Professional Documents
Culture Documents
bài tập nhóm
bài tập nhóm
Lớp: K63KDTPB
ĐỀ TÀI: Hành vi tiêu dùng sản phẩm gạo tại Thị trấn Trâu Quỳ, Gia
Lâm, Hà Nội của các hộ gia đình.
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM – ĐÁNH GIÁ
- Nguồn dữ liệu:
Nguồn dữ liệu sơ cấp:
Đối tượng: hộ gia đình.
Phương pháp: thu thập, xử lí, phân tích.
Nội dung: điều tra về hành vi trước khi mua gạo
của người tiêu dùng quanh khu vực Trâu Qùy, Gia
Lâm.
Nguồn dữ liệu thứ cấp: thu thập thừ các báo cáo, sách
báo, nghiên cứu, số liệu thống kê… đã được công bố.
- Mẫu khảo sát: khảo sát online với số lượng là mẫu.
- Hình thức khảo sát: Khảo sát trực tuyến thông qua google form.
9. Câu hỏi nghiên cứu:
- Các hộ gia đình ở khu vực khu vực Trâu Qùy, Gia Lâm thường xuyên sử
dụng những loại gạo nào?
- Những nguyên nhân của các hộ gia đình khi ra quyết định mua gạo?
- Tại sao khách hàng lại thích sử dụng các loại gạo đó?
- Mức sử dụng gạo của hộ gia đình là như nào?
- Những yêu cầu của khách hàng khi sử dụng gạo?
- Những yếu tố nào tác động tới hành hành vi trước khi mua của khách
hàng?
Tuy vậy, do phải đối mặt với áp lực cạnh tranh cao và sụt giảm nhu cầu
của các thị trường truyền thống như Malaysia, Philippines và Indonesia, năm
2013, cả nước chỉ xuất khẩu được gần 6,6 triệu tấn gạo, giảm hơn 1,4 triệu tấn
(tức giảm 17,76%) so với năm 2012, kim ngạch đạt gần 2,93 tỷ USD (giảm
20,36%). Bước sang năm 2014, khối lượng gạo xuất khẩu tháng 10 năm 2014
ước đạt 669 nghìn tấn với giá trị 317 triệu USD đưa khối lượng xuất khẩu gạo
10 tháng năm 2014 ước đạt 5,68 triệu tấn và 2,59 tỷ USD, giảm 2,7% về khối
lượng, nhưng lại tăng 1,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Thị trường xuất
khẩu lớn nhất năm 2014 là Trung Quốc chiếm 32,48%. Thị trường Philippines
cũng có sự tăng trưởng đột biến trong 9 tháng đầu năm với mức tăng gấp 3,19
lần về khối lượng và gấp 3,23 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Với mức
tăng trưởng này, Philippines vươn lên vị trí đứng thứ 2 về thị trường nhập khẩu
gạo của Việt Nam, chiếm 22,06%, tiếp đến là Malaysia, Gana và Singapore,
chiếm thị phần lần lượt là 7,07%; 5,76% và 3,19%... Cả năm 2014, Việt Nam
phấn đấu xuất khẩu 7 triệu tấn gạo.
Nhà nước đã ban hành chính sách quy định điều kiện doanh nghiệp xuất
khẩu gạo. Ngày 4/11/2010, Chính phủ ban hành Nghị định 109/NĐ-CP/2010
về kinh doanh xuất khẩu gạo. Theo đó, thương nhân Việt Nam thuộc mọi thành
phần kinh tế, nếu đáp ứng đủ các điều kiện và được cấp giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, doanh nghiệp muốn kinh doanh
xuất khẩu gạo phải đảm bảo ít nhất hai điều kiện cần, đó là: có ít nhất 1 kho
chuyên dùng dự trữ tối thiểu 5.000 tấn lúa; sở hữu ít nhất 1 cơ sở xay xát thóc
với công suất tối thiểu là 10 tấn thóc/giờ tại các tỉnh, thành phố có thóc, gạo
hàng hóa xuất khẩu hoặc có cảng biển xuất khẩu thóc, gạo. Chính sách này là
giảm bớt các đầu mối xuất khẩu nhằm tránh hiện tượng tranh mua, tranh bán.
Hệ quả của chính sách này là tập trung xuất khẩu vào một số doanh nghiệp lớn,
loại bỏ các doanh nghiệp nhỏ vì khó đáp ứng được hai điều kiện trên. Tuy
nhiên, chính sách này không đạt được mục tiêu liên kết nhà xuất khẩu với nông
dân. Chính sách này vô hình trung tạo ra thêm một tầng lớp nữa giữa nông dân
và các doanh nghiệp xuất khẩu. Đó là các doanh nghiệp thu gom cho các doanh
nghiệp xuất khẩu. Việc tập trung xuất khẩu vào một số ít doanh nghiệp khiến
các doanh nghiệp lớn này có xu hướng tìm các thị trường xuất khẩu những lô
lớn các loại gạo chất lượng thấp với giá rẻ thay vì tìm kiếm xuất khẩu tại các thị
trường ngách các loại gạo có chất lượng cao, với giá bán cao hơn. Chính sách
này cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ có liên kết với nông dân để
sản xuất các giống lúa chất lượng cao, lúa hữu cơ, đặc sản địa phương, có thị
trường đầu ra ổn định, lợi nhuận cao và tính cạnh tranh cao, nhưng lại không
thể trực tiếp xuất khẩu do không đủ điều kiện về kho chứa, hệ thống xay xát…
Trước xu hướng gia tăng cạnh tranh xuất khẩu gạo trên thế giới, nếu
không xuất khẩu được gạo, Việt Nam sẽ bị rơi vào tình trạng dư thừa nguồn
cung trong nước. Với cấu trúc thị trường lúa gạo như hiện tại, theo đó giá thu
mua xuất khẩu sẽ quyết định giá thu mua lúa của nông dân trong nước, thì giá
lúa trong những năm tới sẽ tiếp tục bị sụt giảm. Khi đó áp lực với chính sách
mua dự trữ lúa gạo của Chính phủ để giúp đỡ người nông dân sẽ gia tăng, đòi
hỏi sự can thiệp ngày càng lớn hơn, dẫn tới những méo mó trên thị trường.
Do vậy khi bị ảnh hưởng tác động của yếu tố chính trị thì hành vi của
người tiêu dùng có xu hướng không mua gạo tích trữ nhiều.
IV. Tác nhân về công nghệ
Dưới tác động của nền kinh tế số, người tiêu dùng đã có sự thay đổi rõ rệt
trong hành vi mua sắm. Công nghệ số đã tạo điều kiện cho việc tiếp cận nhiều
nguồn thông tin, tìm kiếm những sản phẩm dịch vụ phù hợp, giúp người tiêu
dùng có thể đặt yêu cầu, đòi hỏi đáp ứng mang tính cá nhân cao, giúp người
tiêu dùng được trải nghiệm mua sắm trong thực tế ảo, giao hàng tận nơi, giảm
thời gian, chi phí giao dịch. Phương thức mua sắm thay đổi, từ mua sắm trực
tiếp tại cửa hàng sang mua sắm trực tuyến, việc so sánh đánh giá giá trị của sản
phẩm dịch vụ được thực hiện với nhiều nguồn thông tin một cách nhanh chóng,
đa dạng và có tính khách quan.
C. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI MUA
I. Văn hóa
- Văn hóa: là nguyên nhân đầu tiên, cơ bản quyết định nhu cầu và hành vi của
con người. Hành vi của con người là một sự vật chủ yếu được tiếp thu từ bên ngoài.
Ví dụ một hộ gia đình sinh sống ở miền Nam sẽ có cách sử dụng và tiêu dùng
những loại gạo khác với một hộ gia đình ở miền Nam hoặc miền Trung. Thói quen
ấy được xuất phát từ cách người trong gia đình sử dụng trước đó.
- Địa vị xã hội: hầu như trong mọi xã hội đều tồn tại những giai tầng khác nhau.
Giai tầng xã hội là những nhóm tương đối ổn định trong khuôn khổ xã hội, được
sắp xếp theo thứ bậc đẳng cấp và được đặc trưng bởi những quan điểm giá trị, lợi
ích và hành vi đạo đức giống nhau ở các thành viên. Các giai tầng xã hội vốn có
một số nét đặc trưng: những người cùng chung một giai tầng thường có khuynh
hướng xử sự giống nhau; con người chiếm địa vị cao hơn hay thấp hơn trong xã hội
tùy thuộc vào chỗ họ thuộc giai tầng nào; giai tầng xã hội được xác định không
phải căn cứ vào một sự biến đổi nào đó mà là dựa trên cơ sở nghề nghiệp, thu nhập,
tài sản, học vấn, định hướng giá trị và những đặc trưng khác của những người
thuộc giai tầng đó; các cá thể có thể chuyển sang giai tầng cao hơn hay bị tụt xuống
giai tầng thấp hơn. Ví dụ như những người có thu nhập cao hơn sẽ có xu hướng
mua và sử dụng những loại gạo có chất lượng vượt trội hơn, còn những hộ gia đình
có thu nhập thấp hơn sẽ chọn những loại gạo khác phù hợp với chi tiêu của gia
đình.
II. Xã hội
Hành vi của người tiêu dùng cũng được quy định bởi những yếu tố mang tính
chất xã hội như những nhóm, gia đình, vai trò xã hội và các quy chế xã hội chuẩn
mực
- Các nhóm tiêu biểu: là những nhóm có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp
đến hành vi con người.
- Gia đình: các thành viên trong gia đình có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành
vi con người. Người dạy bảo trong gia đình là bố mẹ. Con người được cha mẹ dạy
bảo về tôn giáo, chính trị, kinh tế, danh dự, lòng tự trọng, tình yêu. Ngay cả khi
người mua không còn có tác động qua lại chặt chẽ với cha mẹ mình thì ảnh hưởng
của họ với hành vi không ý thức được của anh ta có thể vẫn rất đáng kể. Ở những
nước mà cha mẹ và con cái sống chung thì ảnh hưởng của cha mẹ có thể là nhân tố
quyết định. Gia đình nhỏ của cá nhân gồm vợ chồng và con cái có ảnh hưởng trực
tiếp hơn đến hành vi mua hàng thường ngày. Gia đình là một tổ chức tiêu dùng
quan trọng nhất trong khuôn khổ xã hội nên cần được nghiên cứu một cách toàn
diện.
- Vai trò và địa vị: cá nhân là một thành viên của rất nhiều nhóm xã hội. Vị trí
của nó trong mỗi nhóm đó có thể xác định theo vai trò và địa vị. Vai trò là một tập
hợp những hành động mà những người xung quanh chờ đợi ở người đó. Mỗi vai trò
có một địa vị nhất định phản ánh mức độ đánh giá tốt về nó của xã hội.
III. Cá tính
- Tuổi tác và giai đoạn của chu trình đời sống gia đình: cùng với tuổi tác cũng
diễn ra những thay đổi trong chủng loại và danh mục những mặt hàng và dịch vụ
được mua sắm. Trong một số công trình nghiên cứu gần đây, người ta phân loại các
giai đoạn tâm lý của chu trình đời sống gia đình. Người lớn tuổi trong cuộc đời
mình đã trải qua những thời kỳ biến đổi nhất định. Các nhà hoạt động thị trường
cần phải chú ý đến những sự quan tâm của người tiêu dùng đã thay đổi, có thể là do
những thời kỳ chuyển tiếp trong cuộc đời của người lớn tuổi.
- Nghề nghiệp: nghề nghiệp có ảnh hưởng đến tính chất hàng hóa và dịch vụ
được chọn mua.
- Tình trạng kinh tế: tình trạng kinh tế của cá nhân có ảnh hưởng rất lớn đến
cách lựa chọn hàng hóa của họ. Nó được xác định căn cứ vào phần chi trong thu
nhập, phần tiết kiệm và phần có, khả năng vay và những quan điểm chi đối lập
với tích lũy.
- Lối sống: những người thuộc cùng một nhánh văn hóa, cùng một giai tầng xã
hội và thậm chí cùng một nghề nghiệp có thể có lối sống hoàn toàn khác nhau. Lối
sống phác họa “ bức chân dung toàn diện” của con người trong sự tác động qua lại
giữa nó với môi trường xung quanh. Lối sống biểu hiện nhiều điều hơn là “nguồn
gốc giai tầng xã hội hay kiểu nhân cách của con người”. Khi biết thành phần giai
tầng xã hội của con người, ta có thể có những kết luận nhất định về hành vi dự kiến
của người đó, nhưng không thể hình dung người đó như một cá thể. Khi biết kiểu
nhân cách của con người, chúng ta có thể đưa ra những kết luận về những đặc điểm
tâm lý của người đó. Khi soạn thảo chiến lược marketing hàng hóa, các nhà nghiên
cứu marketing cần cố gắng khám phá những mối liên hệ giữa hàng hóa thông
thường hay đặc hiệu và lối sống nhất định để có cách tiếp cận với khách hàng tốt
nhất.
- Kiểu nhân cách và ý niệm bản thân: mỗi người đều có một kiểu nhân cách
hết sức đặc trưng, có ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người đó. Kiểu nhân
cách là một tập hợp những đặc điểm tâm lý con người đảm bảo sự phản ứng đáp lại
môi trường xung quanh của anh ta có trình tự tương đối và ổn định.
IV. Tâm lý
Hành vi lựa chọn mua hàng của cá thể cũng chịu ảnh hưởng của bốn yếu tố cơ bản
có tính chất tâm lý sau:
- Động cơ là nhu cầu đã trở thành khẩn thiết đến mức buộc con người phải tìm
cách và phương thức thỏa mãn nó. Một số nhu cầu có nguồn gốc sinh học. Chúng
nảy sinh từ những trạng thái căng thẳng về sinh lý như đói khát, khó chịu. Một số
nhu cầu khác có nguồn gốc tâm lý. Chúng nảy sinh từ những nhu cầu về tâm lý như
nhu cầu được thừa nhận, được kính trọng hay được gần gũi về tinh thần. Hầu hết
những nhu cầu có nguồn gốc tâm lý đều không đủ mạnh để thúc đẩy con người
hành động theo chúng ngay lập tức. Một nhu cầu sẽ trở thành động cơ khi nó tăng
lên đến một mức độ đủ mạnh.
- Tri giác: là quá trình thông qua đó, cá thể tuyển chọn, tổ chức và giải thích
thông tin đến để tạo ra một bức tranh có ý nghĩa về thế giới xung quanh.
- Lĩnh hội: đó là những biến đổi nhất định diễn ra trong hành vi của các cá thể
dưới ảnh hưởng của kinh nghiệm mà họ tích lũy được.
- Niềm tin: là sự nhận định trong thâm tâm về một cái gì đó.
- Thái độ: là sự đánh giá tốt hay xấu của cá thể, được hình thành trên cơ sở
những tri thức hiện có và bền vững về một khách thể hay ý tưởng nào đó, những
cảm giác do chúng gây ra và phương hướng hành động có thể có.
Sự lựa chọn của cá nhân chịu tác động qua lại phức tạp giữa các yếu tố có
tính chất văn hóa, xã hội, cá nhân và tâm lý.Trong đó có rất nhiều yếu tố không
chịu sự ảnh hưởng từ phía nhà hoạt động thị trường.Tuy nhiên chúng có ích cho
việc phát hiện những người mua hàng có quan tâm nhiều đến hàng hóa hay không.
Những yếu tố khác chịu sự tác động từ phía nhà hoạt động thị trường và gợi ý cho
họ phải sản xuất và đánh giá hàng hóa, tổ chức lưu thông, phân phối và tiêu thụ
chúng như thế nào để gây được sự hưởng ứng mạnh mẽ nhất của người tiêu dùng.
D. QUYẾT ĐỊNH CỦA NGƯỜI MUA
Sau khi nhóm tìm hiểu và nghiên cứu thực thế ( thông qua 50 phiếu điều tra online
và offline ) nhóm thấy đối tượng khách hàng có xu hướng lựa chọn như sau:
Nhìn chung , khu vực thị trấn Trâu Quỳ - Gia Lâm là khu vực đông dân ( tỷ lệ hộ
gia đình có từ 4-6 thành viên cao ) , mức thu nhập khá ổn định nhưng phần lớn
chọn mua gạo ở chợ
- Cụ thể :
Chủ yếu khách hàng ở độ tuổi từ 25 đến 55 tuổi , trong đó đông nhất là độ
tuổi từ 40-55 ( 34%)
Khách hàng là nam giới chỉ chiếm 12% còn lại là nữ giới ( chiếm đến
88%). Điều này cho thấy , ở quy mô gia đình thì đại đa số phụ nữ là người
trực tiếp mua các sản phẩm thực phẩm và tiêu dung trong gia đình , cụ thể
là gạo .
Tỷ lệ số lượng thành viên trong gia đình từ 6 người trở lên là rất ít ( chỉ
chiếm 6%) . Hộ gia đình dưới 4 người và từ 4 đến 6 người xấp xỉ ngang
nhau ( 46% và 48%)
Mức thu nhập ( của cá nhân được điều tra) chủ yếu là từ 8-15 triệu đồng /
tháng (chiếm đến 68% trong tổng số đối tượng khách hàng mà nhóm xin
điều tra), tỷ lệ khách hàng có thu nhập trên 23 triệu đồng/tháng chỉ chiếm
khoảng 2 %, nhóm thu nhập dưới 8 triệu đồng/tháng chiếm 22% . Có thể
nói ở mức thu nhập này thì đời sống của họ khá khá giả , có thể đáp ứng
cơ bản nhu cầu tiêu dùng hằng ngày của gia đình
Mức tiêu thụ gạo trong ngày : Tối thiểu là một bữa trong ngày , hộ gia
đình nào cũng cần đến gạo . Nhóm nhận thấy , đại đa số các hộ gia đình
đều dùng cơm từ 2 bữa / ngày ( chiếm đến 84%). Tỷ lệ nhóm các hộ gia
đình chỉ dùng cơm một bữa là rất ít ( chỉ 4%) , còn lại là các hộ dùng cả 3
bữa trong ngày (12%)
Tần suất tiêu thụ các loại gạo (gạo trắng, gạo lứt , gạo nếp) hoàn toàn
không giống nhau .
+ Gạo trắng là loại gạo được sử dụng nhiều nhất ( người dân sử dụng hằng
ngày và đa phần sử dụng từ 2 bữa )
+ Gạo lứt : so với gạo trắng thì tần suất sử dụng của gạo lứt thưa hơn rất
nhiều , trung bình , mỗi tuần họ chỉ dùng từ 2-3 bữa
+ Gạo nếp là loại gạo được ít hộ gia đình sử dụng nhất , phần lớn , họ chỉ sử
dụng từ 3-4 lần / tháng và chủ yếu là được dùng làm cỗ .
Các hộ gia đình chủ yếu chọn mua gạo chủ yếu từ chợ ( 62%), từ siêu thị
(24%) và qua người quen (14%). Điều này chứng minh , khách hàng ưu
tiên sự tiện lợi .
Tiêu chuẩn chọn gạo của các hộ gia đình :
+ Có 50/50 hộ gia đình đều quan tâm đến độ thơm , độ dẻo và chất lượng của
gạo
+ Tiêu chuẩn về giá cả được xếp sau tiêu chuẩn về chất lượng
+ Các tiêu chuẩn về nguồn gốc và thương hiệu thường ít được quan tâm hơn
.
Tần suất sử dụng các sản phẩm làm từ gạo :
+ Có nhất ít hộ gia đình sử dụng các sản phẩm từ gạo vào mỗi bữa
+ 15/50 hộ gia đình sử dụng bánh tráng , phở và sửa gạo , nước gạo mỗi
ngày
+ Mì gạo và bột gạo được sử dụng tương đối ít ( khoảng 3-4 lần / tháng)
+ Rượu là sản phẩm ít được sử dụng nhất( 22/50 hộ hiếm khi sử dụng ,27 /50
hộ chỉ sử dụng từ 3-4 lần / tháng)
Có rất nhiều nguồn để các hộ tìm kiếm và nhận thông tin , nhưng chủ yếu
là thông qua truyền miệng ( chiếm 32%) và sự giới thiệu của người bán
(chiếm 26%) . Ngoài ra, lượng khách hàng lựa chọn ngẫu nhiên cũng
tương đối lớn ( 22%) . Chỉ có 2% hộ gia đình sử dụng ngồn gạo tự có
( nhà trồng )
Có đến 68% khách hàng chấp nhận mức giá từ 14.000 – 17.000đ/kg để
mua gạo tiêu dùng cho hằng ngày và chỉ có 4% khách hàng chấp nhận
mức giá lớn hơn 25.000đ/kg . Dựa vào số liệu thống kê ta có thể biết
được , khách hàng ở khu vực Trâu Quỳ - Gia Lâm phần lớn lựa chọn mức
gạo với mức giá trung bình trên thị trường .
Tóm lại , nhóm rút ra được rằng , gạo là nguồn lương thực không thể
thiếu cho đời sống con người , đặc biệt là gạo trắng . Khách hàng ở đây chọn gao
chủ yếu thông qua các tiêu chí về độ dẻo , độ thơm , độ an toàn , sự tiện lợi nhưng
giá thành lại không quá cao . Họ không thường xuyên sử dụng các sản phẩm sản
xuất từ gạo như : rượu , bột gạo , gia vị … Việc tiếp nhận thông tin qua truyền
miệng và sự giới thiệu của người bán , đôi khi là sự ngẫu nhiên đã ảnh hưởng rất
lớn đến hành vi mua hàng của các hộ gia đình
TỔNG KẾT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ ĐƯA RA GIẢI PHÁP
I. Tổng kết vấn đề
- Nhìn chung, tình trạng tiêu thụ của các hộ gia đình khu vực Trâu Quỳ không
có nhiều sự khác biệt so với khu vực đồng bằng sông Hồng nói chung.
- Mức độ sẵn sàng chi trả tỷ lệ thuận với thu nhập, với người chi tiêu chính là
phụ nữ.
- Tần suất tiêu thụ gạo: hàng ngày, trong đó, cơm (phổ biến nhất với tần suất:
tối đa 1 bữa/1 ngày) và các sản phẩm từ gạo.
- Người tiêu dùng có thói quen tiêu thụ Gạo từ chợ truyền thống chiếm đa số,
truyền miệng.
II. Giải pháp
- Nâng cao giá trị bằng cách chế biến nên các sản phẩm từ gạo: thực phẩm,
thực phẩm chức năng, mỹ phẩm,…
- Nâng cao giá trị hạt Gạo nói riêng: cải thiện chất lượng, bao bì, mẫu mã…
- Cắt giảm khâu trung gian: mở những quầy trực tiếp tại siêu thị để người tiêu
dùng trải nghiệm.
- Giảm chi phí phân phối, logistics.
- Lựa chọn các phương pháp Marketing tiếp cận phù hợp với khu vực. Đề
xuất: WOM, thông qua các group và mở bán trực tiếp qua các quầy tại chợ,
siêu thị.