You are on page 1of 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

KHOA CƠ KHÍ

BÀI TẬP LỚN

VẬT LÝ 2
ĐỀ TÀI 7 :MÁY TÍNH LƯỢNG TỬ

STT Họ và Tên MSSV


1 Bùi Tiến Danh
2 Phan Công Chiến 1710675
Lớp : A0
I. GIỚI THIỆU
1. Khái niệm
2. Lịch sử hình thành
II. NGUYÊN LÝ
III. THIẾT BỊ VÀ DỤNG CỤ.
IV. CÁC THÔNG SỐ CÔNG NGHỆ
V. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM.
VI. SẢN PHÂM TIÊU BIỂU
VII. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN
VIII. VIDEO MINH HỌA

I. GIỚI THIỆU.

1. Khái niệm

Máy tính lượng tử trong tiếng Anh là Quantum Computing.


Máy tính lượng tử là một lĩnh vực máy tính tập trung vào việc phát triển công
nghệ máy tính dựa trên các nguyên tắc của lí thuyết lượng tử, giải thích tính chất
của năng lượng và vật chất ở cấp độ nguyên tử và hạ nguyên tử.
Các máy tính cổ điển mà chúng ta sử dụng ngày nay chỉ có thể mã hóa thông tin
theo các bit lấy giá trị 1 hoặc 0. Điều này hạn chế khả năng của chúng. Mặt khác,
máy tính lượng tử sử dụng các bit lượng tử hoặc qubit. Nó khai thác khả năng độc
đáo của những hạt hạ nguyên tử, thứ mà cho phép chúng tồn tại ở nhiều trạng thái,
nói cách khác là 1 và 0 cùng một lúc. 

Nguyên lí chồng chập và rối lượng tử là hai đặc điểm của vật lí lượng tử mà các
siêu máy tính này dựa vào. Máy tính lượng tử cho phép việc xử lí các hoạt động ở
tốc độ cao hơn theo cấp số nhân so với máy tính thông thường và tiêu thụ năng
lượng ít hơn nhiều.

Máy tính lượng tử là một loại máy tính sử dụng cơ học lượng tử để nó có thể thực
hiện một số loại tính toán hiệu quả hơn so với máy tính thông thường.

2.Lịch sử hình thành.

Ý tưởng về điện toán lượng tử được giới thiệu lần đầu tiên bởi nhà vật lý
Paul Benioff vào những năm 1980. Một một thời gian ngắn sau, nhà vật lý lý
thuyết Richard Feynman và nhà toán học Yuri Manin là người đầu tiên đề xuất
rằng Quantum Computing có thể giải quyết các vấn đề ngoài tầm với của máy tính
truyền thống.

Thật vậy, vào những năm 1990, nhà toán học Peter Shor đã phát triển một thuật
toán mà một máy tính lượng tử có thể sử dụng để phá vỡ mật mã khóa công khai:
Thuật toán thuật của Shor – nếu máy tính lượng tử đủ mạnh.

*Thuật toán Shor một thuật toán lượng tử được sử dụng để giúp phân tích nhân tử
một số nguyên ở dạng N = p.q, với p và q là các số nguyên tố, tức là tìm ra các giá
trị p và q khi cho số N. Thuật toán này được Ron Rivest, Adi Shamir và Leonard
Adleman lần đầu tiên đưa ra và ngày nay Người ta sử dụng thuật toán này trên các
máy tính lượng tử để phá mã RSA.

II.NGUYÊN LÝ.
1. Vài thông tin về Qubit:

Bit là đơn vị thông tin cơ bản trong công nghệ truyền thông tin hiện nay. Mỗi bit chỉ có
thể mang giá trị là 0 hay 1 dựa vào các tín hiệu điện: không hoặc có.

Qubit cũng có một vài thuộc tính như thế nhưng nhìn chung về toàn diện thì khác. Các
khác biệt này giúp cho qubit có một khả năng vượt trội.

Một qubit, hay bit lượng tử, là một đơn vị của thông tin lượng tử. Thông tin đó miêu tả
một hệ cơ học lượng tử có 2 trạng thái cơ bản, thường được ký hiệu |0> và |1>.

Một trạng thái qubit thuần túy là chồng chập lượng tử tuyến tính của hai trạng thái cơ bản
trên. Điều này khác với bit của thông tin cổ điển, chỉ nhận một trong 2 giá trị 0 hoặc 1.

2. Các trạng thái của qubit - khả năng mang thông tin vô hạn
Các trạng thái của Qubit được xác định dựa vào 2 trạng thái cơ bản đó là |0> và |1>. Như
đã nói, khác với bit cổ điển, Qubit không chỉ nhận các giá trị ứng với các trạng thái đó mà
nó còn nhận giá trị chồng chập là sự tổ hợp tuyến tính của 2 trạng thái đó:

|P> = a|0> + b|1>

Với a, b là các hằng số tỉ lệ với cường độ cửa trạng thái tổi hợp ứng với trạng thái cơ bản
tương ứng.
Chú ý rằng, theo điền kiện chuẩn hóa, ta có |a|2 + |b|2 = 1

Theo hệ thức đó, ta thấy rằng, không gian trạng thái tổ hợp |P> của một đơn qubit về
phương diện hình học được biểu diễn trên một mặt cầu, gọi là mặt cầu Block. Đây là một
không gian 2 chiều.

Như vậy, về bản chất, mỗi điểm trên mặt cầu biểu diễn cho một trạng thái của qubit. Mà
mặt cầu thì có vô hạn điểm, do đó, ta thấy ngay khả năng biểu diễn thông tin lượng tử lên
đến vô hạn chứ không phải chỉ là 0 hoặc 1 như bit cổ điển. Trong khi đó, xét theo mô
hình này, bit cổ điển chỉ có thể là một điểm nằm trên cực của mặt cầu này thôi.

3. Trao đổi thông tin lượng tử giữa các Qubit

Chúng ta biết, mỗi qubit đề mang thông tin lượng tử. Tuy nhiên, thông tin chỉ chứa trong
nội tại thì không có giá trị gì. Thông tin phải được trao đổi qua lại giũa các qubit và một
trong các lĩnh vực mới là tim hiểu cơ chế trao đổ thông tin giữa các qubit và cách xử lý
thông tin thu được.

Sự khác biệt của qubit so với bit cổ điển, không chỉ ở sự biến thiên giá trị liên tục thông
qua chồng chập lượng tử, mà còn ở chỗ cùng một lúc nhiều qubit có thể tồn tại và liên
hệ với nhau qua hiện tượng rối lượng tử (vướng víu lượng tử). Sự vướng víu này có
thể xảy ra ở khoảng cách vĩ mô giữa các qubit, cho phép chúng thể hiện các chồng chập
cùng lúc của nhiều dãy ký tự (ví dụ chồng chập 01010 và 11111). Tính chất "song song
lượng tử" này là thế mạnh cơ bản của máy tính lượng tử.

Bằng việc giải các tích phân chuyển động đối với ma trận mật độ, áp dụng các phép gần
đúng, người ta đã thấy rằng sự biểu diễn trạng thái trên một qubit tự do còn chịu ảnh
hưởng của các trạng thái của qubit khác. Thành lập cụ thể các phương trình này sẽ cho
ta cơ chế truyền thông tin của các Qubit.

Việc giải các phương trình này còn phải tính tới ảnh hưởng của môi trường, ảnh hưởng
của một chuỗi các qubit trong bộ nhớ lượng tử thay vì chỉ giữa 2 qubit. Đây là một quá
trình khó khăn kết hợp cả sức người - "sức máy" và cũng đang là một trong những mốc
khởi đầu cho các bạn trẻ bước chân vào nghiên cứu vật lý mà không cần thiết phải nghiện
cứu nhiều từ các kiến thức cũ.

Như vậy, để bước chân vào lĩnh vực này, giải tìm các ma trận mật độ, cần các công
cụ nền tản gì?

 - Thứ nhất đó là phương trình thời gian của ma trận mật độ (còn gọi là phương trình
Liouville lượng tử). Đây được xem là công cụ cơ bản.

 - Thư hai là sử dụng phép gần đúng Markov trong phương trình thời gian, xem rằng
những ảnh hưởng của lịch sử không đáng kể và có thể bỏ qua.

 - Thứ ba là Phương trình Block - Redfiled để xác định ảnh hưởng của môi trường.

Những kiến thức đó là cơ bản và đã được kiểm chứng trong nửa thế kỉ qua, không nghi
ngại gì để dùng nó!

4. Qubit rồi tới Qu... gì nữa

Giống như qubit với 2 mức trạng thái cơ bản, Qutrit cũng là một đơn vị thông tin lượng
tử có 3 mức trạng thái cơ bản. Thuật ngữ Qudit dùng để chỉ các đơn vị thông tin lượng tử
có d-mức trạng thái cơ bản.

Tính toán lượng tử


Những ưu thế và thách thức của tính toán lượng tử phụ thuộc vào nền tảng vật lý của nó.
Cơ sở của tính toán lượng tử đã được đề cập nhiều nhưng không phải lúc nào cũng làm rõ
được bản chất thực sự của cơ học lượng tử. Máy tính thông thường lưu trữ, mã hóa và xử
lý thông tin trong hệ nhị phân (0 hoặc 1). Máy tính lượng tử cũng tương tự, nhưng mỗi
Qubit lại có thể ở trạng thái “chồng chập”, tức là có thể đồng thời là 0 và 1. Điều này có
nghĩa là, chỉ có thể xác định trạng thái của Qubit với một xác suất nào đó.
Để thực hiện tính toán với một số lượng lớn các Qubit, tất cả các Qubit phải ở trong trạng
thái “chồng chập” phụ thuộc lẫn nhau, tức ở trạng thái liên đới lượng tử (quantum
entanglement), trong đó tất cả các Qubit liên đới với nhau. Trong trường hợp này, một
thay đổi nhỏ của một Qubit có thể ảnh hưởng đến tất cả các Qubit còn lại. Điều này có
nghĩa là các phép tính toán sử dụng Qubit có hiệu suất cao hơn so với sử dụng bit cổ điển.
Trong thiết bị tính toán thông thường, hiệu suất tính toán đơn giản phụ thuộc vào số
lượng bit, nhưng với máy tính lượng tử, khi thêm mỗi Qubit sẽ làm tăng khả năng tính
toán lên gấp đôi. Đó là lý do tại sao sự khác biệt giữa các máy tính lượng tử 5 Qubit và
50 Qubit là rất lớn.
Lưu ý rằng, có một số quan điểm thường thấy, đó là tính vượt trội của máy tính lượng tử
đối với máy tính thông thường là do sự tồn tại của trạng thái chồng chập, nên có thể làm
gia tăng rất nhiều số lượng các trạng thái có thể khi mã hóa; hoặc tính liên đới cho phép
thực hiện nhiều tính toán cùng một lúc (trên thực tế, mức độ liên đới mạnh của các Qubit
không phải là điều kiện tiên quyết). Những quan điểm này chỉ có một phần đúng, và
không thể hiện bản chất của tính toán lượng tử.
Do cơ học lượng tử là rất phức tạp, nên việc giải thích sức mạnh của tính toán lượng tử
theo cách định lượng là rất khó. Các phương trình của cơ học lượng tử cho thấy, cơ học
lượng tử thực hiện được ít nhất với một số dạng tính toán với tốc độ rất nhanh (như phân
tích số hay tìm kiếm cơ sở dữ liệu). Tuy nhiên, tốc độ này thực sự nhanh như thế nào?
Có lẽ cách tốt nhất để mô tả tính toán lượng tử, đó là cơ học lượng tử có thể tạo ra tài
nguyên tính toán mà các thiết bị thông thường không có được. Theo nhà vật lý Daniel
Gottesman của Viện vật lý lý thuyết Perimeter ở Waterloo (Canada), chỉ khi có đủ lượng
cơ học lượng tử thì mới có quá trình tăng tốc tính toán.
Mặc dù vậy, có một số điều khá rõ ràng, đó là thực hiện tính toán lượng tử đòi hỏi tất cả
các Qubit phải liên đới với nhau, tuy nhiên điều này vô cùng khó khăn. Sự tương tác của
các Qubit với môi trường xung quanh tạo ra các kênh, qua đó tính liên đới bị phá vỡ. Quá
trình này được gọi là sự phi liên đới hóa (decoherence).
ông việc chế tạo máy tính lượng tử phái ngăn chặn được điều này. Các nhà nghiên cứu
muốn chế tạo máy tính lượng tử phải ngăn chặn được quá trình phi liên đới hóa. Hiện tại,
họ chỉ ngăn chặn được hiện tượng này trong một phần nhỏ của giây. Thách thức này trở
nên khó khăn hơn khi số lượng Qubit tăng lên và do đó sự tương tác với môi trường xung
quanh cũng tăng lên. Vì vậy, mặc dù ý tưởng về máy tính lượng tử lần đầu tiên được đề
xuất bởi Richard Feynman vào năm 1982 và lý thuyết cũng đã được phát triển vào những
năm 90 của thế kỷ 20, nhưng để chế tạo thiết bị có khả năng tính toán thực sự thì chỉ đến
bây giờ mới có thể thực hiện được.
Lỗi lượng tử
Lý do quan trọng thứ hai khiến việc chế tạo máy tính lưọng tử trở nên vô cùng khó khăn,
đó là giống như mọi quá trình khác, máy tính lượng tử cũng tạo ra nhiễu. Các dao động
ngẫu nhiên từ nhiệt độ của các Qubit hay bản chất là từ các quá trình cơ học lượng tử cơ
bản có thể thay đổi trạng thái của các Qubit, dẫn đến sự không chính xác trong tính toán.
Nguy cơ này cũng tồn tại trong máy tính thông thường, nhưng được khắc phục khá đơn
giản: chỉ cần tạo ra hai hoặc nhiều hơn các bản sao dự trữ cho mỗi bit thì sẽ biết được bit
nào bị đảo ngược ngẫu nhiên.
Trong quá trình nghiên cứu chế tạo máy tính lượng tử, các nhà khoa học đã phát triển một
số phương pháp giải quyết vấn đề nhiễu, nhưng tất cả đều dẫn đến phát sinh một lượng
lớn chi phí tính toán bổ sung, vì công suất xử lý được dành cho việc sửa lỗi mà không
phải để thực hiện các thuật toán. Theo Andrew Childs, đồng chủ tịch của Trung tâm phối
hợp Thông tin lượng tử và Khoa học máy tính tại Đại học Maryland (Mỹ), hiện tại tỷ lệ
lỗi đã hạn chế thời gian tính toán một cách đáng kể, do đó cần phải làm tốt hơn nữa nếu
thực sự muốn đạt được mục tiêu.
Nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực cơ sở tính toán lượng tử tập trung vào các phương pháp
sửa lỗi. Đôi khi sự phức tạp nằm ở một trong các thuộc tính quan trọng nhất của hệ thống
lượng tử: tính chồng chập chỉ có thể được duy trì nếu không đo giá trị của Qubit. Đo
lường sẽ phá hủy tính chồng chập và dẫn đến một đại lượng xác định: 1 hoặc 0. Tuy
nhiên, làm thế nào để xác định liệu lỗi có xảy ra trong hoạt động của Qubit hay không khi
không biết Qubit đang ở trạng thái nào?
Một lược đồ đã đề xuất sử dụng cách đo lường gián tiếp bằng cách kết hợp Qubit với
Qubit bổ trợ thứ hai. Qubit thứ hai không tham gia vào tính toán, do đó việc đo lường sẽ
không ảnh hưởng đến trạng thái của Qubit chính. Tuy nhiên, thực hiện điều này lại rất
khó, bởi để tạo ra một “Qubit logic” thực sự có thể tự bảo vệ chống được lỗi sẽ cần rất
nhiều Qubit vật lý.
Theo nhà vật lý về lý thuyết lượng tử Alan Guzik của đại học Harvard, hiện tại để tạo ra
một Qubit logic cần khoảng 10.000 Qubit vật lí, đây là điều mà hiện nay chưa thể thực
hiện được. Nếu Qubit phát triển hơn, con số này sẽ giảm xuống một vài nghìn hoặc thậm
chí hàng trăm. Nhà vật lý Eisert thì không quá bi quan như vậy, ông tin rằng khoảng 800
Qubit vật lý là đủ, nhưng ông cũng đồng ý rằng ngay cả với số lượng đó thì chi phí phát
sinh của tính toán vẫn rất lớn. Do đó, cần tìm ra phương pháp đối phó với lỗi.
Một cách sửa lỗi khác là tránh lỗi hoặc ngăn chặn tác động của chúng. Các nhà nghiên
cứu tại IBM đang phát triển các lược đồ tính toán xác suất xuất hiện lỗi và sau đó chấp
nhận kết quả thu được làm mức 0 của nhiễu.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng vấn đề sửa lỗi sẽ vẫn không giải quyết được, khiến máy
tính lượng tử không thể đạt được khả năng vượt trội như nó được dự đoán. Theo Gil
Kalai - nhà toán học tại Đại học tổng hợp Israel, việc tạo mã sửa lỗi lượng tử phức tạp
hơn nhiều so với việc thể hiện tính vượt trội lượng tử. Ông cho rằng, các thiết bị không
có chức năng sửa lỗi là rất nguyên thủy trong các tính toán và tính vượt trội không thể
được dựa trên tính nguyên thủy. Nói cách khác, máy tính lượng tử không hơn máy tính
thông thường nếu không có khả năng sửa lỗi.
Một số nhà khoa học khác lại cho rằng vấn đề này sẽ được giải quyết. Jay Gambetta -
chuyên gia trong lĩnh vực tin học lượng tử thuộc trung tâm nghiên cứu Thomas J. Watson
của IBM - cho rằng, những thí nghiệm của IBM đã chứng minh thành công những thành
phần cơ bản của việc sửa lỗi trong các thiết bị nhỏ, mở ra cơ hội cho các thiết bị lớn hơn
với khả năng lưu trữ thông tin lượng tử một cách tin cậy trong thời gian dài dù có sự tồn
tại của nhiễu.
Tuy nhiên, Gambetta cũng công nhận rằng, với tình hình hiện nay, để chế tạo một máy
tính lượng tử phổ thông, có khả năng sửa lỗi và sử dụng Qubit logic trong tương lai gần
là khó có thể xảy ra. Mặc dù vậy, các nghiên cứu này khiến Childs khá lạc quan rằng sẽ
có những thí nghiệm thành công hơn về vấn đề sửa lỗi, nhưng sẽ cần thời gian để có thể
thực sự sử dụng máy tính lượng tử cho những tính toán thực tế.
Thích ứng với lỗi
Thách thức được đặt ra là làm thế nào để thích ứng với lỗi? Các nhà khoa học tại IBM
cho rằng, trong tương lai gần, lĩnh vực nghiên cứu “tính toán lượng tử gần đúng” sẽ tập
trung vào tìm kiếm cách thức thích ứng với nhiễu.
Điều này đòi hỏi phải tạo ra các thuật toán có khả năng đưa ra kết quả chính xác mặc dù
có lỗi. Quá trình này có thể được so sánh với việc tính kết quả bầu cử mặc dù một vài lá
phiếu có thể tính nhầm. Theo Gambetta, tính toán lượng tử đủ lớn với độ chính xác cao
cần có các lợi thế hơn so với tính toán thông thường, thậm chí khi chấp nhận một số lỗi.
Một trong những ứng dụng công nghệ có khả năng chống lỗi mới nhất đó là mô phỏng ở
cấp độ nguyên tử (trong thực tế, đây là động lực để Feynman đề xuất ý tưởng máy tính
lượng tử). Các phương trình cơ học lượng tử mô tả các phương pháp tính toán các thuộc
tính như sự ổn định hoặc phản ứng hóa học của các phân tử, nhưng những phương trình
này không thể giải được nếu không sử dụng một số lượng lớn các phép quy giản.
Tuy nhiên, theo Childs, hành vi lượng tử của electron và nguyên tử tương đối giống với
hành vi tự nhiên của máy tính lượng tử. Điều này có nghĩa có thể xây dựng chính xác một
mô hình máy tính phân tử. Guzik Aspyru - một trong những người đầu tiên thúc đẩy tính
toán lượng tử theo hướng này - đã chia sẻ rằng, nhiều thành viên của cộng đồng khoa học
tin rằng ứng dụng thành công đầu tiên của máy tính lượng tử sẽ liên quan đến hóa học
lượng tử và khoa học vật liệu.
Mô hình hóa lượng tử chứng minh tính hữu dụng của nó ngay cả trên những máy tính
lượng tử rất nhỏ đã có ngày nay. Một nhóm các nhà nghiên cứu, trong đó có Aspyru
Guzik, đã phát triển thuật toán có tên là “Phương pháp biến phân giải các bài toán trong
cơ học lượng tử” (variational quantum eigensolver, gọi tắt là PPBP). Thuật toán này cho
phép tìm được trạng thái tốn ít năng lượng nhất của phân tử, thậm chí với các Qubit
nhiễu. Tại thời điểm này, nó chỉ có thể xử lý các phân tử rất nhỏ với một số lượng nhỏ
electron.
Các máy tính thông thường cũng giải quyết tốt bài toán này, nhưng khả năng của các máy
tính lượng tử đang tăng lên. Tháng 9/2017, Gambetta và đồng nghiệp đã chứng minh điều
này khi được sử dụng thiết bị 6 Qubit để tính toán cấu trúc điện tử của phân tử. Công
trình đã trở thành một bước đột phá đáng kể cho lượng tử học, như lời của Markus Reiher
- một chuyên gia trong lĩnh vực hóa lý của Học viện Công nghệ tại Zurich (Thụy Sĩ).
Theo Gambetta, việc sử dụng PPBP để mô phỏng các phân tử nhỏ là một ví dụ về tính
khả thi của việc sử dụng các thuật toán heuristic ngắn hạn.
Tuy nhiên, theo Aspuru Guzik, các Qubit logic có khả năng sửa lỗi là cần thiết để máy
tính lượng tử thực sự vượt qua máy tính thông thường. Ông hi vọng ngày tính toán toán
lượng tử có khả năng sửa lỗi trở thành hiện thực.
Reiher bổ sung, nếu có hơn 200 Qubit thì sẽ có thể làm nên nhiều điều trong lĩnh vực hóa
học lượng tử; với 5.000 Qubit, máy tính lượng tử có thể tạo nên sự đột phá.
Khối lượng là bao nhiêu?
Mặc dù với những khó khăn như vậy, sự phát triển nhanh chóng của máy tính lượng tử từ
5 Qubit lên 50 Qubit chỉ trong vòng một năm đã mang tới nhiều hi vọng. Tuy nhiên,
không nên quá hi vọng vào con số này, bởi quan trọng hơn không phải là có bao nhiêu
Qubit mà là chúng làm việc như thế nào và hiệu quả của các thuật toán đến đâu.
Bất kỳ tính toán lượng tử nào cũng cần hoàn thiện trước khi kết thúc bằng quá trình phi
liên đới hóa. Thông thường, các nhóm Qubit hiện tại có thời gian phi liên đới hóa là vài
micro giây. Số lượng các phép toán logic có thể thực hiện trong khoảng thời gian ngắn
này phụ thuộc vào tốc độ chuyển đổi của các cổng lượng tử. Khi tốc độ trở nên quá chậm
thì vấn đề có bao nhiêu Qubit không còn ý nghĩa nữa. Số lượng các phép tính cần cho
tính toán được gọi là độ sâu tính toán: thuật toán càng có độ sâu thì càng hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, không thể biết chính xác liệu chúng có mang lại ích lợi trong tính toán hay
không.
Hơn nữa, không phải tất cả Qubit đều có độ nhiễu như nhau. Về mặt lí thuyết, có thể tạo
các Qubit với độ nhiễu rất thấp từ trạng thái tôpô điện tử của một số vật liệu cụ thể: nếu
sử dụng các electron ở trạng thái này để mã hóa thông tin nhị phân, nó sẽ bảo vệ chống
lại được nhiễu ngẫu nhiên. Trong một nỗ lực để tìm trạng thái tôpô của các hạt, các nhà
nghiên cứu của Microsoft chủ yếu nghiên cứu các vật liệu lượng tử khác lạ. Tuy nhiên,
hiện chưa có đảm bảo nào về việc chúng có thể được tìm thấy hoặc có thể điều khiển.
Để biểu thị sức mạnh của tính toán lượng tử trên một thiết bị cụ thể, các nhà nghiên cứu
của IBM đã đề xuất thuật ngữ “khối lượng lượng tử”. Đó là một con số tập hợp tất cả
những yếu tố quan trọng: độ sâu của thuật toán, số Qubit và tính liên kết giữa chúng,
cũng như các chỉ số chất lượng của các cổng lượng tử khác như mức độ nhiễu. Nói
chung, khối lượng lượng tử đặc trưng cho sức mạnh tính toán lượng tử. Theo Gambetty,
hiện tại cần phát triển các thiết bị tính toán lượng tử cho phép tăng khối lượng lượng tử
đang có. Đây là một trong những lý do tại sao tính vượt trội lượng tử là một ý tưởng khá
mơ hồ.

Làm thế nào một máy tính thông thường lưu trữ thông tin
Một máy tính thông thường lưu trữ thông tin dưới dạng 0 và 1.

Các loại thông tin khác nhau, chẳng hạn như số, văn bản và hình ảnh có thể được
trình bày theo cách này.

Mỗi đơn vị trong chuỗi 0 và 1 này được gọi là một bit. Vì vậy, một bit có thể được
đặt thành 0 hoặc 1.

tiếp theo, nói về máy tính lượng tử?


Một máy tính lượng tử không sử dụng bit để lưu trữ thông tin. Thay vào đó, nó sử
dụng qubit (Quantum bit).

Mỗi qubit không chỉ có thể được đặt thành 1 hoặc 0, mà còn có thể được đặt thành
1 và 0. Nhưng điều đó có nghĩa chính xác là gì?

Chúng ta hãy cùng tìm hiểu qua một ví dụ đơn giản.

Một ví dụ đơn giản để hiểu cách thức máy tính lượng tử hoạt động
Bây giờ, giả sử bạn đang điều hành một công ty du lịch và bạn cần di chuyển một
nhóm người từ địa điểm này sang địa điểm khác.

Để đơn giản, hãy nói rằng bạn chỉ cần di chuyển 3 người - A, B và C.

Và giả sử rằng bạn đã đặt 2 chiếc taxi cho mục đích này và bạn xếp chỗ, ai sẽ lên
taxi nào.

Ngoài ra, giả sử ở đây bạn được cung cấp thông tin về ai thích ai và ai ghét ai:
A và B là bạn

A và C là kẻ thù

B và C là kẻ thù

Và giả sử rằng mục tiêu của bạn ở đây là chia nhóm 3 người này thành hai taxi để
đạt được hai mục tiêu sau:

 Tối đa hóa số lượng cặp bạn bè có chung xe

 Giảm thiểu số lượng cặp kẻ thù chia sẻ cùng một chiếc xe

Được rồi, vì vậy đây là yêu cầu cơ bản của bài toán này. Trước tiên chúng ta hãy
nghĩ về cách chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này bằng máy tính thông thường.

Giải quyết vấn đề này với một máy tính thông thường
Để giải quyết vấn đề này với một máy tính thông thường, không lượng tử, trước
tiên bạn sẽ cần tìm ra cách lưu trữ thông tin liên quan bằng bit.

Hãy gắn nhãn hai taxi Taxi # 1 và Taxi # 0.

Sau đó, bạn có thể đại diện cho ai vào xe nào với 3 bit.

Ví dụ, chúng ta có thể thiết lập ba bit để 0 , 0 , và 1 đại diện:

A vào Taxi # 0

B vào Taxi # 0

C vào Taxi # 1

Vì có hai lựa chọn cho mỗi người, nên có 2 * 2 * 2 = 8 cách chia nhóm người này
thành hai chiếc xe.

Dưới đây là danh sách tất cả các cấu hình có thể:


A|B|C

0|0|0

0|0|1

0|1|0

0|1|1

1|0|0

1|0|1

1|1|0

1|1|1

Sử dụng 3 bit, bạn có thể biểu diễn bất kỳ một trong những kết hợp này.

Tính điểm cho từng cấu hình


Bây giờ, sử dụng một máy tính thông thường, làm thế nào chúng ta sẽ xác định
cách xếp nào là giải pháp tốt nhất?

Để làm điều này, hãy xác định cách chúng ta có thể tính điểm cho từng giải pháp.
Điểm này sẽ đại diện cho mức độ mà mỗi giải pháp đạt được hai mục tiêu đã đề cập
trước đó:

 Tối đa hóa số lượng cặp bạn bè có chung xe


 Giảm thiểu số lượng cặp kẻ thù chia sẻ cùng một chiếc xe

Hãy đơn giản xác định điểm số như sau:

(số điểm của một giải pháp) = (# cặp bạn bè chia sẻ cùng một chiếc xe) - (# cặp kẻ thù
chia sẻ cùng một chiếc xe)
Ví dụ: giả sử A, B và C đều vào Taxi # 1. Với ba bit, điều này có thể được biểu thị
bằng 111 .

Trong trường hợp này, chỉ có một cặp bạn bè chia sẻ cùng một chiếc xe - A và B.

Tuy nhiên, có hai cặp kẻ thù chia sẻ cùng một chiếc xe - A và C, và B và C.

Vì vậy, tổng số điểm của cấu hình này là 1-2 = -1.

Giải quyết vấn đề


Với tất cả các thiết lập ở trên, cuối cùng chúng ta cũng có thể giải quyết vấn đề này.

Với một máy tính thông thường, để tìm cấu hình tốt nhất, về cơ bản bạn sẽ phải trải
qua tất cả các cấu hình để xem cái nào đạt được điểm cao nhất.

Vì vậy, bạn có thể nghĩ về việc xây dựng một bảng như thế này:

A | B | C | Điểm

0 | 0 | 0 | -1

0 | 0 | 1 | 1 <- một trong những giải pháp tốt nhất

0 | 1 | 0 | -1

0 | 1 | 1 | -1

1 | 0 | 0 | -1

1 | 0 | 1 | -1

1 | 1 | 0 | 1 <- giải pháp tốt nhất khác

1 | 1 | 1 | -1
Như bạn có thể thấy, có hai giải pháp chính xác ở đây - 001 và 110, cả hai đều đạt
được điểm 1.

Vấn đề này khá đơn giản. Tuy nhiên sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều để giải quyết với
một máy tính thông thường khi chúng ta tăng số lượng người trong bài toán này này.

Chúng ta thấy rằng với 3 người, chúng ta cần duyệt qua 8 giải pháp có thể.

Nếu có 4 người thì sao? Trong trường hợp đó, chúng ta sẽ cần duyệt qua 2 * 2 * 2 * 2
= 16 trường hợp.

Với n người, chúng ta sẽ cần duyệt qua (2^n) cấu hình để tìm giải pháp tốt nhất.

Vì vậy, nếu có 100 người, chúng ta sẽ cần phải duyệt qua: 2¹⁰⁰ ~ = 10³⁰ = một triệu
triệu triệu triệu triệu.

Điều này chỉ đơn giản là không thể giải quyết với một máy tính thông thường.

Giải quyết vấn đề này với máy tính lượng tử


Làm thế nào chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này với một máy tính lượng tử?

Để nghĩ về điều đó, chúng ta hãy quay lại trường hợp chia 3 người thành hai chiếc taxi.

Như chúng ta đã thấy trước đó, có 8 giải pháp khả thi cho vấn đề này:

A|B|C

0|0|0

0|0|1

0|1|0

0|1|1

1|0|0
1|0|1

1|1|0

1|1|1

Với một máy tính thông thường, sử dụng 3 bit, chúng ta chỉ có thể đại diện cho một
trong những giải pháp này tại một thời điểm - ví dụ: 001.

Tuy nhiên, với một máy tính lượng tử, sử dụng 3 qubit , chúng ta có thể đại diện
cho tất cả 8 giải pháp này cùng một lúc .

Đầu tiên, kiểm tra qubit đầu tiên trong số 3 qubit này. Khi bạn đặt nó thành cả 0 và 1,
nó giống như tạo hai thế giới song song.

Trong một trong những thế giới song song đó, qubit được đặt thành 0. Trong một thế
giới khác, nó được đặt thành 1.

Bây giờ, nếu bạn đặt qubit thứ hai thành 0 và 1 thì sao? Sau đó, nó giống như tạo ra 4
thế giới song song.

Ở thế giới thứ nhất, hai qubit được đặt thành 00. Trong thế giới thứ hai, chúng là 01.
Trong thế giới thứ ba, chúng là 10. Trong thế giới thứ tư, chúng là 11.

Tương tự, nếu bạn đặt cả ba qubit thành cả 0 và 1, bạn sẽ tạo 8 thế giới song song -
000, 001, 010, 011, 100, 101, 110 và 111.

Đây là lối tư duy kỳ lạ, nhưng nó là một trong những cách chính xác để diễn giải cách
các qubit hoạt động trong thế giới thực.

Bây giờ, khi bạn áp dụng một số loại tính toán trên ba qubit này, bạn thực sự đang áp
dụng cùng một tính toán trong tất cả 8 thế giới song song đó cùng một lúc.

Vì vậy, thay vì đi qua từng giải pháp tiềm năng đó một cách tuần tự, chúng ta có thể
tính điểm của tất cả các giải pháp cùng một lúc.
Với ví dụ cụ thể này, theo lý thuyết, máy tính lượng tử của bạn sẽ có thể tìm thấy một
trong những giải pháp tốt nhất trong vài mili giây. Một lần nữa, đó là 001 hoặc 110
như chúng ta đã thấy trước đó:

A | B | C | Điểm

0 | 0 | 0 | -1

0 | 0 | 1 | 1 <- một trong những giải pháp tốt nhất

0 | 1 | 0 | -1

0 | 1 | 1 | -1

1 | 0 | 0 | -1

1 | 0 | 1 | -1

1 | 1 | 0 | 1 <- giải pháp tốt nhất khác

1 | 1 | 1 | -1

Trong thực tế, để giải quyết vấn đề này, bạn sẽ cần cung cấp cho máy tính lượng tử hai
điều kiện:

Tất cả các giải pháp được đại diện với qubit.

Một chức năng biến mỗi giải pháp thành một điểm số. Trong trường hợp này, đây là
chức năng đếm số cặp bạn bè và cặp kẻ thù chia sẻ cùng một chiếc xe.

Với hai điều này, máy tính lượng tử của bạn sẽ đưa ra một trong những giải pháp tốt
nhất trong vài mili giây. Trong trường hợp này, đó là 001 hoặc 110 với số điểm là 1.

Bây giờ, trên lý thuyết, một máy tính lượng tử có thể tìm thấy một trong những giải
pháp tốt nhất mỗi khi nó chạy.
Tuy nhiên, trong thực tế, có lỗi khi chạy máy tính lượng tử. Vì vậy, thay vì tìm giải
pháp tốt nhất, nó có thể tìm giải pháp tốt thứ hai, giải pháp tốt thứ ba, v.v.

Những lỗi này trở nên nổi bật hơn khi vấn đề ngày càng phức tạp hơn.

Vì vậy, trong thực tế, có lẽ bạn sẽ muốn chạy hoạt động tương tự trên một máy tính
lượng tử hàng chục lần hoặc hàng trăm lần. Sau đó chọn kết quả tốt nhất trong số
nhiều kết quả bạn nhận được.

Làm thế nào một máy tính lượng tử hoạt động.

Ngay cả với các lỗi đã đề cập, máy tính lượng tử không có vấn đề mở rộng giống như
một máy tính thông thường mắc phải.

Khi có 3 người chúng ta cần chia thành hai chiếc ô tô, số lượng thao tác chúng ta cần
thực hiện trên máy tính lượng tử là 1. Điều này là do một máy tính lượng tử tính toán
điểm của tất cả các cấu hình cùng một lúc.

Khi có 4 người, số lượng hoạt động vẫn là 1.

Khi có 100 người, số lượng hoạt động vẫn là 1. Với một thao tác duy nhất, một máy
tính lượng tử sẽ tính toán điểm của tất cả 2¹⁰⁰ ~ = 10³⁰ = một triệu triệu triệu triệu cấu
hình cùng một lúc.

Như mình đã đề cập trước đó, trong thực tế, có lẽ tốt nhất là chạy máy tính lượng tử
của bạn hàng chục lần hoặc hàng trăm lần và chọn kết quả tốt nhất trong số nhiều kết
quả bạn nhận được.
Tuy nhiên, nó vẫn tốt hơn nhiều so với việc chạy cùng một vấn đề trên một máy tính
thông thường và phải lặp lại cùng một kiểu tính toán một triệu triệu triệu triệu triệu
lần.

Bên cạnh Machine learning, Blockchain cũng như AI hay IoT thì Quantum
Computing cũng là một xu hướng công nghệ không kém phần nổi bật với những đột
phá mà nó mang lại, định hình mới cho nền công nghệ trong lương lai.
Chú thích:
Trong bài viết này đã sử dụng thuật ngữ máy tính thông thường để chỉ một máy tính
không lượng tử. Tuy nhiên, trong ngành điện toán lượng tử, máy tính không lượng tử
thường được gọi là máy tính cổ điển.

III: ỨNG DỤNG

Về cơ bản, máy tính lượng tử có thể chạy (một số) phép tính nhanh hơn theo cấp số mũ
so với máy tính nhị phân thông thường ngày nay. Điều này làm cho máy tính lượng tử trở
nên vô cùng mạnh mẽ khi có thể giải quyết song song cả tỷ phép tính trong khi một máy
tính nhị phân cổ điển chỉ có thể giải quyết lần lượt một lần.
Do vậy, trong các lĩnh vực cần tối ưu hóa thời gian xử lý, máy tính lượng tử có thể giải
quyết các vấn đề mà máy tính nhị phân hiện tại chưa thể hoàn thành trong thời gian
nhanh chóng. Vậy công nghệ máy tính lượng tử có thể sử áp dụng vào những khía cạnh
nào, hãy cùng tìm hiểu.
 
Trong suốt thập kỷ qua, AI đã trải qua nhiều bước tiến với việc sử dụng các mạng lưới
thần kinh là mô hình học máy dựa trên các tế bào thần kinh trong não của chúng ta. Việc
mô phỏng lại mạng nơ – ron thần kinh là một thách thức rất lớn với các nhà nghiên cứu,
không chỉ đơn giản là nhập dữ liệu về hình ảnh, nhận dạng giọng nói, hành vi con người
mà còn phải đào tạo nó.
Việc đào tạo các mạng lưới thần kinh lớn đòi hỏi một sức mạnh tính toán khổng lồ và
phải mất một thời gian rất dài. Vấn đề này có thể dễ dàng được giải quyết bằng cách sử
dụng máy tính lượng tử. Máy tính lượng tử có thể giảm đáng kể thời gian để đào tạo các
mạng thần kinh lớn trên các bộ dữ liệu rất lớn.
Vì lý do này, Google đang đầu tư vào nghiên cứu và phát triển máy tính lượng tử để tăng
tốc thuật toán AI của mình. Một số mô hình mạng thần kinh đã được thử nghiệm trên
máy tính lượng tử thế hệ sơ khai D-Wave và kết quả khá tốt.
 
Máy tính lượng tử có thể giúp việc đưa ra các dự báo về thời tiết có tỷ lệ chính xác cao
hơn, đặc biệt trong việc đối phó với các cơn bão, giúp giảm thiệt hại từ các thiên tai.
Giám đốc kỹ thuật của Google, Hartmut Neven, cho biết ngoài việc dự báo những hiện
tượng thời tiết cụ thể thì máy tính lượng tử có thể dự báo được những xu hướng thời tiết
của tương lai trong vài chục năm tới.
Theo nghiên cứu của một nhà khoa học Nga, vấn đề về độ chính xác dự báo thời tiết có
thể được cải thiện bằng máy tính lượng tử. Ông đã xuất bản một bài báo vào năm 2017,
trong đó cho thấy có thể tăng độ chính xác bằng cách sử dụng phương pháp phân cụm
lượng tử động (DQC). Ông còn tuyên bố rằng DQC thậm chí có thể tạo ra các bộ dữ liệu
để dự báo thời tiết mà các máy tính nhị phân không thể thực hiện.
 
Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới. Trên
thực tế, theo một khảo sát gần đây của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), chỉ riêng ung thư
đường hô hấp đã cướp đi 1,7 triệu sinh mạng trong năm 2016.
Tuy nhiên, nếu ung thư được phát hiện ở giai đoạn đầu, cơ hội phục hồi thông qua điều
trị sẽ cao hơn nhiều. Hiện có hai cách điều trị ung thư: Một là, loại bỏ nó bằng phẫu
thuật; hai là, thông qua xạ trị.
Trong xạ trị, xạ trị chùm tia bên ngoài là phương pháp dùng máy xạ trị lớn di chuyển
xung quanh người bệnh và bắn bức xạ vào vùng có khối u từ nhiều hướng. Việc tối ưu
hóa chùm tia là cực kỳ quan trọng trong xạ trị, vì điều quan trọng là phải đảm bảo rằng
bức xạ làm tổn hại càng ít tế bào và mô khỏe mạnh gần vùng ung thư càng tốt.
Đã có nhiều phương pháp tối ưu hóa cho xạ trị trong quá khứ sử dụng máy tính nhị phân.
Vào năm 2015, các nhà nghiên cứu tại Viện Ung thư Roswell Park đã đưa ra một kỹ thuật
mới sử dụng máy tính lượng tử, giống như máy tính do D-Wave sản xuất, để tối ưu hóa
xạ trị theo cách nhanh hơn ba đến bốn lần so với máy tính thông thường.
 

Một số người có thể đã nghe nói về việc máy tính lượng tử có thể phá vỡ các hệ thống
mật mã như RSA hoặc DSA. Điều này dường như đúng với một số hệ thống mật mã, vì
chúng dựa vào số nguyên tố để tạo chuỗi khóa.
Một thuật toán, được gọi là thuật toán Shor, có thể được sử dụng trên các máy tính lượng
tử để tìm các yếu tố chính được sử dụng để tạo khóa và họ có thể làm điều đó hiệu quả
hơn nhiều.
Mặc dù vậy, có một số hệ thống mật mã không thể bị phá vỡ bằng máy tính lượng tử. Các
hệ thống mật mã này được phân loại trong lĩnh vực mật mã sau lượng tử.
Do đó, quốc gia đầu tiên có thể mã hóa lượng tử thành công, về mặt lý thuyết, có thể che
giấu tất cả thông tin mật mà không một phương pháp theo dõi kỹ thuật số truyền thống
nào có thể tìm ra. Khả năng bảo mật của máy tính lượng tử gần như là tuyệt đối.
 
Thông thường, việc điều tiết giao thông bằng những máy tính hiện nay thường chỉ đáp
ứng được yêu cầu khi không xảy ra ùn tắc, thậm chí chúng vẫn cần có sự can thiệp của
con người để thực hiện công việc vất vả này.
Với sự có mặt của máy tính lượng tử thì mọi hoạt động trên đường phố đều được xử lý
một cách chớp nhoáng, ngoài ra những cỗ máy này có thể đưa ra lộ trình di chuyển của
các phương tiện giao thông trong những giờ cao điểm ở mọi điểm nóng trong thành phố.
Tất nhiên, hệ thống này là hoàn toàn tự động.
 
Để đưa một phương thuốc đi vào cuộc sống hiện đại thì phải trải qua hàng nghìn cuộc thử
nghiệm, hàng chục năm phát triển và thậm chí tiêu tốn hàng triệu USD. Đấy là còn chưa
tính đến những trường hợp thất bại trước khi được đưa vào sản xuất.
Nhưng mọi chuyện sẽ chỉ là quá khứ với sức mạnh của máy tính lượng tử, khi mà những
cỗ máy này có thể đưa ra hàng nghìn kiểu kết hợp phân tử có thể xảy ra của loại thuốc
đang nghiên cứu, từ đó những nhà khoa học có thể nhanh chóng tìm ra phương án tối ưu
mà không phải tốn thời gian như trước.
Ngoài ra, máy tính lượng tử cũng có thể đủ khả năng để giải mã bộ gien của con người,
đây là cơ sở tạo nên bước đột phá của ngành y học trong tương lai.
 
Mô phỏng phân tử đã là một lĩnh vực quan trọng trong sinh học và hóa học, vì nó giúp
chúng ta hiểu cấu trúc của các phân tử và cách chúng tương tác với nhau và cũng giúp
chúng ta khám phá các phân tử mới.
Mặc dù các máy tính cổ điển ngày nay có thể mô phỏng các động lực học phân tử, nhưng
lại luôn hạn chế trong việc mô phỏng các phân tử phức tạp nhất định. Máy tính lượng tử
có thể phá vỡ rào cản này một cách hiệu quả.
Cho đến nay, chúng mới được sử dụng để mô phỏng các phân tử nhỏ, như beryllium
hydride (BeH2) chẳng hạn. Có vẻ không đáng kể, nhưng thực tế rằng, nếu máy tính
lượng tử mạnh hơn, nó có thể chạy các mô phỏng phân tử cực kỳ phức tạp. Điều này là
do sức mạnh xử lý của máy tính lượng tử tăng theo cấp số mũ khi số lượng qubit tăng
lên.
Kết
Có thể thấy, xét về ngành nghiên cứu máy tính, thì nhân loại vừa bước vào một kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên của máy tính lượng tử với những ứng dụng đầy hứa hẹn. Với
những tiềm năng chiến lược của công nghệ lượng tử trong việc tăng cường kinh tế, an
ninh và thậm chí là sức mạnh quân sự, quốc gia nào sở hữu công nghệ lượng tử đầu tiên
sẽ đạt được những đột phá đáng gờm trong tương lai.

ó một loại máy tính mới được phát triển và có thể dễ dàng giải quyết vấn đề này - đó là
máy tính lượng tử. Máy tính lượng tử dựa trên các nguyên tắc cơ bản được mô tả trong lý
thuyết cơ học lượng tử, liên quan đến cách thức các hạt hạ nguyên tử hoạt động.

Trong các máy tính cổ điển, một bit được sử dụng để biểu diễn thông tin và một bit có thể
có trạng thái 0 hoặc 1. Máy tính lượng tử hoạt động với các bit lượng tử hoặc qubit. Một
qubit là đơn vị thông tin cơ bản trong máy tính lượng tử. Cũng giống như một bit, một
qubit có thể có trạng thái 0 hoặc 1. Tuy nhiên, nhờ đặc thù của các hiện tượng cơ học
lượng tử, trạng thái của một qubit cũng có thể là cả 0 và 1 cùng một lúc.

Điều này đã thúc đẩy nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực điện toán lượng tử, và cả
các trường đại học và các công ty tư nhân đều đầu tư thời gian và tiền bạc để khám phá
lĩnh vực mới thú vị này. Giải quyết các lý thuyết trừu tượng và các vấn đề kỹ thuật thực
tế mà lĩnh vực này đưa ra sẽ là một trong số những thành tựu công nghệ của con người.

Thật không may, một tác dụng phụ của các máy tính lượng tử này là chúng có thể giải
quyết dễ dàng các thuật toán hình thành nền tảng của mật mã bất đối xứng, điều này làm
phá vỡ cơ bản các hệ thống dựa vào chúng.

Hãy xem xét ví dụ về việc bẻ các khóa 4 bit một lần nữa. Về mặt lý thuyết, một máy tính
4 qubit có thể thực hiện tất cả 16 trạng thái (tổ hợp) trong một tác vụ tính toán duy nhất.
Xác suất tìm thấy khóa chính xác sẽ là 100% trong khoảng thời gian cần thiết để thực
hiện tính toán này.
Xu hướng

Vừa qua, Google đã tuyên bố làm được máy tính lượng tử Sycamore tính toán siêu
nhanh. Máy tính lượng tử của Google mất khoảng 200 giây (3 phút 20 giây) để thực hiện
được phép toán mà IBM Summit, siêu máy tính mạnh nhất thế giới, ước tính phải mất
10.000 năm mới giải xong.

Đánh giá về Máy tính lượng tử


"Trong khi máy tính cổ điển rất giỏi trong việc tính toán thì máy tính lượng tử thậm chí
còn tốt hơn thế trong việc sắp xếp, tìm số nguyên tố, mô phỏng phân tử và tối ưu hóa, do
đó có thể mở ra một kỷ nguyên máy tính mới", theo báo cáo của Morgan Stanley.

Theo Viện Máy tính lượng tử tại Đại học Waterloo, lĩnh vực máy tính lượng tử bắt đầu từ
những năm 1980. Sau đó, người ta đã phát hiện ra rằng một số vấn đề tính toán nhất định
có thể được giải quyết hiệu quả hơn với các thuật toán lượng tử so với các thuật toán cổ
điển.

Máy tính lượng tử có thể đóng góp rất lớn trong các lĩnh vực tài chính, công tác quân sự,
tình báo, thiết kế và phát hiện ma túy, thiết kế hàng không vũ trụ, năng lượng hạt nhân,
thiết kế polymer, trí tuệ nhân tạo (AI) và Big Data,.

Qui mô thị trường tiềm năng của nó đã lôi kéo một số công ty công nghệ nổi bật nhất về
hoạt động trong lĩnh vực máy tính lượng tử, bao gồm IBM, Microsoft, Google, D-Waves
Systems, Alibaba, Nokia, Intel, Airbus, HP, Toshiba, Mitsubishi, SK Telecom, NEC,
Raytheon, Lockheed Martin, Rigetti, Biogen, Volkswagen và Amgen.

Ưu thế lượng tử?


Vào ngày 23/10/2019, Google thông báo rằng họ đã đạt được "Ưu thế lượng tử", nghĩa là
họ đã sử dụng máy tính lượng tử để giải quyết nhanh chóng một vấn đề mà một máy tính
thông thường sẽ mất một thời gian dài (hàng ngàn năm) để giải quyết. IBM đã ngay lập
tức tranh luận về tuyên bố này, nói rằng các siêu máy tính thông thường của họ có thể
giải quyết vấn đề chỉ trong vài ngày.

IV. XU HƯỚNG

Năm 2016, hãng IBM đã giới thiệu máy tính lượng tử có 5 bit lượng tử (Qubit), mà sau
đó được gọi là IBM Q Experience. Khi đó, thiết bị này được sử dụng như một món đồ
chơi cho các nhà nghiên cứu hơn là một công cụ xử lý dữ liệu thực sự. Tuy nhiên, trên
thế giới, đã có có hơn 70 nghìn người đăng ký trải nghiệm thiết bị này và số Qubit đã
tăng lên bốn lần vào thời điểm hiện nay. Năm 2017, hãng IBM và Intel đã công bố chế
tạo thành công máy tính lượng tử với 50 và 49 Qubit và Google cũng được cho rằng đang
chế tạo một máy tính lượng tử. Nhà vật lý Jens Ajzert của Đại học Free University tại
Berlin (Đức) cho rằng, lĩnh vực tính toán lượng tử đang trở nên sôi động và các tiến triển
gần đây trong lĩnh vực này là đáng kinh ngạc.
Hiện nay, thuật ngữ “tính vượt trội lượng tử” đang được nhắc đến nhiều. Đó là khả năng
một máy tính lượng tử có thể thực hiện công việc hơn cả các siêu máy tính mạnh nhất.
Nếu chỉ so sánh các con số, như 50 Qubit so với hàng tỉ bit thông thường của một máy
tính, thì khó có thể thấy được rõ ràng. Nhưng bit lượng tử có khả năng xử lý mạnh hơn
rất nhiều so với bit thông thường. Từ lâu, các nhà nghiên cứu cho rằng 50 Qubit đã được
xem là đủ để thực hiện các tính toán mà một máy tính thông thường sẽ phải thực hiện
trong khoảng thời gian vô hạn. Vào giữa năm 2017, các nhà nghiên cứu của Google
thông báo rằng, họ sẽ chứng minh tính vượt trội lượng tử vào cuối năm đó.
VI. KẾT LUẬN

Viễn cảnh máy tính lượng tử 50 Qubit (hoặc nhiều Qubit hơn) sẽ vượt qua siêu máy tính
hiện đại là khá hấp dẫn, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Máy tính
lượng tử vượt trội hơn siêu máy tính khi giải các bài toán nào? Làm thế nào để xác định
câu trả lời là đúng khi không thể kiểm tra được độ chính xác bằng một thiết bị thông
thường? Và điều gì đảm bảo rằng khi có một thuật toán tốt hơn cho máy tính thông
thường, thì vẫn không hiệu quả bằng máy tính lượng tử?
Vì vậy, tính vượt trội lượng tử là một khái niệm đòi hỏi phải thận trọng. Một số nhà
nghiên cứu khác lại giải thích về “ưu thế của lượng tử”, nói về sự nhảy vọt trong việc
phát triển công nghệ lượng tử, chứ không phải là về chiến thắng của máy tính lượng tử
đối với máy tính thông thường.
Dù sao, quan niệm máy tính lượng tử có thể thực hiện tính toán hơn máy tính thông
thường có tầm quan trọng về mặt tâm lý trong lĩnh vực này. Ajzert tin tưởng rằng, thời
điểm có thể chứng minh lợi thế của lượng tử một cách rõ ràng sẽ là thời điểm quan trọng
đi vào lịch sử, nó sẽ chứng tỏ rằng máy tính lượng tử thực sự có thể mở rộng khả năng
công nghệ của nhân loại.
Cũng có thể nó sẽ là sự kiện mang tính biểu tượng chứ không phải là đột phá trong lĩnh
vực tính toán, tuy nhiên nó đáng được chú ý. Để đạt được sự vượt trội lượng tử, cần có sự
tương tác giữa nhà phát triển và người dùng, trong đó người dùng phải tin tưởng vững
chắc vào những nỗ lực của nhà phát triển.
Trong việc theo đuổi sự hợp tác này, IBM và Google đang cố gắng cung cấp cho người
dùng các sáng chế của họ càng nhanh càng tốt. Trước đây, IBM đã cho phép tất cả những
người đã đăng ký trực tuyến có thể tiếp cận máy tính 16 Qubit IBM Q. Hiện tại, công ty
đã phát triển phiên bản 20 Qubit cho các đối tác, bao gồm JP Morgan Chase, Daimler,
Honda, Samsung và Đại học Oxford. Sự hợp tác này không chỉ giúp đối tác tìm hiểu về
thiết bị này, mà còn tạo ra một cộng đồng các lập trình viên có hiểu biết về lượng tử. Đây
sẽ là những đối tượng tiềm năng trong việc phát triển các tính năng mới và giải quyết các
vấn đề về máy tính lượng tử hơn cả khuôn khổ trong công ty.

V. TÀI LIỆU THAM KHẢO.

You might also like