Professional Documents
Culture Documents
Hướng dẫn tính toán các chỉ số để vận hành tốt hệ thống xử lý nước thải
Hướng dẫn tính toán các chỉ số để vận hành tốt hệ thống xử lý nước thải
Nhiều nhà máy chạy một số thí nghiệm tại nhà máy xử lý nước thải. Bạn đang chạy
thử nghiệm phải không bởi vì nhà máy luôn làm theo cách đó? hoặc bạn đang thực
hiện thí nghiệm có ích mà bạn có được các dữ liệu thích hợp và thời gian thử nghiệm
hữu dụng? Bạn đang làm một thí nghiệm mà không ai có thể sử dụng hoặc đánh giá
nếu cuộc thử nghiệm này không được thực hiện ờ một nơi trung tâm điều hành hệ
thống nước thải nhà máy nơi mà các nhà vận hành có thể đánh giá một lần nữa là vô
nghĩa. Hãy đảm bảo dữ liệu này là thời gian hữu dụng, thích hợp cho các nhà vận
hành sử dụng và mang đầy ý nghĩa.
Dữ liệu vận hành từ nhà máy xử lý nước thải có được bao gồm một số kế hoạch
kiểm soát hoạt động có ích.
Các sự cố với việc sử dụng các công thức tính toán thông thường của các kỹ sư thì
thật sự không có dính dáng đến chất lượng sinh khối vi sinh trong tính toán, chỉ có
liên quan đến khối lượng sinh khối vi sinh. Bùn vi sinh dạng sợi chiếm nhiều thể tích
hơn vi khuẩn hình thành bông bùn. Điều này sẽ giúp xác định được bùn non tuổi hay
luống tuổi.
Khoảng phổ biến của tuổi bùn cho một nhà máy bùn hoạt tính truyền thống là giữa
3 đến 15 ngày. Đối với các nhà máy bùn hoạt tính có bể hiếu khí mở rộng khoảng
tuổi bùn ở giữa 15 và 30 ngày. Tổng quát trong suốt các tháng mùa lạnh, tuổi bùn
càng cao hơn thì đòi hỏi duy trì một sinh khối đủ để xử lý.Trong mùa hè, hoạt động
sinh học tăng lên và tuổi bùn càng thấp hơn thông thường đem lại kết quả là nước
thải đầu ra có chất lượng cao. Do đó, tuổi bùn nên được điều chỉnh ít nhất hai lần
một năm để cung cấp các giá trị thay đổi theo từng mùa. Nhà vận hành phải hiểu rõ
vấn đề này, tuy nhiên, tối ưu hóa tuổi bùn có thể không rơi vào khoảng tuổi bùn phổ
biến cho ở trên. Đây là do thực tế mà các đặc tính của chất thải, thiết kế quá trình xử
lý, tính linh hoạt trong khi vận hành, và quá trình kiểm soát thiết bị là khác nhau đối
với tất cả các cơ sở.
Bằng phương pháp thử và sai, nhà vận hành có thể tìm thấy sự tối ưu hóa tuổi bùn
cho từng phần của nhà máy và các điều kiện cụ thể. Nếu tải trọng biến động rộng
(wide swings in loading), khi đó MLSS cần được điều chỉnh theo tải trọng. Một tuổi
bùn thấp có khuynh hướng sản xuất ra một mảng bùn của loại bùn nhẹ, có lông
rung, nổi trên mặt nước thường được nhắc đến như là bông bùn lộn xộn (straggler
floc) mà lắng chậm trong một bể lắng cuối cùng. Điều này sẽ nhìn thấy được trong
một bể lắng khi các mảng bùn có lông rung, nổi trên mặt nước được lôi kéo ra khỏi
các vách ngăn dù cho nước thải đầu ra có thể là trong suốt .
Một tuổi bùn càng cao hoặc quá nhiều các chất rắn trong hệ thống có khuynh hướng
sản xuất ra một mảng bùn của loại bùn dưới dạng hột nhiều hơn, màu sẫm, thường
được gọi là bùn điểm (pin floc) mà lắng rất nhanh trong một bể lắng cuối cùng.
Bùn điểm được quan sát như nhiều mảng bùn nhỏ li ti mịn tràn sang các vách ngăn
của bể lắng cuối cùng, để lại một nước thải đầu ra rời khỏi bể lắng rất đục.
** Các chất rắn mất đi trên ngày bao gồm cả hai, khối lượng TSS mất đi trong nước
thải đầu ra từ bể lắng thứ cấp cộng với các chất rắn được thải ra từ bể lắng thứ cấp.
Nhiều nhà vận hành bỏ qua việc xem xét TSS trong nước thải đầu ra của bể lắng khi
thực hiện tính toán!
Khoảng phổ biến của F/M cho nhà máy bùn hoạt tính truyền thống là từ 0.15 đến
0.5. Các giá trị tham khảo để tính toán dựa trên thí nghiệm BOD trong 5 ngày. Tối ưu
hóa chỉ số F/M từ nhà máy này đến nhà máy khác và có thể được xác định bằng
phương pháp thử và sai. Tổng quát, tỷ lệ F/M thấp nên được sử dụng suốt những
tháng mùa lạnh. Tỷ lệ F/M được tính toán như sau:
* Nồng độ chất rắn lơ lửng bay hơi (MLVSS) có thể là một ước tính chính xác việc
sinh khối của vi sinh vật so với MLSS.
Các nhà máy giấy không thể sử dụng phương pháp đo MLVSS, vì các sợi giấy có thể
hình thành một phần của sinh khối, và sẽ tiêu hủy dễ dàng. Một lần nữa, hãy ghi nhớ
vi sinh dạng sợi và bông bùn. Bạn có thể nghĩ có bùn luống tuổi hơn nếu bạn chỉ sử
dụng những con số trong cân bằng sinh khối.
Nồng độ chất rắn lơ lửng cố định
Một trong những thông số dễ nhất và thường được sử dụng để kiểm soát các bước
tiến hành trong hệ thống bùn hoạt tính là phương pháp xác định Nồng độ chất rắn lơ
lửng cố định.
Trong phương pháp này, nhà vận hành chọn một nồng độ MLSS nào đó hoặc
khoảng nồng độ hỗn hợp chất lỏng để sản xuất nước thải đầu ra tốt nhất và hiệu quả
loại bỏ cao nhất. Giá trị hoặc khoảng cụ thể phải được xác định qua thực nghiệm dựa
trên tải trọng, kích thước nhà máy và kết quả của nước thải đầu ra theo mong muốn
trên các giới hạn cho phép xả thải. Khi nhà vận hành tìm thấy nồng độ MLSS tối ưu
cho mỗi nhà máy, nhà vận hành đã cố gắng duy trì giá trị này bằng cách điều chỉnh tỷ
lệ bùn thải ra (sludge-wasting rate).
Một ‘Quy tắc ngón tay cái’ (rule of thumb) cho hệ thống bùn hoạt tính là cứ mỗi
pound (0.45kg) BOD được loại bỏ trong hệ thống thứ cấp thì có 0.5 pound (0.23 kg)
chất rắn mới được hình thành thông qua quá trình sinh sản của sinh vật và thêm vào
các sinh vật mới từ nước thải đầu vào. Vì vậy, nhà vận hành cố gắng thải ra lượng chất
rắn thích hợp để giữ được sự tối ưu hóa nồng độ hỗn hợp không thay đổi. Một lần
nữa, khối lượng so với chất lượng nếu bạn sử dụng phương pháp này. Kiểm tra sự
phân tích bằng kính hiển vi cho sự tối ưu hóa thậm chí trong thí nghiệm! Cân bằng
các chất rắn không phải là cách tối ưu hóa luôn luôn thực hiện trừ khi bạn có một
nước thải đầu vào rất ổn định.
So sánh hai phương pháp kiểm soát lượng bùn tuần hoàn (RAS)
Ưu điểm của phương pháp lưu lượng RAS cố định như sau:
* Đơn giản nhiều
* Tải trọng chất rắn tối đa trong bể lắng xảy ra tại giai đoạn khởi động ban đầu của
lưu lượng ở mức độ tối đa.
* Đòi hỏi thời gian vận hành thấp
Ưu điểm của phương pháp tỷ lệ lưu lượng RAS cố định như sau:
* Giảm sự biến đổi trong nồng độ MLSS và F/ M biến đổi ít hơn.
* MLSS sẽ lưu lại trong bể lắng trong thời gian ngắn, có thế giảm khả năng của quá
trình khử nitrat trong bể lắng.
Một nhược điểm của việc sử dụng phương pháp lưu lượng cố định là F/M thay đổi
liên tục. Khoảng F/M biến động bất thường do tác động của sự thay đổi ngắn hạn
trong MLSS (vì tải trọng nước thải) nói chung là đủ nhỏ vì thế không có sự cố đáng kể
phát sinh do sử dụng phương pháp này. Nhược điểm đáng kể nhất của phương pháp
thứ hai là bể lắng bị phụ thuộc vào tải trọng chất rắn tối đa khi bể lắng chứa lượng
bùn tối đa. Điều này có thể dẫn đến các chất rắn bị rửa trôi sạch cùng vơi nước thải
đầu ra.
Nói chung, xem ra hầu hết các hoạt động bùn hoạt tính thực hiện tốt và yêu cầu sự
quan tâm ít khi phương pháp tỷ lệ lưu lượng RAS cố định được sử dụng. Nhà máy
bùn hoạt tính với lưu lượng 10 mgd hoặc ít hơn thường phụ thuộc vào lượng nước
thải tăng nhanh, và hiệu suất của nhà máy sẽ hưởng lợi nhiều nhất từ việc sử dụng
phương pháp này.