Professional Documents
Culture Documents
a) Sơ đồ n
Sử dụng “Sơ đồ n” trong trường hợp lô nguyên liệu cần lấy mẫu được coi là
đồng nhất và được cung cấp từ một nguồn xác định. Có thể lấy mẫu từ bất kỳ phần
nào trong thùng nguyên liệu (thường từ lớp trên cùng). “Sơ đồ n” dựa trên công
thức n = 1 + N , với N là số đơn vị bao gói của lô hàng. Số đơn vị lấy mẫu tối
thiểu n có được bằng cách làm tròn đơn giản. Từ n đơn vị lấy mẫu được chọn ngẫu
nhiên, lấy ra các mẫu ban đầu, đựng trong các đồ đựng mẫu riêng biệt. Nếu các
mẫu ban đầu lấy được không có nghi ngờ gì về cảm quan và định tính, các mẫu
ban đầu được trộn đều thành mẫu riêng, mẫu chung để chia thành mẫu phân tích và
mẫu lưu theo trình tự chung.
b) Sơ đồ p
Sử dụng “sơ đồ p” trong trường hợp lô nguyên liệu được xem là đồng nhất,
từ một nguồn xác định và mục đích chính là để kiểm tra định tính. “Sơ đồ p” dựa
vào công thức p = 0,4 N , với N là số đơn vị bao gói của lô hàng. Giá trị p có
được bằng cách làm tròn lên đến số nguyên lớn nhất tiếp theo. Các mẫu ban đầu
được lấy từ mỗi trong số N đơn vị bao gói của lô hàng và được đựng trong các đồ
đựng mẫu riêng biệt. Các mẫu ban đầu này được kiểm tra về cảm quan, định tính.
Nếu kết quả phù hợp, p mẫu chung được tạo thành bằng cách trộn lẫn thích hợp
các mẫu ban đầu để lưu hoặc phân tích (nếu cần thiết).
c) Sơ đồ r
Sử dụng “sơ đồ r” khi lô nguyên liệu bị nghi ngờ là không đồng nhất
và/hoặc tiếp nhận từ nguồn không xác định, dược liệu hay các nguyên liệu ban đầu
là dược liệu đã được chế biến một phần. Sơ đồ này dựa trên công thức r = 1,5 N ,
với N là số đơn vị bao gói của lô sản phẩm. Giá trị r thu được bằng cách làm tròn
tới số nguyên lớn nhất tiếp theo.
Các mẫu ban đầu được lấy từ mỗi trong số N đơn vị bao gói và được đựng
trong các đồ đựng mẫu riêng biệt. Các mẫu ban đầu này được kiểm tra cảm quan
và định tính. Nếu kết quả phù hợp, lựa chọn ngẫu nhiên r mẫu để thực hiện kiểm
nghiệm riêng rẽ. Nếu kết quả kiểm nghiệm đồng nhất, các mẫu lưu có thể được
gộp lại thành 01 mẫu lưu.
9.3. Lấy mẫu nguyên liệu ban đầu để định tính đối với các cơ sở sản xuất
không áp dụng các sơ đồ trên mà theo nguyên tắc “Thực hành tốt sản xuất thuốc”
theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (GMP-WHO).
II. Các bước thực hiện lấy mẫu
1. Các chế phẩm lỏng chờ đóng gói
Các bước cần được xem xét khi lấy mẫu các chế phẩm lỏng chờ đóng gói
như sau:
- Đọc và hiểu các khuyến cáo thận trọng để đảm bảo an toàn khi cấp phát
nguyên liệu.
- Tập trung các thiết bị lấy mẫu cần thiết (ống lấy mẫu hay bình lấy mẫu có
thể cân được weighted sampling, các bình đựng mẫu lấy và nhãn) và kiểm tra để
đảm bảo tất cả những dụng cụ cần thiết đều sạch.
- Xác định vị trí của lô.
- Kiểm tra các đồ đựng xem có dấu hiệu ô nhiễm lô hay không. Ghi lại bất
cứ điểm nghi ngờ nào.
- Kiểm tra các nhãn để phát hiện những khác biệt rõ ràng và những dấu hiệu
thay đổi, kể cả tẩy xoá và ghi nhãn nhầm. Ghi lại bất cứ điểm nghi ngờ nào.
- Tìm hiểu và làm rõ các nguồn gốc gây sai sót vì bất kỳ lý do gì trước khi
tiến hành.
- Chọn ống lấy mẫu chế phẩm lỏng có cỡ và miệng phù hợp với độ nhớt của
chế phẩm lỏng cần lấy mẫu.
- Lấy mẫu chế phẩm lỏng, hỗn dịch hay nhũ tương (đã được khuấy đều, nếu
thích hợp) bằng cách ấn từ từ ống lấy mẫu để mở vào chế phẩm lỏng theo phương
thẳng đứng sao cho lấy được sản phẩm từ mỗi lớp.
- Đóng chặt ống mẫu, rút ống mẫu ra khỏi chế phẩm lỏng và để cho chế
phẩm dính bên ngoài ống được róc hết. Chuyển toàn bộ mẫu đã lấy trong ống sang
một bình đựng mẫu sạch và có dán nhãn.
- Lặp lại các bước trên cho đến khi lấy đủ mẫu để phân tích và để lưu.
- Niêm phong bình đựng mẫu.
- Niêm phong lại thùng sản phẩm vừa lấy mẫu và dán nhãn “đã lấy mẫu”.
- Làm sạch và khô ống lấy mẫu, lưu ý những thận trọng về an toàn.
- Tiếp tục lấy mẫu ở những thùng sản phẩm khác theo cách tương tự các
bước ở trên.
- Làm sạch ống lấy mẫu bằng quy trình làm sạch đã quy định.
- Chuyển các mẫu phân tích tới phòng kiểm nghiệm và các mẫu lưu đến kho
lưu mẫu. Báo cáo lại bất cứ điểm nghi ngờ nào liên quan tới việc lấy mẫu mà
người phân tích và thanh tra viên cần lưu ý.
- Kiểm tra giấy chứng nhận phân tích của nhà cung cấp so với các tiêu
chuẩn, nếu có.
2. Nguyên liệu ban đầu dạng bột
Các bước cần thực hiện khi lấy mẫu nguyên liệu ban đầu dạng bột như
sau:
- Đọc và hiểu các lưu ý thận trọng cần thực hiện để đảm bảo an toàn khi xử
lý nguyên liệu.
- Tập hợp các thiết bị lấy mẫu (xiên lấy mẫu, bình đựng mẫu lấy và nhãn) và
kiểm tra xem tất cả có sạch hay không.
- Xác định đợt hàng và đếm số thùng
- Kiểm tra tất cả các thùng xem có gì khác và có dấu hiệu bị hư hỏng không.
Ghi lại bất cứ điểm nghi ngờ nào.
- Kiểm tra tất cả các nhãn xem có khác hay có dấu hiệu thay đổi nào không,
kể cả tẩy xóa và ghi nhầm nhãn. Ghi lại bất cứ điểm nghi ngờ nào.
- Tách các thùng bị hư hỏng và những thùng mà sản phảm bên trong nghi bị
hỏng để kiểm tra riêng. Sau đó những thùng này phải được đề cập hay bị từ chối.
- Tách riêng các thùng có số lô khác và xử lý riêng.
- Đánh số những thùng còn lại.
- Chọn sơ đồ lấy mẫu thích hợp (n, p hoặc r).
- Chọn những thùng cần lấy mẫu theo yêu cầu của sơ đồ đã được chọn (dùng
bảng số ngẫu nhiên, vẽ sơ đồ lô hay dùng đánh số ngẫu nhiên).
- Mỗi lần mở một thùng và kiểm tra sản phẩm bên trong. Ghi lại nếu có khác
biệt.
- Chọn xiên lấy mẫu thích hợp và sạch, xiên (với cửa lấy mẫu đóng kín) vào
bột thuốc sao cho đầu xiên chạm đáy thùng.
- Mở cửa để lấy bột thuốc vào các khoang xiên, sau đó đóng lại
- Rút xiên ra khỏi thùng đựng mẫu và chuyển xiên đã chứa bột thuốc được
lấy sang một bình đựng mẫu đã dán nhãn
- Lặp lại các bước trên cho đến khi lấy đủ vật liệu để phân tích và lưu.
- Niêm phong bình đựng mẫu lấy.
- Niêm phong lại thùng sản phẩm vừa lấy mẫu và dán nhãn có ghi “đã lấy
mẫu”.
- Lau sạch xiên lấy mẫu nếu cần, chú ý những thận trọng về an toàn, trước
khi lấy mẫu các thùng khác.
- Lặp lại các bước như trên với mỗi thùng đã chọn.
- Lau sạch xiên lấy mẫu dùng quy trình làm sạch đã quy định.
- Chuyển các mẫu phân tích tới phòng kiểm nghiệm và các mẫu lưu đến kho
lưu mẫu. Báo cáo lại bất cứ nghi ngờ nào liên quan tới lấy mẫu mà người phân tích
và thanh tra viên cần lưu ý.
- Kiểm tra giấy chứng nhận phân tích của nhà cung cấp so với các tiêu
chuẩn, nếu có.
3. Nguyên liệu bao gói
Các bước cần xem xét thực hiện khi lấy mẫu nguyên liệu đóng gói như sau:
- Kiểm tra đợt hàng so với hồ sơ liên quan.
- Kiểm tra các thùng trung chuyển theo các chi tiết sau và báo cáo bất cứ sự
chênh lệch nào nếu cần:
+ Xác định các thông tin đúng;
+ Niêm phong còn nguyên vẹn, nếu có niêm phong;
+ Không bị hư hỏng.
- Lấy mẫu cần thiết từ số thùng nguyên liệu theo yêu cầu, đặc biệt lưu ý đến
những quy định về lấy mẫu nguyên liệu đóng gói ở Mục I, khoản 9 của Phụ lục
này.
- Đưa mẫu đã lấy vào các đồ đựng mẫu thích hợp.
- Đánh dấu các thùng nguyên liệu đã được lấy mẫu.
- Lưu ý bất kỳ tình huống đặc biệt nào xảy ra trong quá trình lấy mẫu (ví dụ:
hàng kém chất lượng hay các thành phần bị hư hại). Báo cáo những bất thường
quan sát được.
- Chuyển tất cả các pa-lét hay thùng nguyên liệu đã lấy mẫu khỏi khu vực
lấy mẫu cùng với toàn bộ hồ sơ.
- Kiểm tra giấy chứng nhận phân tích của nhà cung cấp so với các tiêu
chuẩn, nếu có.
4. Thuốc thành phẩm
Khi lấy mẫu thành phẩm cần cân nhắc các bước sau:
- Xác định số pa-lét cho mỗi lô trong đợt hàng.
- Tính toán số pa-lét dựa theo số đơn vị lấy mẫu để kiểm tra mẫu bằng cảm
quan quy định:
+ Kiểm tra điều kiện của pa-lét và bao bì về tính toàn vẹn của nguyên liệu
đóng gói bên ngoài.
+ Kiểm tra phía ngoài của hàng hóa trên các pa-lét xem có sạch không.
+ Kiểm tra xem ghi nhãn trên các pa-lét có phù hợp với danh mục hàng hóa
đóng gói không.
+ Đếm, phân loại và ghi chép các sai sót.
- Tính tổng số gói (hộp) đựng hàng vận chuyển trên số pa-lét hiện có và xác
minh tổng số căn cứ vào danh mục đóng gói hàng.
- Kiểm tra các gói (hộp) hàng vận chuyển (đơn vị đóng gói trung gian) từ số
pa-lét đã chọn:
+ Kiểm tra xem nguyên liệu đóng gói của các hộp đựng hàng có còn nguyên
vẹn không.
+ Kiểm tra xem các hộp có sạch không.
+ Kiểm tra xem nhãn trên các hộp có bị hư hỏng không.
+ Kiểm tra các hộp xem có hư hỏng gì không.
+ Kiểm tra các nhãn xem có lỗi chính tả không.
+ Kiểm tra ngày sản xuất và hạn dùng trên các nhãn.
+ Đếm, phân loại và ghi chép các sai sót.
- Kiểm tra bằng cảm quan các đơn vị đóng gói cuối cùng từ các đơn vị đóng
gói trung gian:
+ Kiểm tra xem vật liệu đóng gói của các đơn vị đóng gói cuối cùng có còn
nguyên vẹn không.
+ Kiểm tra xem các gói hàng có sạch không.
+ Kiểm tra hình dạng và màu sắc của các gói hàng.
+ Kiểm tra xem nhãn trên các gói hàng có bị hư hỏng không.
+ Kiểm tra các gói xem có hư hỏng gì không.
+ Kiểm tra các nhãn xem có lỗi chính tả không.
+ Kiểm tra ngày sản xuất và hạn dùng trên các nhãn.
+ Đếm, phân loại và ghi chép số lỗi.
- Từ số gói hàng được chọn, dựa theo têu chuẩn chất lượng, bằng phương
pháp lấy mẫu ngẫu nhiên, tính số gói hàng cần kiểm tra lý học, hóa học và số
lượng cần cho mẫu lưu.
- Kiểm tra giấy xác nhận phân tích của nhà cung cấp so với các tiêu chuẩn,
nếu có.
III. Các loại dụng cụ lấy mẫu
Hình 2. Tuýp lấy mẫu chế phẩm lỏng và chế phẩm bôi ngoài da
Tuýp lấy mẫu
thân tròn
Tuýp trong
Tuýp ngoài
Dụng cụ lấy
mẫu
Nơi đựng mẫu
lấy được
Cân
Hình 4. Dụng cụ lấy mẫu có thể cân được (weighted container)
Lấy mẫu từ các bể chứa và thùng chứa lớn thì dùng loại dụng cụ lấy mẫu có
thể cân được. Đồ đựng này được thiết kế sao cho có thể mở ra ở một độ sâu cần
thiết. Các điểm đánh dấu trên dây được dùng để xác định khi nào thì dụng cụ đựng
tới độ sâu phù hợp.
A
IV. Số đơn vị bao gói thương phẩm của thuốc thành phẩm cần lấy để kiểm tra
bằng cảm quan (ISO 2859-1)
QUY ĐỊNH DỊCH VỤ KIỂM NGHIỆM MẪU THUỐC, NGUYÊN LIỆU LÀM THUỐC,
1. Giá cụ thể dịch vụ kiểm nghiệm mẫu thuốc, nguyên liệu làm thuốc, thuốc dùng cho người tại tổ
chức cung ứng dịch vụ chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng của dịch vụ cung ứng quy định tại Phụ lục ban
hành kèm theo Thông tư này.
Trường hợp mức giá quy định bằng ngoại tệ thì quy đổi ngoại tệ ra Đồng Việt Nam theo tỷ giá
ngoại tệ mua vào theo hình thức chuyển khoản của Hội sở chính Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam tại thời điểm thu tiền dịch vụ hoặc cuối ngày làm việc liền trước ngày lễ, ngày nghỉ.
2. Khi thu tiền dịch vụ kiểm nghiệm mẫu thuốc, nguyên liệu làm thuốc, thuốc dùng cho người, tổ
chức cung ứng dịch vụ sử dụng hóa đơn cung ứng dịch vụ theo quy định tại Nghị định số 51/2010/NĐ-
CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng, cung cấp dịch vụ (gọi tắt là
Nghị định số 51/2010/NĐ-CP); Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 của Chính
phủ quy định về hóa đơn bán hàng, cung cấp dịch vụ (gọi tắt là Nghị định số 04/2014/NĐ-CP); Thông tư
số 39/2014/TT-BTC ngày 31 tháng 3 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị
định số 51/2010/NĐ-CP và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
3. Nguồn thu từ cung ứng dịch vụ, sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính với ngân sách nhà nước
theo quy định của pháp luật thì phần còn lại được để lại tổ chức cung ứng dịch vụ sử dụng theo quy định
của pháp luật về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp y tế công lập.
Trường hợp nguồn tài chính của tổ chức cung ứng dịch vụ không bảo đảm hoạt động thường
xuyên, đồng thời tổ chức cung ứng dịch vụ đó được cấp có thẩm quyền phân loại là đơn vị sự nghiệp
công tự bảo đảm một phần chi thường xuyên hoặc đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi
thường xuyên thì tiếp tục được ngân sách nhà nước bảo đảm phần chi phí phục vụ công tác kiểm
nghiệm mẫu thuốc, nguyên liệu làm thuốc, thuốc dùng cho người chưa được bù đắp từ nguồn thu qua
giá dịch vụ theo phân cấp ngân sách nhà nước hiện hành.
GIÁ CỤ THỂ DỊCH VỤ KIỂM NGHIỆM MẪU THUỐC, NGUYÊN LIỆU LÀM THUỐC, THUỐC DÙNG
CHO NGƯỜI
THUỐC ĐẶT
1. Định nghĩa
Thuốc đặt là dạng thuốc rắn, chứa một hoặc nhiều dược chất, dùng để đặt vào
các hốc tự nhiên của cơ thể. Thuốc có thể có tác dụng tại chỗ hoặc toàn thân. Khi
đặt vào vị trí trên cơ thể, thuốc đặt thường chảy ra, mềm ở thân nhiệt hoặc hòa tan
dần trong niêm dịch để giải phóng dược chất.
Tá dược dùng cho thuốc đặt bao gồm: Bơ cacao và chế phẩm của bơ cacao,
hỗn hợp gelatin – glycerin – nước, dầu thực vật hydrogen hóa, glycerid bán tổng
hợp, hỗn hợp polyethylen glycol khối lượng phân tử khác nhau (PEG 400, PEG
1500, PEG 1540, PEG 3000, PEG 4000), este của acid béo với PEG.
2. Phân loại
Thuốc đặt trực tràng: Thường có hình dạng giống như đầu viên đạn (hình nón
cụt) hoặc hình thủy lôi, khối lượng khoảng 1 g đến 3 g.
Thuốc đặt âm đạo: Thường có hình trái xoan, khối lượng khoảng 3 g đến 10 g.
Thuốc đặt niệu đạo: Đường kính 1 mm đến 4 mm, chiều dài 6 cm đến 20 cm, khối
lượng khoảng 0,5 g đến 4,0 g.
3. Yêu cầu chất lượng
Độ rã: Đạt yêu cầu Phép thử độ rã của thuốc đạn và thuốc trứng (Phụ lục
11.5).
Độ đồng đều khối lượng: Đạt yêu cầu Phép thử độ đồng đều khối lượng (Phụ
lục 11.3).
Độ đồng đều hàm lượng (Phụ lục 11.2): Nếu không có chỉ dẫn khác, thuốc đặt
đơn liều có hàm lượng hoạt chất dưới 2 mg hoặc dưới 2% (kl/kl) phải thử độ đồng
đều hàm lượng. Đối với chế phẩm có từ 2 dược chất trở lên, chỉ áp dụng yêu cầu
này với thành phần có hàm lượng nhỏ như qui định ở trên. Thuốc đặt đã thử độ
đồng đều về hàm lượng với tất cả các dược chất có trong thành phần thì không phải
thử độ đồng đều khối lượng.
Bảo quản: Trong bao bì kín, thích hợp (hộp, màng nhôm, polymer), để nơi
mát (nhiệt độ dưới 30°C).
DUNG DỊCH THUỐC
Định nghĩa
Dung dịch thuốc là những chế phẩm lỏng trong suốt chứa một hoặc nhiều
dược chất hòa tan trong một dung môi hay hỗn hợp dung môi thích hợp.
Tính chất: Do các phân tử trong dung dịch phân tán đồng nhất, nên các dung
dịch thuốc đảm bảo sự phân liều đồng nhất khi sử dụng và độ chính xác cao khi
pha loãng hoặc khi trộn các dung dịch với nhau. Các dược chất trong dung dịch
thường ít ổn định về mặt hóa học so với dạng rắn. Các dung dịch thuốc thường cần
bao bi lớn và có dung tích lớn hơn so với dạng thuốc rắn.
Phân loại: Có thể phân loại dung dịch thuốc theo hai cách sau đây. Phân loại
theo đường sử dụng như: Dung dịch thuốc uống: Các dạng thuốc dùng được uống,
bao gồm cả sirô thuốc (qui định tại Phụ lục 1.4). Dung dịch thuốc dùng tại chỗ:
Thuốc dùng ngoài da, thuốc nhỏ mắt (qui định tại Phụ lục 1.14), thuốc nhỏ mũi
(qui định tại Phụ lục 1.15), thuốc nhỏ tai (qui định tại Phụ lục 1.16). Dung dịch
thuốc tiêm được qui định riêng trong chuyên luận Thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền
(Phụ lục 1.19). Dung dịch thuốc khí dung qui định tại Phụ lục 1.18; dung dịch
thuốc hít qui định tại Phụ lục 1.17. Phân loại theo hệ dung môi và chất tan, ví dụ:
Rượu thuốc (qui định tại Phụ lục 1.22), cồn thuốc (qui định tại Phụ lục 1.2), cồn
ngọt, nước thơm.
Phương pháp điều chế
Dung dịch thuốc thường được điều chế bằng cách hòa tan dược chất vào trong
dung môi. Với một số dung dịch thuốc uống có thể điều chế bằng cách pha loãng
dung dịch đậm đặc hoặc hòa tan bột hoặc cốm thuốc, thuốc viên vào dung môi
thích hợp. Dung môi dùng để pha chế dung dịch thuốc được lựa chọn dựa trên tính
chất của dược chất và đường dùng đồng thời phải mang lại tính chất cảm quan phù
hợp với yêu cầu của chế phẩm. Có thể cho thêm các chất bảo quản kháng vi khuẩn,
nấm mốc, chất chống oxy hóa và các tá dược khác như chất làm tăng độ tan, chất
làm ngọt hay tạo mùi vị, tạo màu…
Yêu cầu chất lượng
Tính chất: Khi quan sát bằng mắt thường, dung dịch phải trong, có thể có màu
hoặc không màu. Yêu cầu về pH, định tính, định lượng, sai số thể tích và các yêu
cầu kỹ thuật khác: Phải đạt yêu cầu kỹ thuật chung của từng loại thuốc và theo
chuyên luận riêng. Bảo quản Các dung dịch, đặc biệt là các dung dịch chứa dung
môi dễ bay hơi, phải bảo quản trong bao bì kín, để nơi mát. Cần xem xét để sử
dụng các bao bì tránh ánh sáng khi sự biến đổi hóa học do ánh sáng có thể ảnh
hưởng đến độ ổn định của thuốc.
NHŨ TƯƠNG THUỐC
Định nghĩa
Nhũ tương thuốc là dạng thuốc lỏng hoặc mềm để uống, tiêm hoặc dùng
ngoài, được điều chế bằng cách sử dụng các chất nhũ hóa để trộn đều hai chất lỏng
không đồng tan được gọi theo quy ước là: Dầu (bao gồm các dầu, mỡ, sáp, tinh
dầu, chất nhựa và những dược chất không tan trong nước) và Nước (bao gồm nước
cất, nước thơm, nước sắc, nước hãm hoặc các dung dịch nước của các dược chất).
Trong nhũ tương thuốc, một trong hai chất lỏng là pha phân tán hoặc pha nội,
ờ dạng tiểu phân có đường kính từ 0,1 µm trở lên, phân tán đều trong chất lỏng kia
gọi là môi trường phân tán hoặc pha ngoại. Khi dầu là pha phân tán và nước là môi
trường phân tán thì nhũ tương là kiểu dầu trong nước, có ký hiệu là D/N; Khi nước
là pha phân tán và dầu là môi trường phân tán thì nhũ tương là kiểu nước trong dầu
có ký hiệu là N/D.
Chất nhũ hóa quyết định kiểu nhũ tương và giúp ổn định chúng do ngăn cản
sự kết tụ các giọt nhỏ thành giọt lớn, dẫn đến sự tách lớp. Chất nhũ hóa hòa tan
trong nước sẽ tạo ra kiểu nhũ tương D/N; chất nhũ hóa hòa tan trong dầu, mở, sáp
sẽ tạo ra kiểu nhũ tương N/D. Các chất nhũ hóa là chất hoạt động bề mặt, khi có
lực phân tán, sẽ tập trung lên bề mặt tiếp xúc giữa hai pha tạo ra hàng rào ngăn
cản không cho các giọt kết tụ lại, mặt khác làm giảm sức căng lên bề mặt giữa hai
pha, nhờ vậy giúp sự nhũ hóa được dễ dàng. Các chất cao phân tử thân nước thiên
nhiên, bán tổng hợp hay tổng hợp có thể được sử dụng phối hợp với chất nhũ hóa
hoạt động bề mặt trong các nhũ tương kiểu D/N do chúng tích tụ lên bề mặt tiếp
xúc và cũng làm tăng độ nhớt của pha nước, như vậy làm giảm sự kết hợp của các
giọt. Sự kết hợp này thường sẽ dẫn đến hiện tượng: Sự nổi kem do các giọt dầu lớn
nổi lên (trong nhũ tương D/N) hoặc sự lắng xuống đáy của các giọt nước lớn (trong
nhũ tương N/D).
Phương pháp điều chế
Tùy theo điều kiện trang thiết bị, nhũ tương có thể được điều chế bằng cách:
Điều chế nhũ tương đậm đặc với chất nhũ hóa, dược chất lỏng và lượng vừa đủ pha
ngoại, sau đó pha loãng nhũ tương đậm đặc với pha ngoại.
Hòa tan chất nhũ hóa vào pha ngoại, sau đó cho dược chất lỏng vào từ từ vừa
dùng lực gây phân tán mạnh để nhũ hóa. Cần cho thêm các chất bảo quản thích
hợp vào nhũ tương do pha nước là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của vi
khuẩn và nấm mốc.
Hiệu lực của các chất bảo quản trong thành phẩm phải được kiểm tra.
Yêu cầu chất lượng
Tính chất: Khi quan sát bằng mắt thường, nhũ tương đặc phải mịn và đồng
nhất giống như kem; còn nhũ tương lỏng phải đục trắng và đồng nhất giống như
sữa.
Yêu cầu về pH, định tính, định lượng, sai số thể tích và các yêu cầu kỹ thuật
khác: Phải đạt qui định theo chuyên luận riêng. Nhũ tương dùng để tiêm hoặc nhỏ
mắt: Phải đáp ứng yêu cầu về Thử vô khuẩn (Phụ lục 13.7).
Bảo quản: Ở nơi mát, nhiệt độ ít thay đổi. Đóng nhũ tương thuốc vào chai lọ
có dung tích hơi lớn hơn thể tích thuốc một chút và trên nhãn có ghi dòng chữ: Lắc
trước khi dùng.
HỖN DỊCH THUỐC
1. Định nghĩa
Hỗn dịch là dạng thuốc lỏng để uống, tiêm hoặc dùng ngoài, chứa ít nhất một
dược chất rắn không hòa tan được phân tán đều dưới dạng tiểu phân mịn hoặc cực
mịn trong chất dẫn là nước hoặc dầu. Hỗn dịch có thể lắng xuống đáy và khi lắc
phải phân tán đều thành dạng huyền phù ổn định trong một khoảng thời gian đủ để
lấy ra liều đúng theo quy định. Hỗn dịch có thể chứa chất hoạt động bề mặt, chất
tăng độ nhớt nhằm duy trì trạng thái phân tán đều và ngăn cản hiện tượng các chất
lắng xuống bị đóng bánh và trở lên rắn chắc. Hỗn dịch uống có thể chứa chất bảo
quản kháng khuẩn, chất chống oxy hóa và các tá dược thích hợp khác như chất
phân tán, chất tạo hương, chất tạo màu, chất làm ngọt, chất ổn định. Các chất trong
thành phần bào chế của hỗn dịch phải đạt tiêu chuẩn Dược điển hoặc tuân thủ các
tiêu chuẩn hiện hành của cơ quan có thẩm quyền.
Tùy theo hình thức cảm quan, hỗn dịch được chia làm hai loại: Dạng hỗn dịch
có thể sử dụng ngay: Là chất lỏng đục hay thể lỏng có một lớp cặn ở đáy chai, khi
lắc nhẹ cặn này phải được phân tán đều trở lại trong chất dẫn. Dạng bột hoặc cốm
để pha hỗn dịch: Trước khi sử dụng, chuyển thành hỗn dịch bằng cách lắc với một
lượng chất dẫn thích hợp. Thuốc tiêm hỗn dịch không được tiêm tĩnh mạch và
không được tiêm ống sống
2. Phương pháp điều chế
Có hai phương pháp điều chế hỗn dịch:
Phương pháp phân tán: Hỗn dịch được điều chế bằng cách thêm các chất tạo
hỗn dịch, các tá dược thích hợp khác và nước hoặc dầu vào dược chất rắn đã được
nghiền mịn và làm thành hỗn dịch đồng nhất bằng phương pháp thích hợp.
Phương pháp ngưng kết: Tạo ra dược chất rắn kết tủa trong chất dẫn ngay khi
pha chế bằng cách làm thay đổi dung môi hay bằng phản ứng trao đổi ion.
Hỗn dịch dùng để tiêm hay nhỏ mắt phải pha chế trong điều kiện vô khuẩn và
được thêm chất sát khuẩn thích hợp sau khi pha chế. Hỗn dịch uống có thể chứa
trong đồ đựng đơn liều hoặc đa liều. Đối với hỗn dịch chứa trong đồ đựng đa liều,
phải chứng tỏ có thể lấy ra lượng thuốc theo quy định từ đồ đựng. Dụng cụ đo thể
tích có thể là thìa, cốc đong 5 ml hoặc hơn có chia vạch hoặc bơm tiêm có thể tích
khác nhau.
3. Yêu cầu chất lượng
Yêu cầu chung: Hỗn dịch khi để yên thì dược chất rắn phân tán có thể tách
riêng nhưng phải trở lại trạng thái phân tán đồng nhất trong chất dẫn khi lắc nhẹ
trong 1 phút đến 2 phút và giữ nguyên trạng thái đó trong vài phút.
Yêu cầu về cảm quan, pH, định tính, định lượng, sai số, thể tích và các yêu
cầu kỹ thuật khác: Phải đạt yêu cầu kỹ thuật chung của từng loại thuốc và theo quy
định trong chuyên luận riêng.
Hỗn dịch dùng tiêm hoặc nhỏ mắt: Phải đáp ứng yêu cầu về Thử vỏ khuẩn
(Phụ lục 13.7) và yêu cầu về kích thước tiểu phân cũng như các qui định theo
chuyên luận chung. Hỗn dịch nhỏ mắt không được phân phối và sử dụng nếu có
dấu hiệu đóng bánh hoặc kết khối.
Bột hoặc cốm để pha hỗn dịch: Phải đáp ứng yêu cầu chung của Thuốc bột
(Phụ lục 1.7) hoặc Thuốc cốm (Phụ lục 1.8).
Độ hòa tan: Yêu cầu được chi ra trong chuyên luận riêng. Phương pháp thử
được ghi trong chuyên luận Phép thử độ hòa tan (Phụ lục 11.4).
Bảo quản và nhãn Đóng hỗn dịch vào chai, lọ hoặc đồ đựng kín có dung tích
lớn hơn thể tích thuốc. Nhãn có ghi “Lắc trước khi dùng”. Bảo quản ở nơi khô,
mát.
CỒN THUỐC
Định nghĩa
Cồn thuốc là những chế phẩm lỏng, được điều chế bằng cách chiết dược liệu
thực vật, động vật hoặc hòa tan cao thuốc, dược chất theo tỷ lệ quy định với
ethanol ở các nồng độ khác nhau.
Cồn thuốc dược điều chế từ một nguyên liệu gọi là cồn thuốc đơn. Cồn thuốc
dược điều chế từ nhiều nguyên liệu khác nhau gọi là cồn thuốc kép. Cách biểu thị
hoạt tính: Các cồn thuốc có nguồn gốc từ thực vật có chứa các thành phần có hoạt
tính mạnh, biểu thị hoạt tính theo 10g dược liệu trong mỗi 100 ml cồn thuốc. Phần
lớn những cồn thuốc từ dược liệu khác biểu thị theo 20g dược liệu trong mỗi 100
ml cồn thuốc. Các cồn thuốc khác nhau không nhất thiết phải pha loãng để đạt
cùng một tỷ lệ giữa dược liệu ban đầu và cồn thuốc. Tỷ lệ này sẽ tùy thuộc vào các
yêu cầu được mô tả trong các thử nghiệm xác định hàm lượng của hoạt chất hay
của nhóm hoạt chất trong các chuyên luận riêng.
Trong khi điều chế, cồn thuốc được định lượng theo những thử nghiệm xác
định hàm lượng này. Sử dụng các giá trị thu được từ kết quả định lượng, điều chỉnh
nồng độ cuối cùng của cồn thuốc bằng cách cho thêm dung môi hoặc làm bay hơi
một phần dung môi.
Phương pháp điều chế
Cồn thuốc có thể được điều chế theo ba phương pháp: Ngâm, ngâm nhỏ giọt
và hòa tan.
Phương pháp ngâm: Cho dược liệu đã chia nhỏ vào một dụng cụ thích hợp
và thêm khoảng 3/4 lượng ethanol sử dụng. Đậy kín, để ở nhiệt độ thường, ngâm
từ 3 ngày đến 10 ngày, thỉnh thoảng khuấy trộn. Sau đó gạn lọc thu dịch chiết. Rửa
bã và ép bã bằng lượng ethanol còn lại. Gộp dịch chiết, dịch ép và bổ sung ethanol
để thu được lượng dịch chiết quy định, để yên từ 1 ngày đến 3 ngày, gạn lọc lấy
dịch trong.
Phương pháp ngâm nhỏ giọt: Dùng bình ngâm nhỏ giọt có thể tích phù hợp
với khối lượng dược liệu đem chiết. Cho dược liệu đã chia nhỏ vào một dụng cụ
thích hợp, trộn với ethanol vừa đủ ẩm. Đậy nắp kín, để yên 2h đến 4h ở nhiệt độ
phòng. Cho dược liệu đã làm ấm vào bình ngâm nhỏ giọt đến khoáng 3/4 thể tích
của bình, đặt trên mặt dược liệu những vật liệu thích hợp để tránh xáo trộn khi đổ
dung môi vào. Mở khóa bình, đồ từ từ ethanol lên khối dược liệu cho đến khi có
vài giọt dịch chiết chảy ra, đóng khóa bình lại và tiếp tục thêm ethanol cho đến khi
ngập hoàn toàn khối dược liệu. Để ngâm trong khoảng 24 h hoặc tùy theo mỗi
chuyên luận, sau đó rút dịch chiết. Nếu trong chuyên luận không yêu cầu phải định
lượng hoạt chất hoặc nhóm hoạt chất, tiến hành rút dịch chiết với tốc độ nhỏ giọt
phù hợp (xem tốc độ nhỏ giọt ở mục Cao lỏng, chuyên luận Cao thuôc – Phụ lục
1.1). Thêm ethanol vào và tiếp tục rút dịch chiết đến khi thu được lượng dịch chiết
quy định. Trộn đều vả để yên trong 2 ngày đến 3 ngày, gạn lọc lấy dịch trong. Nếu
có yêu cầu phải định lượng hoạt chất hoặc nhóm hoạt chất, gộp các dịch chiết lại,
trộn, rồi định lượng theo hướng dẫn trong chuyên luận. Pha loãng phần dịch chiết
còn lại với một lượng dung môi theo tính toán từ thử nghiệm xác định hàm lượng
để thu được cồn thuốc theo yêu cầu.
Phương pháp hòa tan: Hòa tan cao thuốc, dược chát hoặc tinh dầu vào
ethanol có nồng độ qui định. Để lắng sau đó lọc để loại tủa.
Yêu cầu chất lượng
Trừ các yêu cầu qui định trong chuyên luận riêng, các yêu cầu chung đối với
cồn thuốc như sau:
Tỷ trọng, tạp chất, định tính, hàm lượng hoạt chất, hàm lượng ethanol: Đáp
ứng yêu cầu quy định trong chuyên luận riêng.
Giới hạn methanol: Không quá 0,05 % (tt/tt) nếu không có chi dẫn khác (Phụ
lục 10.13).
Cắn sau khi bay hơi: Lấy chính xác 5,0 ml hoặc 5,000 g cồn thuốc cho vào
một cốc có đường kính 5 cm đến 7 cm và cao 2 cm đến 3 cm đã cân bì trước, làm
bay hơi đến khô trên cách thủy và sấy khô ở 100°C đến 105°C trong 3h, để nguội
trong bình hút ẩm có chứa diphosphor pentoxyd và cân. Tính % khối lượng hay số
g cặn trong 1 L chế phẩm.
Bảo quản: Trong bao bì kín, để nơi thoáng mát và tránh ánh sáng. Nhãn phải
theo qui định hiện hành và có ghi tên của bộ phận dùng của cây, tên dung môi hoặc
hỗn hợp dung môi được sử dụng, nồng độ các thành phần quan trọng và tỷ lệ giữa
dược liệu thô ban đầu so với cồn thuốc.
RƯỢU THUỐC
Định nghĩa
Rượu thuốc là dạng thuốc lỏng dùng để uống hay đôi khi dùng ngoài, được
điều chế bằng cách ngâm dược liệu (thảo mộc hoặc động vật) trong rượu trắng
hoặc ethanol loãng trong một thời gian nhất định (tùy theo quy định của từng công
thức) rồi gạn hoặc lọc lấy dịch trong.
Dược liệu được chế biến và chuẩn bị theo yêu cầu của từng công thức. Các vị
thuốc là thảo mộc được chia nhỏ đến kích thước thích hợp. Dược liệu động vật có
thể dùng tươi hay sấy khô, tán bột.
Phương pháp điều chế
Rượu thuốc có thể điều chế theo phương pháp thích hợp (ngâm hoặc chiết).
Khi điều chế rượu thuốc từ thang thuốc, do thành phần dược liệu đa dạng, bản chất
dược liệu khác nhau nên có thể phải chiết riêng một số dược liệu để chiết xuất
được tối đa hoạt chất. Dung môi để ngâm thường dùng rượu trắng hoặc ethanol
loãng. Tỷ lệ dung môi, hàm lượng ethanol, nhiệt độ ngâm, thời gian ngâm, tốc độ
chiết theo yêu cầu quy định của từng công thức.
Yêu cầu chất lượng
Màu sắc: Theo yêu cầu quy định trong chuyên luận riêng. Cách tiến hành: Lấy
ở 2 chai rượu trong mỗi lô sản xuất. Mỗi chai 5 ml, cho vào 2 ống nghiệm (thủy
tinh không màu, đồng cỡ). Quan sát màu của hai ống ở ánh sáng ban ngày bằng
cách nhìn ngang, màu sắc của hai ông phải như nhau và đúng như màu sắc đã quy
định trong chuyên luận riêng.
Mùi vị: Theo yêu cầu quy định trong chuyên luận riêng. Rượu thuốc có thể có
mùi thơm của dược liệu, có vị ngọt do thêm đường hoặc mật ong.
Độ trong và độ đồng nhất: Rượu thuốc phải trong, đồng nhất, không có cặn bã
dược liệu và vật lạ. Cách tiến hành: Quan sát toàn chai rượu, không được có váng
mổc. Hút 5 ml rượu thuốc ở vị trí cách đáy chai khoảng 2 cm, cho vào ống nghiệm
(thủy tinh không màu, dung tích 10 ml đến 20 ml), quan sát ở ánh sáng ban ngày
bằng cách nhìn ngang. Thuốc phải trong và đồng nhất. Nếu không đạt yêu cầu, thử
lại lần thứ hai với một chai thuốc khác. Lần này không đạt thì lô thuốc coi như
không đạt tiêu chuẩn.
Hàm lượng ethanol: Theo yêu cầu quy định trong chuyên luận riêng. Xác định
hàm lượng ethanol theo Phụ lục 10.12.
Tỷ trọng: Theo yêu cầu quy định trong chuyên luận. Xác định tỷ trọng theo
Phụ lục 6.5.
Độ lắng cặn: Theo yêu cầu quy định trong từng chuyên luận. Cách tiến hành:
Quan sát toàn chai rượu (thể tích 500 ml, nếu không có qui định khác), nếu thấy có
cặn thì để yên khoảng 48 h, sau đó mở nút và thận trọng dùng ống cao su hay ống
nhựa làm xiphông, hút phần rượu ớ phía trên, để còn lại 15 ml đến 20 ml (đối với
rượu có thể tích cặn không quá 0,5 ml) hoặc 40-50 ml (đối với rượu có thể tích cặn
trên 0,5 ml). Lắc cặn trong chai cho tan, rót hết sang ống đong 25 ml (chia độ 0,5
ml) hoặc 50 ml (chia độ 1 ml) có nút. Lấy phần rượu trong đã hút xiphông để tráng
chai, đổ vào ống đong rồi thêm rượu thuốc vừa đủ 25 ml hoặc 50 ml. Để lắng 48 h,
đọc kết quả trên vạch chia của ống đong. Mỗi loại rượu phải đạt được yêu cầu của
tiêu chuẩn đề ra. Sau khi đọc kết quả, nghiêng ống đong nhẹ để gạn lớp rượu ở
trên, lấy lớp cặn ra bát sứ trang để quan sát. Trong lớp cặn phải không được có bã
được liệu và vật lạ.
Cắn sau khi sấy khô: Tiến hành theo một trong hai phương pháp sau đây:
Phương pháp 1: Áp dụng với các rượu thuốc có chứa đường hoặc mật ong.
Lấy chính xác 50 ml chế phẩm vào cốc miệng rộng, bốc hơi đến khô trên cách
thủy, chiết bằng ethanol bằng cách thêm vào cặn lần lượt, 4 lần, mỗi lần 10 ml
ethanol , dùng đũa thủy tinh khuấy kỹ, lọc. Gộp các dịch lọc vào một chén sứ đã
được xác định khối lượng, bay hơi trên cách thủy đến khô, sẩy cặn ở 105°C trong 3
h. để nguội trong bình hút ẩm 30 phút, cân. Xác định khối lượng cặn thu được.
Phương pháp 2: Áp dụng với các rượu thuốc không chứa đường hoặc mật
ong. Lấy chính xác 50 ml chế phẩm vào một chén sứ đã được xác định khối lượng,
bay hơi trên cách thủy đến khô, sấy cặn ớ 105 °C trong 3 h, để nguội trong bình hút
ẩm 30 phút, cân. Xác định khối lượng cặn thu được.
Thể tích: Theo yêu cầu và cách thử ở Phụ lục 11.1.
Methanol (Nếu không có chỉ dẫn khác): Không quá 0,05 % (tt/tt) (Phụ lục
10.13).
Giới hạn nhiễm khuẩn: Rượu thuốc phải đạt yêu cầu về giới hạn nhiễm khuẩn
(Phụ lục 3.6).
Định tính, định lượng và các chỉ tiêu khác: Theo yêu cầu quy định trong
chuyên luận riêng.
Bảo quản: Trong đồ đựng thích hợp, đậy kín. Để ở nơi khô mát, tránh ánh
sáng.
SIRÔ THUỐC
Định nghĩa
Sirô thuốc là chế phẩm thuốc lỏng hay hỗn dịch dùng đường uống, có vị ngọt,
chứa nồng độ cao đường trắng (sucrose) hay chất tạo ngọt khác và dược chất hoặc
các dịch chiết từ dược liệu. Sirô đơn là dung dịch đường trắng gần bão hòa trong
nước tinh khiết. Sirô cũng bao gồm những chế phẩm được hòa tan hay tạo thành
hỗn dịch bằng nước ngay trước khi sử dụng tùy theo tính chất của dược chất (sirô
khô).
Phương pháp điều chế
Chuẩn bị: Dung dịch thuốc: Dược chất được hòa tan trong dung môi thích
hợp. Dịch chiết dược liệu: Các dược liệu được chiết xuất, lọc, làm đậm đặc theo
những phương pháp thích hợp. Sirô đơn: Hòa tan đường trắng vào nước tinh khiết
bằng phương pháp hòa tan nóng hay hòa tan nguội. Lọc. Nồng độ đường trắng là
64 % (khối lượng/khối lượng).
Điều chế sirô thuốc: Tùy theo tính chất của dược chất, sirô được điều chế
bằng cách hòa tan, nhũ hóa hay trộn đều dược chất hay dung dịch thuốc, dịch chiết
dược liệu vào trong dung dịch của đường trắng hay của các chất tạo ngọt khác,
hoặc trong sirô đơn. Ngoài ra có thể điều chế siro bằng cách hòa tan đường vào
dung dịch dược chất. Lọc đối với sirô dạng dung dịch nếu cần thiết. Sirô có thể
được điều chế từ dạng bột hay cốm khô được hòa tan hay tạo thành hỗn dịch bằng
nước ngay trước khi sử dụng tùy theo tính chất của dược chất. Có thể cho thêm
chất phụ gia như: Chai bảo quản, chất làm thơm, chất ổn định với nồng độ thích
hợp (ví dụ: ethanol, glycerin, poly-alcohol). số lượng và chủng loại các chất phụ
gia phải đáp ứng các yêu cầu của cơ quan quản lý. các chất này không được làm
ảnh hưởng đến độ ổn định và việc kiểm tra chất lượng đối với chế phẩm. Điều chế
sirô trong môi trường sản xuất có cấp độ sạch theo quy định.
Yêu cầu chất lượng
Tính chất: Trừ các qui định khác, sirô phải trong (nếu là dạng dung
dịch), không được lẫn tạp chất, không có mùi lạ, bọt khí hoặc có sự biến chất khác
trong quá trình bảo quản.
Nồng độ đường: Không được ít hơn 45 % nếu dùng đường làm chất tạo ngọt.
Thể tích: Đáp ứng yêu cầu của Phụ lục 11.1.
Giới hạn nhiễm khuẩn: Đáp ứng yêu cầu của Phụ lục 13.6.
Yêu cầu về pH, tỷ trọng, định tính, định lượng và các yêu cầu kỹ thuật khác
được quy định trong chuyên luận riêng. Bột hoặc cốm để pha sirô phải đáp ứng yêu
cầu chung của dạng Thuốc bột (Phụ lục 1.7) hoặc Thuốc cốm (Phụ lục 1.8). Sau
khi hòa tan hay tạo thành hỗn dịch, chế phẩm thu được phải đáp ứng các yêu cầu
đối với sirô Sirô là hỗn dịch phải đáp ứng yêu cầu chung của Hỗn dịch thuốc (Phụ
lục 1.5).
Bảo quản: Trong bao bì kín, để nơi mát.
KIỂM NGHIỆM THUỐC TIÊM
1. Định nghĩa
Thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền là những chế phẩm thuốc vô khuẩn dùng để
tiêm hoặc tiêm truyền vào cơ thể. Thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền được phân thành
3 loại:
– Thuốc tiêm (dung dịch, hỗn dịch hay nhũ tương).
– Thuốc tiêm truyền (dung dịch nước hay nhũ tương dầu trong nước).
– Bột pha tiêm hoặc dung dịch đậm đặc để pha thuốc tiêm hay thuốc tiêm
truyền.
2. Yêu cầu chất lượng chung
2.1. Yêu cầu về pha chế thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền
Thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền được pha chế – sản xuất bằng cách hòa tan,
phân tán hoặc nhũ hóa dược chất và các tá dược vào một dung môi hoặc hỗn hợp
dung môi hay chất dẫn thích hợp, trong điều kiện tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về
pha chế – sản xuất các chế phẩm thuốc vô khuẩn, để tránh nhiễm tạp và nhiễm vi
sinh vật vào thuốc.
Các thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền phải được tiệt khuẩn theo phương pháp quy
định (Phụ lục 16.1). Trường hợp vô khuẩn bằng cách lọc thì phải sử dụng dụng cụ,
thiết bị, đồ đựng đã tiệt khuẩn và pha chế trong điều kiện tuyệt đối vô khuẩn. Quá
trình pha chế một mẻ thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền từ khi pha thuốc, đóng thuốc,
hàn kín và tiệt khuẩn cần hoàn thành càng nhanh càng tốt, thường trong vòng 12 h.
Nếu không, phải bảo quản thuốc trong điều kiện vô khuẩn.
Thành phần Dược chất phải là loại nguyên liệu đáp ứng yêu cầu dùng để pha
thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền. Dung môi thường dùng pha thuốc tiêm là nước cất
để pha thuốc tiêm, dung môi hòa trộn với nước (ethanol, propylen glycol,…), dầu
thực vật trung tính hoặc các dung môi thích hợp khác. Dung môi dùng trong thuốc
tiêm phải đảm bảo an toàn và không ảnh hưởng đến hiệu lực điều trị ở thể tích
tiêm.
Các tá dược: Tùy theo bản chất của dược chất, trong thành phần thuốc tiêm có
thể thêm các chất để đẳng trương, điều chỉnh pH, tăng độ tan, độ ổn định của dược
chất, chất gây thâm, nhũ hóa,… nhưng phải đảm bảo an toàn và không ảnh hưởng
đến hiệu lực điều trị của thuốc ở nồng độ sử dụng trong chế phẩm.
Thuốc tiêm đóng nhiều liều trong một đơn vị đóng gói, thuốc tiêm không
được tiệt khuẩn bằng nhiệt, sau khi đóng Ống (lọ) phải cho thêm chất sát khuẩn với
nồng độ thích hợp, trừ khi bản thân chế phẩm có đủ tính sát khuẩn cần thiết.
Không được cho chất sát khuẩn vào thuốc tiêm với liều trên 15 ml, trừ khi có
chỉ dẫn khác. Không được cho chất sát khuẩn vào thuốc tiêm để tiêm vào nội sọ,
màng cứng, dịch não tủy hoặc các tổ chức ở mắt, trừ khi có chỉ dẫn riêng. Các chế
phẩm này phải được đóng gói dưới dạng đơn liều. Không được cho chất màu vào
thuốc tiêm với mục đích nhuộm màu chế phẩm. Khi dược chất trong thuốc tiêm để
bị oxy hóa có thể cho thêm các chất chống oxy hóa thích hợp và/hoặc đóng thuốc
dưới dòng khí nitrogen hoặc khí trơ thích hợp.
2.2. Đồ đựng
Đồ đựng thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền (chai, lọ, ống, túi…) được làm từ các
nguyên liệu, sao cho đồ đựng đủ trong để cho phép kiểm tra được bằng mắt thuốc
chứa bên trong, trừ trường hợp đặc biệt. Đồ đựng không được tương tác về vật lý
hay hóa học với thuốc chứa trong nó.
Đồ đựng thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền phải đạt các chỉ tiêu chất lượng quy
định trong các Phụ lục 17.1, mục 17.3.2. Nút chai lọ thuốc tiêm và thuốc tiêm
truyền phải đạt các chỉ tiêu quy định trong Phụ lục 17.5. Đồ đựng và nút chai lọ
thuốc tiêm, thuốc, tiêm truyền phải được xử lý theo những quy trình thích hợp,
đảm bảo sạch và vô khuẩn mới được dùng để đóng thuốc tiêm, thuốc tiêm truyền.
2.3. Ghi nhãn
Nhãn thuốc tiêm theo quy định hiện hành. Nhãn không che kín đồ đựng để có
thể kiểm tra được thuốc ờ bên trong. Nhãn thuốc cần có tên chế phẩm, nồng độ
dược chất hoặc lượng dược chất trong một thể tích xác định đối với thuốc tiêm
lỏng, hoặc lượng dược chất đối với thuốc tiêm bột, tên và nồng độ chất bảo quản
(nếu có). Đối với bột pha tiêm và dung dịch đậm đặc để pha thuốc tiêm, thuốc tiêm
truyền thì phải ghi rõ loại dung môi và lượng dung môi dùng để pha thuốc trước
khi sử dụng, điều kiện bảo quản và thời gian sử dụng sau khi pha. Nếu có ống dung
môi kèm theo thì trên ống phải có nhãn ghi rõ thành phần và thể tích dung môi.
3. Kiểm nghiệm các loại thuốc tiêm, tiêm truyền
3.1. Thuốc tiêm
Định nghĩa:
Thuốc tiêm là các dung dịch, hỗn dịch hoặc nhũ tương vô khuẩn để tiêm vào
cơ thể bằng các đường tiêm khác nhau. Đối với thuốc tiêm hỗn dịch, thông thường
kích thước của phần lớn (trên 90 %) các tiểu phân dược chất phải dưới 15 gm,
không quá 10 % số tiểu phân kích thước 15 pm đến 20 gm và hầu như không có
tiểu phân kích thước 20 gm đến 50 pm.
Yêu cầu chất lượng:
Màu sắc: Không màu hoặc có màu của dược chất (theo chuyên luận riêng).
Trạng thái phân tán: Thuốc tiêm hỗn dịch có thể lắng cặn nhưng phải dễ dàng
phân tán đồng nhất khi lắc và phải giữ được sự đồng nhất trong thời gian đủ để lấy
đúng liều thuốc. Thuốc tiêm nhũ tương phải không có bất kỳ biểu hiện nào của sự
tách lớp. Độ trong Thuốc tiêm dạng dung dịch phải trong suốt và không có các tiểu
phân không tan khi kiểm tra bằng mẳt thường ờ điều kiện quy định (Phụ lục 11.8,
mục B) và phải đáp ứng các yêu cầu về số lượng và giới hạn kích thước các tiểu
phân không quan sát được bằng mắt thường (Phụ lục 11.8, mục A).
Thể tích: Đáp ứng yêu cầu của Phụ lục 11.1.
Thử vô khuẩn: Phải vô khuẩn (Phụ lục 13.7).
Nội độc tố vi khuẩn: Phép thử nội độc tố vi khuẩn (Phụ lục 13.2) thực hiện
trong những trường hợp có quy định trong chuyên luận riêng. Khi chuyên luận có
quy định thử nội độc tố vi khuẩn thì không phải thử chất gây sốt, nếu không có chỉ
dẫn khác.
Chất gây sốt: Không được có chất gây sốt (Phụ lục 13.4).
Độ đồng đều hàm lượng: Áp dụng đối với thuốc tiêm hỗn dịch đóng liều đơn
có hàm lượng dược chất nhỏ hơn 2 mg hoặc nhỏ hơn 2 % sọ với khối lượng thuốc
thì phải đáp ứng yêu cầu về độ đông đều hàm lượng (Phụ lục 11.2), trừ khi có chỉ
dẫn riêng. Nếu chế phẩm có nhiều thành phần dược chất, yêu cầu này chỉ áp dụng
cho thành phần dược chất nhỏ hơn 2 mg hoặc nhỏ hơn 2 % so với khối lượng
thuốc. Yêu cầu này không áp dụng với thuốc tiêm chứa các vitamin và nguyên tố
vi lượng.
3.2. Thuốc tiêm truyền
Định nghĩa:
Thuốc tiêm truyền là dung dịch nước hoặc nhũ tương dầu trong nước vô
khuẩn, không có chất gây sốt, không chứa chất sát khuẩn, thường đẳng trương với
máu, dùng để tiêm truyền tĩnh mạch với thể tích lớn và tốc độ chậm.
Đối với thuốc tiêm truyền dạng nhũ tương, thông thường đường kính của
phần lớn (80 %) các giọt phân tán phải nhỏ hơn 0,5 μm và không có giọt có đường
kính lớn hơn 5 μm, trừ khi có chỉ dẫn riêng.
Yêu cầu chất lượng:
Thuốc tiêm truyền phải đạt các yêu cầu chất lượng đối với thuốc tiêm và các
yêu cầu sau đây:
Độ trong: Các dung dịch tiêm truyền phải đạt quy định về độ trong của thuốc
tiêm khi kiểm tra bằng mắt thường (Phụ lục 11.8, mục B) và phải đáp ứng các yêu
cầu về số lượng và giới hạn kích thước các tiêu phân không quan sát được bằng
mắt thường (Phụ lục 11.8, mục A). Các nhũ tương tiêm truyền không được có dấu
hiệu của sự tách lớp.
Thể tích: Đáp ứng yêu cầu của Phụ lục 11.1.
Thử vô khuẩn: Phải vô khuẩn (Phụ lục 13.7).
Chất gây sốt: Không được có chất gây sốt (Phụ lục 13.4). Chỉ không phải thử
chất gây sốt nếu đã có quy định thử nội độc tố vi khuẩn, trừ những chỉ dẫn khác.
Tiêm 10 ml cho mỗi kg thỏ nếu không có chỉ dẫn khác.
3.3. Bột pha tiêm
Định nghĩa:
Bột pha tiêm hay bột để pha thuốc tiêm (bao gồm cả các chế phẩm đông khô)
để pha thuốc tiêm hay thuốc tiêm truyền là những chế phẩm vô khuẩn, phải pha với
một thể tích quy định của một chất lỏng vô khuẩn thích hợp ngay trước khi dùng.
Yêu cầu chất lượng:
Độ đồng đều khối lượng: Bột để pha thuốc tiêm hay thuốc tiêm truỵền phải
thử độ đồng đều khối lượng (Phụ lục 11.3). Yêu cầu này không áp dụng với các
chế phẩm đã thử độ đồng đều về hàm lượng với tất cả các dược chất.
Độ đồng đều hàm lượng: Bột để pha thuốc tiêm hay thuốc tiêm truyền có hàm
lượng dược chất nhỏ hơn 2 mg hoặc nhỏ hơn 2 % so với khối lượng thuốc hoặc có
khối lượng thuốc bằng hay nhỏ hơn 40 mg thì phải đáp ứng yêu cầu độ đồng đều
về hàm lượng (Phụ lục 11.2), trừ khi có chỉ dẫn riêng. Nếu chế phẩm có nhiều
thành phần dược chất, yêu cầu này chỉ áp dụng cho thành phần dược chất nhỏ hơn
2 mg hoặc nhỏ hơn 2 % so với khối lượng thuốc. Yêu cầu này không áp dụng với
thuốc tiêm chứa các vitamin và nguyên tố vi lượng.
Chất gây sốt – nội độc tố vi khuẩn: Sau khi pha, thuốc phải đáp ứng yêu cầu
đối với thuốc tiêm hoặc thuốc tiêm truyền.
3.4. Dung dịch đậm đặc để pha thuốc tiêm
Dung dịch đậm đặc để pha thuốc tiêm hay thuốc tiêm truyền là những chế
phẩm vô khuẩn, phải pha với một thể tích quy định của một chất lỏng vô khuẩn
thích hợp ngay trước khi dùng.
Chất gây sốt – nội độc tố vi khuẩn: Sau khi pha, thuốc phải đáp ứng yêu cầu
đối với thuốc tiêm hoặc thuốc tiêm truyền.
THUỐC NHỎ MẮT
1.1. Định nghĩa
Thuốc nhỏ mắt là dung dịch nước, dung dịch dầu hoặc hỗn dịch vô khuẩn của
một hay nhiều hoạt chất, dùng để nhỏ vào mắt. Chế phẩm cũng có thể được bào
chế dưới dạng khô (bột, bột đông khô, viên nén) vô khuẩn, được hòa tan hoặc phân
tán vào một chất lỏng vô khuẩn thích hợp khi dùng.
1.2. Yêu cầu chung
Thuốc nhỏ mắt phải được pha chế – sản xuất trong điều kiện vô khuẩn. Các
dụng cụ, thiết bị và đồ đựng dùng trong pha chế – sản xuất phải sạch và vô khuẩn.
Dung môi để pha chế thuốc nhỏ mắt thường là nước tinh khiết hoặc các dung dịch
nước thích hợp hoặc là dầu thực vật trung tính đạt tiêu chuẩn để pha thuốc tiêm.
Trong thành phần của thuốc nhỏ mắt có thể có thêm các tá dược, để điều
chỉnh độ đẳng trương, độ nhớt, điều chỉnh hay ổn định pH của chế phẩm, tăng độ
tan và độ ổn định của hoạt chất, nhưng không được ảnh hường xấu đến tác dụng
của thuốc và không gây kích ứng đối với mắt ở nồng độ sử dụng trong chế phẩm.
Những chế phẩm thuốc nhỏ mắt nước đóng nhiều liều trong một đơn vị đóng
gói phải cho thêm chất sát khuẩn với nồng độ thích hợp, trừ khi tự chế phẩm có đủ
tính chất sát khuẩn. Chất sát khuẩn phải không tương kỵ với các thành phần khác
có trong chế phẩm và phải duy trì được hiệu quả sát khuẩn trong thời gian sử đụng
chế phẩm kể từ lẩn mở nắp đầu tiên. Không được thêm chất sát khuẩn hoặc chất
chống oxy hóa vào các thuốc nhỏ mắt dùng cho phẫu thuật ở mắt. Các thuốc nhỏ
mắt này phải pha chế – sản xuất trong điều kiện vô khuẩn và đóng gói một liều.
Không được cho thêm chất màu vào thuốc nhỏ mắt chỉ với mục đích nhuộm màu
chế phẩm.
Đồ đựng thuốc nhỏ mắt nên có đủ độ trong cần thiết để kiểm tra được bằng
mắt độ trong của dung dịch hay độ đồng nhất của hỗn dịch nhỏ mắt chứa trong đó.
Đồ đựng thuốc nhỏ mắt phải vô khuẩn và không có tương tác về mặt vật lý hay hóa
học với thuốc. Đồ đựng thuốc nhỏ mắt phải đáp ứng các yêu cầu nêu trong Phụ lục
17.3.3. Đồ đựng thuốc nhỏ mắt chứa nhiều liều phải có bộ phận nhỏ giọt thích hợp,
thể tích mỗi đơn vị đóng gói không nên vượt quá 10 ml.
Ghi nhãn:
Nhãn thuốc nhỏ mắt phải ghi theo quy chế. Nhãn phải ghi tên chất sát khuẩn
có trong chế phẩm. Đối với đơn vị đóng gói nhiều liều, trên nhãn phải ghi rõ thời
hạn sử dụng tính từ khi thuốc được sử dụng lần đầu, sau thời gian đó thuốc còn lại
phải bỏ đi, thường không quá 4 tuần, trừ khi có chỉ dẫn khác.
1.3. Yêu cầu chất lượng
Độ trong (Thử theo Phụ lục 11.8. Phần B):
Dung dịch thuốc nhỏ mắt phải trong suốt, không có các tiểu phân quan sát
được bằng mắt thường.
Hỗn dịch nhỏ mắt có thể lắng đọng khi để yên nhưng phải dễ dàng phân tán
đồng nhất khi lắc và phải duy trì được sự phân tán đồng nhất đó trong khi nhỏ
thuốc để sử dụng đúng liều. Kích thước tiểu phân (Phụ lục 11.8. Phần A).
Nếu không có chỉ dẫn khác, thuốc nhỏ mắt dạng hỗn dịch phải đạt yêu cầu
của phép thử sau: Lắc mạnh và chuyển một lượng chế phẩm tương đương với
khoảng 10 μg pha rắn vào buồng đếm hoặc lên một phiến kính thích hợp và quan
sát dưới kính hiển vi có độ phóng đại thích hợp. Không được có quá 20 tiểu phân
có kích thước lớn hơn 25 μm và không có quá 2 tiểu phân có kích thước lớn hơn 50
μm, không có tiểu phân nào có kích thước lớn hơn 90 μm.
Thử vô khuẩn: Đạt yêu cầu Thử vỏ khuẩn (Phụ lục 13.7).
Giới hạn cho phép về thể tích: + 10 % thể tích ghi trên nhãn (Phụ lục 11.1).
- Đối với dạng chế phẩm khô, dùng để pha thuốc nhỏ mắt trước khi dùng, sau
khi pha phải đáp ứng các yêu cầu chất lượng của thuốc nhỏ mắt. Đối với chế phẩm
đóng liều đơn phải đáp ứng các yêu cầu về phép thử độ đồng đều hàm lượng hoặc
độ đồng đều khối lượng (Phụ lục 11.2 hoặc 11.3), trừ khi có chỉ dẫn khác.
- Đối với các dung dịch dùng để rửa mắt, ngâm mắt hoặc để thấm vào băng
mắt, nhất thiết phải là các dung dịch đẳng trương với dịch nước mắt và phải đáp
ứng các yêu cầu chất lượng của thuốc nhỏ mắt. Thuốc rửa mắt dùng trong phẫu
thuật hoặc trong điều trị sơ cứu về mắt, không được chứa chất sát khuẩn, phải pha
chế vô khuẩn và đóng gói một liều. Thuốc rửa mắt đóng nhiều liều phải có chất sát
khuẩn ở nồng độ thích hợp và không đóng gói quá thể tích 200 ml cho một đơn vị
đóng gói nhỏ nhất. Nhãn thuốc theo quy định hiện hành và có ghi thời hạn sử dụng
sau khi mở nắp.
Đối với đơn vị đóng gói đã chia liều: Lấy 10 gói, cân từng gói. Sự chênh lệch
khối lượng của từng gói so với khối lượng trên nhãn phải nằm trong giới hạn, trong
đó, không được có quá 2 gói vượt giới hạn cho phép và không được có gói nào gấp
đôi giới hạn đó
Định tính, định lượng: Đáp ứng theo quy định trong chuyên luận riêng.
Giới hạn nhiễm khuẩn: Thuốc hoàn phải đạt yêu cầu về giới hạn nhiễm khuẩn
(Phụ lục 13.6).
THUỐC THANG
Định nghĩa
Thuốc thang được cấu tạo từ các vị thuốc đã qua chế biến và phối hợp theo
phương pháp của y học cổ truyền, bao gồm 2 dạng: Thuốc sắc và ngâm rượu. Với
dạng sắc, thường được bào chế bằng cách đun sôi với nước sạch; dạng ngâm rượu,
thường được ngâm với ethanol 30 % đến 40 %, trong thời gian thích hợp.
Là dạng thuốc rất thông dụng, được dùng rộng rãi để phòng và điều trị nhiều
chứng bệnh khác nhau, đối với các lứa tuổi, các mùa trong năm. Dễ gia giảm theo
triệu chứng của bệnh, do đó thường cho hiệu quả cao trong điều trị. Được hấp thu
nhanh qua đường tiêu hóa. Tuy vậy thuốc thang thường dùng cho từng người bệnh,
bởi vậy, cũng gặp khó khăn nhất định trong bào chế.
Với thuốc thang dùng để uống thường được cấu tạo theo nguyên lý của y học
cổ truyền; mỗi thang thuốc phải có đủ các thành phần: Quân, Thần, Tá, Sử, với các
công năng, chủ trị, cách dùng cụ thể của nó (cô phương, tân phương). Đôi khi,
những phương thuốc gia truyền, hoặc các phương thuốc trong dân gian, cũng
không hoàn toàn theo nguyên tắc đó, nhưng phải đảm bảo tính an toàn và hiệu quả
cao trong điều trị cho người bệnh.
Số vị trong thang, nhiều hay ít tùy theo từng thang, khối lượng của từng vị
trong thang tùy theo tuổi, theo tình trạng của người bệnh (nếu là cổ phương thường
được giữ nguyên số vị và khối lượng). Tuy nhiên, trong những điều kiện cụ thể có
thể thay đổi cho phù hợp. Đối với các vị thuốc có tính độc, liều lượng phải thực
hiện theo đúng với quy định hiện hành.
Yêu cầu chất lượng
Các vị thuốc trước khi phối hợp thành thang thuôc phải đạt yêu cầu chất
lượng qui định trong từng chuyên luận riêng.
Độ đồng đều khối lượng: Thang thuốc phải đạt yêu cầu Phép thử độ đồng đều
khối lượng như hướng dẫn trong chuyên luận Thuốc hoàn (Phụ lục 1.11).
Giới hạn nhiễm khuẩn: Thuốc thang phải đạt yêu cầu về giới hạn nhiễm
khuẩn (Phụ lục 13.6).
Dụng cụ để sắc thuốc: Dụng cụ để sắc thuốc rất đa dạng, có thể dùng siêu đất,
hoặc dụng cụ bằng thép không gỉ, không dùng các dụng cụ bằng gang, đồng, sắt.
Hiện nay có nhiều loại dụng cụ sắc thuốc được đun nóng bằng điện, cần chú ý theo
dõi để tránh ảnh hưởng đến chất lượng của thuốc. Nước dùng để sắc thuốc Nước
dùng để sắc thuốc phải là nước sạch, dùng để uống được. Lượng nước đưa vào mỗi
thang cần vừa đủ để hoạt chất có thể chiết xuất được. Tùy theo dung tích của dụng
cụ sắc, mức nước thường cao hơn mặt thoáng của thuốc khoảng 2 cm.
Nhiệt độ và thời gian sắc thuốc: Nhiệt độ và thời gian sắc thuốc phụ thuộc
vào tính chất của thang thuốc. Nếu thang thuốc lấy khí là chính (chất bay hơi),
trong thành phần chứa tinh dầu, và các chất bay hơi: Thuốc giải biểu, thuốc ôn
trung…, lúc đầu thường dùng lửa to (vũ hòa), để nhanh chóng nâng nhiệt độ của
thuốc đến sôi, sau đó giảm độ lửa, duy trì ờ 70 °C đến 80 °C trong thời gian 10
phút đến 15 phút. Nếu thang thuốc lấy vị là chính (thuốc bổ, thuốc thanh nhiệt…),
có thể đun sôi 1 h đến 2 h. Tuy nhiên trên thực tế, trong một thang thuốc, thường
bao gồm cả vị thuốc lấy khí và lấy vị, do đó trong quá trình sắc thuốc cần chú ý
duy trì nhiệt độ và thời gian thích hợp.
Nhiên liệu dùng sắc thuốc: Nhiên liệu sắc thuốc rất đa dạng, có thể dùng củi,
rơm, rạ…, song tránh dùng củi khi cháy cho chất độc hoặc có mùi khó chịu; có thể
dùng than khi đã cháy hồng để tránh mùi khí than; hiện nay còn dùng điện, dùng
khí đốt. cần chú ý rằng, với nguồn nhiên liệu khác nhau thì nhiệt lượng cung cấp sẽ
khác nhau, do đó thời gian sắc thuốc nên tính từ lúc sôi và cần theo dõi để tránh bị
cháy.
Cách uống thuốc:
Tùy theo tính chất của bệnh và tính chất của thang thuốc mà cách uống thuốc
có khác nhau. Các bệnh thuộc thể hàn: cảm mạo phong hàn, trúng hàn…tính chất
của thang thuốc thường ôn, nhiệt, cần uống khi còn nóng. Các bệnh thể nhiệt, tính
chất của thang thuốc thường hàn, lương, thường uống nguội. Các thang thuốc
mang tính chất tả (tả hạ, thanh nhiệt…), thường uống lúc đói. Tuy nhiên, nếu đói
quá dễ cồn cào, buồn nôn, do đó cần ăn một chút ít để tránh cồn ruột. Các thang
thuốc mang tính chất bổ (bổ khí, huyết, âm, dương), thường uống sau khi ăn 1,5 h
đến 2 h. Kiêng kị khi dùng thuốc thang Khi dùng thuốc thang, cũng kiêng kị theo
nguyên tắc chung của y học cổ truyền. Nếu uống thuốc mang tính ôn nhiệt, cần
kiêng các thức ăn sống lạnh: ốc, rau giền… Nếu uống thuốc mang tính hàn lương,
cần kiêng các thức ăn cay nóng và kích thích: ớt, rượu, hạt tiêu… Một số vị thuốc
kiêng đặc biệt: miết giáp kị rau giền, hành kị mật ong, kinh giới kị thịt gà…
Ngoài ra cần chú ý đến một số thang thuốc có các vị có tính độc , phải kiêng
cho phụ nữ có thai, hoặc sau khi đẻ , hoặc trẻ em dưới 15 tuổi: phụ tử chế , quế chi,
cà độc dược.
Lưu ý khi dùng thuốc thang Để phát huy được hiệu quả của thuốc thang,
người ghi đơn cần chú ý: Không ghi các vị thuốc mang tính chất tương kị. Ghi các
vị thuốc cần sắc sau ,để người cân thuốc có thể để riêng . Để có thể phối hợp hài
hòa giữa các lần sắc thuốc: Lần 1: đun sôi (kể từ lúc sôi) 20 phút đến 30 phút ; lần
2: đun sôi 40 phút đến 1 h ; lần 3: đun sôi 1h. Dịch thuốc sắc của mỗi lần, lấy
khoảng 1 bát (100 ml). Có thể uống riêng từng lần; hoặc uống riêng nước lần 1,
nước lần 2 và 3 trộn đều chia đôi, uống 2 lần nữa; hoặc trộn đều cả 3 lần sắc , rồi
chia 3 lần uống.
CHÈ THUỐC
1. Định nghĩa
Là dạng thuốc rắn được bào chế từ hoa, lá hoặ bột thô dược liệu và các tá
dược thích hợp dưới dạng gói hay bánh nhỏ. Khi dùng, đem hãm với nước sôi
trong khaongr thời gian thích hợp để uống.
2. Phương pháp bào chế
Chè gói: Được bào chế chủ yếu từ các dược liệu là hoa lá mỏng manh. Dược
liệu được sao nhỏ lửa hay sấy nhẹ (dưới 80°C) đến khô rồi vò thành mảnh nhỏ, xát
qua sàng (rây) có cỡ mắt ray 2 mm đến 5 mm.
Các dược liệu có cấu tạo rắn chắc nếu có ở tỉ lệ thích hợp, thường được
nghiền thành bột thô hoặc bào chế thành cao lỏng để phun vào chè trong khi sấy.
Trộn đều dược liệu theo tỉ lệ trong công tức rồi đóng túi theo khối lượng quy định
(nếu có cao lỏng thì phun vào chè, tiếp tục sấy khô rồi đóng gói).
Túi đựng chè có thể là túi giấy thường, túi giấy lọc hay túi PE. Việc đóng túi
có thể thự hiện bằng các loại máy đóng túi tự động. Túi chè cần được đóng kín,
hạn chế sự hút ẩm trở lại trong quá trình bảo quản.
Chè bánh: Thường được bào chế từ các dược liệu có cấu tạo rắn chắc như
thân, cành, rễ,… Dược liệu được chế biến, sấy khô rồi nghiền thành bột thô qua rây
có số rây 1000 đến 2000. Thêm tá dược dính thích hợp tạo thành khối ẩm (hồ tinh
bột, siro, cao đặc, bột đường, …) rồi lèn hay nén thành bánh theo khuôn. Chè bánh
sau khi tháo khỏi khuôn đưa sấy đến độ ẩm quy định rồi đóng gói thích hợp.
3. Tiêu chuẩn chất lượng
Phải đáp ứng các yêu cầu trong chuyên luận riêng và các qui định dưới đây:
Độ ẩm:
Chè gói: Độ ẩm không được quá 10% (Phụ lục 9.6), nếu không có chỉ dẫn
khác.
Chè bánh: Độ ẩm không được vượt quá 7% (Phụ lục 9.6), nếu không có chỉ
dẫn khác.
Độ đồng đều khối lượng: Cần riêng biệt 10 đơn vị đóng gói, xác định khối
lượng trung bình. So sánh khối lượng từng đơn vị với khối lượng trung bình.
Chênh lệch khối lượng phải nằm trong giới hạn.
Giới hạn nhiễm khuẩn: Chè thuốc phải đạt yêu cầu về giới hạn nhiễm khuẩn
(Phụ lục 13.6).
CAO THUỐC
Định nghĩa và phân loại
Cao thuốc là chế phẩm được chế bằng cách cô hoặc sấy đến thể chất quy định
các dịch chiết thu được từ dược liệu thực vật hay động vật với các dung môi thích
hợp. Các dược liệu trước khi chiết xuất được xử lý sơ bộ (rửa sạch, phơi khô hoặc
sấy khô và chia nhỏ đến kích thước thích hợp). Đối với một số dược liệu đặc biệt
có chứa men làm phân hủy hoạt chất, cần phải diệt men trước khi đưa vào sử dụng
bằng cách dùng hơi cồn sôi, hơi nước sôi hoặc bằng phương pháp thích hợp khác.
Cao thuốc được chia làm 3 loại:
Cao lỏng: Là chất lỏng hơi sánh, có mùi vị đặc trưng của dược liệu sử dụng,
trong đó cồn và nước đóng vai trò dung môi chính (hay chất bảo quản hay cả hai).
Nếu không có chỉ dẫn khác, quy ước 1 ml cao lỏng tương ứng với 1g dược liệu
dùng để điều chế cao thuốc.
Cao đặc: Là khối đặc quánh. Hàm lượng dung môi sử dụng còn lại trong cao
không quá 20 %.
Cao khô: Là khối hoặc bột khô, đồng nhất nhưng rất dễ hút ẩm. Cao khô
không được có độ ẩm lớn hơn 5 %.
Yêu cầu về điều chế
Quá trình điều chế cao thuốc thường có 2 giai đoạn:
Giai đoạn I: Chiết xuất dược liệu bằng các dung môi thích hợp. Tùy theo bản
chất của dược liệu, dung môi, tiêu chuẩn chất lượng của thành phẩm cũng như điều
kiện, quy mô sản xuất và trang thiết bị, có thể sử dụng các phương pháp chiết xuất:
Ngâm, hâm, hãm, sắc, ngâm nhỏ giọt, chiết xuất ngược dòng, chiết xuất bằng thiết
bị siêu âm, chiết xuất bằng phương pháp sử dụng điện trường và các phương pháp
khác. Phương pháp ngâm nhỏ giọt thường được sử dụng. Khi đó, dược liệu thô đã
được chia nhỏ đến kích thước phù hợp, được làm ẩm với một lượng dung môi vừa
đủ rồi đây kín đê yên trong khoáng 2h đến 4h. Sau đó, chuyển khối dược liệu vào
bình ngấm kiệt, thêm lượng dung môi vừa đủ đến khi ngập hoàn toàn khôi dược
liệu. Thời gian ngâm lạnh và tốc độ chạy trong quá trình chiết có thể thay đổi theo
khối lượng và bản chất của dược liệu thô đem chiết.
Giai đoạn II:
Cao lỏng: Sau khi thu được dịch chiết, tiến hành lọc và cô dịch chiết bằng các
phương pháp khác nhau để thu được cao lỏng có tỷ lệ theo như quy ước (1 ml cao
lòng tương ứng với 1g dược liệu). Trong trường hợp điều chế cao lỏng bằng
phương pháp ngâm nhỏ giọt, tốc độ chảy của dịch chiết có thể chậm, vừa hay
nhanh. Nếu chiết xuất 1000g dược liệu thì: ở tốc độ chậm: Không quá 1 ml dịch
chiết trong 1 phút. Ở tốc độ vừa: 1 ml đến 3 ml địch chiết trong 1 phút. Ở tốc độ
nhanh: 3 ml đến 5 ml dịch chiết trong 1 phút. Để riêng phần dịch chiết đầu đậm
đặc bằng 4/5 lượng dược liệu đem chiết. Sau đó cô các phần dịch chiết tiếp theo
trên cách thủy hoặc cô dưới áp suất giảm ở nhiệt độ không quá 60°C cho đến khi
loại hết dung môi. Hòa tan cặn thu được vào trong dịch chiết đầu đậm đặc và nếu
cần, thêm dung môi vào để thu được cao lỏng đạt tỷ lệ quy định. Cao lỏng có
khuynh hướng bị lắng cặn vì vậy để cao lỏng ở chỗ mát trong thời gian ít nhất 3
ngày, rồi lọc.
Cao đặc và cao khô: Dịch chiết được cô đặc đến khi dung môi dùng để chiết
xuất còn lại không quá 20 % được cao đặc. Trong trường hợp điều chế cao khô,
tiếp tục sấy khô để độ ẩm còn lại không quá 5 %. Để đạt đến thể chất quy định, quá
trình cô đặc và sấy khô dịch chiết thường được tiến hành trong các thiết bị cô dưới
áp suất giảm ở nhiệt độ không quá 60 °C. Nếu không có các thiết bị cô đặc và sấy
dưới áp suất giảm thì được phép cô cách thủy (không được cô trực tiếp trên lửa) và
sấy ở nhiệt độ không quá 80°C. Trường hợp muốn thu được cao thuốc có tỷ lệ tạp
chất thấp, phải tiến hành loại tạp chất bằng các phương pháp thích hợp tùy thuộc
vào bản chất của dược liệu, dung môi và phương pháp chiết xuất. Có thể cho thêm
chất bảo quản hoặc các chất trơ để làm chất mang hay để cải thiện các tính chất vật
lý. Đối với cao khô có thể sử dụng các bột trơ thích hợp để điều chỉnh nồng độ
hoạt chất đến tỷ lệ quy định.
Yêu cầu chất lượng
Đạt các yêu cầu theo quy định trong chuyên luận riêng và các yêu cầu chung
sau đây:
Độ tan: Cao lòng phải tan hoàn toàn trong dung môi đã sử dụng để điều chế
cao.
Độ trong, mùi vị, độ đồng nhất và màu sắc: Cao thuốc phải đúng màu sắc đã
mô tả trong chuyên luận riêng, có mùi và vị đặc trưng của dược liệu sử dụng.
Ngoài ra, cao lỏng còn phải đồng nhất, không có váng mốc, không có cặn bã dược
liệu và vật lạ.
Cách tiến hành: Lấy riêng phần phía trên của chai thuốc chỉ để lại khoảng 10
ml đén 15 ml. Chuyển phần còn lại trong chai vào một bát sứ men trắng, nghiêng
bát cho chúng chảy trên thành bát tạo thành một lớp dễ quan sát. Quan sát dưới ánh
sáng tự nhiên, thuốc phải đạt các yêu cầu quy định. Nếu không đạt, phải thử lại lần
hai với chai thuốc khác, nếu không đạt, coi như lô thuốc không đạt chỉ tiêu này.
Mất khối lượng do làm khô: Cao đặc không quá 20 %. Cao khô không quá 5
%. Hàm lượng cồn: Đạt từ 90 % đến 110 % lượng ethanol ghi trên nhãn (áp dụng
cho cao lỏng và cao đặc).
Kim loại nặng: Không được quá 20 phần triệu nếu không có chi dẫn khác.
Cách tiến hành: Lấy 1,0 g chế phẩm tiến hành theo phương pháp 3, Phụ lục 9.4.8.
Dùng 2 ml dung dịch chì màu 10 phần triệu Pb để chuẩn bị mẫu đối chiếu.
Dung môi tồn dư: Nếu điều chế với dung môi không phải là cồn, nước hay
hỗn hợp cồn – nước, dư lượng dung môi sử dụng phải đáp ứng yêu cầu qui định
trong Phụ lục 10.14. Xác định dung môi tồn dư.
Dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật: Đáp ứng yêu cầu quy định trong Phụ lục
2.17. Dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật.
Giới hạn nhiễm khuẩn: Đáp ứng yêu cầu qui định trong Phụ lục 13.6 Thử
giới hạn nhiễm khuẩn.
Bảo quản: Cao thuốc được đựng trong bao bi kín, để nơi khô, mát, tránh ánh
sáng, nhiệt độ ít thay đổi. Nhãn: Theo qui định hiện hành và có ghi tên bộ phận
dùng của cây thuốc, tên dung môi, hàm lượng (%) của hoạt chất hoặc của hợp chất
nhận dạng được quy định theo từng chuyên luận riêng, tên và nồng độ của chất bảo
quán thêm vào. Khi hoạt chất chưa biết, tỷ lệ giữa dược liệu và sản phẩm cuối cùng
phái dược nêu rõ. Đối với cao đặc và cao khô. loại và số lượng tá dược thêm vào
cùng được nêu ra và tỷ lệ phần trăm của cao tự nhiên cũng phải được ghi rõ.
KIỂM NGHIỆM DƯỢC LIỆU
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG DƯỢC
LIỆU
Dược liệu trước khi đưa vào sử dụng đều phải đưa vào kiểm tra chất lượng và
phải đạt yêu cầu chất lượng theo tiêu chuẩn đã đăng ký như tiêu chuẩn dược điển
hoặc tiêu chuẩn cơ sở. Kiểm tra chất lượng dược liệu bao gồm việc mô tả, định
tính, các phép thử tinh khiết, xác định hàm lượng chất chiết được và định lượng
hoạt chất trong dược liệu. Việc kiểm tra được liệu được tiến hành theo quy định.
Một số quy định:
1. Lấy mẫu kiểm nghiệm.
2. Sử dụng các mô tả của chuyên luận, một mẫu đối chiếu (dược liệu hay chất
tinh khiết) thích hợp đã đạt yêu cầu chất lượng theo chuyên luận riêng để xác nhận
kết quả kiểm nghiệm.
3. Nếu dược liệu được, kiểm tra đã bị vụn nát thì dược liệu đó vẫn phải đáp
ứng các yêu cầu chung, trừ yêu cầu về mô tả trong chuyên luận tương ứng.
4. Nếu dược liệu đòi hỏi phải được làm thành bột trước khi định tính, định
lượng thì phải tán dược liệu đó thành bột, rây và trộn đều như được mô tả trong
chuyên luận riêng.
5. Chỉ tiêu “Mô tả” bao gồm những mô tả về hình thái, kích thước, màu sắc,
mùi vị, các đặc điểm của bề mặt, vết bẻ hay mặt cắt cùa dược liệu hoặc đặc điểm
thể chất của dược liệu.
a. “Hình thái” là hình dạng của dược liệu khô. Thông thường dược liệu được
quan sát mà không cần xử lý trước. Các loại dược liệu là lá hay hoa bị nhăn nheo,
khô quăn có thể được làm ẩm, làm mềm và trải phẳng trước khi quan sát. Đối với
một vài loại quả và hạt nếu cần có thể được làm mềm và loại bỏ vỏ hạt để kiểm tra
đặc điểm bên trong.
b. “Kích thước” là chiều dài, đường kính và độ dày của dược liệu. Tiến hành
đo trên một số mẫu. Cho phép một vài mẫu có giá trị hơi cao hơn hoặc thấp hơn
giá trị đã xác định. Sử dụng thước đo chia vạch tới milimét. Đối với hạt hay vật có
kích thước nhỏ. xếp 10 hạt gần nhau theo một hàng trên một tờ giấy có chia vạch
tới milimét. Đo và tính giá trị trung bình.
c. “Màu sắc” của dược liệu được quan sát bằng mắt thường ở ánh sáng ban
ngày. Màu có thể được mô tả bằng các sắc độ như “hơi”, “đậm” hay “nhạt” (ví dụ
màu hơi vàng, màu vàng đậm, màu vàng nhạt). Nếu màu được mô tả là màu phối
hợp của hai màu thì màu chính là màu ghi trước (ví dụ trong màu nâu vàng thì màu
nâu là màu chính).
d. Đặc điểm bên ngoài, bề mặt vết bẻ hay cắt ngang của dược liệu thường
được quan sát trên dược liệu chưa sơ chế. Nếu quan sát thấy những đường văn
khác nhau trên mặt bẻ thì có thể cắt phẳng rồi quan sát.
e. “Mùi” của dược liệu được kiểm tra bằng cách ngửi trực tiếp hoặc sau khi bẻ
gãỵ và vò nát. Cũng có thể ngửi sau khi làm ẩm dược liệu bằng nước nóng.
f. “Vị” của dược liệu được kiểm tra bang cách nếm trực tiếp dược liệu hoặc
ném dịch chiết nước. Nên cẩn thận khi nếm những vị thuốc có độc.
6. Định tính là những phương pháp dùng để nhận biết dược liệu, bao gồm các
kinh nghiệm truyền thống, phương pháp vi học và các phương pháp lý hóa.
a. Nhận biết dược liệu dựa theo kinh nghiệm bằng phương pháp đơn giản và
truyền thống như sự chìm hay nổi trong nước, tiếng nổ, màu của ngọn lửa hay khói
và mùi khi đốt cháy dược liệu v.v…
b. Định tính dược liệu bằng phương pháp vi học là việc quan sát đặc điểm của
các tế bào, các mô của lát cắt, của bột hay (trong một vài trường hợp) của bề mặt
dược liệu dưới kính hiển vi.
c. Định tính lý học là việc xác định các chỉ số như độ tan, tỉ trọng, chiết xuất,
năng suất quay cực v.v… của các dược liệu.
d. Định tính hóa học là phép thử một vài thành phần trong dược liệu bằng các
phản ứng hóa học. Phương pháp tiến hành được trình bày ở các chuyên luận dược
liệu cụ thể.
e. Định tính sắc ký là việc sử dụng các phương pháp sắc ký như sắc ký lớp
mỏng, sắc ký khí, sắc ký lỏng hiệu năng cao… để phát hiện một số thành phần có
trong dược liệu; so sánh với chất chuẩn hay thành phần trong dược liệu chuẩn.
Phương pháp tiến hành được trình bày ở Phụ lục 5 và các chuyên luận dược liệu cụ
thể.
f. Định tính huỳnh quang là quan sát sự phát huỳnh quang của bề mặt hay mặt
cắt dược liệu hoặc của dịch chiết dược liệu ở điều kiện thường hay sau khi cho tác
dụng với acid, kiềm hay thuốc thử. Trừ khi có quy định riêng trong chuyên luận,
mẫu thử được quan sát dưới ánh sáng từ ngoại ở bước sóng 366 nm, cách nguồn
sáng khoảng 10 cm.
g. Trừ những qui định trong chuyên luận riêng, định tính vi thăng hoa thường
được tiến hành như sau: Đặt một vòng kim loại đường kính khoảng 2 cm, cao
khoảng 8 mm lên một tấm kim loại mỏng có kích thước hơi lớn hơn. Trải một lớp
mỏng bột dược liệu trong vòng kim loại và đậy kín bằng một phiến kính bên trên
đặt một miếng bông tẩm nước lạnh. Đặt tấm kim loại đã có dược liệu này lên một
lưới amiant có 1 lỗ tròn đường kính khoảng 2 cm sao cho vòng kim loại có dược
liệu nằm trên lỗ này. Đun nóng nhẹ phía dưới lỗ cho đến khi bột dược liệu bị cháy
xém. Nhấc phiến kính ra và để nguội. Quan sát hình dạng và màu sắc của tinh thể
chất được thăng hoa đọng lại trên phiến kính bằng kính hiển vi và hoặc tiến hành
phản ứng hóa học thích hợp đối với chất đã được thăng hoa.
7. Thử tinh khiết là cách kiểm tra độ tinh khiết của dược liệu. Tùy từng dược
liệu mà thử tinh khiết có thể bao gồm một số haỵ tất cả các chỉ tiêu dưới đây:
a. Mất khối lượng do làm khô (Phụ lục 9.6 hay 12.13 ).
b. Tro toàn phần và tro không tan trong acid hydrocloric (Phụ lục 9.7 và 9.8).
c. Các tạp chất hữu cơ, các bộ phận khác của dược liệu, các dược liệu bị biến
màu, hư thối (Phụ lục 12.11).
d. Tỉ lệ vụn nát của dược liệu (Phụ lục 12.12).
e. Hàm lượng kim loại nặng (Phụ lục 9.4.11).
f. Dư lượng các chất bảo vệ thực vật (Phụ lục 12.1 7).
g. Xác định chất chiết được là xác định hàm lượng các chất trong dược liệu có
thể chiết được bằng dung môi (nước, ethanol hay một dung môi khác) (Phụ lục
12.10).
8. Định lượng là việc xác định hàm lượng của một hay một số chất có trong
dược liệu bằng phương pháp hóa học, lý học hoặc sinh học. Định lượng bao gồm
cả việc xác định hàm lượng chất béo (Phụ lục 12.9), tinh dầu (Phụ lục 12.7) và xác
định hoạt lực bằng các phép thử sinh học.
LẤY MẪU DƯỢC LIỆU
Lấy mẫu dược liệu là việc lựa chọn, thu thập các mẫu dược liệu cho việc kiểm
tra chất lượng. Mức độ đại diện của các mẫu dược liệu được lấy có ảnh hưởng trực
tiếp đến độ chính xác và độ đúng của việc kiểm tra. Các yêu cầu chung về việc lấy
mẫu dược liệu như sau:
Kiểm tra trước khi lấy mẫu
Kiểm tra đối chiếu tên và nguồn gốc nguyên liệu; Kiểm tra đặc điểm và hình
dạng bao gói; Kiểm tra sự nguyên vẹn, sạch sẽ, mức độ nhiễm mốc và tạp chất lạ
của bao bì. Các bao gói không bình thường cần được kiểm tra riêng một cách kỹ
càng. Ghi chép chi tiết kết quả kiểm tra.
Cách thức lấy mẫu
Tổng số bao gói dưới 5: Lấy mẫu từng bao gói. Từ 5 đến dưới 100: Lấy mẫu 5
bao gói. Từ 100 đến 1000: Lấy mẫu 5 % tổng số bao gói. Trên 1000: Lấy 50 bao
gói cộng thêm số bao gói bằng 1 % của tổng số bao gói vượt quá so với 1000 bao
gói. Dược liệu quý: Lấy mẫu từng bao gói, không kể số lượng các bao gói. Dược
liệu được lấy ở trên, giữa và cuối của mỗi bao gói bằng các phương tiện thích hợp
(đối với bao gói lớn thì lấy sâu 10 cm dưới bề mặt của bao gói). Đối với thuốc có
kích thước lớn thì lấy mẫu đại diện thích hợp.
Khối lượng mẫu lấy
Nếu lượng dược liệu dưới 5 kg thì số lượng mẫu được lấy không ít hơn 3 lần
số lượng đem thử nghiệm. Nếu lượng dược liệu lớn hơn 5 kg thì số lượng mẫu lấy
được xác định như sau: Thuốc thông thường: 250 g đến 500 g; Thuốc bột: 200 g;
Thuốc quý: 5 g đến 10 g (trừ khi có chỉ dẫn khác trong chuyên luận riêng).
Tạo mẫu đồng nhất
Mẫu sau khi lấy được trộn đều để có một mẫu đồng nhất dùng cho thử
nghiệm. Nếu khối lượng mẫu đồng nhất lớn hơn vài lần so với mẫu thử nghiệm thì
làm một mẫu trung bình. Nếu dược liệu có kích thước nhỏ thì lấy một mẫu trung
bình bằng phương pháp chia 4 như sau: San bằng mẫu thành hình vuông, chia mẫu
theo 2 đường chéo thành 4 phần bằng nhau. Lấy 2 phần đổi diện và trộn đều. Làm
lại thao tác chia 4 cho đèn khi thu được số lượng vừa đủ để làm mẫu thử và mẫu
lưu.Trong trường hợp các dược liệu có kích thước lớn thì lấy mẫu trung bình bằng
phương pháp khác thích hợp. Khối lượng của mẫu đồng nhất hoặc mẫu trung bình
không ít hơn 3 lần số lượng của mẫu đem thử nghiệm. Lượng mẫu này được chia
làm 3 phần, 1/3 dùng để phân tích, 1/3 để kiểm tra và số còn lại làm mẫu lưu giữ
lại ít nhất 01 năm.
ĐỊNH TÍNH DƯỢC LIỆU VÀ CÁC CHẾ PHẨM BẰNG KÍNH HIỂN VI
Định tính bằng kính hiển vi là phương pháp sử dụng kính hiển vi để nhận biết
các đặc điểm của các mô, tế bào hoặc các chất chứa trong tế bào, ở các lát cắt, bột,
các mô đã được làm rã ra, hoặc các tiêu bản bề mặt của dược liệu và các chế phẩm.
Việc chọn mẫu đại diện để định tính và sự chuẩn bị tiêu bản phải phù hợp với
những yêu cầu về định tính của mỗi loại mẫu cần kiểm tra. Các tiêu bản của các
chế phẩm được chuẩn bị sau những xử lý thích hợp tùy theo các dạng chế phẩm
khác nhau.
Mục lục [Ẩn] 1 Tiêu bản dược liệu 1.1 Lát cắt ngang hoặc dọc 1.2 Tiêu bản
bột 1.3 Tiêu bản bề mặt 1.4 Tiêu bán mô đã làm rã 1.5 Tiêu bản phấn hoa và bào tử
2 Tiêu bản của chế phẩm đông dược bao gồm cả thuốc bột 3 Đo tế bào và các
thành phần của tế bào 4 Phát hiện màng tế bào 5 Phát hiện các thành phần của tế
bào 5.1 Các thuốc thử dùng cho phân tích vi thể
Tiêu bản dược liệu
Lát cắt ngang hoặc dọc
Chọn lấy một mẫu dược liệu thích hợp sao cho có đủ các đặc điểm thực vật
như sau: Thân và rễ nhỏ: Lấy một đoạn có đủ mặt cắt ngang. Thân, rễ to và rễ củ:
Lấy một phần có mặt cắt ngang hình quạt (có cấu tạo từ biểu bì đến tâm). Vỏ thân:
Lấy một phần cắt ngang hình chữ nhật (có cấu tạo từ bần đến tầng phát sinh libe-
gỗ). Lá: Lấy một đoạn gân giữa có dính mỗi bên một ít phiến lá. Hoa: Bóc biểu bì
hay cắt ngang từng bộ phận. Quả và hạt nhỏ: Lấy nguyên cả quả và hạt. Quả và hạt
to: Lấy một phần, chọn vị trí cắt có đủ các đặc điểm. Dùng lưỡi dao cạo, ổng cắt vi
phẫu cầm tay hay máy cắt vi phẫu cắt mẫu dược liệu thành từng lát mỏng 10 μm
đến 20 μm. Cũng có thể kẹp mẫu trong parafin rắn, củ khoai lang, củ đậu v.v… để
cắt. Trừ chỉ dẫn trong chuyên luận riêng, lát cắt có thể được soi ngay hoặc phải qua
các bước xử lý sau đây trước khi đem soi kính: Ngâm các lát cắt vào dung dịch
cloramin 15 % đến khi lát cắt trắng ra thì rửa sạch cloramin bằng nước. Ngâm lát
cắt vào thuốc thử cloral hydrat khoảng 10 phút rồi rửa sạch bằng nước cất. Ngâm
lát cắt trong dung dịch acid acetic 1 % trong khoảng 2 phút rồi rửa thật kỹ lại bằng
nước cất. Ngâm lát cắt trong dung dịch lục iod hoặc xanh methylen trong khoảng
từ 1 s đến 5 s, rửa nhanh bằng ethanol 60 % rồi rửa lại bằng nước cất. Ngâm lát
cắt trong dung dịch carphút 40 tới khi thấy màu bắt rõ thì rửa bằng nước cất.
Tiêu bản bột
Lấy một lượng nhỏ bột (qua rây số 250), cho vào một giọt dung dịch soi (như
nước, glycerin, cloral hydrat hay thuốc thử khác tùy thuộc vào mục đích soi) đã có
sẵn trên lam kính, dùng kim mũi mác dàn đều cho bột thấm dung dịch, đậy lam
kính, di nhẹ lam kính rồi quan sát dưới kính.
Tiêu bản bề mặt
Làm ẩm và làm mềm mẫu (nếu cần thiết), cắt lấy 2 mẫu nhỏ khoảng 4 mm2
(một mẫu để soi và một mẫu để đối chiếu) hoặc tước lấy một đoạn biểu bì, đặt lên
một lam kính, thêm thuốc thử thích hợp rồi soi kính.
Tiêu bán mô đã làm rã
Nếu mẫu thử là mô mềm hoặc chỉ có ít, lẻ tẻ các mô gỗ thì có thể dùng
phương pháp kali hydroxyd. Nếu mẫu thử cứng, có nhiều mô gỗ hoặc các mô gỗ tụ
lại thành bó lớn thì dùng phương pháp acid cromic-nitric hay phương pháp kali
clorat. Mẫu thử cần được cắt thành các đoạn dài 5 mm, đường kính 2 mm hoặc
những mẫu nhỏ dày khoảng 1 mili trước khi làm rã. a. Phương pháp kali hydroxyd:
Cho mẫu thử vào một ống nghiệm, thêm dung dịch kali hydroxyd 5 % vừa đủ, đun
nóng nhẹ (hoặc ngâm nóng trong cách thủy) đến khi ép bằng đũa thủy tinh thi mẫu
bị vỡ ra. Gạn bỏ dung dịch kiềm, rửa sạch mẫu bằng nước rồi đặt mẫu lên lam
kính. Dùng kim phẫu thuật xé mẫu ra rồi quan sát trong glycerin . b. Phương pháp
acid cromic-nitric: Cho mẫu thử vào một ống nghiệm, thêm vừa đủ thuốc thử acid
cromic-nitric , ngâm đến khi ép bằng đũa thủy tinh thì mẫu bị vỡ ra. Gạn bỏ dung
dịch acid, rửa bằng nước rồi làm tiếp như phương pháp a. c. Phương pháp kali
clorat: Cho mẫu thử vào trong ống nghiệm, thêm dung dịch acid nitric 50 % và
một ít bột kali clorat , đun nóng đến khi giảm sùi bọt. Thêm một lượng nhỏ kali
clorat đúng lúc để duy trì sùi bọt nhẹ cho đến khi mẫu bị vỡ ra khi ép bằng đũa
thủy tinh. Gạn bỏ dung dịch acid, rửa sạch mẫu bằng nước rồi làm tiếp như phương
pháp a.
Tiêu bản phấn hoa và bào tử
Nghiền phấn hoa, bao phấn, hoa nhỏ hoặc túi bào tử (được làm mềm trong
acid acetic băng bằng đũa thủy tinh và lọc vào một ống ly tâm, ly tâm rồi bỏ phần
nước. Thêm vào cắn 1 ml đến 3 ml hỗn hợp mới pha của anhydrid acetic – acid
sulfuric (9 : 1), đun nóng 2 phút đến 3 phút trên cách thủy, ly tâm. Rửa cắn bằng
nước 2 lần, thêm 3 giọt đến 4 giọt dung dịch glycerin 50 % và dung dịch phenol 1
% , làm tiêu bản trong tuchsin – glycerin – gelatin và soi. Có thể dùng doral hydrat
thay cho fuchsia – glycerin – gelatin để soi.
Tiêu bản của chế phẩm đông dược bao gồm cả thuốc bột
Để định tính các chế phẩm đông dược bao gồm cả thuốc bột, chuẩn bị tiêu
bản như đã mô tả ở mục “Tiêu bản bột” ở phần trên. Lượng mẫu lấy như dưới đây
được nghiền thành bột và lấy một lượng bột thích hợp, thêm từng giọt thuốc thử
theo yêu cầu, khuấy kỹ để làm tách rời các tế bào hay tổ chức bị dính. Thuốc bột
hoặc bột của viên nang: Lấy một lượng bột thích hợp, nghiền nhỏ. Viên nén: Lấy 2
đến 3 viên. Hoàn hồ nước, hoàn hồ, hoàn mật ong (loại bỏ lớp vỏ bao): Lấy vài
viên. Thuốc ngậm: Lấy 1 đến 2 viên. Với hoàn mật ong có thể cắt thành lát mỏng
và lấy một lượng mẫu thích hợp hoặc lấy một lượng cắn nhỏ sau khi loại bỏ mật
ong và nước để làm tiêu bản.
Đo tế bào và các thành phần của tế bào
Để đo kích thước tế bào và các thành phần của tế bào dưới kính hiển vi, có thể
dùng trắc vi thị kính. Trước hết, lắp trắc vi thị kính vào thị kính, sau đó định cỡ
bằng bàn soi trắc vi kế. Để định cỡ, xoay thị kính và di chuyển bàn soi để cho các
vạch trên 2 thang chia độ song song với những vạch ”0″ bên trái của chúng trùng
nhau, sau đó tìm những vạch khác ở bên phải. Giá trị (μm) của một vạch trắc vi thị
kính có thể được tính toán trên cơ sở những vạch chia của 2 thang chia độ giữa
những dòng trùng nhau. Để đo mẫu, đem nhân số vạch đo được của trắc vi thị kính
với giá trị (μm) của mỗi vạch. Nói chung, phép đo được thực hiện dưới một vật
kính có độ phóng đại lớn, tuy nhiên, để đo những kích thước lớn hơn của sợi, lông
v.v… thì nên dùng vật kính có độ phóng đại nhỏ. Ghi lại các giá trị cực đại và cực
tiểu (μm). Cho phép có một vài giá trị cao hơn hay thấp hơn chút ít so với yêu cầu
quy định trong chuyên luận dược điển.
Phát hiện màng tế bào
Màng tế bào hóa gỗ: Thêm 1 giọt đến 2 giọt thuốc thử phloroglucinol , để yên
một lúc, thêm 1 giọt acid hydrocloric , vùng hóa gỗ xuất hiện màu đỏ tía. Màng tế
bào hóa vân hay hóa cu tin: Thêm thuốc thử Sudan III , để yên một lúc hay làm ẩm
nhẹ, xuất hiện màu đỏ cam hay màu đỏ. Màng rehilose: Thèm thuốc thử kẽm
clorid-iod, hoặc lúc đầu thêm dung dịch iod 1 % để làm ẩm, để yên 1 phút rồi
thêm dung dịch acid sulfuric 133 ml acid sulfuric pha với nước cất vừa đủ 50 ml,
sẽ xuất hiện màu xanh lam hay xanh tím. Màng tế hào silic: Không có sự thay đổi
gì khi thêm acid sulfuric.
Phát hiện các thành phần của tế bào
Tinh bột: Thêm dung dịch iod , sẽ xuất hiện màu xanh lam hay xanh tím. Đặt
mẫu trong dung dịch glycerin-acid acetic, quan sát dưới kính hiển vi phân cực thấy
hiện tượng phân cực chéo của các hạt tinh bột, hiện lượng này mất đi ở những hạt
tinh bột bị hóa hổ. Hạt aleuron: Thêm dung dịch iod , sẽ xuất hiện màu nâu hay
màu vàng nâu. Thêm dung dịch thủy ngân (II) nitrat , xuất hiện màu đỏ gạch. Nếu
dược liệu có dầu béo, phải loại dầu béo bằng ether hay ether dầu hỏa trước khi
thử. Dầu béo, tinh dầu hay nhựa: Thêm dung dịch Sudan III , sẽ xuất hiện màu đỏ
da cam, màu đỏ hoặc đỏ tía. Trong ethanol 90 % , dầu béo không hòa tan (trừ dầu
thầu dầu và dầu bông), trong khi đó tinh dầu thì hòa tan được. Inulin: Thêm dung
dịch I-naphthol 10 % trong ethanol , sau đó thêm acid sulfuric , các tinh thể inulin
chuyển sang màu đỏ tía và hòa tan nhanh. Tinh thể calci oxalat: Không hòa tan
trong dung dịch acid acetic loãng , tan trong dung dịch acid hydrocloric. loãng ,
không sủi bọt. Hòa tan chậm trong dung dịch acid sulfuric 50 % , nhưng sau khi để
yên một lúc thì tách ra những tinh thể calci sulfat. Calci carbonat: Hòa tan trong
dung dịch acid hydrocloric loãng và có sủi bọt. Silic: Không hòa tan trong acid
sulfuric.
XÁC ĐỊNH CHỈ SỐ TRƯƠNG NỞ CỦA DƯỢC LIỆU
Chỉ số trương nở là thể tích (ml) chiếm giữ của 1 g dược liệu, sau khi để
trương nở trong nước hoặc một dung môi khác theo quy định trong 4 b, gồm tất cả
các chất nhầy bám dính.
Cách xác định: Cân chính xác khoảng 1 g dược liệu, để nguyên hoặc nghiền
nhỏ ở mức độ thích hợp theo chỉ dẫn trong chuyên luận, cho vào 1 ống nghiệm
thủy tinh 25 ml có nút mài, chiều cao 120 mm đến 130 mm và chia độ 0,5 ml. Trừ
những chỉ dẫn khác, làm ẩm dược liệu với 1,0 ml ethanol 96 % , thêm 25 ml nước,
và đậy nút. Lắc kỹ 10 phút một lần trong 1 h đầu, sau đó để yên 3 h. Sau khi bắt
đầu thử nghiệm 1,5 h, loại bỏ những thể tích tự do của phần chất lỏng còn lại trong
lớp dược liệu và những phần dược liệu nổi lên bề mặt của chất lỏng bằng cách
quay ống nghiệm theo trục thẳng đứng. Đo thể tích chiếm giữ của dược liệu bao
gồm toàn bộ các chất nhầy bám dính. Mỗi mẫu tiến hành 3 lần thử nghiệm. Tính
chỉ số trương nở từ kết quả trung bình của 3 lần thử nghiệm.
XÁC ĐỊNH TỶ LỆ VỤN NÁT CỦA DƯỢC LIỆU
Cách xác định: Cân một lượng dược liệu nhất định (p gam) đã được loại tạp
chất. Rây bằng rây có số rây quy định theo chuyên luận riêng hoặc chọn bằng tay
những phần vụn đối với các bô phận cây không thái nhỏ. Cân toàn bộ phần đã lọt
qua rây và phân vụn đã chọn. Tính tỷ lệ vụn nát (từ kết quả trung bình của ba lần
thực hiện). Ghi chú: Lượng dược liệu lấy để thử (tùy theo bản chất của dược liệu)
từ 100 g đến 200 g. Đối với dược liệu mỏng manh thì chỉ lắc nhẹ, tránh làm vụn
nát thêm. Phần bụi và bột vụn không phân biệt được bằng mắt thường được tính
vào mục tạp chất.
XÁC ĐỊNH CÁC CHẤT CHIẾT ĐƯỢC TRONG DƯỢC LIỆU
Phương pháp xác định các chất chiết được bằng nước
Phương pháp chiết lạnh: Nếu không có chỉ dẫn đặc biệt trong chuyên luận
riêng, cân chính xác khoảng 4,000 g bột dược liệu có cỡ bột nửa thô cho vào trong
bình nón 250 ml đến 300 ml. Thêm chính xác 100,0 ml nước, đậỵ kín, ngâm lạnh,
thỉnh thoảng lắc trong 6 h đầu, sau đó để yên 18 h. Lọc qua phễu lọc khô vào một
bình hứng khô thích hợp. Lấy chính xác 20 ml dịch lọc cho vào một cốc thủy tinh
đã cân bì trước, cô trong cách thủy đến cắn khô. sấy cắn ở 105 °C trong 3 h, lấy ra
để nguội trong bình hút ẩm 30 phút, cân nhanh để xác định khối lượng cắn sau khi
sấy, tính phần trăm lượng chất chiết được bằng nước theo dược liệu khô.
Phương pháp chiết nóng: Nếu không có chỉ dẫn đặc biệt trong chuyên luận
riêng, cân chính xác khoảng 2,000 g đến 4,000 g bột dược liệu có cỡ bột nửa thô
cho vào bình nón 100 ml hoặc 250 ml. Thêm chính xác 50,0 ml hoặc 100,0 ml
nước, đậy kín, cân xác định khối lượng, để yên 1 h, sau đó đun sôi nhẹ dưới hồi
lưu 1 h, để nguội, lấy bình nón ra, đậy kín, cân để xác định lại khối lượng, dùng
nước để bổ sung phần khối lượng bị giảm, lọc qua phễu lọc khô vào một bình hứng
khô thích hợp. Lấy chính xác 25 ml dịch lọc vào cốc thủy tinh đã cân bì trước, cô
trong cách thủy đến cắn khô, cắn thu được sấy ở 105 °C trong 3 h, lấy ra để nguội
trong bình hút ẩm 30 phút, cân nhanh để xác định khối lượng cắn. Tính phần trăm
lượng chất chiết được bằng nước theo dược liệu khô.
Phương pháp xác định các chất chiết được bằng ethanol hoặc methanol
Dùng các phương pháp tương tự như phương pháp xác định các chất chiết
được bằng nước. Tuỳ theo chỉ dẫn trong chuyên luận riêng mà dùng ethanol hoặc
methanol có nồng độ thích hợp để thay nước làm dung môi chiết. Với phương pháp
chiết nóng thì nên đun trong cách thủy nếu dung môi chiết có độ sôi thấp.
Mất khối lượng do làm khô của các chất chiết được trong dược liệu
Cách xác định: Cân nhanh 0,50 g mẫu thử đã nghiền thành bột mịn vào một
cốc đáy bằng có đường kính khoảng 50 mm và chiều cao khoảng 30 mm đã được
sấy khô và xác định khối lượng. Sấy ở 100 °C đến 105 °C trong 3 h. Lấy ra để
nguội trong bình hút ẩm có chất hút ẩm phosphor pentoxyd hoặc silica gel và cân.
Tính toán kết quả theo phần trăm khối lượng.
XÁC ĐỊNH TẠP CHẤT LẪN TRONG DƯỢC LIỆU
Tạp chất lẫn trong dược liệu bao gồm tất cả các chất ngoài quy định của dược
liệu đó như: Đất, đá, rơm rạ, cây cỏ khác, các bộ phận khác của cây không quy
định làm dược liệu, xác côn trùng…
Cách xác định: Cân một lượng mẫu vừa đủ theo chỉ dẫn trong chuyên luận
riêng hoặc trong ghi chú dưới đây, dàn mỏng trên tờ giấy, quan sát bằng mắt
thường hoặc kính lúp, khi cần có thể dùng rây để phân tách tạp chất và dược liệu.
Cân phần tạp chất và tính phần trăm. Ghi chú: Trong một số trường hợp nếu tạp
chất rất giống với thuốc, có thể phải làm các phản ứng định tính hoá học, phương
pháp vật lý hoặc dùng kính hiển vi để phát hiện tạp chất. Tỷ lệ tạp chất được tính
bao gồm cả tạp chất được phát hiện bằng phương pháp này. Lượng mẫu lấy để thử
nếu chuyên luận riêng không quy định thì lấy như sau: Hạt và quả rất nhỏ (như hạt
Mã đề): 10 g. Hạt và quả nhỏ: 20 g. Dược liệu thái thành lát: 50 g.
XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG AFLATOXIN B1 TRONG DƯỢC LIỆU
Các aflatoxin là những chất rất độc và gây ung thư. Cần thực hiện các thao tác
trong tủ hút hơi độc bất cứ khi nào có thể. Phải đặc biệt lưu ý khi các độc tố này ở
dạng bột khô vì chúng có tính chất hút tĩnh điện và khuynh hướng phát tán vào môi
trường làm việc; trong trường hợp này nếu có thể thì thao tác trong hộp kín có
găng tay. Cần tuân thủ Quy trình khử nhiễm aflatoxin cho các chất thải phòng thí
nghiệm đã được Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC) xây dựng. Các
aflatoxin là những độc tố vi nấm xuất hiện trong tự nhiên, chủ yếu do nấm mốc
Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus tạo ra. Các loài nấm này khá phổ biến
và phát tán trong tự nhiên, rất hay được tìm thấy khi một số loại hạt này mầm và
mọc ở những điều kiện khắc nghiệt như hạn hán. Nấm mốc xuất hiện trong đất,
trong thực vật đang phân hủy, trong cỏ khô và ở những hạt đang bị vi khuẩn phá
hủy, sẽ tác động vào tất cả các loại cơ chất hữu cơ bất cứ khi nào hoặc ở đâu có
điều kiện thuận lợi cho chúng phát triển. Những điều kiện thuận lợi đó là hàm
lượng ẩm cao và nhiệt độ cao. ít nhất đã có 13 loại aflatoxin khác nhau được tạo ra
trong thiên nhiên và phần lớn trong số đó được biết là có độc tính cao và gây ung
thư. Aflatoxin B1 được xác định là chất độc nhất. Các dược liệu bị nhiễm aflatoxin
phải được xác định bằng một phương pháp phân tích đã được thẩm định. Trừ khi
có chỉ dẫn khác trong chuyên luận riêng, các dược liệu chỉ được nhiễm aflatoxin
B1 không quá 2 μg/kg. Cơ quan quản lý dược cũng có thể yêu cầu một giới hạn
cho phép là 4 μg/kg cho tổng lượng các aflatoxin B1, B2, G1 và G2. Phương pháp
mô tả dưới đây được nêu ra như một ví dụ, đã được chứng phúth là thích hợp cho
việc xác định aflatoxin trong gừng, trong quả phan tả diệp… Khi áp dụng phương
pháp này cho các dược liệu khác, cần phải xác định tính thích hợp của nó; nếu
không, phải dùng một phương pháp được thẩm định khác.
Xác định hàm lượng aflatoxin bằng phương pháp sắc ký lỏng.
Các aflatoxin đều bị ánh sáng phân hủy. Cần tiến hành định lượng trong khu
vực tránh ánh sáng ban ngày bằng cách dùng lá chắn tia tử ngoại trên cửa sổ kết
hợp với ánh sáng dịu, hoặc dùng rèm che kết hợp với chiếu sáng nhân tạo (cụ thể
bằng đèn tuýp huỳnh quang). Bảo quản các dung dịch chứa aflatoxin tránh ánh
sáng ban ngày. Tráng rửa dụng cụ thủy tinh trước khi dùng bằng dung dịch acid
sulfuric 10 % (theo thể tích), sau đó rửa cẩn thận bằng nước cất cho đến khi không
còn vết acid.
Dung dịch thử: Dùng cột sắc ký ái lực miễn dịch chứa kháng thể đối với
aflatoxin B1 có dung lượng không ít hơn 100 μg aflatoxin B1 và khả năng thu hồi
không thấp hơn 80 % khi cho một dung dịch 5 μg aflatoxin B1 trong hỗn hợp 12,5
ml methanol và 87,5 ml nước chảy qua. Giữ cột sắc ký ái lực miễn dịch ở nhiệt độ
phòng. Lấy 5,00 g dược liệu đã tán bột (qua rây số 500), thêm 100,0 ml hỗn hợp 30
thể tích nước và 70 thể tích methanol; chiết bằng siêu âm trong 30 phút. Lọc dịch
chiết qua giấy lọc. Hút 10,0 ml dịch lọc trong cho vào một bình nón cỡ 150 ml.
Thêm 70,0 ml nước, lắc đều. Hút 40,0 ml dung dịch cho chảy qua cột sắc ký ái lực
miễn dịch với tốc độ 3 ml/phút (không vượt quá 5 ml/phút). Rửa cột bằng nước 2
lần, mỗi lần 10 ml với tốc độ không quá 5 ml/phút rồi làm khô bằng cách áp một
chân không nhẹ trong 5 đến 10 s, hoặc bằng cách dùng bơm tiêm thổi không khí
qua cột sắc ký trong 10 s. Cho 0,5 ml methanol lên cột và để chảy qua cột nhờ
trọng lực. Thu dịch rửa giải vào một bình định mức cỡ 5 ml. Sau 1 phút, lại cho
tiếp 0,5 ml methanol và hứng lấy dịch rửa giải lần 2. Chờ 1 phút sau lại thực hiện
lần rửa giải thứ 3 nữa cũng với 0,5 ml methanol. Thu tối đa dịch rửa giải bằng cách
nén không khí hoặc tạo một chân không nhẹ qua cột. Thêm nước vào bình định
mức cho đủ 5 ml, lắc đều. Nếu thu được dung dịch trong thì có thể dùng ngay để
phân tích. Nếu dung dịch không trong suốt thì cần lọc trước khi tiêm sắc ký. Dùng
màng lọc sẵn dùng 1 lần (màng lọc polytetrafluoroethylen cỡ lỗ lọc 0,45 μm) đã
được chứng minh là không gây mất aflatoxin do lưu giữ.
XÁC ĐỊNH ACID ARISTOLOCHIC I TRONG DƯỢC LIỆU
Acid aristolochic I là chất có độc tính cao, được cho là có khả năng gây ra suy
thận và ung thư. acid aristolochic I thường được tìm thấy trong các cây thuộc họ
Mộc hương (Aristolochiaceae). Do đó, các dược liệu có thể có chứa acid
aristolochic I cần được kiểm tra phát hiện acid aristolochic I trước khi sử dụng.
Xác định bằng phương pháp sắc ký lỏng.
Pha động: Dung dịch đệm phosphat 0,05 M – acetonitril (11:9).
Dung dịch chuẩn: Hòa tan một lượng acid aristolochic chuẩn tương đương
với 10,0 mg acid aristolochic I trong hỗn hợp methanol – nước (3 : 1) và pha loãng
thành 200,0 ml với hỗn hợp methanol – nước (3:1). Hút 2,0 ml dung dịch này, pha
loãng thành 10,0 ml với hỗn hợp methanol – nước (3 : 1).
Dung dịch thử: Cân 2,0 g bột dược liệu (qua rây số 125) vào một bình nón
nút mài, thêm 50,0 ml hỗn hợp gồm methanol – nước (3:1), lắc kỹ trong 15 phút,
lọc.
Điều kiện sắc ký: Cột kích thước (25 cm X 4,6 mm) được nhồi pha tĩnh C (5
μm). Detector quang phổ tử ngoại khả kiến đặt ở bước sóng 400 nm. Tốc độ dòng:
1 ml/phút. Thể tích tiêm: 20 μl.
Cách tiến hành: Tiêm lần lượt dung dịch chuẩn và dung dịch thử vào máy
sắc ký, tiến hành sắc ký theo điều kiện đã mô tả, ghi lại sắc ký đồ. Mẫu thử được
chấp nhận khi trên sắc ký đồ của dung dịch thử không xuất hiện pic có cùng thời
gian lưu với pic của acid aristolochic I trên sắc ký đồ của dung dịch chuẩn.
HƯỚNG DẪN THIẾT LẬP DẤU VÂN TAY HÓA HỌC CỦA DƯỢC
LIỆU BẰNG PHƯƠNG PHÁP SẮC KỶ LỎNG HOẶC SẮC KÝ KHÍ
Dấu vân tay hóa học (DVT) là các thông tin hóa học của dược liệu được biểu
thị dưới dạng sắc ký đồ, các phổ và các đồ thị… được ghi bằng các kỹ thuật phân
tích (sau đây gọi là sắc ký đồ dấu vân tay( sắc ký đồ DVT). Các kỹ thuật sắc ký
(bao gồm sắc ký lỏng, sắc ký khí) thường được áp dụng khi thiết lập dấu vân tay
hóa học của dược liệu. Dấu vân tay hóa học của dược liệu được thiết lập bằng
phương pháp sắc ký lỏng và sắc ký khí có ưu điểm là độ chọn lọc, độ nhạy và độ
phân giải cao, thời gian phân tích ngắn, lượng mẫu dùng để phân tích nhỏ. Trong
sắc ký đồ DVT được thiết lập, có pic của một hoặc nhiều chất đánh dấu hóa học
hay các chất đặc trưng.
Lựa chọn mẫu dược liệu phải đảm bảo tính đại diện và bảo quản đúng quy
định theo chuyên luận riêng. Phương pháp chiết xuất và các điều kiện sắc ký phù
hợp được lựa chọn và tối ưu hóa tùy thuộc thành phần hóa học hoặc các chất đánh
dấu trong mỗi dược liệu. Dịch chiết dược liệu sử dụng cho phân tích là toàn phần
hay nhóm chất đại diện được quy định trong từng chuyên luận riêng. Phương pháp
cần đảm bảo tính chính xác, độ lặp lại và độ ổn định. Sắc ký đồ DVT cần có đầy đủ
thông tin bao gồm thành phần, chất đặc trưng và nhóm hoạt chất được thể hiện qua
các pic có độ phân giải tốt giúp định tính dược liệu một cách chính xác. Thời gian
phân tích khi tiến hành thiết lập DVT bằng phương pháp sắc ký lỏng, hoặc sắc ký
khí không nên quá 60 phút. Trong sắc ký đồ DVT của dược liệu phân tích, pic tách
hoàn toàn với các pic khác và tương ứng với pic của chất đối chiếu hóa học được
gọi là pic đánh dấu dùng để xác định thời gian lưu tương đối của các pic khác trong
sắc ký đồ. Có thể dùng một hoặc nhiều pic đánh dấu. Trường hợp không chọn được
chất đánh dấu có sẵn trong dược liệu, việc sử dụng chuẩn nội phù hợp có thể được
xem như chất đánh dấu. Pic đặc trưng trong sắc ký đồ DVT là các pic tách hoàn
toàn so với các pic kề bên (độ phân giải lớn hơn hoặc bảng 1,2), có diện tích đủ lớn
được quy định trong từng chuyên luận riêng. Pic đặc trưng có thời gian lưu ổn định
và diện tích pic lặp lại trong quá trình phân tích.
Tính phù hợp của hệ thống: Tiêm dung dịch chất đánh dấu (hoặc chất chuẩn
nội) có nồng độ quy định theo từng chuyên luận riêng 5 lần. Yêu cầu về độ lệch
chuẩn tương đối của diện tích và thời gian lưu của pic đánh dấu (hoặc chuẩn nội)
được quy định trong chuyên luận riêng. Hiệu lực cột được đánh giá dựa trên số đĩa
lý thuyết tính theo pic của chất đánh dấu (hoặc chuẩn nội) nằm trong giới hạn quy
định trong chuyên luận riêng. Độ phân giải giữa hai pic kề sát nhau trong sắc ký đồ
của dung dịch thử phải lớn hơn 1,0. Xác định thời gian lưu tương đối của pic đặc
trưng so với pic đánh dấu (hoặc pic chuẩn nội). Ứng dụng sắc ký đồ dấu vân tay
trong quản lý chất lượng dược liệu Sắc ký đồ DVT được ứng dụng trong định tính
và đánh giá chất lượng được liệu. Sắc ký đồ DVT của một dược liệu cần phân tích
được thiết lập theo đúng quy trình nêu trên. Phép định tính là đúng khi sắc ký đồ
của mẫu phân tích có đầy đủ các pic đặc trưng có thời gian lưu tương đối nằm
trong giới hạn cho phép tương ứng với các pic trong sắc ký đồ DVT đối chiếu đã
được quy định trong từng chuyên luận riêng.
CHƯƠNG 3: ỨNG DỤNG TRONG KIỂM NGHIỆM DƯỢC PHẨM
Các chỉ tiêu Định Xác định tạp chất Định lượng:
Định Thử giới
tính - Độ hoà tan
lượng hạn
- Hàm lượng/
hoạt lực
- Độ đúng - + - +
- Độ chính xác
+ Độ lặp lại - + - +
+ Độ chính xác trung gian - +(1) - +(1)
- Tính đặc hiệu (2) + + + +
- Giới hạn phát hiện(LOD) - -(3) + -
- Giới hạn định lượng (LOQ) - + - -
- Tính tuyến tính - + - +
- Khoảng xác định - + - +
Dấu - nhằm chỉ các chỉ tiêu này thông thường không cần phải đánh giá.
Dấu + nhằm chỉ các chỉ tiêu này cần phải đánh giá
(1) trong tường hợp đã tiến hành kiểm tra độ tái lặp thì độ chính xác trung
gian không cần phải xem xét.
(2) một quy trình phân tích kém đặc hiệu có thể được bổ trợ bằng một hay
nhiều quy trình phân tích hỗ trợ khác.
(3) có thể cần trong một số trường hợp .
4- CÁC CHỈ TIÊU TRONG THẨM ĐỊNH QUY TRÌNH PHÂN TÍCH
4.1 Tính đặc hiệu.
Việc xác định tính đặc hiệu cần thiết được tiến hành trong khi thẩm định các
phép thử định tính, xác định tạp chất và định lượng. Quy trình dùng để xác
định tính đặc hiệu phụ thuộc vào mục tiêu đã định của quy trình phân tích.
Không phải lúc nào cũng xác định được một quy trình phân tích đặc hiệu
cho một chất phân tích nhất định (phân biệt hoàn toàn). Trong trường hợp
này, cần thiết phải kết hợp hai hay nhiều quy trình phân tích để đạt được
mức độ đặc hiệu cần thiết.
4.1.1- Định tính.
Những phép thử định tính phù hợp là phép thử có thể phân biệt được các
hợp chất có cấu trúc tương tự cùng có mặt trong mẫu thử. Khả năng phân
biệt của một quy trình định tính có thể được khẳng định bằng kết quả dương
tính của mẫu có chứa chất phân tích (có thể bằng cách so sánh với chất đối
chiếu đã biết) kết hợp với kết quả âm tính của mẫu thử không chứa chất
phân tích. Thêm vào đó, phép thử định tính này có thể được áp dụng cho các
chất có cấu trúc tương tự hoặc gần với với cấu trúc của chất phân tích để
chứng tỏ phép thử định tính không cho kết quả dương tính với các chất này.
Việc lựa chọn xem chất nào có khả năng lẫn vào mẫu phân tích cần dựa trên
những đánh giá khoa học kết hợp cân nhắc xem chúng có khả năng có mặt
không.
4.1.2- Định lượng và thử tạp chất.
Đối với quy trình sắc ký, các sắc ký đồ đại diện nên được sử dụng để chứng
minh tính đặc hiệu và từng thành phần riêng biệt phải được ghi lại rõ ràng.
Với những kỹ thuật phân tách khác cũng cần phải có những ghi chép tương
tự. Giới hạn của phân tách trong sắc ký cần phải được xem xét ở mức độ phù
hợp. Đối với giới hạn của phân tách trong sắc ký, chia tách quan trọng, tính
đặc hiệu có thể được chứng minh bằng độ phân giải của hai thành phần được
rửa giải gần nhau nhất. Trong trường hợp sử dụng phép định lượng không
đặc hiệu, thì cần dùng các quy trình phân tích hỗ trợ khác để chứng minh
tính đặc hiệu của chúng, ví dụ nếu dùng phương pháp chuẩn độ thể tích để
định lượng các nguyên liệu khi xuất xưởng, thì có thể kết hợp phép định
lượng này với phép thử tạp chất thích hợp. Cách đánh giá đều giống nhau
đối với cả phép định lượng và thử tạp chất bao gồm:
4.1.2.1- Những tạp chất sẵn có.
Đối với phép định lượng, cần phải chứng minh phương pháp đã dùng phân
biệt được chất cần phân tích khi có mặt của tạp chất và/hoặc các tá dược;
trong thực tế, có thể thực hiện bằng cách thêm một lượng thích hợp tạp chất
và/hoặc tá dược vào mẫu ban đầu cần định lượng (nguyên liệu hoặc thành
phẩm) và chứng minh rằng kết quả định lượng không bị ảnh hưởng bởi sự có
mặt của tạp chất và/hoặc tá dược (bằng cách so sánh với kết quả định lượng
trên mẫu không thêm tạp chất và/hoặc tá dược).
Đối với phép thử tạp chất, sự phân biệt này có thể được thiết lập bằng cách
thêm vào nguyên liệu hoặc thành phẩm một lượng thích hợp các tạp chất và
chứng minh rằng từng tạp chất riêng biệt này được tách riêng rẽ ra khỏi nhau
và/hoặc ra khỏi các thành phần khác có trong mẫu.
4.1.2.2- Những tạp chất không có sẵn.
Nếu không có tạp chất hoặc sản phẩm phân huỷ chuẩn, tính đặc hiệu có thể
được chứng minh bằng cách so sánh kết quả phân tích trên mẫu thử có chứa
tạp chất hoặc các sản phẩm phân huỷ bằng quy trình phân tích đã xây dựng
với kết quả phân tích trên mẫu thử có chứa tạp chất hoặc chất phân huỷ bằng
quy trình chính thống khác ví dụ như phương pháp dược điển hoặc quy trình
phân tích khác đã được thẩm định (quy trình độc lập). Nếu cần, thì bao gồm
cả so sánh trên mẫu được lưu trữ ở các điều kiện khắc nghiệt có liên quan
như: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, thuỷ phân bằng acid/kiềm và oxi hoá.
- Để định lượng cần so sánh hai kết quả
- Để thử tạp chất cần so sánh các hồ sơ tạp chất đã thu được.
Các phép thử độ tinh khiết của đỉnh cũng rất hữu ích để chỉ ra rằng đỉnh sắc
ký của chất phân tích không chứa nhiều hơn một thành phần (ví dụ phép thử
độ tinh khiết bằng detector dãy di-ốt, detector khối phổ).
4.2 Tính tuyến tính.
Cần đánh giá mối tương quan tuyến tính trong khoảng xác định (xem mục
4.3) của quy trình phân tích. Tuyến tính có thể thực hiện trực tiếp trên mẫu
chuẩn (bằng cách pha loãng dung dịch chuẩn gốc) và/hoặc cân riêng biệt các
hỗn hợp tự tạo chứa các thành phần dược chất dựa trên quy trình đã đặt ra.
Cách sau có thể được dùng để nghiên cứu khoảng phân tích. Tính tuyến tính
được đánh giá bằng cách quan sát đồ thị của tín hiệu ứng với nồng độ hoặc
hàm lượng của chất phân tích. Nếu có tương quan tuyến tính thì kết quả thử
phải được đánh giá băng phương pháp thống kê thích hợp, ví dụ bằng cách
tính đường hồi quy dựa vào phương pháp bình phương tối thiểu. Trong một
số trường hợp, để có được mối tương quan tuyến tính giữa định lượng và
nồng độ của mẫu thử, các số liệu phân tích thu được cần phải qua một bước
biến đổi toán học trước khi phân tích hồi quy. Các số liệu từ đường hồi quy
có thể giúp đưa ra ước lượng toán học về mức độ tuyến tính. Cần phải đưa ra
hệ số tương quan, giao điểm với trục tung, độ dốc của đường hồi quy và tổng
hiệu các bình phương . Đồ thị của các số liệu cũng cần được đưa ra. Thêm
vào đó, việc phân tích độ lệch khỏi đường hồi qui của các điểm dữ liệu thực
tế cũng hữu ích cho việc đánh giá độ tuyến tính .
Một số quy trình phân tích như định lượng miễn dịch không thể hiện tính
tuyến tính sau bất kỳ phép biến đổi nào. Trong trường hợp này, cần có một
hàm thích hợp để biểu thị mối liên quan giữa đáp ứng thu được với nồng độ
(lượng) chất phân tích trong mẫu.
Để xác định tính tuyến tính cần tiến hành ít nhất 5 nồng độ. Trong những
trường hợp khác, cần nêu rõ lí do.
4.3 Khoảng xác định
Khoảng xác định thường được lấy từ những nghiên cứu tính tuyến tính và
phụ thuộc vào việc ứng dụng dự định của quy trình. Khoảng xác định được
thiết lập bởi việc khẳng định quy trình phân tích đã xây dựng có tính tuyến
tính, độ đúng và độ chính xác chấp nhận được khi áp dụng để định lượng
mẫu thử chứa chất phân tích với hàm lượng nằm trong khoảng hoặc ở 2 cực
(cực đại và cực tiểu) của khoảng xác định của quy trình phân tích.
Sau đây là các khoảng xác định tối thiểu cần được cân nhắc:
- Để định lượng nguyên liệu hoặc thành phẩm thuốc: Thường từ 80 -120% của
nồng độ thử.
- Đối với độ đồng đều hàm lượng: Trong khoảng từ 70 -130% nồng độ thử trừ
trường hợp do bản chất của dạng bào chế (ví dụ ống hít định liều) thì cần
khoảng xác định thích hợp rộng hơn.
- Để thử độ hoà tan: 20% khoảng quy định trong tiêu chuẩn, ví dụ nếu tiêu
chuẩn yêu cầu cho chế phẩm giải phóng hoạt chất có kiểm soát là phải giải
phóng hoạt chất trên một khoảng từ 20% sau 1 giờ đến 90% sau 24 giờ thì
khoảng được đánh giá là từ 0% đến 110% hàm lượng ghi trên nhãn.
- Để xác định tạp chất: Từ giới hạn cho phép của một tạp chất 1 đến 120% của
tiêu chuẩn; đối với các tạp chất đã biết có độc tính bất thường hoặc sinh ra
độc tính hoặc có tác dụng dược lý không mong muốn thì giới hạn phát hiện
(LOD) và giới hạn định lượng (LOQ) của tạp chất phải tương ứng với giới
hạn mà tạp chất đó cần được kiểm soát.
Ghi chú: Để thẩm định quy trình thử tạp chất được tiến hành trong phát triển
sản phẩm có thể cần thiết phải cân nhắc khoảng xác định xung quanh một
giới hạn đã được gợi ý.
Nếu định lượng và phép thử tinh khiết được thực hiện đồng thời trên cùng
một phép thử và chỉ sử dụng một chuẩn 100% thì tính tuyến tính cần phải
phủ toàn bộ khoảng xác định từ giới hạn cho phép tạp chất1 đến 120% của
tiêu chuẩn định lượng.
1
tham khảo trong chương “Reporting Impurity Content of Batches” trong
hướng dẫn của ICH : Các tạp chất trong dược chất mới và các tạp chất trong
thành phẩm thuốc mới.
4.4 Độ đúng
Độ đúng cần được thiết lập trong khoảng phân tích xác định của quy trình
phân tích.
4.4.1 Định lượng
4.4.1.1- Nguyên liệu
Một số phương pháp xác định độ đúng:
a- Áp dụng quy trình phân tích đối với chất phân tích đã biết rõ độ tinh
khiết (ví dụ chất đối chiếu)
b- So sánh các kết quả của quy trình phân tích được đề xuất với kết quả của
quy trình phân tích chính thống có độ đúng đã được công bố và/hoặc đã
được xác định (quy trình độc lập xem mục 4.1.2)
c- Độ đúng có thể được suy ra một khi độ chính xác, tính tuyến tính và tính
đặc hiệu đã được thiết lập.
4.4.1.2- Thành phẩm thuốc
Một số phương pháp xác định độ đúng:
a- Áp dụng quy trình phân tích đối với hỗn hợp mẫu tự tạo chứa các thành
phần của thành phẩm thuốc mà trong đó có một lượng đã biết trước các
dược chất cần phân tích được thêm vào.
b- Trong trường hợp không có đầy đủ các thành phần để làm mẫu tự tạo thì
có thể chấp nhận cho thêm một lượng đã biết của chất cần phân tích vào
chế phẩm hoặc so sánh kết quả thu được với một quy trình chính thống
thứ hai có độ đúng đã được công bố và/ hoặc đã được xác định (quy trình
độc lập xem mục 4.1.2)
c- Độ đúng có thể được suy ra một khi độ chính xác, tính tuyến tính và tính
đặc hiệu đã được thiết lập.
4.4.2 Tạp chất (định lượng)
Độ đúng phải được tiến hành trên các mẫu thử (nguyên liệu hoặc thành
phẩm thuốc) đã được thêm một lượng tạp chuẩn đã biết. Trong trường hợp
không có tạp và/hoặc sản phẩm phân huỷ chuẩn thì có thể chấp nhận so sánh
kết quả thu được với một quy trình độc lập (xem mục 4.1.2). Hệ số đáp ứng
của hoạt chất cũng có thể được sử dụng.
Trong mọi trường hợp, cần phải xác định rõ từng tạp chất hoặc tổng các tạp
chất được tính như thế nào so với chất phân tích chính (ví dụ khối lượng/
khối lượng hoặc phần trăm diện tích).
4.4.3 Các dữ liệu cần có
Độ đúng phải được tính dựa trên tối thiểu 9 lần định lượng trên ít nhất 3 mức
nồng độ khác nhau trong khoảng nồng độ đã được xác định của quy trình
phân tích (ví dụ 3 nồng độ, mỗi nồng độ được tiến hành 3 lần).
Độ đúng được biểu thị dưới dạng phần trăm tìm thấy của chất phân tích
trước đã biết được thêm vào mẫu thử hoặc độ lệch giữa giá trị trung bình đo
được và giá trị thực cùng với khoảng tin cậy.
4.5 Độ chính xác
Thẩm định các phép thử định lượng và các phép thử xác định hàm lượng tạp
chất cần xác định độ chính xác.
4.5.1 Độ lặp lại. (Repeatability)
Độ lặp lại có thể được đánh giá trên kết quả của:
a- Tối thiểu 9 lần định lượng trong khoảng nồng độ đã được xác định của
quy trình
(ví dụ 3 nồng độ, mỗi nồng độ được tiến hành 3 lần) hoặc
b- Tối thiểu 6 lần định lượng ở nồng độ thử 100%.
4.5.2 Độ chính xác trung gian( Intermediate Precision)
Việc xác định độ chính xác trung gian phụ thuộc vào tình hình cụ thể đối với
từng quy trình phân tích được áp dụng. Cơ sở đăng ký cần chỉ ra ảnh hưởng
của các biến cố ngẫu nhiên đến độ chính xác của quy trình phân tích. Những
thay đổi điển hình cần xem xét bao gồm: ngày phân tích, kiểm nghiệm viên,
thiết bị, v.v....Thực tế không cần phải nghiên cứu những ảnh hưởng này một
cách riêng rẽ. Khuyến khích sử dụng thiết kế thực nghiệm (ma trận).
4.5.3 Độ tái lặp (Reproducibility).
Độ tái lặp được xác định bằng cách so sánh kết quả giữa các phòng thí
nghiệm. Độ tái lặp được tiến hành đánh giá trong trường hợp tiêu chuẩn hoá
quy trình phân tích ví dụ như đối với các quy trình trong dược điển. Những
số liệu này không nằm trong hồ sơ đăng ký thuốc.
4.5.4 Dữ liệu cần có.
Độ chính xác của mỗi một quy trình cần phải đưa ra các dữ liệu sau: Độ lệch
chuẩn (standart deviation), độ lệch chuẩn tương đối (Relative standart
deviation hay hệ số biến thiên = coefficient of variation) và khoảng tin cậy.
4.6 Giới hạn phát hiện (Detection Limit= DL)
Phương pháp xác định giới hạn phát hiện tuỳ thuộc vào quy trình phân tích
là phương pháp phân tích dụng cụ hay không dụng cụ. Ngoài các phương
pháp nêu ra ở dưới đây, các phương pháp khác cũng có thể được chấp nhận
để xác định giới hạn phát hiện.
4.6.1 Dựa vào quan sát.
Phương pháp này thường dùng cho phương pháp phân tích không dụng cụ,
nhưng cũng có thể dùng cho các phương pháp phân tích dụng cụ.
Giới hạn phát hiện được xác định bằng phân tích mẫu thử có chất phân tích
đã biết nồng độ và xác định nồng độ tối thiểu mà tại đó có thể đọc được đáp
ứng của chất phân tích.
Đánh giá việc đáp ứng đủ điều kiện của cơ sở kinh doanh dịch vụ thử
tương đương sinh học của thuốc
Hồ sơ tài liệu làm căn cứ để đánh giá đáp ứng đủ điều kiện của cơ sở kinh
doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc:
1. Hồ sơ tài liệu làm căn cứ để đánh giá việc đáp ứng đủ điều kiện của cơ sở
kinh doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc bao gồm:
a) Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược
b) Tài liệu kỹ thuật về cơ sở được trình bày theo hướng dẫn về hồ sơ tổng thể.
Trình tự đánh giá việc đáp ứng đủ điều kiện của cơ sở kinh doanh dịch vụ
thử tương đương sinh học của thuốc:
1. Cơ sở nộp 01 bộ hồ sơ theo quy định đến Cục Khoa học công nghệ và Đào
tạo, Bộ Y tế.
2. Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo - Bộ Y tế kiểm tra tính hợp lệ của hồ
sơ trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ. Trường hợp hồ sơ
không hợp lệ phải có văn bản thông báo, hướng dẫn cụ thể cho cơ sở bổ sung cho
đến khi hồ sơ hợp lệ.
3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Cục
Khoa học công nghệ và Đào tạo thành lập Đoàn kiểm tra, thông báo cho cơ sở về
Đoàn kiểm tra và dự kiến thời gian đánh giá thực tế tại cơ sở. Trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày có văn bản thông báo, Đoàn kiểm tra tiến hành đánh giá thực tế tại
cơ sở.
Quy trình đánh giá việc đáp ứng đủ điều kiện của cơ sở kinh doanh dịch vụ
thử tương đương sinh học của thuốc:
1. Quy trình đánh giá
a) Bước 1. Đoàn kiểm tra công bố Quyết định thành lập Đoàn kiểm tra, mục
đích đánh giá, nội dung đánh giá và kế hoạch đánh giá dự kiến tại cơ sở.
b) Bước 2. Cơ sở được kiểm tra báo cáo tóm tắt về tổ chức, nhân sự và hoạt
động triển khai, áp dụng các nguyên tắc GCP, GLP hoặc các nội dung cụ thể theo
nội dung của đợt kiểm tra.
c) Bước 3. Đoàn kiểm tra tiến hành kiểm tra thực tế việc triển khai áp dụng
các nguyên tắc GCP, GLP tại cơ sở.
d) Bước 4. Đoàn kiểm tra họp với cơ sở để thông báo các tồn tại phát hiện
trong quá trình kiểm tra; đánh giá mức độ của từng tồn tại; thảo luận với cơ sở
trong trường hợp cơ sở không thống nhất với các tồn tại theo đánh giá của Đoàn
kiểm tra; đánh giá về mức độ đáp ứng các nguyên tắc, tiêu chuẩn GCP, GLP của
cơ sở;
đ) Bước 5. Lập và ký biên bản đánh giá
Biên bản đánh giá được Lãnh đạo cơ sở cùng Trưởng đoàn kiểm tra ký xác
nhận; biên bản đánh giá phải thể hiện thành phần Đoàn kiểm tra, địa điểm, thời
gian, phạm vi đánh giá, các vấn đề chưa thống nhất giữa Đoàn kiểm tra và cơ sở;
biên bản được làm thành 02 bản: 01 bản lưu tại cơ sở, 01 bản lưu tại Cục Khoa học
công nghệ và Đào tạo.
e) Bước 5. Hoàn thiện Báo cáo đánh giá:
Đoàn kiểm tra có trách nhiệm lập Báo cáo đánh giá theo mẫu ban hành kèm
theo Thông tư này, liệt kê và phân tích, phân loại mức độ tồn tại mà cơ sở cần khắc
phục, sửa chữa, đối chiếu điều khoản tương ứng của quy định pháp luật, phân loại
về mức độ đáp ứng của cơ sở và gửi cho cơ sở được đánh giá.
Xử lý kết quả đánh giá việc đáp ứng đủ điều kiện của cơ sở kinh doanh
dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc:
1. Trường hợp cơ sở đáp ứng đủ điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật và nhân
sự bao gồm: địa điểm, phòng thí nghiệm phân tích dịch sinh học, trang thiết bị thí
nghiệm dùng trong phân tích dịch sinh học, khu vực lưu trú và theo dõi người sử
dụng thuốc phục vụ cho việc đánh giá tương đương sinh học, hệ thống quản lý chất
lượng, tài liệu chuyên môn kỹ thuật và nhân sự, Cục Khoa học công nghệ và Đào
tạo, Bộ Y tế trình Bộ trưởng Bộ Y tế cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc trong thời gian 5 ngày làm việc kể từ
ngày ký Báo cáo đánh giá.
2. Trường hợp cơ sở phải thực hiện hành động khắc phục: Cơ sở phải thực
hiện các hành động khắc phục và có báo cáo bằng văn bản về Cục Khoa học công
nghệ và Đào tạo kèm theo các bằng chứng chứng minh. Trong vòng 20 ngày làm
việc kể từ ngày nhận được báo cáo khắc phục những tồn tại đã được nêu trong báo
cáo kiểm tra, Đoàn kiểm tra đánh giá báo cáo khắc phục, tiến hành thông báo việc
kiểm tra trực tiếp tại cơ sở nếu cần thiết. Trong vòng 5 ngày kể từ ngày đánh giá
báo cáo khắc phục đạt yêu cầu, Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo, Bộ Y tế trình
Bộ trưởng Bộ Y tế cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thử
tương đương sinh học của thuốc cho cơ sở.
3. Trường hợp cơ sở không đáp ứng đủ điệu kiện kinh doanh dịch vụ thử
tương đương sinh học của thuốc: cơ sở tiến hành nộp hồ sơ đề nghị lại từ đầu theo
quy định tại Điều 4 của Thông tư này.
Đánh giá định kỳ việc duy trì đáp ứng các điều kiện của cơ sở kinh doanh
dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc:
1. Thời gian định kỳ đánh giá việc duy trì đáp ứng các điều kiện của cơ sở
kinh doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc là 03 năm kể từ ngày kết
thúc lần kiểm tra đánh giá gần nhất (không bao gồm các đợt đánh giá đột xuất,
đánh giá giám sát của cơ quan có thẩm quyền).
2. Tháng 10 hằng năm, Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo công bố trên
Trang thông tin điện tử của mình kế hoạch đánh giá định kỳ việc duy trì đáp ứng
các điều kiện của cơ sở kinh doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc
trong năm kế tiếp.
3. Căn cứ vào kế hoạch đánh giá định kỳ do Cục Khoa học công nghệ và Đào
tạo công bố, các cơ sở kinh doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc nộp
hồ sơ đề nghị đánh giá định kỳ theo quy định về Cục Khoa học công nghệ và Đào
tạo trong thời gian tối thiểu 30 ngày trước thời điểm đánh giá theo kế hoạch đã
được công bố.
4. Trường hợp cơ sở không nộp hồ sơ đề nghị đánh giá định kỳ theo thời hạn
quy định tại khoản 3 Điều này, Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo có văn bản
yêu cầu cơ sở giải trình về việc chưa nộp hồ sơ đề nghị đánh giá định kỳ.
5. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo có
văn bản yêu cầu cơ sở giải trình về việc chưa nộp hồ sơ đề nghị đánh giá định kỳ,
nếu cơ sở không nộp hồ sơ đề nghị đánh giá định kỳ theo quy định thì Cục Khoa
học công nghệ và Đào tạo trình Bộ trưởng Bộ Y tế thu hồi Giấy chứng nhận đủ
điều kiện dịch vụ kinh doanh dược theo quy định hoặc có văn bản yêu cầu dừng
hoạt động.
6. Sau khi nộp hồ sơ đề nghị đánh giá định kỳ việc duy trì đáp ứng các điều
kiện của cơ sở kinh doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc theo quy
định, cơ sở tiếp tục được phép hoạt động theo phạm vi quy định tại Giấy chứng
nhận đủ điều kiện kinh doanh dược đang còn hiệu lực.
7. Hồ sơ đề nghị đánh giá định kỳ việc duy trì đáp ứng các điều kiện của cơ
sở kinh doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc:
a) Đơn đề nghị đánh giá định kỳ theo mẫu quy định tại Phụ lục ban hành
kèm theo Thông tư này.
b) Tài liệu kỹ thuật cập nhật về điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật và nhân sự
của cơ sở (nếu có thay đổi).
c) Báo cáo tóm tắt hoạt động của cơ sở trong thời gian 03 năm gần đây.
8. Trình tự, quy trình đánh giá định kỳ việc duy trì đáp ứng các điều kiện của
cơ sở kinh doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc được thực hiện theo
quy định tại Điều 5 và Điều 6 Thông tư này.
Xử lý kết quả đánh giá định kỳ việc duy trì đáp ứng các điều kiện của cơ sở
kinh doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc:
1. Trường hợp cơ sở đáp ứng đủ điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật và nhân
sự bao gồm: địa điểm, phòng thí nghiệm phân tích dịch sinh học, trang thiết bị thí
nghiệm dùng trong phân tích dịch sinh học, khu vực lưu trú và theo dõi người sử
dụng thuốc phục vụ cho việc đánh giá tương đương sinh học, hệ thống quản lý chất
lượng, tài liệu chuyên môn kỹ thuật và nhân sự, Cục Khoa học công nghệ và Đào
tạo, Bộ Y tế trình Bộ trưởng Bộ Y tế cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc trong thời gian 5 ngày làm việc kể từ
ngày ký Báo cáo đánh giá.
2. Trường hợp cơ sở phải thực hiện hành động khắc phục: Cơ sở phải thực
hiện các hành động khắc phục và có báo cáo bằng văn bản về Cục Khoa học công
nghệ và Đào tạo kèm theo các bằng chứng chứng minh. Trong vòng 20 ngày làm
việc kể từ ngày nhận được báo cáo khắc phục những tồn tại đã được nêu trong báo
cáo kiểm tra, Đoàn kiểm tra đánh giá báo cáo khắc phục, tiến hành thông báo việc
kiểm tra trực tiếp tại cơ sở nếu cần thiết. Trong vòng 5 ngày kể từ ngày đánh giá
báo cáo khắc phục đạt yêu cầu, Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo, Bộ Y tế trình
Bộ trưởng Bộ Y tế cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thử
tương đương sinh học của thuốc cho cơ sở.
3. Trường hợp cơ sở không đáp ứng đủ điệu kiện kinh doanh dịch vụ thử
tương đương sinh học của thuốc: cơ sở tiến hành nộp hồ sơ đề nghị lại từ đầu theo
quy định tại Điều 4 của Thông tư này.
Kiểm soát thay đổi:
1. Trong khoảng thời gian giữa các đợt đánh giá định kỳ, cơ sở kinh doanh
dịch vụ thử tương đương sinh học phải thực hiện thủ tục đề nghị cấp Giấy chứng
nhận đủ điều kiện kinh doanh dược theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 36
Luật dược hoặc báo cáo thay đổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có thay đổi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Luật dược;
2. Trường hợp cơ sở kinh doanh dịch vụ thử tương đương sinh học có thay đổi
theo quy định, cơ sở phải gửi hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh dược theo quy định tại Luật dược.
Trình tự đánh giá việc đáp ứng GSP, phân loại kết quả và xử ký kết quả đánh
giá việc đáp ứng GSP thực hiện theo quy định.
3. Trường hợp cơ sở bảo quản có thay đổi thuộc một trong các trường hợp quy
định, cơ sở bảo quản phải nộp báo cáo thay đổi kèm tài liệu kỹ thuật tương ứng với
sự thay đỏi về Cơ quan tiếp nhận.
a) Cơ quan tiếp nhận thực hiện đánh giá thực tế tại cơ sở bảo quản. Trường
hợp cơ sở bảo quản đáp ứng yêu cầu, Cơ quan tiếp nhận có văn bản đồng ý với
thay đổi của cơ sở bảo quản.
b) Trình tự đánh giá, phân loại kết quả và xử lý kết quả đánh giá đối với cơ sở
bảo quản có thay đổi theo quy định.
c. Trình tự đánh giá, phân loại kết quả và xử lý kết quả đánh giá đối với cơ sở
bảo quản có thay đổi theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều này được thực hiện
theo quy định.
4. Trường hợp cơ sở bảo quản có thay đổi thuộc một trong các trường hợp quy
định, cơ sở bảo quản phải nộp báo cáo thay đổi kèm tài liệu kỹ thuật tương ứng với
sự thay đổi về Cơ quan tiếp nhận. Cơ quan tiếp nhận thực hiện đánh giá báo cáo
thay đổi của cơ sở bảo quản.
a) Trường hợp việc thay đổi đáp ứng yêu cầu: trong thời hạn 10 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận văn bản thông báo, Cơ quan tiếp nhận hồ sơ ban hành văn
bản thông báo việc đồng ý với nội dung thay đổi;
b) Trường hợp chưa đáp ứng yêu cầu: trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận văn bản thông báo, Cơ quan tiếp nhận hồ sơ ban hành văn bản thông
báo về các nội dung cần khắc phục, sửa chữa;
c) Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày Cơ quan tiếp nhận có văn bản thông
báo, cơ sở bảo quản phải hoàn thiện việc khắc phục, sửa chữa và có văn bản thông
báo kèm theo các bằng chứng (hồ sơ tài liệu, hình ảnh, video, giấy chứng nhận)
chứng minh đã hoàn thành việc khắc phục, sửa chữa các tồn tại được nêu trong văn
bản thông báo;
d) Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo khắc phục
kèm theo các bằng chứng chứng minh, Cơ quan tiếp nhận đánh giá báo cáo kết quả
hành động khắc phục của cơ sở bảo quản và kết luận về tình trạng đáp ứng GSP
của cơ sở bảo quản:
- Trường hợp việc khắc phục đã đáp ứng yêu cầu: Cơ quan tiếp nhận hfo sơ
ban hành văn bản thông báo về việc đồng ý với nội dung thay đổi;
- Trường hợp việc khắc phục chưa đáp ứng yêu cầu: Cơ quan tiếp nhận thực
hiện đánh giá giám sát/đánh giá đột xuất, xử lý kết quả đánh giá theo quy định tại
Điều 12 Thông tư này.
Đánh giá giám sát, đánh giá đột xuất việc duy trì đáp ứng các điều kiện của
cơ sở kinh doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc:
1. Hằng năm, trên cơ sở đánh giá nguy cơ ảnh hưởng của thuốc đối với sức
khỏe của người sử dụng và mức độ đáp ứng GCP và GLP của Cơ sở thử tương
đương sinh học, Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo xây dựng kế hoạch và thực
hiện đánh giá giám sát việc duy trì đáp ứng GCP và GLP, tuân thủ quy trình thử
tương đương sinh học tại cơ sở thử tương đương sinh học.
2. Cơ sở thử tương đương sinh học phải được đánh giá giám sát việc duy trì
đáp ứng GCP và GCP ít nhất 01 lần trong thời hạn 3 năm kể từ ngày kết thúc đợt
đánh giá kỳ trước.
3. Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo đánh giá đột xuất việc duy trì đáp ứng
GCP và GLP tại cơ sở thử tương đương sinh học trong trường hợp có thông tin
phản ánh, kiến nghị hoặc kết quả thanh tra, kiểm tra của cơ quan chức năng kết
luận có vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc, tiêu chuẩn GCP hoặc GCP.
4. Trình tự đánh giá và việc xử lý kết quả đánh giá tại cơ sở bảo quản thực
hiện theo quy định.
Thành phần Đoàn kiểm tra do Cục trưởng Cục Khoa học công nghệ và Đào
tạo quyết định theo phạm vi và mục đích tiến hành đánh giá.
5. Xử lý kết quả đánh giá đột xuất, đánh giá giám sát:
Căn cứ vào tồn tại phát triển trong quá trình đánh giá giám sát, đánh giá đột
xuất, Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo ra quyết định mở rộng phạm vi đánh giá
hoặc có văn bản thông báo về không đáp ứng GCP hoặc GCP, đình chỉ một phần
hoặc toàn bộ hoạt động bảo quản của cơ sở thử tương đương sinh học: trình hoặc
kiến nghị Bộ trưởng Bộ Y tế thu hẹp phạm vi hoạt động trên Giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh dược hoặc thu thồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
dược đã cấp cho cơ sở kinh doanh dược theo quy định tại Khoản 2 Điều 40 Luật
dược.
Đoàn kiểm tra việc duy trì đáp ứng các điều kiện của cơ sở kinh doanh dịch
vụ thử tương đương sinh học của thuốc:
1. Thành phần và tiêu chuẩn thành viên Đoàn kiểm tra:
a) Bộ trưởng Bộ Y tế thành lập Đoàn kiểm tra bao gồm các thành phần sau
đây:
- Đại diện Lãnh đạo Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo làm Trưởng đoàn;
- Đại diện chuyên viên Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo, trong đó có 01
chuyên viên làm Thư ký Đoàn kiểm tra;
- Đại diện Vụ Pháp chế làm Phó trưởng đoàn;
- Đại diện Ban Đánh giá vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học;
- Đại diện Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi cơ sở kinh
doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của thuốc đặt trụ sở chính;
- Các thành phần khác có liên quan: Đại diện Cục Quản lý Dược, Cục Quản lý
Khám, chữa bệnh.
b) Cán bộ tham gia Đoàn kiểm tra phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau đây:
- Có trình độ đại học trở lên, chuyên ngành y, dược, hóa học, sinh học hoặc
Luật;
- Có chứng chỉ đào tạo, tập huấn về GCP hoặc GLP;
- Trung thực, khách quan và nghiêm chỉnh chấp hành các quy chế, quy định
pháp luật trong quá trình kiểm tra, không có xung đột lợi ích với cơ sở được đánh
giá theo quy định tại điểm c Khoản này;
- Trưởng đoàn kiểm tra phải có trình độ đại học trở lên chuyên ngành y, dược
và có kinh nghiệm trong công tác quản lý y dược 05 năm trở lên.
c) Nguyên tắc đánh giá xung đột lợi ích: thành viên Đoàn kiểm tra được coi là
có xung đột lợi ích với cơ sở thử tương đương sinh học nếu thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
- Đã từng làm việc trong vòng 05 năm gần đây cho cơ sở được đánh giá;
- Đã tham gia hoạt động tư vấn trong vòng 05 năm gần đây cho cơ sở được
đánh giá;
- Đang có quyền lợi về tài chính với cơ sở được đánh giá;
- Có vợ/chồng, con, bố/mẹ, anh/chị/em ruột đang làm việc cho cơ sở được
đánh giá.
2. Trách nhiệm và quyền hạn của Đoàn kiểm tra:
a) Trách nhiệm của Đoàn kiểm tra:
- Đánh giá toàn bộ các hoạt động của cơ sở kinh doanh dịch vụ thử tương
đương sinh học theo các nguyên tắc tiêu chuẩn GCP và GLP tương ứng tại Điều 3
Thông tư này, các phiên bản cập nhật nguyên tắc, tiêu chuẩn GCP và GCP và quy
định chuyên môn hiện hành có liên quan; ghi nhận cụ thể các nội dung đánh giá,
tồn tại phát hiện được, lập biên bản đánh giá và Báo cáo đánh giá GCP và GLP;
- Báo cáo kết quả đánh giá hoặc giải trình về báo cáo kết quả đánh giá GCP và
GCP trong trường hợp cơ sở có ý kiến không thống nhất với nội dung Báo cáo
đánh giá GSP;
- Bảo mật toàn bộ thông tin liên quan về đợt đánh giá và toàn bộ thông tin liên
quan đến hoạt động kinh doanh dịch vụ thử tương đương sinh học của cơ sở; trừ
trường hợp có sự đồng ý của cơ sở hoặc theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra.
b) Quyền hạn của Đoàn kiểm tra:
- Kiểm tra toàn bộ các khu vực thuộc cơ sở và có quyền đề nghị kiểm tra các
khu vực khác có liên quan đến hoạt động thử tương đương sinh học của cơ sở;
- Yêu cầu cung cấp các hồ sơ tài liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh,
quản lý chất lượng và thử tương đương sinh học của cơ sở;
- Thực hiện việc thu thập các hồ sơ tài liệu bằng chứng (sao chụp tài liệu,
chụp ảnh, quay video) về các tồn tại phát hiện trong quá trình đánh giá;
- Lập biên bản và yêu cầu cơ sở tạm dừng hoạt động thử tương đương sinh
học nếu trong quá trình dánh giá, Đoàn kiểm tra phát hiện cơ sở có vi phạm ảnh
hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe, an toàn của người tham gia thử thuốc và báo cáo
người có thẩm quyền ra quyết định xử lý chính thức.
Hướng dẫn thử tương đương sinh học của thuốc
Quy định chung về thử tương đương sinh học:
Việc triển khai nghiên cứu thử tương đương sinh học của thuốc phải tuân thủ
Hướng dẫn tiến hành nghiên cứu đánh giá tương đương sinh học của Asean
ASEAN Guideline for the conduct of bioequivalence studies) phiên bản hiện hành.
Thiết kế, tiến hành và đánh giá các nghiên cứu tương đương sinh học:
Thiết kế nghiên cứu phụ thuộc vào đặc tính hóa lý của hoạt chất, đặc tính
dược động học và tỷ lệ tương ứng các thành phần trong thuốc và phải được lý giải
hợp lý, lưu ý tới việc đánh giá ở trạng thái ăn no và lúc đói.
Thiết kế chuẩn được khuyến cáo khi so sánh hai thuốc là thiết kế ngẫu nhiên,
bắt chéo, hai giai đoạn, liều đơn trong đó giai đoạn sạch thuốc giữa hai giai đoạn
điều trị cần kéo dài ít nhất 5 chu kỳ bán thải của thuốc để đảm bảo nồng độ thuốc
thấp hơn giới hạn phân tích sinh học ở tất cả các đối tượng vào đầu giai đoạn thứ
hai.
Trong những trường hợp nhất định, việc thiết kế nghiên cứu không nhất thiết
phải được thực hiện theo thiết kế chuẩn nhưng phải có các lý giải hợp lý.
Cỡ mẫu nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu:
Số lượng đối tượng đưa vào nghiên cứu phải dựa trên cơ sở tính toán cỡ mẫu
thích hợp. Cỡ mẫu khuyến cáo trong các nghiên cứu theo thiết kế chuẩn là từ 12
đến 36 bệnh nhân.
Để giảm thiểu biến thiên giữa các đối tượng nghiên cứu, các nghiên cứu
tương đương sinh học cần được thực hiện trên người tình nguyện khỏe mạnh trừ
khi có những mối quan ngại về an toàn khiến cho việc thực hiện trên người tình
nguyện khỏe mạnh là không đảm bảo vấn đề đạo đức.
Nguyên tắc lựa chọn thuốc đối chứng:
Thuốc đối chứng phải được lựa chọn theo thứ tự ưu tiên sau:
1. Thuốc đối chứng là thuốc biệt dược gốc với đầy đủ các số liệu đã được
thiết lập về chất lượng, an toàn và hiệu quả, đã được cấp phép và đang được lưu
hành tại Việt Nam, có trong Danh mục các thuốc đối chứng đã được cấp số đăng
ký tại Việt Nam do Bộ Y tế ban hành.
2. Thuốc đối chứng là thuốc biệt dược gốc với đầy đủ các số liệu đã được
thiết lập về chất lượng, an toàn và hiệu quả, đã được cấp phép và đang được lưu
hành tại một trong các nước thuộc ICH và các nước liên kết gồm Canada, Úc,
Thụy Sỹ, Na Uy.
3. Khi không thể xác định được thuốc biệt dược gốc theo các tiêu chí nêu tại
khoản 1và khoản 2 của Điều này, tiêu chuẩn lựa chọn thuốc đối chứng được sắp
xếp theo thứ tự ưu tiên sau:
a) Thuốc đã được cấp phép và đang được lưu hành tại một trong các nước
thuộc ICH và các nước liên kết gồm Canada, Úc, Thụy Sỹ. Trong số các thuốc đáp
ứng điều kiện này, ưu tiên lựa chọn thuốc đã được cấp phép và đang được lưu hành
tại Việt Nam, tiếp theo là thuốc đã được cơ quan quản lý dược một trong các nước
thuộc ICH và các nước liên kết gồm Canada, Úc, Thụy Sỹ, Na Uy công nhận là
thuốc đối chứng nếu có.
b) Thuốc đã được tiền thẩm định bởi Tổ chức Y tế Thế giới.
Đối với cả hai trường hợp a và b trên, thuốc phải đạt chất lượng theo tiêu
chuẩn trong phiên bản mới nhất của một trong các Dược điển tham chiếu gồm
Dược điển Việt Nam, Dược điển Anh, Dược điển Mỹ, Dược điển Nhật, Dược điển
Quốc tế- nếu có tồn tại các tiêu chuẩn này.
Trong trường hợp không tìm được thuốc đối chứng phù hợp trong Danh mục
các thuốc đối chứng đã được cấp số đăng ký tại Việt Nam do Bộ Y tế ban hành, cơ
sở đăng ký thuốc hoặc nhà sản xuất cần có đơn gửi Cục Quản lý Dược đề nghị xác
định thuốc đối chứng dùng trong nghiên cứu tương đương sinh học. Thuốc được
lựa chọn làm thuốc đối chứng theo quy trình này sẽ được công bố trên website của
Cục Quản lý Dược để các công ty có nhu cầu lựa chọn thuốc đối chứng tương tự
biết và tự động áp dụng.
Quy định đối với thuốc đối chứng dùng trong nghiên cứu:
1. Thuốc đối chứng dùng trong nghiên cứu tương đương sinh học của các
thuốc generic đơn thành phần ở dạng bào chế giải phóng ngay có chứa dược chất
thuộc Danh mục các dược chất yêu cầu báo cáo nghiên cứu tương đương sinh học
khi đăng ký thuốc được quy định kèm theo trong Danh mục.
Nếu nghiên cứu đã thực hiện sử dụng thuốc đối chứng là thuốc biệt dược gốc
nhưng không phải thuốc biệt dược gốc đã được lựa chọn làm thuốc đối chứng quy
định kèm theo trong Danh mục do được sản xuất tại các nhà máy khác của chủ sở
hữu thuốc biệt dược gốc hoặc tại các nhà sản xuất khác theo hợp đồng với chủ sở
hữu thuốc biệt dược gốc, yêu cầu bổ sung báo cáo thử tương đương độ hòa tan
giữa thuốc đối chứng đã sử dụng trong nghiên cứu và thuốc đối chứng quy định
trong Danh mục nhằm chứng minh biểu đồ hòa tan giữa 02 thuốc này là tương
đồng với nhau.
2. Thuốc đối chứng dùng trong nghiên cứu tương đương sinh học của các
thuốc còn lại không thuộc quy định tại khoản 1 của điều này phải được lựa chọn
phù hợp với các nguyên tắc lực chọn thuốc đối chứng quy định tại Điều 7, với các
lưu ý sau:
a) Thuốc đối chứng dùng trong nghiên cứu tương đương sinh học của các
thuốc ở dạng bào chế giải phóng biến đổi phải là thuốc có cùng tốc độ phóng thích
dược chất với thuốc thử.
b) Thuốc đối chứng dùng trong nghiên cứu tương đương sinh học của các
thuốc phối hợp cố định liều (bao gồm cả thuốc có một/ một vài thành phần dược
chất thuộc Danh mục các dược chất yêu cầu báo cáo nghiên cứu tương đương sinh
học khi đăng ký thuốc) phải là thuốc có phối hợp cố định liều tương tự. Chỉ sử
dụng các thuốc đối chứng đơn thành phần tương ứng khi không lựa chọn được
thuốc đối chứng có phối hợp cố định liều tương tự với thuốc thử và phối hợp cố
định liều của thuốc đang xem xét là để thay thế cho việc phải sử dụng cùng lúc các
thuốc đơn thành phần với chế độ liều tương tự công thức phối hợp cố định liều
đang xem xét. Trong trường hợp này, các thuốc đối chứng đơn thành phần sẽ là
thuốc đối chứng quy định kèm theo trong Danh mục các dược chất yêu cầu báo cáo
nghiên cứu tương đương sinh học khi đăng ký thuốc (nếu dược chất đang xem xét
thuộc Danh mục các dược chất này) hoặc là thuốc được lựa chọn phù hợp với các
nguyên tắc lựa chọn thuốc đối chứng.
c) Nếu thuốc đối chứng đã dùng trong nghiên cứu là thuốc biệt dược gốc
nhưng không phải là thuốc biệt dược gốc thuộc Danh mục các thuốc đối chứng đã
được cấp số đăng ký tại Việt Nam do Bộ Y tế ban hành do được sản xuất tại các
nhà máy khác của chủ sở hữu thuốc biệt dược gốc hoặc tại các nhà sản xuất khác
theo hợp đồng với chủ sở hữu thuốc biệt dược gốc, yêu cầu bổ sung báo cáo thử
tương đương độ hòa tan giữa thuốc đối chứng đã dùng trong nghiên cứu và thuốc
đối chứng tương ứng thuộc Danh mục các thuốc đối chứng đã được cấp số đăng ký
tại Việt Nam nhằm chứng minh biểu đồ hòa tan giữa 02 thuốc này là tương đồng
với nhau.
3. Các thuốc đối chứng đã dùng trong nghiên cứu phải có nguồn gốc, xuất xứ
rõ ràng. Các tài liệu chứng minh nguồn gốc, xuất xứ thuốc đối chứng cần nộp kèm
theo báo cáo nghiên cứu gồm:
- Bản sao nhãn thuốc thể hiện đầy đủ, rõ ràng các thông tin: tên thuốc, tên và
địa chỉ nhà sản xuất thuốc, số lô sản xuất, hạn dùng.
- Bản cam kết có chữ ký của giám đốc cơ sở đăng ký/ nhà sản xuất về tính xác
thực của các tài liệu đã cung cấp trên, cam kết thuốc đối chứng đã được mua từ
đúng thị trường nước nơi thuốc được cấp phép lưu hành, được bảo quản theo đúng
điều kiện bảo quản thuốc ghi trên nhãn từ thời điểm mua đến thời điểm bắt đầu
thực hiện nghiên cứu.
ĐỘ ỔN ĐỊNH THUỐC
Tổng quan về độ ổn định thuốc
Mục tiêu của nghiên cứu độ ổn định là xác định tuổi thọ, đó là khoảng thời
gian bảo quản ở một điều kiện xác định mà trong khoảng thời gian đó chế phẩm
thuốc vẫn đạt tiêu chuẩn chất lượng đã được thiết lập.
Độ ổn định là một yếu tố quan trọng của chất lượng, độ an toàn và hiệu lực
của chế phẩm thuốc. Một thành phẩm thuốc không ổn định có thể gây ra các biến
đổi về mặt vật lý (như độ cứng, tốc độ hoà tan, sự tách pha, ...) cũng như các biến
đổi về đặc tính hoá học (sự hình thành các chất phân huỷ có nguy hại cao). Sự
không ổn định về mặt vi sinh học của một chế phẩm thuốc vô khuẩn cũng rất nguy
hiểm.
Nghiên cứu độ ổn định bao gồm một loạt các thử nghiệm để đảm bảo độ ổn
định của một thành phẩm thuốc, đó là khả năng duy trì các tiêu chuẩn chất lượng
của thành phẩm thuốc được đóng gói trong bao bì phù hợp cho chế phẩm đó và bảo
quản ở điều kiện đã thiết lập trong một khoảng thời gian xác định.
Thử nghiệm lão hoá cấp tốc (Accelerated testing)
Nghiên cứu được thiết kế để tăng tốc độ phân huỷ hoá học hoặc biến đổi vật
lý của một dược chất hoặc một dược phẩm bằng cách dùng điều kiện bảo quản
khắc nghiệt như là 1 phần của các nghiên cưu độ ổn định chính thức. Dữ liệu thu
được từ các nghiên cứu này cùng với các nghiên cứu độ ổn định dài hạn có thể
được sử dụng để đánh giá các ảnh hưởng hoá học ở điều kiện không cấp tốc trong
thời gian dài hơn và để đanh giá tác động của việc vận chuyển trong thời gian ngắn
trong những điều kiện vượt ra ngoài điều kiện bảo quản ghi trên nhãn, chẳng hạn
điều kiện có thể xảy ra khi chuyên chở bằng tàu biển. Các kết quả thu được từ
nghiên cứu thử nghiệm lão hoá cấp tốc không phải lúc nào cũng dự đoán được
những biến đổi vật lý; xem thêm độ ổn định và các thuật ngữ có liên quan).
Thiết kế phân cực (Bracketing)
Thiết kế cho một chương trình nghiên cứu độ ổn định trong đó chỉ những mẫu
thử ở về các cực của các yếu tố thiết kế nào đó, ví dụ như hàm lượng, cỡ đóng gói,
sẽ được thử nghiệm tại tất cả các thời điểm như trong thiết kế đầy đủ.
(Thiết kế ô trống giả định rằng độ ổn định của các mức trung gian sẽ được đại
diện bởi độ ổn định của các cực thử. Khi một dãy các hàm lượng được thử nghiệm,
thiết kế ô trống được áp dụng nếu hàm lượng các chất giống nhau hoặc thành phần
công thức gần như nhau [ví dụ như đối với một dãy viên nén được dập với những
khối lượng khác nhau từ một loại cốm cơ bản tương tự nhau hoặc một dãy viên
nang được đóng với các khối lượng khác nhau từ cùng thành phần cơ bản vào các
cỡ vỏ nang khác nhau]. Thiết kế ô trống cũng có thể được dùng cho các cỡ đóng
gói khác nhau hoặc các lượng đóng đầy khác nhau trong cùng hệ thống bao bì
đóng gói).
Vùng khí hậu (Climatic Zones)
Thế giới được chia thành bốn vùng dựa theo điều kiện khí hậu hàng năm, cụ
thể:
Vùng I: Ôn đới
Vùng II: Cận nhiệt đới, với độ ẩm có thể là cao
Vùng III: Nóng và khô
Vùng IV: Nóng và ẩm
Lô cam kết (Commitment Batches)
Lô sản xuất của một dược chất hay một dược phẩm mà trên những lô này các
nghiên cứu độ ổn định được bắt đầu thực hiện hoặc hoàn thiện sau khi được cấp
giấy phép theo một cam kết trong hồ sơ đăng ký.
Hệ thống bao bì đóng gói (Container Closure System)
Tất cả các thành phần đóng gói dùng để chứa đựng và bảo vệ dạng bào chế.
Hệ thống bao gồm bao bì sơ cấp và bao bì thứ cấp (nếu bao bì thứ cấp với mục
đích bảo vệ thêm thành phẩm thuốc). Thuật ngữ hệ thống bao gói (packaging
system) tương đương với hệ thống bao bì đóng gói (container closure system).
Dạng bào chế (Dosage Form)
Một dạng thành phẩm (ví dụ viên nén, viên nang, dung dịch, kem) có chứa
dược chất, thường được phối hợp, nhưng không nhất thiết, với các tá dược.
Thành phẩm thuốc/Dược phẩm (Drug product/Pharmaceutical product)
Bất kỳ chế phẩm nào được dùng cho người với mục đích làm thay đổi hoặc
thăm dò các hệ sinh lý hoặc các tình trạng bệnh lý vì lợi ích của người dùng.
Dược chất (Drug substance)
Dược chất chưa được pha chế mà sau đó có thể kết hợp với các tá dược để tạo
ra dạng bào chế (Xem thêm Hoạt chất trong phần thuật ngữ của ACTD Quality)
Tá dược (Excipient)
Một thành phần được chủ định thêm vào dược chất mà không có các tính chất
dược lý ở lượng sử dụng.
Ngày hết hạn (Expire Date)
Ngày được ghi trên bao bì của chế phẩm thuốc mà trước ngày này chế phẩm
vẫn đạt tiêu chuẩn chất lượng trong suốt hạn dùng đã được phê duyệt nếu được bảo
quản trong các điều kiện đã định. (Sau ngày hết hạn, sẽ không có gì đảm bảo là chế
phẩm vẫn còn đạt các chỉ tiêu chất lượng đã được phê duyệt và do đó chế phẩm có
thể không thích hợp để sử dụng và không nên dùng).
Thay đổi lớn (Major Variations)
Thay đổi đối với một dược phẩm đã được cấp phép lưu hành ảnh hưởng đến
một hoặc một số điểm sau:
- Đường dùng
- Hàm lượng, liều dùng
- Chỉ định
- hoặc những điểm không nằm trong định nghĩa thay đổi nhỏ
(Hồ sơ xin phép cho các thay đổi lớn thường phải có các dữ liệu cần thiết về
chất lượng, độ an toàn và hiệu quả của công thức mới do các thay đổi mang lại).
Bao bì không thấm (Impermeable Containers)
Bao bì có khả năng tạo ra rào chắn bền vững không cho khí hoặc dung môi đi
qua, ví dụ: tuýp nhôm hàn kín chứa chất bán rắn, ống thủy tinh hàn kín chứa dung
dịch).
Cân bằng khối (Mass Balance)
Quá trình cộng gộp kết quả định lượng và mức độ các sản phẩm phân huỷ để
thấy được độ gần của giá trị này với 100% của giá trị ban đầu, có xem xét đến sai
số phân tích
Thiết kế ma trận (Matrixing)
Thiết kế cho một chương trình nghiên cứu độ ổn định trong đó chỉ có một
nhóm mẫu được chọn trong tổng số mẫu có sự kết hợp tất cả các yếu tố sẽ được
thử nghiệm ở một thời điểm xác định. Ở một thời điểm kế tiếp, một nhóm mẫu
khác có sự kết hợp tất cả yếu tố sẽ được thử nghiệm. Thiết kế giả định rằng tại từng
thời điểm thử nghiệm, độ ổn định của mỗi nhóm mẫu đã được thử sẽ đại diện cho
độ ổn định của toàn bộ mẫu. Sự khác nhau giữa các mẫu của cùng một dược phẩm
phải đại diện cho, ví dụ: sự khác nhau về lô sản xuất, hàm lượng, cỡ đóng gói của
cùng hệ thống bao bì đóng gói, và trong một số trường hợp, có thể là sự khác hệ
thống bao bì đóng gói.
Thay đổi nhỏ (Minor Variations)
Thay đổi đối với một dược phẩm đã được cấp phép lưu hành không ảnh
hưởng tới một hoặc một số điểm sau:
- Đường dùng
- Hàm lượng, liều dùng
- Chỉ định, và
- hoạt chất
(Hồ sơ xin phép cho các thay đổi nhỏ thường phải có các dữ liệu cần thiết để
chứng minh chất lượng của công thức mới do các thay đổi mang lại)
Lô ở quy mô thử nghiệm (Pilot scale batch)
Một lô dược chất hoặc dược phẩm được sản xuất bởi một quy trình đại diện
và mô phỏng cho quy trình áp dụng ở quy mô sản xuất (Với các dạng thuốc rắn
dùng đường uống, quy mô thử nghiệm thông thường tối thiểu phải băng 1/10 quy
mô sản xuất hoặc 100.000 viên nén hoặc viên nang, tuỳ theo số lượng nào lớn hơn
trừ khi có quy định khác.
Lô đầu tiên (Primary batch)
Lô dược chất hoặc dược phẩm được dùng trong nghiên cứu độ ổn định mà các
số liệu về độ ổn định của nghiên cứu này được nộp trong hồ sơ đăng ký với mục
đích thiết lập kỳ thử nghiệm lại hoặc tuổi thọ.
(Lô đầu tiên của một dược chất ít nhất phải là lô ở quy mô thử nghiệm. Với
dược phẩm, hai trong số ba lô ít nhất phải là lô ở quy mô thử nghiệm và lô thứ ba
có thể nhỏ hơn nếu lô này đại diện cho các bước sản xuất cơ bản. Tuy nhiên, một
lô đầu tiên có thể là lô sản xuất.
Lô sản xuất (Production batch)
Lô dược chất hoặc dược phẩm được sản xuất ở quy mô sản xuất bằng cách sử
dụng các thiết bị sản xuất trong cơ sở sản xuất như mô tả trong hồ sơ đăng ký.
Thử nghiệm dài hạn (Real-time testing)
Các nghiên cứu độ ổn định ở điều kiện bảo quản đã đề xuẩt cho kỳ thử
nghiệm lại hoặc để đề xuất (hoặc phê duyệt) tuổi thọ ghi trên nhãn.
Bao bì bán thấm (semi-impermeable containers)
Bao bì cho phép dung môi, thường là nước đi qua, trong khi ngăn không làm
mất chất hoà tan.
(Cơ chế của việc vận chuyển dung môi là hấp thu lên một bề mặt bao bì,
khuếch tán vào chất liệu làm bao bì và thoát ra bề mặt kia. Sự vận chuyển là do
gradient áp suất riêng. Các ví dụ về bao bì bán thấm bao gồm các túi nhựa và túi
bán cứng bằng polyethylen tỷ trọng thấp (LDPE) dùng cho thuốc tiêm truyền thể
tích lớn (LVPs) và ống tiêm, chai và lọ thuốc tiêm bằng LDPE.
Tuổi thọ (Shelf-life, expiration dating period)
Khoảng thời gian một dược phẩm vẫn đạt các tiêu chuẩn chất lượng đã được
phê duyệt khi được bảo quản ở điều kiện ghi trên nhãn bao bì.
Tiêu chuẩn chất lượng (Specifications)
Danh mục các phép thử, tham chiếu cho các quy trình phân tích và các tiêu
chuẩn chấp nhận được biểu thị dưới dạng các giới hạn, các khoảng bằng số hoặc
các tiêu chuẩn khác cho các thử nghiệm được mô tả.
(Tiêu chuẩn chất lượng thiết lập ra tập hợp các tiêu chuẩn mà một dược chất,
dược phẩm hoặc nguyên liệu ở các giai đoạn của quá trình sản xuất phải đáp ứng
để được xem là chấp nhận được cho mục đích sử dụng. "Đạt tiêu chuẩn chất
lượng" có nghĩa là dược chất hoặc dược phẩm, khi được thử nghiệm theo các quy
trình phân tích, đạt các giới hạn cho phép. Các chỉ tiêu kỹ thuật là các tiêu chuẩn
chất lượng quan trọng do nhà sản xuất đề nghị và chứng minh, và được các cơ
quan quản lý phê duyệt.
Danh mục các chỉ tiêu thử nghiệm cho mỗi dạng bào chế được liệt kê sau đây
được xem là hướng dẫn về các loại thử nghiệm phải được thực hiện trong một
nghiên cứu độ ổn định. Nhìn chung, đối với tất cả các dạng bào chế, cần phải đánh
giá: hình thức, hàm lượng và các sản phẩm phân huỷ. Với các thuốc Generic, sản
phẩm phân huỷ phải được giới hạn theo quy định của dược điển.
Danh mục các thử nghiệm đưa ra dưới đây đối với mỗi dạng bào chế không
hẳn là toàn diện hoặc cũng không có nghĩa là mọi thử nghiệm đã liệt kê đều phải
đưa vào quy trình theo dõi độ ổn định đối với từng thuốc cụ thể (ví dụ: thử nghiệm
về mùi chỉ nên tiến hành khi cần thiết và suy xét đến tính an toàn cho người phân
tích).
Hơn nữa, cũng không có nghĩa là mọi thử nghiệm đã liệt kê đều phải thực
hiện tại mọi thời điểm theo dõi.
Hướng đặt chế phẩm khi bảo quản, như để thẳng đứng hay lật ngược, cần ghi
rõ trong đề cương thử nếu có sự thay đổi của hệ thống bao bì đóng gói.
Viên nén cần đánh giá về: hình thức viên, mùi, màu sắc, định lượng, các
sản phẩm phân huỷ, độ hoà tan, độ ẩm và độ cứng/ độ bở.
Nang gelatin cứng cần đánh giá về hình thức (kể cả sự rạn nứt), màu sắc,
mùi của phần chứa trong nang, định lượng, các sản phẩm phân huỷ, độ hoà tan, độ
ẩm và độ nhiễm khuẩn.
Thử nghiệm đối với nang mềm gelatin cần đánh giá về hình thức nang,
màu sắc, mùi của phần chứa trong nang, định lượng, các sản phẩm phân huỷ, độ
hoà tan, độ nhiễm khuẩn, pH, độ rò rỉ, và sự hình thành màng. Thêm vào đó, cần
kiểm tra sự kết tủa hay vẩn đục của thuốc đóng trong nang.
Nhũ tương: Việc đánh giá cần bao gồm hình thức (kể cả sự tách pha), màu sắc,
mùi, định lượng, các sản phẩm phân huỷ, pH, độ nhớt, giới hạn nhiễm khuẩn, hàm
lượng chất bảo quản, kích thước trung bình và sự phân bố của giọt nhũ tương.
Dung dịch và hỗn dịch uống: Việc đánh giá cần bao gồm hình thức (kể cả sự hình
thành kết tủa, độ trong của dung dịch), màu sắc, mùi, định lượng, các sản phẩm
phân huỷ, pH, độ nhớt, giới hạn nhiễm khuẩn và hàm lượng chất bảo quản.
Thêm vào đó, đối với hỗn dịch cần đánh giá khả năng tái phân tán, các tính
chất lưu biến, kích thước trung bình và sự phân bố của các tiểu phân. Sau khi bảo
quản, mẫu của các hỗn dịch cần được chuẩn bị theo chỉ dẫn ghi trên nhãn (chẳng
hạn như lắc kỹ trước khi tiến hành định lượng).
Bột pha thành dạng lỏng khi uống: Bột pha thành dạng lỏng khi uống cần được
đánh giá về hình thức, màu sắc, mùi, định lượng, các sản phẩm phân huỷ, độ ẩm,
và thời gian pha thành dạng lỏng.
Các sản phẩm đã pha thành dạng lỏng (dung dịch và hỗn dịch) cần đánh giá như đã
nêu ở mục Dung Dịch và Hỗn Dịch Uống sau khi chuẩn bị như đã ghi trên nhãn
trong suốt thời gian sử dụng tối đa đã được ấn định.
Thuốc hít có van định liều và thuốc phun mù qua mũi: Thuốc hít có van định liều
và thuốc phun mù qua mũi cần được đánh giá về hình thức (bao gồm chất
chứa bên trong, bình/ống chứa thuốc, van và các thành phần của nó), màu sắc,
vị, định lượng, các sản phẩm phân huỷ, định lượng đồng dung môi (nếu có
dùng), độ đồng đều hàm lượng phân liều, số lần ấn van một bình thuốc theo
ghi trên nhãn đạt được độ đồng đều hàm lượng phân liều, phân bố kích thước
tiểu phân khí lực học, đánh giá bằng kính hiển vi, hàm lượng nước, tốc độ rò
rỉ, giới hạn nhiễm khuẩn, sự phân phối thuốc của van (khối lượng thuốc được
phun ra), các chất chiết/chất thôi ra từ các thành phần làm bằng chất dẻo và
cao su. Các mẫu thử nghiệm cần được bảo quản cả theo hướng thẳng đứng và
hướng lật ngược/nằm ngang.
Đối với thuốc phun mù dạng hỗn dịch, hình thức các bộ phận của van và chất chứa
trong bình cần được đánh giá bằng kính hiển vi đối với các tiểu phân lớn và sự
thay đổi hình thái bề mặt tiểu phân dược chất, mức độ kết tụ, sự hình thành tinh
thể, cũng như tiểu phân lạ.
Những tiểu phân đó có thể gây tắc van hoặc làm cho sự phân liều không lặp lại. Sự
ăn mòn mặt trong bình chứa hoặc sự thoái hoá của vòng đệm có thể ảnh hưởng
không tốt đến chế phẩm thuốc.
Thuốc xịt mũi: Dung dịch và hỗn dịch
Đánh giá độ ổn định của dung dịch hay hỗn dịch thuốc xịt mũi có gắn bơm định
liều cần bao gồm: hình thức, màu sắc, độ trong đối với dung dịch, định lượng, các
sản phẩm phân huỷ, hàm lượng chất bảo quản và chất chống oxy hoá, giới hạn
nhiễm khuẩn, pH, tiểu phân lạ, độ đồng nhất về hàm lượng dược chất mỗi lần xịt,
số lần xịt đạt sự đồng nhất về lượng xịt ra của một đơn vị đóng gói, sự phân bố
kích thước giọt và/hoặc tiểu phân, sự giảm khối lượng, sự phân phối của bơm, soi
kính hiển vi (đối với hỗn dịch), kích thước tiểu phân lạ, các chất chiết /chất thôi ra
từ các thành phần của bao bì, nắp, bơm bằng chất dẻo và cao su.
Các chế phẩm dùng tại chỗ, thuốc nhãn khoa và tai: Nhóm này bao gồm các thuốc
mỡ, kem, lotion, bột nhão, gel, dung dịch và thuốc phun mù không phân liều dùng
trên da.
Các chế phẩm dùng tại chỗ cần được đánh giá về hình thức, độ trong, màu sắc, độ
đồng nhất, mùi, pH, khả năng phân tán lại (đối với lotion), độ đặc, độ nhớt, phân
bố kích thước tiểu phân (đối với hỗn dịch, khi có thể), định lượng, các sản phẩm
phân huỷ, nồng độ chất bảo quản và chất chống oxy hoá (nếu có), giới hạn nhiễm
khuẩn/độ vô khuẩn và giảm khối lượng (khi thích hợp).
Việc đánh giá đối với các chế phẩm thuốc nhãn khoa hoặc tai (như kem, thuốc
mỡ, dung dịch và hỗn dịch) cần tiến hành thêm các chỉ tiêu sau: độ vô khuẩn, tiểu
phân lạ và các chất chiết được.
Việc đánh giá các thuốc phun mù không phân liều dùng tại chỗ cần bao gồm:
hình thức, định lượng, các sản phẩm phân huỷ, áp suất, sự giảm khối lượng, khối
lượng thực được phun ra, tốc độ phun, giới hạn nhiễm khuẩn, kiểu xịt, hàm lượng
nước, và phân bố kích thước tiểu phân (đối với hỗn dịch)
Thuốc đạn cần đánh giá về hình thức, màu sắc, định lượng, các sản phẩm
phân huỷ, kích thước tiểu phân, khoảng nhiệt độ biến dạng, độ hoà tan (ở 37 0C) và
giới hạn nhiễm khuẩn.
Thuốc tiêm thể tích nhỏ (SVPs): Thuốc tiêm thể tích nhỏ bao gồm một loạt
các chế phẩm tiêm như thuốc tiêm, thuốc để pha tiêm, hỗn dịch thuốc tiêm, thuốc
để pha hỗn dịch tiêm và nhũ tương tiêm.
Đánh giá các chế phẩm thuốc tiêm cần bao gồm: hình thức, độ trong,
màu sắc, định lượng, hàm lượng chất bảo quản (nếu có), các sản phẩm phân huỷ,
tiểu phân lạ, pH, độ vô khuẩn và chí nhiệt tố/nội độc tố.
Nghiên cứu độ ổn định đối với các chế phẩm thuốc để pha tiêm cần tiến
hành: hình thức, màu sắc, thời gian pha lại, và hàm ẩm. Cũng cần đánh giá độ ổn
định của các chế phẩm thuốc sau khi pha theo như hướng dẫn trên nhãn. Những
thông số đặc trưng cần được kiểm tra vào những khoảng thời gian thích hợp trong
thời hạn sử dụng tối đa đã được ấn định của chế phẩm đã pha, được bảo quản đúng
điều kiện đã ghi trên nhãn, nên bao gồm: hình thức, độ trong, mùi, màu sắc, pH,
định lượng (hiệu lực), chất bảo quản (nếu có), các sản phẩm phân huỷ/khối kết tủa,
độ vô khuẩn, chí nhiệt tố/ nội độc tố và tiểu phân lạ.
Ngoài các thống số như đã nêu ở mục thuốc tiêm và thuốc để pha tiêm,
việc nghiên cứu độ ổn định đối với hỗn dịch thuốc tiêm và thuốc để pha hỗn dịch
tiêm cần theo dõi thêm: phân bố kích thước tiểu phân, khả năng phân tán lại và tính
chất lưu biến.
Nghiên cứu độ ổn định của các chế phẩm nhũ tương thuốc tiêm, ngoài
các thông số như đã nêu đối với thuốc tiêm, cần tiến hành theo dõi thêm: sự tách
pha, độ nhớt, kích thước giọt trung bình và sự phân bố của pha phân tán.
Thuốc tiêm thể tích lớn (LVPs): Đánh giá các chế phẩm thuốc tiêm thể tích
lớn cần bao gồm: hình thức, màu sắc, định lượng, hàm lượng chất bảo quản (nếu
có), các sản phẩm phân huỷ, kích thước tiểu phân, pH, độ vô khuẩn, chí nhiệt tố/
nội độc tố, độ trong và thể tích.
Hợp dịch thuốc: Đối với bất kỳ chế phẩm thuốc nào hoặc chất pha loãng nào
định dùng để thêm vào chế phẩm thuốc khác rất có thể xảy ra tương kỵ. Trong
những trường hợp như vậy, chế phẩm thuốc đã ghi nhãn là được dùng bằng cách
thêm vào chế phẩm thuốc khác (như thuốc tiêm, dung dịch xông hít) cần phải đánh
giá về độ ổn định và mức độ tương hợp trong hợp dịch với các chế phẩm thuốc
khác hoặc với chất pha loãng cả khi để theo chiều thẳng đứng và chiều lật
ngược/nằm ngang, nếu được cảnh báo.
Quy trình thử độ ổn định với các thử nghiệm thích hợp cần được tiến hành
vào các thời điểm 0, 6 đến 8 và 24 giờ hoặc phù hợp với khoảng thời gian sử dụng
đã dự kiến ở nhiệt độ bảo quản/ sử dụng đã nêu. Các thử nghiệm cần thực hiện là
hình thức, màu sắc, độ trong, định lượng, sản phẩm phân huỷ, pH, kích thước tiểu
phân, tương tác với bao bì/nắp đậy/dụng cụ và độ vô khuẩn. Cũng có thể đưa ra số
liệu hỗ trợ thích hợp thay cho việc đánh giá về sự phân huỷ bởi ánh sáng.
Miếng dán dùng qua da: Đối với các sản phẩm dán trực tiếp vào da với mục
đích khuếch tán liên tục một dược chất vào trong da qua lớp biểu bì, nghiên cứu độ
ổn định cần được tiến hành: hình thức, định lượng, sản phẩm phân huỷ, tốc độ giải
phóng in vitro, độ rò rỉ, giới hạn nhiễm khuẩn/độ vô khuẩn, lực tháo và dính, và
tốc độ giải phóng thuốc.
Các sản phẩm đông khô: Hình thức của cả chế phẩm đông khô và sản phẩm
thuốc pha lại, định lượng, sản phẩm phân huỷ, pH, hàm lượng nước và tốc độ tạo
thành dung dịch.
Tần số thử nghiệm
Khi nghiên cứu dài hạn, tần số thử nghiệm phải đủ để thiết lập tính ổn định
của thành phẩm thuốc. Tần số thử nghiệm ở điều kiện bảo quản dài hạn thông
thường là 3 tháng một lần trong năm đầu tiên và 6 tháng một lần trong năm thứ 2,
và một năm một lần cho các năm sau đó đến hết tuổi thọ dự kiến.
Ở điều kiện bảo quản lão hoá cấp tốc, tối thiểu là 3 thời điểm, kể cả thời
điểm đầu và thời điểm kết thúc (có nghĩa là 0, 3, và 6 tháng) đối với thời gian thử
nghiệm là 6 tháng. Trong trường hợp (dựa trên kinh nghiệm phát triển) các kết quả
nghiên cứu lão hoá cấp tốc cho thấy có sự biến đổi đáng kể của các chỉ tiêu theo
dõi, cần thực hiện thêm thử nghiệm bằng cách thêm một số mẫu ở thời điểm kết
thúc hoặc bằng cách thêm thời điểm thứ tư vào thiết kế nghiên cứu.
Các thiết kế rút gọn, như thiết kế ma trận hoặc phân cực, trong đó tần số thử
nghiệm được giảm đi hoặc không nhất nhiết phải kết hợp tất cả các yếu tố trong
thử nghiệm, có thể được áp dụng, nếu phù hợp; xem phụ lục 5.3.
Điều kiện bảo quản Các chế phẩm Tần số thử nghiệm
Điều kiện dài hạn NCE, Generics và 0, 3, 6, 9, 12, 18, 24
(Real Time) các thay đổi (MaV và tháng, hàng năm cho đến
MiV) hết hạn dùng đề xuất
Lão hoá Cấp tốc NCE, Generics, và 0, 3, và 6 tháng
(Accelerated) các thay đổi (MaV và
MiV)
Thay thế nghiên cứu Generics, và các 0, 1, và 3 tháng
lão hoá cấp tốc thay đổi (MaV và MiV)
(Alternatives to
accelerated study)
Đối với thuốc Generics và các thay đổi (Thay đổi lớn MaV và thay đổi nhỏ
MiV)
Nghiên cứu Điều kiện bảo quản Khoảng thời gian Số lô thử (Xem
tối thiểu của dữ phần "Chọn
liệu khi nộp hồ lô")
sơ đăng ký
0 0
Điều kiện dài Nhiệt độ 30 C + 2 C 12 tháng Tối thiểu 2 lô
hạn Độ ẩm tương đối 75% + đối với dạng
5% bào chế qui ước
và dược chất
bền vững
12 tháng Tối thiểu 3 lô
đối với dạng
bào chế đặc biệt
hoặc dược chất
kém bền vững
0 0
Lão hoá cấp tốc Nhiệt độ 40 C + 2 C 6 tháng Tối thiểu 2 lô
Độ ẩm tương đối 75% +
5%
Nếu thành phẩm thuốc được đóng gói trong bao bì bán thấm, phải cung cấp
thông tin phù hợp để đánh giá mức mất nước. Các số liệu theo dõi khi bảo quản
lạnh cần được đánh giá theo phần đánh giá của hướng dẫn này, trừ các trường hợp
được ghi rõ dưới đây:
Nếu có "biến đổi đáng kể" xảy ra trong trong vòng 3 đến 6 tháng khi thử
nghiệm ở điều kiện lão hoá cấp tốc, thì tuổi thọ dự kiến nên dựa trên các số liệu thu
được khi bảo quản ở điều kiện dài hạn.
Nói chung, “biến đổi đáng kể” đối với một thành phẩm thuốc được định nghĩa
như sau:
1. Hàm lượng giảm 5% so với giá trị ban đầu hoặc không đạt giới hạn cho
phép;
2. Có bất kỳ sản phẩm phân huỷ nào đó vượt quá giới hạn cho phép;
3. Không đạt các chỉ tiêu về hình thức, tính chất vật lý và các thử nghiệm
chức năng (ví dụ như màu sắc, tách pha, khả năng tái phân tán, đóng bánh, độ
cứng, phân phối liều mỗi lần xịt), tuy nhiên, một vài biến đổi về tính chất vật lý (ví
dụ như thuốc đạn bị mềm, kem bị chảy) có thể gặp ở điều kiện lão hoá cấp tốc thì
được xem như là bình thường đối với các dạng bào chế này.
4. Không đạt giới hạn cho phép về pH;
5. Không đạt giới hạn về độ hoà tan đối với 12 đơn vị phân liều (nang cứng
hoặc viên nén)
Nếu “biến đổi đáng kể” xảy ra trong vòng 3 tháng đầu của thử nghiệm ở điều
kiện bảo quản lão hoá cấp tốc, thì cần có sự bàn luận để chỉ rõ ảnh hưởng của việc
chuyên chở ngắn ngày trong nhưng điều kiện vượt ra ngoài điều kiện bảo quản đã
ghi trên nhãn, ví dụ như trong khi chuyên chở bằng tàu biển hoặc bốc dỡ. Nếu phù
hợp, thì việc bàn luận này có thể được làm rõ hơn bằng cách thử nghiệm thêm trên
một lô thành phẩm đơn trong khoảng thời gian dưới 3 tháng nhưng với tần số thử
nghiệm nhiều hơn bình thường. Không cần tiếp tục thử nghiệm thành phẩm thuốc
suốt 6 tháng khi mà “biến đổi đáng kể” đã xuất hiện trong vòng 3 tháng đầu tiên.
Cách làm này có thể áp dụng cho các chế phẩm thuốc như thuốc mỡ, kem
hoặc thuốc đạn là những chế phẩm không thể thử nghiệm ở điều kiện lão hoá cấp
tốc và chỉ yêu cầu thử nghiệm ở điều kiện thực.
Các thành phẩm thuốc dự kiến bảo quản đông lạnh
Nghiên cứu Điều kiện bảo quản Khoảng thời gian tối thiểu
của dữ liệu khi nộp hồ sơ
đăng ký
0 0
Điều kiện dài hạn -20 C + 5 C 12 tháng
Đối với các thành phẩm thuốc dự kiến bảo quản đông lạnh, tuổi thọ nên dựa
trên các dữ liệu ở điều kiện thực và bảo quản dài hạn. Do không có số liệu ở điều
kiện bảo quản lão hoá cấp tốc đối với các thành phẩm thuốc dự định bảo quản đông
lạnh, thử nghiệm trên một lô ở một nhiệt độ nâng cao (ví dụ 5 0C + 3 0C hoặc 250C
+ 2 0C) trong một khoảng thời gian thích hợp cần được thực hiện để chỉ rõ ảnh
hưởng của việc chuyên chở ngắn ngày trong những điều kiện vượt ra ngoài điều
kiện bảo quản đã ghi trên nhãn.
Các thành phẩm thuốc dự kiến bảo quản dưới - 20 0C
Các chế phẩm thuốc dự kiến bảo quản dưới - 20 0C cần được xử lý dựa trên
cơ sở từng trường hợp.
Hệ thống bao bì đóng gói
Thử nghiệm độ ổn định phải tiến hành đối với dạng bào chế đã đóng gói
trong bao bì dự kiến sẽ bán ra thị trường (bao gồm cả bao bì thứ cấp và nhãn bao
bì). Bất kỳ các thử nghiệm nào đã tiến hành trên sản phẩm không đóng trong bao bì
trực tiếp hoặc trong các vật liệu bao bì khác có thể lập thành một phần của thử
nghiệm khắc nghiệt của dạng bào chế hoặc có thể được xem xét như là các thông
tin hỗ trợ tương ứng.
Khi sử dụng bao bì hút ẩm để đóng gói, cần phải cân nhắc độ ổn định của chất
đựng bên trong dưới điều kiện độ ẩm cao. Độ ẩm có thể có các ảnh hưởng không
mong muốn đến độ ổn định hoá học (ví dụ một số kháng sinh có thể bị thuỷ phân)
và độ ổn định vật lý (ví dụ tốc độ hoà tan có thể thay đổi).
Cần chú ý đến khả năng thấm khác nhau của các loại nguyên liệu bao bì khác
nhau, từ đó cần phải cụ thể hoá các thông số như độ dày của nguyên liệu và hệ số
thấm.
Nói chung các loại bao bì được coi là không có khả năng hút ẩm bao gồm ống
tiêm thuỷ tinh, vỉ nhôm/nhôm, chai polyethylene tỷ trọng cao (HDPE) hoặc chai
thuỷ tinh với nút kim loại hoặc HDPE.
Ảnh hưởng của độ ẩm cao lên dạng bào chế rắn đóng gói trong bao bì có khả
năng hút ẩm phải được chứng minh bằng số liệu. Các ví dụ về bao bì có khả năng
hút ẩm gồm vỉ polyvinyl chlorid (PVC), chai polyethylen tỷ trọng thấp (LDPE),
chai polyethylene tỷ trọng cao (HDPE) hoặc thuỷ tinh với nút polypropylen.
Các thông số yêu cầu để phân loại nguyên liệu bao bì là thấm hay không thấm
phụ thuộc vào tính chất nguyên liệu làm bao bì như độ dày và hệ số thấm. Sự thích
hợp của nguyên liệu làm bao bì cho một sản phẩm đặc biệt được xác định bởi tính
chất của sản phẩm. Một ví dụ về loại, độ dày và hệ số thấm của nguyên liệu làm
bao bì được trình bày trong phụ lục 5.5.
Đánh giá
Cần có một phương pháp hệ thống trong việc trình bày và đánh giá thông tin
về độ ổn định, các thông tin cần có là kết quả từ các thử nghiệm vật lý, hoá học và
vi sinh, bao gồm cả các chỉ tiêu đặc biệt của từng dạng bào chế (ví dụ tốc độ hoà
tan đối với các dạng thuốc rắn dùng đường uống).
Mục đích của nghiên cứu độ ổn định là dựa trên thử nghiệm tối thiểu với 2
hoặc 3 lô thành phẩm thuốc để xác lập tuổi thọ, và ghi hướng dẫn bảo quản trên
nhãn áp dụng cho tất cả các lô thành phẩm thuốc sau này được sản xuất và đóng
gói dưới những điều kiện tương tự như các lô thử. Mức độ sai khác giữa các lô có
ảnh hưởng đến độ tin cậy rằng một lô sản phẩm tương lai sẽ vẫn đạt các tiêu chuẩn
chất lượng trong suốt tuổi thọ của sản phẩm.
Các nghiên cứu đơn yếu tố so với đa yếu tố và nghiên cứu thiết kế đầy đủ so
với thiết kế rút gọn có cùng khái niệm cơ bản trong việc đánh giá số liệu độ ổn
định. Đánh giá số liệu từ các nghiên cứu độ ổn định và nếu cần thì sử dụng các số
liệu hỗ trợ để xác định các chỉ tiêu chất lượng quan trọng có thể ảnh hưởng tới chất
lượng và hiệu quả của thành phẩm thuốc. Mỗi một chỉ tiêu cần đánh giá riêng biệt
và đánh giá tổng thể để dự kiến tuổi thọ. Tuổi thọ dự kiến của thành phẩm không
được vượt quá tuổi thọ dự đoán tính theo từng chỉ tiêu đơn lẻ.
Nói chung, các chỉ tiêu hoá học định lượng được (ví dụ như hàm lượng, các
sản phẩm phân huỷ, hàm lượng chất bảo quản) đối với một thành phẩm thuốc có
thể được giả định là tuân theo phương trình động học bậc 0 trong suốt thời gian
bảo quản dài hạn. Vì vậy, các kết quả này tuân theo hồi quy tuyến tính. Mặc dù
động học của một số chỉ tiêu định lượng khác (ví dụ: pH, độ hoà tan) nói chung
không được biết nhưng vẫn có thể áp dụng cùng loại phân tích thống kê. Kết quả
phân tích các chỉ tiêu định tính và vi sinh không tuân theo loại phân tích thống kê
này.
Khi các kết quả thử độ ổn định dài hạn và lão hoá cấp tốc của một chỉ tiêu cho
thấy chỉ tiêu này ít hoặc không biến đổi theo thời gian và ít hoặc không sai khác,
điều đó có thể cho thấy là thành phẩm thuốc vẫn còn đạt trong phạm vi tiêu chuẩn
cho phép đối với chỉ tiêu đó trong thời gian của tuổi thọ dự kiến. Trong những
trường hợp đó, thường không cần thiết phải xử lý thống kê, nhưng cần giải thích.
Sự giải thích có thể bao gồm việc bàn luận về cơ chế phân huỷ hoặc không có sự
phân huỷ, sự liên quan của các dữ liệu lão hoá cấp tốc, cân bằng khối và/hoặc các
số liệu hỗ trợ khác.
Nếu được, nên sử dụng một phương pháp thống kê thích hợp để phân tích các
dữ liệu độ ổn định dài hạn. Mục đích của việc phân tích này là để xác định tuổi thọ
với độ tin cậy cao, mà trong thời gian đó một chỉ tiêu định lượng của tất cả các lô
thuốc sẽ sản xuất, đóng gói và bảo quản như lô thử, vẫn đáp ứng các chỉ tiêu chất
lượng đã được quy định trong tiêu chuẩn chất lượng. Phương pháp này cũng phải
được áp dụng cho những lô cam kết để thẩm tra hoặc kéo dài tuổi thọ đã được
chính thức phê duyệt.
Phân tích hồi quy được xem là một phương pháp thích hợp để đánh giá dữ
liệu độ ổn định đối với một chỉ tiêu định lượng và để xác định tuổi thọ. Bản chất
của mối quan hệ giữa một chỉ tiêu và thời gian sẽ xác định có nên đánh giá các dữ
liệu bằng phân tích hồi quy tuyến tính hay không. Thường thì mối quan hệ đó có
thể biểu diễn bằng một hàm số tuyến tính hoặc không tuyến tính theo thang số học
hoặc thang logarit. Đôi khi một đường hồi quy không tuyến tính có thể lại phản
ánh tốt hơn mối quan hệ thực.
Một phương pháp thích hợp để ước tính tuổi thọ là phân tích một chỉ tiêu định
lượng bằng cách xác định thời gian sớm nhất mà tại đó giá trị trung bình ở mức tin
cậy 95 % dao động quanh đường cong hồi quy cắt ngang qua đường giới hạn chỉ
tiêu chấp nhận dự kiến.
Đối với một chỉ tiêu đã biết là giảm đi theo thời gian, thì nên so sánh với giới
hạn dưới của tiêu chí chấp nhận ở mức tin cậy 95%. Đối với một thuộc tính đã biết
là tăng lên theo thời gian thì nên so sánh với giới hạn trên của tiêu chí chấp nhận ở
mức tin cậy 95%. Đối với một thuộc tính có thể tăng hoặc giảm hoặc không biết
hướng biến đổi của nó thì so sánh với cả giới hạn trên và giới hạn dưới của các tiêu
chí chấp nhận ở mức tin cậy 95%.
Nếu kết quả phân tích cho thấy sự khác biệt giữa các lô là nhỏ, thì sẽ thuận lợi
để tổ hợp các dữ liệu thành một ước tính chung. Khi đó có thể áp dụng phép tính
thống kê thích hợp (ví dụ giá trị p đối với mức có ý nghĩa để loại trừ lớn hơn 0,25)
đôi với độ dốc của đường thẳng hồi quy và giá trị chặn tại thời điểm 0 cho các lô
riêng rẽ. Nếu việc kết hợp các dữ liệu của một vài lô là không thích hợp, thì tuổi
thọ chung cần dựa trên thời gian tối thiểu mà một lô vẫn đạt yêu cầu trong phạm vi
các tiêu chí chấp nhận.
Cần xem xét không chỉ về hàm lượng mà cả các sản phẩm phân huỷ và các
chỉ tiêu thích hợp khác trong việc đánh giá độ ổn định. Trong trường hợp cần thiết,
cần tập trung để xem lại đầy đủ cân bằng khối, độ ổn định khác và mức độ phân
huỷ hoạt chất.
Phương pháp tính thống kê dùng để phân tích dữ liệu phải phù hợp với thiết
kế nghiên cứu độ ổn định để đưa ra một kết luận thống kê có giá trị cho việc ước
tính tuổi thọ. Phương pháp đã mô tả trên có thể được sử dụng để ước tính tuổi thọ
cho một lô đơn lẻ hoặc cho nhiều lô kết hợp sau khi đánh giá bằng một phương
pháp thống kê thích hợp.
Cam kết về độ ổn định
Khi dữ liệu về độ ổn định ở điều kiện thực của các lô đầu tiên không đủ thời
gian của tuổi thọ dự kiến được phê duyệt tại thời điểm cấp phép lưu hành, cần có
một cam kết tiếp tục nghiên cứu độ ổn định sau khi được cấp phép lưu hành để xác
định chắc chắn tuổi thọ.
Nếu trong hồ sơ đăng ký đã có các số liệu về độ ổn định ở điều kiện thực của
ít nhất số lô sản xuất tối thiểu theo quy định mà bao quát được tuổi thọ dự định, thì
cam kết sau khi được cấp phép lưu hành được xem là không cần thiết. Ngược lại,
thì một trong số những cam kết sau cần phải làm:
a. Nếu trong hồ sơ đăng ký đã có các số liệu nghiên cứu độ ổn định của ít
nhất số lô sản xuất tối thiểu theo quy định, cần cam kết tiếp tục các nghiên cứu dài
hạn trong khoảng tuổi thọ dự kiến và các nghiên cứu lão hoá cấp tốc trong 6 tháng.
b. Nếu trong hồ sơ đăng ký đã có các số liệu nghiên cứu độ ổn định của ít
hơn 3 lô sản xuất, cần cam kết tiếp tục nghiên cứu ở điều kiện thực trong khoảng
tuổi thọ dự kiến và nghiên cứu lão hoá cấp tốc trong 6 tháng, cam kết có thêm các
lô sản xuất để có đủ ít nhất là số lô tối thiểu theo quy định, thực hiện nghiên cứu độ
ổn định ở điều kiện thực trong khoảng tuổi thọ dự kiến và nghiên cứu lão hoá cấp
tốc trong 6 tháng trên các lô này.
c. Nếu trong hồ sơ đăng ký không có các số liệu về độ ổn định của các lô
sản xuất, cần cam kết thực hiện nghiên cứu độ ổn định ở điều kiện thực trong
khoảng tuổi thọ dự kiến và nghiên cứu cấp tốc trong 6 tháng trên 3 lô sản xuất đầu
tiên.
Đề cương nghiên cứu độ ổn định áp dụng cho các lô cam kết phải giống như
đã thực hiện đối với các lô đầu tiên, trừ khi có những biện luận có tính khoa học.
Nếu báo cáo nghiên cứu độ ổn định đã nộp được thực hiện ở những điều kiện
khác và không chứng minh được rằng thành phẩm thuốc vẫn đạt các chỉ tiêu chấp
nhận được nêu ra trong hướng dẫn này, cơ sở đăng ký phải nộp cam kết và đề
cương nghiên cứu về độ ổn định sau khi được cấp phép lưu hành. Trong những
trường hợp như vậy, phải cân nhắc các lựa chọn sau đây: (1) Rút ngắn tuổi thọ (2)
dùng hệ thống bao bì đóng gói có khả năng bảo vệ tốt hơn hoặc (3) đưa thêm các
chú ý trên nhãn
Độ ổn định sau khi cấp phép lưu hành có thể được thực hiện ở bất kỳ nước
thành viên nào thuộc ASEAN, nước xuất xứ hoặc bất kỳ nước nào có điều kiện bảo
quản như đã yêu cầu.
Cách trình bày/ ghi nhãn
Phải thiết lập cách trình bày về bảo quản để ghi nhãn theo đúng các yêu cầu
thích hợp của quốc gia/khu vực. Cách trình bày về bảo quản phải dựa trên đánh giá
về độ ổn định của thành phẩm thuốc. Nếu có thể, nên đưa ra chỉ dẫn cụ thể, đặc
biệt là đối với các thành phẩm thuốc không chịu được đông lạnh. Nên tránh dùng
các thuật ngữ như “điều kiện phòng” hoặc “nhiệt độ phòng”.
Phải có sự kết nối trực tiếp giữa nội dung ghi nhãn với các đặc tính về độ ổn
định đã được chứng minh của thành phẩm thuốc.
Điều kiện bảo quản (nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm) được nêu ra phải dựa trên
các yêu cầu liên quan của quốc gia/khu vực hoặc tuân theo sự đề xuất dưới đây.
Khoảng biến đổi phải dựa trên đánh giá về độ ổn định của thành phẩm thuốc.
Các đề xuất sau đây về các điều kiện bảo quản có thể được ghi rõ trên nhãn:
Nhiệt độ bảo quản phải ghi bằng số mà không ghi bằng chữ, ví dụ:
Bảo quản ở nhiệt độ dưới 30 0C hoặc không bảo quản ở nhiệt độ trên 30 0C
(điều kiện bảo quản bình thường)
Bảo quản ở nhiệt độ dưới 25 0C hoặc không bảo quản ở nhiệt độ trên 25 0C
(trong phòng có điều hoà không khí)
Bảo quản ở nhiệt độ từ 2 0C đến 8 0C (trong tủ lạnh, không phải tủ đông lạnh)
Bảo quản ở nhiệt độ dưới 8 0C (trong tủ lạnh)
Bảo quản ở nhiệt độ từ -5 0C đến 0 0C (trong tủ đông lạnh)
Bảo quản ở nhiệt độ dưới - 18 0C (trong tủ đông lạnh sâu)
1. Các thuật ngữ như “điều kiện phòng” hoặc “nhiệt độ phòng” không được
chấp nhận.
2. Các chú ý chung như “Tránh ánh sáng” và / hoặc “Để ở nơi khô ráo” có
thể được ghi vào, nhưng không được dùng để che giấu các vấn đề về độ ổn định.
3. Phải ghi các yêu cầu như thời hạn sử dụng và điều kiện bảo quản sau khi
mở nắp, sau khi pha loãng hoặc sau khi pha lại thành dung dịch nếu có áp dụng. Ví
dụ, thuốc tiêm kháng sinh hoặc hỗn dịch được bào chế ở dạng bột pha tiêm.
4. Các yêu cầu cụ thể cũng phải được nêu ra đặc biệt là đối với các thành
phẩm thuốc không chịu được đông lạnh.