts. J Prosthet Dent 1982;
teeth prepared for complete and partial coverage
và lặp lại cách phân tích sau khi mài giảm sơ restora-tions. J Oral Rehabil 2009; 36: 451-461. 48: 407-411.
32. Hock D A. Impact resistance of post and
khởi, để nếu cần thiết thì có thể chỉnh sửa 8. Cheung G S. Endodontic failures - changing
the approach. Int Dent J 1996; 46: 131-138. cores (Master’s thesis). Ann Arbor, 1978.
thiết kế cách sửa soạn. 9. Stankiewicz N R, Wilson P R. The ferrule effect: a 33. Trabert K C, Caput A A, Abou-Rass M. Tooth
literature review. Int Endod J 2002; 35: 575-581. fracture - a comparison of endodontic and
restorative treat-ments. J Endod 1978; 4: 341-345.
KẾT LUẬN 10. Sorensen J A, Engelman M J. Ferrule design and
34. Al-Wahadni A, Gutteridge D L. An in vitro investiga-tion
fracture resistance of endodontically treated teeth.
into the effects of retained coronal dentine on the
Bài báo này đã đưa ra nhiều yếu tố liên quan J Prosthet Dent 1990; 63: 529-536.
strength of a tooth restored with a cemented post and
11. Cathro P R, Chandler N P, Hood J A. Impact
đến một trong những khía cạnh quan trọng resis-tance of crowned endodontically treated
partial core restoration. Int Endod J 2002;

nhất khi phục hồi răng bị mất chất nhiều – central incisors with internal composite cores. 35: 913-918.
35. Pilo R, Tamse A. Residual dentin thickness in man-
Endod Dent Traumatol 1996; 12: 124-128.
hiệu ứng ferrule. Bằng chứng sẵn có liên 12. Hoag E P, Dwyer T G. A comparative
dibular premolars prepared with gates glidden and
ParaPost drills. J Prosthet Dent 2000; 83: 617-623.
quan đến hiệu ứng ferrule đã được tìm thấy, evaluation of three post and core techniques.
36. Peroz I, Blankenstein F, Lange K P, Naumann M.
J Prosthet Dent 1982; 47: 177-181.
và từ đó đưa ra cách phân loại. Các khía Restoring endodontically treated teeth with posts
13. Assif D, Bitenski A, Pilo R, Oren E. Effect of
and cores-a review. Quintessence Int 2005;
cạnh của bài báo cân nhắc về những yếu tố post design on resistance to fracture of
endodontically treated teeth with complete 36: 737-746.
quan trong hàng đầu, gồm chiều cao của 37. Joseph J, Ramachandran G. Fracture resistance
crowns. J Prosthet Dent 1993; 69: 36-40.
of dowel channel preparations with various
ferrule, độ dày, số lượng thành còn lại và vị 14. Barkhordar R A, Radke R, Abbasi J. Effect of metal
collars on resistance of endodontically treated teeth to
dentin thickness. Fed Oper Dent 1990; 1: 32-35.
trí của chúng, và mức độ của tải lực sang root fracture. J Prosthet Dent 1989; 61: 676-678.
38. Tjan A H, Whang S B. Resistance to root fracture of
dowel channels with various thicknesses of buccal
bên được đặt lên các răng. Một hệ thống 15. Pereira J R, de Ornelas F, Conti P C, do Valle A L.
dentin walls. J Prosthet Dent 1985; 53: 496-500.
Effect of a crown ferrule on the fracture resistance of
phân loại đã được đưa ra để phân nhóm các endodontically treated teeth restored with pre-
39. Gegauff A G. Effect of crown lengthening and fer-rule
placement on static load failure of cemented cast
răng, và có thể đưa ra các quyết định điều trị fabricated posts. J Prosthet Dent 2006; 95: 50–54.
post-cores and crowns. J Prosthet Dent 2000;
16. Haemmings K W, King P A, Setchell D J.
thay thế dựa trên tình trạng cụ thể của răng. 84: 169-179.
Resistance to torsional forces of various post and
40. Hinckfuss S, Wilson P R. Effect of core material
core designs. J Prosthet Dent 1991; 66: 325-329.
and restoration design on strength of endodonti-
17. Pierrisnard L, Bohin F, Renault P, Barquins M.
cally treated bovine teeth: a laboratory study.
Corono-radicular reconstruction of pulpless teeth:
J Prosthodont 2008; 17: 456-461.
a mechanical study using finite element analysis. 41. Arunpraditkul S, Saengsanon S, Pakviwat W. Fracture
J Prosthet Dent 2002; 88: 442-448.
resistance of endodontically treated teeth:
three walls versus four walls of remaining coronal treated teeth with flared root canals and fracture resistance of crowned teeth
tooth structure. J Prosthodont 2009; 18: 49-53. restored with different post systems. J Esthet incorporating prefabricated post and composite
42. Morgano S M, Brackett S E. Foundation restorations in Restor Dent 2007; 19: 30-36, discussion 37. core restorations. Int Endod J 2001; 34: 40-46.
fixed prosthodontics: current knowledge and future 62. Dorriz H, Alikhasi M, Mirfazaelian A, Hooshmand T. 82. Kurer H G. The classification of single-rooted, pulp-less
needs. J Prosthet Dent 1999; 82: 643-657. Effect of ferrule and bonding on the compressive teeth. Quintessence Int 1991; 22: 939-943.
43. Tan P L, Aquilino S A, Gratton D G et al. In vitro fracture resistance of post and core restorations. J 83. Lawn B R, Pajares A, Zhang Y et al. Materials
fracture resistance of endodontically treated central Contemp Dent Pract 2009; 10: 1-8. design in the performance of all-ceramic crowns.
incisors with varying ferrule heights and configura- 63. Tait C M, Ricketts D N, Higgins A J. Biomaterials 2004; 25: 2885-2892.
tions. J Prosthet Dent 2005; 93: 331–336. Weakened anterior roots-intraradicular 84. Seow L L, Toh C G, Wilson N H. Remaining
44. Torbjorner A, Fransson B. Biomechanical aspects of rehabilitation. Br Dent J 2005; 198: 609-617. tooth structure associated with various
prosthetic treatment of structurally compromised teeth. 64. Bolla M, Muller-Bolla M, Borg C, Lupi- preparation designs for the endodontically
Int J Prosthodont 2004; 17: 135-141. Pegurier L et al. Root canal posts for the treated maxillary second premolar. Eur J
45. Torbjorner A, Fransson B. A literature review on the restoration of root filled teeth. Cochrane Prosthodont Restor Dent 2005; 13: 57-64.
prosthetic treatment of structurally compromised teeth. Database Syst Rev 2007; CD004623. 85. Pilo R, Shapenco E, Lewinstein I. Residual dentin
Int J Prosthodont 2004; 17: 369-376. 65. Reeh E S, Douglas W H, Messer H H. Stiffness of thickness in bifurcated maxillary first premolars after
46. Okeson J P. Management of temporomandibular endodontically-treated teeth related to restoration root canal and post space preparation with parallel-
disorders and occlusion. St. Louis: Mosby, Inc, 2003. technique. J Dent Res 1989; 68: 1540-1544. sided drills. J Prosthet Dent 2008; 99: 267-273.
47. Neff P A. Temporomandibular joint, occlusion 66. Jagadish S, Yogesh B G. Fracture resistance of teeth 86. Samet N, Jotkowitz A. Classification and prognosis
and function. Washington DC: Georgetown with Class 2 silver amalgam, posterior composite, and evaluation of individual teeth-a comprehensive
University School of Dentistry, 1987. glass cermet restorations. Oper Dent 1990; approach. Quintessence Int 2009; 40: 377-387.
48. Dawson P E. Functional occlusion: from 15: 42-47. 87. Cobankara F K, Unlu N, Cetin A R, Ozkan H B.
TMJ to smile design. Mosby, 2006. 67. Hurmuzlu F, Kiremitci A, Serper A, Altundasar E, The effect of different restoration techniques on
49. Ng C C, al-Bayat M I, Dumbrigue H B, Griggs J Siso S H. Fracture resistance of endodontically the fracture resistance of endodontically-treated
A, Wakefield C W. Effect of no ferrule on failure treated premolars restored with ormocer and molars. Oper Dent 2008; 33: 526-533.
of teeth restored with bonded posts and cores. packable composite. J Endod 2003; 29: 838-840. 88. Goerig A C, Mueninghoff L A. Management of the
Gen Dent 2004; 52: 143-146. 68. Ausiello P, De Gee A J, Rengo S, Davidson C L. endodontically treated tooth. Part II: Technique.
50. Saupe W A, Gluskin A H, Radke R A J. A comparative Fracture resistance of endodontically-treated J Prosthet Dent 1983; 49: 491-497.
study of fracture resistance between morphologic premolars adhesively restored. Am J Dent 1997; 89. Aquilino S A, Caplan D J. Relationship between
dowel and cores and a resin-reinforced dowel sys-tem 10: 237-241. crown placement and the survival of endodontically
in the intraradicular restoration of structurally 69. Boyer D B, Roth L. Fracture resistance of teeth with treated teeth. J Prosthet Dent 2002; 87: 256-263.
compromised roots. Quintessence Int 1996; bonded amalgams. Am J Dent 1994; 7: 91-94. 90. Sorensen J A, Martinoff J T. Clinically significant
27: 483-491. 70. Eakle W S. Increased fracture resistance of teeth: factors in dowel design. J Prosthet Dent 1984;
51. Mannocci F, Ferrari M, Watson T F. Microleakage of comparison of five bonded composite resin sys- 52: 28-35.
endodontically treated teeth restored with fiber posts tems. Quintessence Int 1986; 17: 17-20. 91. Liberman R, Judes H, Cohen E, Eli I. Restoration of
and composite cores after cyclic loading: a confocal 71. Gelb M N, Barouch E, Simonsen R J. Resistance to posterior pulpless teeth: amalgam overlay versus
microscopic study. J Prosthet Dent 2001; cusp fracture in class II prepared and restored cast gold onlay restoration. J Prosthet Dent 1987;
85: 284-291. premolars. J Prosthet Dent 1986; 55: 184-185. 57: 540–543.
52. Fissore B, Nicholls J I, Yuodelis R A. Load fatigue 72. McCullock A J, Smith B G. In vitro studies of 92. Smales R J, Hawthorne W S. Long-term
of teeth restored by a dentin bonding agent and cusp reinforcement with adhesive restorative survival of extensive amalgams and posterior
a posterior composite resin. J Prosthet Dent 1991; material. Br Dent J 1986; 161: 450-452. crowns. J Dent 1997; 25: 225-227.
65: 80-85. 73. Soares P V, Santos-Filho P C, Martins L R, Soares C 93. Hernandez R, Bader S, Boston D, Trope M.
53. Hashimoto M, Ohno H, Sano H, Kaga M, Oguchi H. In J. Influence of restorative technique on the Resistance to fracture of endodontically treated
vitro degradation of resin-dentin bonds analysed by biomechanical behaviour of endodontically treated premolars restored with new generation dentine
microtensile bond test, scanning and transmis-sion maxillary premolars. Part I: fracture resistance and bonding systems. Int Endod J 1994; 27: 281-284.
electron microscopy. Biomaterials 2003; fracture mode. J Prosthet Dent 2008; 99: 30-37. 94. Papa J, Cain C, Messer H H. Moisture content
24: 3795–3803. 74. Soares P V, Santos-Filho P C, Gomide H A, Araujo C of vital vs endodontically treated teeth. Endod
54. Hashimoto M, Ohno H, Kaga M, Endo K et al. In vivo A et al. Influence of restorative technique on the Dent Traumatol 1994; 10: 91-93.
degradation of resin-dentin bonds in humans over 1 to biomechanical behaviour of endodontically treated 95. Sedgley C M, Messer H H. Are endodontically
3 years. J Dent Res 2000; 79: 1385-1391. maxillary premolars. Part II: strain measurement and treated teeth more brittle? J Endod 1992;
55. Mannocci F, Bertelli E, Watson T F, Ford T P. stress distribution. J Prosthet Dent 2008; 18: 332-335.
Resin-dentin interfaces of endodontically-treated 99: 114-122. 96. Panitvisai P, Messer H H. Cuspal deflection in
restored teeth. Am J Dent 2003; 16: 28-32. 75. Mondelli R F, Ishikiriama SK, de Oliveira Filho O, molars in relation to endodontic and restorative
56. Ferrari M, Vichi A, Grandini S, Goracci C. Efficacy of a Mondelli J. Fracture resistance of weakened teeth procedures. J Endod 1995; 21: 57-61.
self-curing adhesive-resin cement system on luting restored with condensable resin with and without 97. Shahrbaf S, Mirzakouchaki B, Oskoui S S,
glass-fiber posts into root canals: an SEM investigation. cusp coverage. J Appl Oral Sci 2009; 17: 161-165. Kahnamoui M A. The effect of marginal ridge thick-
Int J Prosthodont 2001; 14: 543–549. 76. Dietschi D, Duc O, Krejci I, Sadan A. Biomechanical ness on the fracture resistance of endodontically-
57. de Oliveira J A, Pereira J R, Lins do Valle A, Zogheib considerations for the restoration of endodontically treated, composite restored maxillary premolars.
L V. Fracture resistance of endodontically treated treated teeth: a systematic review of the literature, Part Oper Dent 2007; 32: 285-290.
teeth with different heights of crown ferrule restored II (Evaluation of fatigue behaviour, interfaces, and in 98. Strand G V, Tveit A B, Gjerdet N R, Eide G E.
with prefabricated carbon fiber post and composite vivo studies). Quintessence Int 2008; Marginal ridge strength of teeth with tunnel
resin core by intermittent loading. Oral Surg Oral Med 39: 117-129. prepa-rations. Int Dent J 1995; 45: 117-123.
Oral Pathol Oral Radiol Endod 2008; 77. Cotert H S, Sen B H, Balkan M. In vitro comparison 99. Ohlmann B, Gruber R, Eickemeyer G, Rammelsberg
106: e52–7. of cuspal fracture resistances of posterior teeth P. Optimizing preparation design for metal-free
58. Newman M P, Yaman P, Dennison J, Rafter M, restored with various adhesive restorations. Int J composite resin crowns. J Prosthet Dent 2008;
Billy E. Fracture resistance of endodontically Prosthodont 2001; 14: 374-378. 100: 211-219.
treated teeth restored with composite posts. J 78. St-Georges A J, Sturdevant J R, Swift E J J, 100. Krejci I, Duc O, Dietschi D, de Campos E. Marginal
Prosthet Dent 2003; 89: 360–367. Thompson J Y. Fracture resistance of prepared adaptation, retention and fracture resistance of
59. Fokkinga W A, Kreulen C M, Vallittu P K, Creugers teeth restored with bonded inlay restorations. J adhesive composite restorations on devital teeth with
N H. A structured analysis of in vitro failure loads Prosthet Dent 2003; 89: 551–557. and without posts. Oper Dent 2003; 28: 127-135.
and failure modes of fiber, metal, and ceramic post- 79. Allara F W J, Diefenderfer K E, Molinaro J D. Effect 101. Plotino G, Buono L, Grande N M, Lamorgese V,
and-core systems. Int J Prosthodont 2004; of three direct restorative materials on molar cuspal Somma F. Fracture resistance of endodontically
17: 476-482. fracture resistance. Am J Dent 2004; 17: 228-232. treated molars restored with extensive composite
60. Hayashi M, Takahashi Y, Imazato S, Ebisu S. Fracture 80. Mendoza D B, Eakle W S, Kahl E A, Ho R. Root resin restorations. J Prosthet Dent 2008;
resistance of pulpless teeth restored with post-cores reinforcement with a resin-bonded preformed post. 99: 225-232.
and crowns. Dent Mater 2006; 22: 477-485. . J Prosthet Dent 1997; 78: 10-14. 102. Van Nieuwenhuysen J P, D’Hoore W, Carvalho J,
61. Maccari P C, Cosme D C, Oshima H M, Burnett L H J, 81. al-Hazaimeh N, Gutteridge D L. An in vitro study Qvist V. Long-term evaluation of extensive restora-
Shinkai R S. Fracture strength of endodontically into the effect of the ferrule preparation on the tions in permanent teeth. J Dent 2003; 31: 395-405.

You might also like