Professional Documents
Culture Documents
Chuyên gia chăm sóc sức khỏe sẽ tiến hành cạo vôi răng và cạo vôi răng để làm sạch bên dưới đường
viền nướu. Điều này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng dụng cụ cầm tay hoặc thiết bị siêu âm để
phá vỡ mảng bám và vôi răng. Bào chân răng được thực hiện để làm phẳng những vùng gồ ghề trên
chân răng. Vi khuẩn có thể ẩn náu bên trong các mảng sần sùi, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh về nướu.
Tùy thuộc vào số lượng mảng bám và vôi răng có, quá trình này có thể mất một hoặc hai lần thăm
khám.
Thường khuyến cáo làm sạch hai lần một năm và có thể thường xuyên hơn, tùy thuộc vào lượng mảng
bám tích tụ.
3.Thuốc men
Một số loại nước súc miệng có tẩm thuốc và các phương pháp điều trị khác cũng có sẵn.
Thuốc súc miệng kháng khuẩn theo toa, chẳng hạn như chlorhexidine : Được sử dụng để kiểm soát vi
khuẩn khi điều trị bệnh nướu răng và sau khi phẫu thuật. Bệnh nhân sử dụng nó như một loại nước súc
miệng thông thường.
Miếng dán sát trùng : Đây là một miếng gelatin nhỏ chứa đầy chlorhexidine. Nó kiểm soát vi khuẩn và
giảm kích thước túi nha chu. Nó được đặt trong các túi sau khi bào gốc. Thuốc được đóng lại từ từ theo
thời gian.
Gel kháng sinh : Loại gel này có chứa doxycycline, một loại kháng sinh . Nó giúp kiểm soát vi khuẩn và
thu nhỏ các túi nha chu. Nó được đặt trong túi sau khi cạo vôi răng và bào gốc. Nó là một loại thuốc giải
phóng chậm.
Các vi cầu kháng sinh : Các hạt rất nhỏ có chứa minocycline, một chất kháng sinh, được đặt vào các túi
sau khi cạo vôi răng và bào gốc. Thuốc giải phóng chậm này cũng được sử dụng để kiểm soát vi khuẩn
và giảm kích thước túi nha chu.
Chất ức chế enzym : Điều này giữ cho các enzym phá hủy được kiểm soát với liều lượng thấp của
doxycycline. Một số enzym có thể phá vỡ mô nướu, nhưng thuốc này có thể làm chậm phản ứng enzym
của cơ thể. Nó được dùng bằng đường uống, dưới dạng thuốc viên, và nó được sử dụng để cạo vôi răng
và bào gốc.
Thuốc kháng sinh uống : Có dạng viên nang hoặc viên nén, được dùng bằng đường uống. Chúng được
sử dụng ngắn hạn để điều trị nhiễm trùng nha chu cấp tính hoặc dai dẳng cục bộ.
Phẫu thuật
Phẫu thuật tạo vạt : Chuyên gia chăm sóc sức khỏe thực hiện phẫu thuật tạo vạt để loại bỏ vôi trong túi
sâu, hoặc thu nhỏ túi để giữ sạch sẽ dễ dàng hơn. Nướu được nâng trở lại, và loại bỏ hắc lào. Sau đó,
nướu sẽ được khâu lại, vì vậy chúng vừa khít với răng. Sau phẫu thuật, nướu sẽ lành lại và ôm khít quanh
răng. Trong một số trường hợp, răng có thể xuất hiện lâu hơn trước.
Ghép xương và mô : Quy trình này giúp tái tạo mô xương hoặc mô nướu đã bị phá hủy. Xương tự nhiên
hoặc tổng hợp mới được đặt vào nơi xương đã mất, thúc đẩy sự phát triển của xương.
Tái tạo mô có hướng dẫn (GTR) là một quy trình phẫu thuật sử dụng màng chắn để định hướng sự phát
triển của mô xương và mô nướu mới tại những vị trí thiếu một hoặc cả hai. Nó nhằm mục đích tái tạo
mô và sửa chữa các khiếm khuyết do viêm nha chu.
Trong thủ thuật này, một mảnh nhỏ của vật liệu giống như lưới được đưa vào giữa mô nướu và xương.
Điều này ngăn không cho nướu phát triển vào không gian xương, tạo cơ hội cho xương và mô liên kết
mọc lại. Nha sĩ cũng có thể sử dụng các protein đặc biệt, hoặc các yếu tố tăng trưởng, giúp cơ thể tái tạo
xương một cách tự nhiên.
Chuyên gia nha khoa có thể đề nghị ghép mô mềm. Điều này liên quan đến việc lấy mô từ phần khác của
miệng hoặc sử dụng vật liệu tổng hợp để che các chân răng bị hở.
Thành công phụ thuộc vào mức độ tiến triển của bệnh, mức độ tuân thủ của bệnh nhân với một chương
trình vệ sinh răng miệng tốt, và các yếu tố khác, chẳng hạn như tình trạng hút thuốc.
Tác hại của viêm nha chu có thể được chấm dứt thông qua việc kiểm tra và điều trị thường xuyên và tiếp
tục vệ sinh răng miệng tốt. Đây cũng là một phần của việc điều trị khi bị nhiễm trùng.
Chải răng bằng bàn chải và kem đánh răng phù hợp ít nhất hai lần một ngày, cẩn thận làm sạch mặt
nhai và các mặt của răng.Dùng chỉ nha khoa hoặc bàn chải kẽ răng mỗi ngày để làm sạch kẽ răng,
những khoảng trống mà bàn chải không thể chạm tới. Chỉ nha khoa có thể làm sạch những kẽ hở nhỏ,
nhưng bàn chải nha khoa rất hữu ích cho những khoảng trống lớn hơn.Cẩn thận hơn khi làm sạch xung
quanh các bề mặt không bằng phẳng, chẳng hạn như răng khít, răng khấp khểnh, mão răng, răng giả,
miếng trám, v.v.Sau khi đánh răng, sử dụng nước súc miệng kháng khuẩn để ngăn vi khuẩn phát triển và
giảm phản ứng viêm trong miệng.
Theo Hiệp hội Nha khoa Hoa Kỳ (ADA), tốt nhất là:
đánh răng trong 2 phút, hai lần một ngày bằng bàn chải đánh răng thủ công hoặc điện có lông mềmsử
dụng kem đánh răng có fluorrửa sạch bàn chải sau khi sử dụng và cất giữ thẳng đứngthay bàn chải
đánh răng 3 đến 4 tháng một lần, nhiều hơn nếu lông bàn chải bị mờ hoặc sờnchọn một bàn chải có dấu
chấp nhận ADA
Không nên dùng chung bàn chải vì vi khuẩn có thể truyền từ người sang người theo cách này.
Chlorhexidine (được bán trên thị trường dưới tên các thương hiệu chỉ bán theo toa Peridex , PerioChip,
PerioGard và nhiều tên thương mại không kê đơn khác) là một chất kháng khuẩn được sử dụng để kiểm
soát mảng bám và viêm nướu trong miệng hoặc trong túi nha chu. Các loại thuốc có sẵn như là một
miệng rửa hoặc như một con chip gelatin chứa đầy được đặt trong túi sau khi bào gốc và giải phóng
thuốc chậm hơn khoảng 7 ngày. Các thuốc kháng sinh khác , bao gồm doxycycline , tetracycline và
minocycline (Arestin) cũng có thể được sử dụng để điều trị bệnh nướu răng, theo quyết định của nha sĩ.
Cấy ghép màng xương là kỹ thuật được sử dụng trong nha khoa khi trồng răng implant, mục đích giữ cho
trụ implant bền chắc, bổ trợ và đảm bảo quá trình ghép xương được diễn ra an toàn, thành công và tích
hợp. Màng xương sẽ được cấy trực tiếp vào vùng mô mềm sau khi cấy xương tạo thành rào chắn ngăn
giữa các mô, nhằm vừa giúp tránh khỏi sự xâm chiếm mô xương trong quá trình tái tạo và vừa giúp
xương cứng chắc hơn.
Tụt lợi là khuyết hổng mô quanh răng nên chỉ có thể điều trị bằng phẫu thuật. Phẫu thuật điều trị tụt lợi
chia làm ba nhóm:
Các phương pháp vạt tại chỗ có chân nuôi được chỉ định khi mô mềm tại chỗ đủ dày và rộng để
kéo che vùng chân răng hở hay nói cách khác là điều trị tụt lợi hở chân răng (lợi tụt khỏi chân răng).
Lịch sử: Grupe và Warren (1956) là những người đầu tiên mô tả phương pháp dùng vạt trượt để
sửa điều trị các tổn thương lợi. Họ mô tả vạt toàn phần trượt bên từ vùng lành sang vùng chân răng hở
và che chân răng. Bài viết này chúng tôi không tìm được bản gốc nên chúng tôi trích dẫn lại qua bài của
Serge Dibart and Mamdouth Karima .
Phương pháp này do Bahat cải tiến từ phương pháp của Pennel. Đây là biến thể của vạt xoay
chéo do Pennel đưa ra năm 1956. Vạt chân nuôi được xoay 90 độ và khâu vào mô liên kết bên dưới .
Năm 1968, Cohen và Ross mô tả phương pháp sử dụng vạt nhú lợi lấy từ hai bên che chân răng
và tổn thương ở lợi ở những trường hợp không thể sử dụng vạt trượt bên vì thiếu mô .
- Phương pháp vạt trượt về phía cổ răng:
Bernimoulin năm 1975 là người đầu tiên báo cáo phương pháp ghép lợi tự thân tự do sau đó tiến
hành phương pháp vạt trượt về phía cổ răng .
Phương pháp này có thể dùng với trường hợp tụt lợi từ 1 đến 2mm .
v Nhóm sử dụng mô ghép rời tự thân lấy từ vị trí khác trong miệng.
Các phương pháp sử dụng mô ghép tự thân có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp tụt lợi.
Bjorn, Sullivan và Atkins năm 1968 là những người đầu tiên mô tả phẫu thuật ghép lợi tự do tự
thân. Vì không tìm được tài liệu nguyên gốc nên chúng tôi trích dẫn qua bài của Serge Dibart .
Do Langer B. và Langer L. đưa ra năm 1985 . Hai lợi tự do và phương pháp này kết hợp ưu điểm
của phương pháp ghép lợi tự do và phương pháp vạt tại chỗ nên hiệu quả cao, vì vậy chúng tôi chọn
phương pháp này để tiến hành đề tài nghiên cứu. Các bước của phẫu thuật được trình bày trong chương
2.
* Nhóm phương pháp sử dụng màng nhân tạo kết hợp vạt tại chỗ.
Màng biểu bì đồng loại không tế bào (Acelular dermal matrix allograft ) lúc đầu được nghiên cứu
để che phủ vết thương bỏng vào năm 1994, sau đó được ứng dụng trong nha khoa. Màng này lấy từ da
người chết, được loại bỏ hết tế bào, chỉ để lại khung bó sợi collagen, sau đó làm đông khô rồi đóng gói .
- Phương pháp tái sinh mô có hướng dẫn (guided tissue regeneration): là phương pháp giúp tái tạo lại
phần mô quanh răng đã mất, có thể dùng màng sinh học tiêu hoặc không tiêu , yêu cầu của phương
pháp này là mô mềm tại chỗ phải đủ kích thước để che phủ kín màng sinh học.