Professional Documents
Culture Documents
1. Trình bày được nguyên nhân chủ yếu gây bệnh và yếu
tố nguy cơ.
2. Giải thích được cơ chế gây bệnh.
3. Chẩn đoán được bệnh và liệt kê các biến chứng của nó.
4. Nêu được nguyên tắc điều trị và các biện pháp dự
phòng.
1. Định nghĩa
Cần tối thiểu 4 yếu tố chính đồng thời tương tác với
nhau để tạo nên sang thương sâu. Đó là: răng nhạy
cảm, vi khuẩn (mảng bám), chất đường và thời gian .
1. Sâu men
Đây là hình thể đầu tiên của bệnh sâu răng, khác với các
mô khác, men răng không có tế bào mạch máu, thần kinh,
nên triệu chứng chủ quan chưa có. Triệu chứng khách
quan:
- Tổn thương thường thấy ở hố và rãnh mặt nhai, hoặc
chung quanh rìa miếng trám cũ.
- Men răng đổi màu trắng đục hoặc vàng nâu.
- Dùng thám trâm khám thấy men răng lởm chởm không
còn trơn láng và mắc kẹt.
2. Sâu ngà
Là giai đoạn tiếp theo của sâu men không điều trị hoặc sâu
ngay từ đầu nếu lộ ngà (thiếu men vùng cổ răng, mòn ngót
cement vùng chân răng). Ngà răng là mô có thần kinh và
phần kéo dài của nguyên bào tạo ngà trong các ống ngà,
nên dù mới chớm cũng có cảm giác đau với những kích
thích vật lý, hóa học, cơ học.
2.1. Triệu chứng chủ quan
- Đau do kích thích (nóng, lạnh, chua, ngọt, thức ăn lọt
vào, mài xoang...).
- Đau chấm dứt ngay sau khi hết kích thích,và tụ lại ở răng
nguyên nhân không lan tỏa.
2.2.Triệu chứng khách quan
- Men, ngà răng chung quanh lỗ sâu đổi màu trắng
đục, vàng hoặc hơi nâu.
- Khám bằng thám trâm: bờ lỗ sâu lởm chởm, thành
và đáy lỗ sâu có lớp ngà mềm, nạo quanh lỗ sâu bệnh
nhân có cảm giác đau.
- Gõ răng không đau.
Sâu men gốc răng (sâu cement)
Thường gặp ở người già do nướu bị co lại, nhất là ở
1/3 cổ (vì lớp cement mỏng), nên sâu cement dễ biến
thành sâu ngà.
6.Chẩn đoán
1. Chẩn đoán xác định
Dựa vào triệu chứng lâm sàng: đau do kích thích, men răng đổi
màu, đáy lỗ sâu có lớp ngà mềm...
2. Chẩn đoán gián biệt
Trên răng có thể có các tổn thương không do sâu cần phân biệt
với tổn thương sâu như:
2.1. Thiểu sản men: Có khi răng mới mọc, đối xứng
2.2. Mòn ngót cổ răng (lõm hình chêm)
- Ở vùng cổ răng, mặt ngoài các răng 3, 4, 5.
- Đáy cứng và trơn láng.
2.3. Sún răng ở trẻ em
Chỉ có ở răng sữa , xảy ra ở trẻ trước tuổi đến trường. Tổn
thương lan theo chiều rộng, đáy cứng, không đau dù mất đến
nửa thân răng.
7. Điều trị
1. Sâu men
Trước đây thường phá sạch các rãnh mặt nhai để trám dự phòng.
Ngày nay nhờ những hiểu biết mới, men răng có khả năng tái khoáng
hóa, nên sâu men không cần điều trị chỉ cần giữ gìn vệ sinh răng
miệng và tăng cường sử dụng Fluor. Tuy nhiên, đối với trẻ có nguy
cơ sâu răng cao như vệ sinh răng miệng kém, thường xuyên ăn chất
đường (bánh kẹo, sữa, nước ngọt…) thì cần phải trám dự phòng bằng
composite, glass ionomer cement (GIC).
2. Sâu ngà
Nguyên tắc trong điều trị sâu ngà là làm sạch lỗ sâu bằng
cách nạo sạch ngà mềm, sát khuẩn và trám kín với vật liệu
thích hợp (Eugenate, Amalgame, Composite, Glass
Ionomer Cement), nhằm làm mất cảm giác đau cho bệnh
nhân. Ngày nay với vật liệu hiện đại có thể trám răng mà
không cần máy khoan răng, được gọi là kỹ thuật trám răng
không sang kỹ thuật rất thích hợp với trẻ em cũng như
những nơi không có máy móc, bác sĩ chuyên khoa, điện...