You are on page 1of 75

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

TỐNG THỊ LÝ

Chia tµi s¶n chung CñA vî chång

®Ó tiÕn hµnh ho¹t ®éng s¶n xuÊt kinh doanh

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TỐNG THỊ LÝ

Chia tµi s¶n chung CñA vî chång

®Ó tiÕn hµnh ho¹t ®éng s¶n xuÊt kinh doanh

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự


Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƢƠNG LAN

HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu


khoa học của riêng tôi. Các ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn này chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Tống Thị Lý
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIA TÀI SẢN
CHUNG VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 8
1.1. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân 8
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của việc chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân 12
1.3. Sự cần thiết của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân để sản xuất kinh doanh riêng 18
Chƣơng 2: CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG
THỜI KỲ HÔN NHÂN ĐỂ VỢ HOẶC CHỒNG SẢN XUẤT
KINH DOANH RIÊNG 24
2.1. Quyền yêu cầu chia.........................................................................................................24
2.2. Phƣơng thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân nhằm mục đích sản xuất kinh doanh riêng của vợ
hoặc chồng 29
2.3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân để vợ hoặc chồng sản xuất kinh doanh riêng 32
2.3.1. Quan hệ nhân thân..............................................................................................................33
2.3.2. Quan hệ tài sản.....................................................................................................................35
2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con chung và đời sống
chung của gia đình sau khi chia tài sản chung 40
2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba khi chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để một bên sản xuất, kinh
doanh riêng 44
2.4. Vấn đề chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích sản xuất kinh
doanh riêng46
Chƣơng 3: NHỮNG VƢỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG VIỆC ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ
CHỒNG ĐỂ TIẾN HÀNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH
DOANH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ48
3.1. Một số vƣớng mắc, bất cập khi áp dụng pháp luật về chia tài
sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để vợ hoặc
chồng sản xuất kinh doanh riêng 48
3.1.1. Quyền yêu cầu chia tài sản chung để một bên vợ hoặc chồng sản
xuất kinh doanh riêng 48
3.1.2. Hình thức chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.............49
3.1.3. Về hiệu lực của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân 50
3.1.4. Về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung khi một bên vợ
hoặc chồng đầu tư kinh doanh riêng trong thời kỳ hôn nhân 51
3.1.5. Về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung
chưa được pháp luật quy định 53
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích
đầu tƣ kinh doanh riêng 55
3.2.1. Về quyền yêu cầu chia tài sản chung để một bên đầu tư kinh
doanh riêng 56
3.2.2. Về hình thức của việc chia tài sản chung để một bên đầu tư kinh
doanh riêng 57
3.2.3. Về thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung vợ chồng............58
3.2.4. Về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân để một bên vợ, chồng sản xuất kinh doanh riêng 59
3.2.5. Về các trường hợp chia tài sản chung bị coi là vô hiệu...............................60
3.2.6. Về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân 61
KẾT LUẬN............................................................................................................................................63
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................65
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS Bộ luật Dân sự


HĐTP Hội đồng Thẩm phán
HN&GĐ Hôn nhân và Gia đình
Luật DN Luật Doanh nghiệp

Nghị định số 126/2014/NĐ-CP Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày


31/12/2014 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
03/10/2001 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000.
Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000
Nghị quyết số 35/2000/QH10 Nghị quyết số 35/2000/QH ngày
09/06/2000 của Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Hôn nhân là cơ sở của gia đình, hai người đến với nhau bằng tình yêu
và cùng nhau xây dựng một mái ấm, tạo nên gia đình hạnh phúc. Gia đình
luôn luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, nó được coi như
những “tế bào” của xã hội, gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi
trường quan trọng để hình thành và giáo dục nhân cách mỗi người, gia đình có
tốt thì xã hội cũng mới phát triển. Một trong những chức năng cơ bản của gia
đình đó là chức năng kinh tế mà nội dung của nó là sự tham gia của các thành
viên vào quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra của cải vật
chất, tinh thần bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của gia đình.
Gia đình là một “tế bào” xã hội thực hiện chức năng kinh tế, vì thế giữa
các thành viên gia đình luôn tồn tại những mối quan hệ liên quan đến tài sản.
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tính chất của mối quan hệ tài
sản giữa các thành viên trong gia đình cũng có nhiều thay đổi. Vì vậy các quy
định điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng luôn được các nhà làm luật quan
tâm và xây dựng để trở thành một trong những chế định quan trọng nhất của
pháp luật Hôn nhân và gia đình.
Trong Luật HN&GĐ năm 2014 chế độ tài sản chung của vợ chồng
được quy định tại Điều 28, vợ chồng có thể lựa chọn áp dụng chế độ tài sản
pháp định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Về nguyên tắc khi hôn nhân
còn tồn tại thì tài sản chung vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay
có rất nhiều cặp vợ chồng có nhu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. Trong quá trình chung sống vợ
chồng luôn tham gia vào các giao dịch dân sự, thương mại khác nhau để phát
triển kinh tế gia đình, đảm bảo các nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần của

1
gia đình. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì nhu cầu kinh
doanh của các cá nhân trong xã hội là rất cao. Với mục đích để sản xuất kinh
doanh riêng không ít các cặp vợ chồng đã thỏa thuận chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để sản xuất
kinh doanh riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt nó đáp ứng nhu cầu
chính đáng của vợ hoặc chồng trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng thể
hiện sự tôn trọng quyền tự do kinh doanh của công dân theo quy định của
pháp luật hiện hành. Việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
để sản xuất kinh doanh riêng vừa để đảm bảo nhu cầu về sử dụng vốn trong
hoạt động kinh doanh vừa để ngăn chặn những hậu quả rủi ro từ hoạt động
sản xuất kinh doanh đó đối với gia đình, đảm bảo cho lợi ích của gia đình.
Hiện nay việc chia tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm tạo
điều kiện cho một bên vợ hoặc chồng sản xuất kinh doanh riêng được tiến
hành không ít ở các vùng đô thị, thành phố lớn. Bên cạnh những tác động tích
cực của các quy định về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
để sản xuất kinh doanh thì thực tiễn thực hiện những quy định trên cũng bộc
lộ những bất cập. Đặc biệt là những trường hợp lợi dụng những quy định của
pháp luật về vấn đề này để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với
người thứ ba hay việc giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình
thực hiện việc yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng. Điều đó cho thấy cần
phải có sự nghiên cứu sâu về vấn đề chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân đặc biệt chia tài sản chung để vợ chồng sản xuất kinh doanh riêng,
phát hiện những bất cập của các quy định pháp luật để hạn chế những tranh
chấp phát sinh mà vẫn giữ được hạnh phúc gia đình.
Đó là lý do mà tác giả lựa chọn đề tài: “Chia tài sản chung của vợ
chồng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh” để nghiên cứu.

2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu các quy định của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân, đặc biệt trong việc đáp ứng yêu cầu kinh doanh riêng
của vợ hoặc chồng, phát hiện những bất cập, hạn chế còn tồn tại trong quá
trình áp dụng những quy định của pháp luật trong thực tiễn chia tài sản chung
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Từ đó đưa ra một số kiến nghị góp phần
hoàn thiện quy định của pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành
về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trong đó chú trọng
nghiên cứu việc vận dụng quy định pháp luật về vấn đề này trong trường hợp
một bên vợ hoặc chồng đầu tư kinh doanh riêng.
Thứ hai, phân tích, nhận dạng những bất cập, hạn chế của pháp luật
hiện hành khi vận dụng những quy định trên trong thực tiễn hoạt động sản
xuất kinh doanh riêng của vợ chồng.
Thứ ba, một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nói chung và khi vợ hoặc
chồng đầu tư kinh doanh riêng trong mối quan hệ tương thích giữa Luật Hôn
nhân và gia đình hiện hành với các luật khác có liên quan như Luật Doanh
nghiệp; Luật Đầu tư; Luật Thương mại; Luật Đất đai…
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu
- Một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân.

3
- Quy định của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
- Vấn đề vận dụng những quy định của pháp luật hiện hành về chia tài
sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi một bên vợ hoặc chồng đầu tư
kinh doanh riêng, thực tiễn thực hiện qua một số hình thức đầu tư kinh doanh.
 Phạm vi nghiên cứu
Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để sản xuất kinh
doanh ở đây được hiểu là việc vợ chồng chia tài sản chung để tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh riêng của mỗi bên. Trong trường hợp vợ chồng
không thỏa thuận và đi đến thống nhất được việc sử dụng tài sản chung vào
việc đầu tư kinh doanh thì họ sẽ thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia để bên
có nhu cầu kinh doanh có nguồn vốn riêng phục vụ cho việc kinh doanh. Việc
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để tiến hành sản xuất kinh doanh sẽ
không được đặt ra trong trường hợp vợ chồng dùng tài sản chung để kinh
doanh, hoặc ủy quyền cho một bên đứng ra kinh doanh bằng tài sản chung.
Do đó, trong phạm vi nghiên cứu đề tài của Luận văn, tác giả tập trung đi sâu
và phân tích về trường hợp vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh riêng của một bên vợ hoặc
chồng. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trong đề
tài này được nghiên cứu trên cơ sở Luật HN&GĐ năm 2014 có sự so sánh với
Luật HN&GĐ năm 2000 để đánh giá những điểm mới, tiến bộ hơn của những
quy định pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Về thực tiễn thực hiện, do Luật HN&GĐ năm 2014 mới có hiệu lực,
việc thực hiện trong thực tế chưa có nên thực tiễn thực hiện được xem xét
nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các quy định về chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân theo Luật HN&GĐ năm 2000. Trong phạm vi đề tài
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về

4
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích sản xuất
kinh doanh riêng, cũng như việc vận dụng những quy định đó trên thực tiễn
qua một số hình thức đầu tư kinh doanh của vợ chồng. Đồng thời nghiên cứu
và làm rõ những hệ quả pháp lý của các hoạt động sản xuất kinh doanh trực
tiếp vợ, chồng lựa chọn khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đề tài
nghiên cứu việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để vợ
hoặc chồng kinh doanh riêng trong việc góp vốn để thành lập hoặc tham gia
quản lý một số loại hình Doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh
nghiệp 2005 như: Doanh nghiệp tư nhân; Công ty TNHH; Công ty Cổ phần
hoặc Công ty Hợp danh.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian vừa qua đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu liên
quan đến tài sản chung của vợ chồng và chia tài sản chung vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
Các công trình là Luận văn, Luận án gồm có: Nguyễn Văn Cừ (2005),
Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
Nguyễn Hồng Hải (2002), Xác định chế độ tài sản của vợ chồng - một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học luật Hà
Nội; Nguyễn Thị Hạnh (2012), Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp
luật Việt Nam. Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện. Luận văn Thạc sĩ luật
học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội; Phạm Hồng Minh Hoàng (2013),
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội; Trần
Đức Hoài (2006), Một số vấn đề về tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Một số bài viết trên các báo, tạp chí chuyên ngành Luật như: Ngô Thị

5
Hường, “Đăng ký quyền sở hữu tài sản và việc xác định tài sản chung, riêng
của vợ chồng”, Tạp chí Luật học số 10/2008; Nguyễn Phương Lan (2002),
“Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân”, Tạp chí Luật học số 6/2002;
Các công trình kể trên hầu như các tác giả đã đề cập đến chế độ tài sản
của vợ chồng và vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân theo Luật HN&GĐ năm 2000. Luận văn của tác giả Trần Đức Hoài nói
về tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại không
nói về chia tài sản chung của vợ chồng nhằm mục đích sản xuất kinh doanh
riêng. Một số công trình cũng đã dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp dụng những
quy định của pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Tuy nhiên các đề tài trên chưa nói đến các quy định của pháp luật, thực tiễn
áp dụng các quy định đó cũng như hậu quả pháp lý phát sinh từ việc chia tài
sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích sản xuất kinh
doanh riêng. Do đó, với đề tài mà tác giả lựa chọn và nghiên cứu là “Chia tài
sản chung vợ chồng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh” có nội dung
hoàn toàn mới và không có sự trùng lặp với các đề tài đã nghiên cứu.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Việc nghiên cứu những nội dung của đề tài dựa trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin với phép duy vật lịch sử và duy vật biện
chứng, gắn với thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và Pháp luật
nói chung và trong lĩnh vực pháp luật Hôn nhân và gia đình nói riêng.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích,
tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh để nghiên cứu đề tài.
6. Điểm mới của đề tài
Luận văn có điểm mới nhất định, bên cạnh việc hệ thống hóa và phân tích
những khái niệm, đặc điểm của vấn đề chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ

6
hôn nhân, luận văn đi sâu làm rõ trường hợp chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân để một bên vợ hoặc chồng sản xuất kinh doanh riêng.
Điểm mới cơ bản của luận văn là phân tích việc chia tài sản chung vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích để vợ chồng có vốn phục vụ
cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh riêng. Trên cơ sở đó luận văn xem xét,
nghiên cứu các trường hợp đầu tư kinh doanh riêng trực tiếp của vợ chồng
trong một số loại hình doanh nghiệp như: Công ty Cổ phần, Công ty Trách
nhiệm hữu hạn, Công ty Hợp danh hay Doanh nghiệp tư nhân và những hệ
quả pháp lý của các hoạt động sản xuất kinh doanh đó đối với vợ, chồng, đối
với gia đình cũng như cách giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá
trình vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng.
Từ việc phân tích những nội dung trên luận văn đã nêu lên được những
quy định chưa phù hợp, những hạn chế còn tồn tại của pháp luật hiện hành về
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, vận dụng trong trường
hợp một bên vợ hoặc chồng sản xuất kinh doanh riêng ở cả góc độ lý luận và
thực tiễn áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó luận văn kiến nghị một số giải
pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và góp phần
hoàn thiện những quy định của pháp luật về vấn đề này.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo và Mục lục
thì nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
Chương 2. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để vợ chồng sản
xuất kinh doanh riêng.
Chương 3: Những vướng mắc, bất cập trong việc vận dụng pháp luật về
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để hoạt động sản xuất
kinh doanh riêng và một số kiến nghị.

7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

1.1. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
 Tài sản chung của vợ chồng
Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng phát sinh, tồn tại cùng với sự phát
sinh và tồn tại của quan hệ hôn nhân. Tài sản của vợ chồng là một phạm trù
pháp lý gắn với quyền sở hữu của vợ chồng. Xuất phát từ tính chất của quan
hệ hôn nhân là cùng chung ý chí, chung công sức trong việc xây dựng gia
đình, đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó như:
chăm sóc, nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình, phát triển kinh tế… nên
pháp luật quy định giữa vợ chồng phát sinh tài sản thuộc sở hữu chung. Chế
độ tài sản chung của vợ chồng được quy định tại các điều 33, 34 Luật
HN&GĐ năm 2014, theo đó:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo
ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong
thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 điều 40
của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là
tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được
thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao
dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc quyền sở hữu chung
hợp nhất, được dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện
nghĩa vụ chung của vợ chồng.

8
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản
mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài
sản đó được coi là tài sản chung [36, Điều 33].
Tài sản chung của vợ chồng dùng để đáp ứng các nhu cầu chung của
gia đình, thực hiện các nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng. Theo quy định
của BLDS và Luật HN&GĐ thì sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung
hợp nhất. Sự đóng góp công sức của vợ chồng vào việc xây dựng khối tài sản
chung có thể không ngang nhau nhưng quyền sở hữu của họ đối với tài sản
chung vẫn ngang nhau. Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do
công sức của cả hai vợ chồng mà có thể chỉ do vợ hoặc chồng làm ra hoặc là
thu nhập hợp pháp của một trong hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Như
vậy, trong thời kỳ hôn nhân một bên hoặc cả hai vợ chồng trực tiếp bỏ công
sức để tạo ra tài sản hoặc tham gia và trong quá trình lao động, sản xuất, kinh
doanh và có thu nhập thì tài sản và thu nhập đó được xác định là tài sản chung
của vợ chồng. Đồng thời những tài sản vợ chồng được tặng cho chung hoặc
thừa kế chung cũng được coi là tài sản chung của vợ chồng. Như vậy, khi chủ
sở hữu tài sản chuyển quyền sở hữu tài sản của họ cho vợ chồng bằng hợp
đồng tặng cho tài sản hoặc theo di chúc thì vợ chồng được xác lập quyền sở
hữu với tài sản được tặng cho hoặc được thừa kế. Tài sản chung hoặc tài sản
riêng của vợ chồng có thể phát sinh hoa lợi, lợi tức. Đó là các sản vật tự nhiên
mà tài sản mang lại hoặc là các khoản thu được từ việc khai thác tài sản. Theo
pháp luật hiện hành, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng được xác
định là tài sản chung, trừ hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng được chia từ
khối tài sản chung của vợ chồng là tài sản riêng. Ngoài ra, tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn được xác lập từ những thu nhập hợp

9
pháp khác như: tiền thưởng, khoản trợ cấp thường xuyên hoặc bất thường mà
vợ chồng nhận được như trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp thai sản…, tiền trúng xổ
số… và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận nhập vào khối tài sản
chung. Theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam, việc xác định là tài sản chung vợ
chồng hay tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng được căn cứ vào thời kỳ hôn
nhân và nguồn gốc tài sản. Trong thời kỳ hôn nhân, tùy vào nguồn gốc tài sản
được quy định trong các điều luật nêu trên, sẽ xác định được đó là tài sản
chung hay tài sản riêng của vợ chồng. Thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân là
ranh giới để xác định tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Về
nguyên tắc thì những tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn luôn là tài sản
riêng của một bên vợ, chồng.
 Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Hiểu một cách khái quát thì thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn
tại quan hệ vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân là “khoảng thời gian tồn tại quan hệ
vợ chồng được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”
[36, Điều 3, Khoản 13]. Thời kỳ hôn nhân được tính từ thời điểm hai bên nam
nữ đăng ký kết hôn đến thời điểm chấm dứt hôn nhân do một bên vợ hoặc
chồng chết, vợ hoặc chồng bị tuyên bố chết hay do ly hôn bằng bản án hoặc
quyết định thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật.
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định chế độ tài sản của vợ chồng có thể là
chế độ tài sản pháp định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Chế độ tài sản
pháp định được quy định tại khoản 1 điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014. Tài
sản chung của vợ chồng thuộc khối tài sản chung hợp nhất, phần quyền sở
hữu của vợ chồng không được xác định trước. Đối với khối tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân thì vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc quản lý,
sử dụng. Chế độ tài sản này bắt đầu từ khi quan hệ hôn nhân được xác lập và
thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân. Trong một số trường hợp, vợ chồng có

10
thể chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, phần tài sản chung được chia
cho mỗi bên vợ, chồng là tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mặc dù quy định này đã được ghi nhận
từ Luật HN&GĐ năm 1986; Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm
2014, vì thế cũng đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về chia tài sản chung
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tác giả Phạm Thị Tươi đã đưa ra khái niệm
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau:
Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc
chuyển một phần hoặc toàn bộ tài sản vốn là tài sản chung của vợ
chồng thành tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng theo sự thỏa thuận
của vợ chồng hoặc do Tòa án quyết định theo yêu cầu của vợ,
chồng khi có những lý do nhất định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của mỗi bên vợ chồng và người thứ ba có liên quan mà
không làm chấm dứt quan hệ giữa vợ và chồng trước pháp luật [41].
Cũng liên quan đến khái niệm chia tài sản chung vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân thì tác giả Phạm Hồng Minh Hoàng lại cho rằng:
Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc
thay đổi một phần hoặc toàn bộ tài sản chung của vợ chồng thành
tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng theo thỏa thuận hoặc do Tòa án
quyết định trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực
hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác. Việc chia
tài sản chung của vợ chồng được thực hiện trong thời kỳ hôn nhân
và hậu quả pháp lý của việc này không làm chấm dứt quan hệ nhân
thân giữa vợ và chồng trước pháp luật [15].
Trên cơ sở tìm hiểu các quy định về thời kỳ hôn nhân, tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tác giả xin đưa ra định nghĩa khái quát

11
về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau: Chia tài
sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp được pháp luật quy
định trong đó vợ chồng có quyền thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì
yêu cầu Tòa án giải quyết nhằm tách một phần hoặc chuyển toàn bộ tài sản
chung của vợ chồng thành tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng mà không làm
chấm dứt quan hệ vợ chồng với điều kiện không làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của gia đình, của các con và không nhằm mục đích trốn tránh các nghĩa vụ
về tài sản của vợ, chồng.
Có thể nói các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân: về trường hợp chia, hình thức chia, hậu quả pháp lý của việc
chia đã phát huy được hiệu quả, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của vợ chồng và các thành viên của gia đình cũng như lợi ích của bên thứ ba
tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại với vợ, chồng.
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của việc chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân
Nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được
xác định là những tư tưởng chỉ đạo mang tính chi phối, định hướng cho mọi
hoạt động của các chủ thể tham gia vào việc giải quyết các yêu cầu liên quan
đến chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Hiện nay, pháp
luật chưa có quy định cụ thể về các nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân vì vậy ít nhiều đã gây ra những khó khăn trong thực
tiễn áp dụng luật. Căn cứ từ lý luận và thực tế cho thấy việc chia tài sản chung
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cần phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất
định. Cụ thể là:
Thứ nhất, nguyên tắc vợ chồng bình đẳng về tài sản.
Nguyên tắc bình đẳng được xem là nguyên tắc cơ bản giữa các chủ thể
khi tham gia các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ giữa vợ chồng nói

12
riêng. Nguyên tắc này được thể hiện trong các văn bản pháp luật có giá trị cao
nhất như Hiến pháp quy định về quyền bình đẳng giữa các công dân trước
pháp luật và quyền tự do kinh doanh của công dân. Hiến pháp năm 2013 quy
định rõ: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm” [34, Điều 33]. Quyền cơ bản này của công dân đã được
cụ thể hóa và quy định ở Bộ Luật dân sự cũng như các Luật chuyên ngành và
các văn bản pháp luật khác. Điều 5 BLDS năm 2005 đã ghi nhận trong quan
hệ dân sự các chủ thể đều bình đẳng với nhau, Điều 8 BLDS năm 2005 cũng
quy định trong quan hệ vợ chồng thì vợ, chồng là những chủ thể độc lập khi
tham gia bất cứ một giao dịch hợp pháp nào mà bên kia không có quyền ngăn
cản. BLDS năm 2005 quy định: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền,
nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ dân sự,
cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền
vững” [29, Điều 40]. Quy định này đã thể hiện sự bình đẳng về mọi mặt của
vợ chồng trong mọi quan hệ xã hội.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định cụ thể hơn nữa về quyền bình
đẳng của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Vợ chồng bình đẳng
với nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến
pháp, Luật này và các luật khác có liên quan” [36, Điều 17]. Quyền bình
đẳng đó thể hiện rõ trong việc vợ chồng cùng nhau bàn bạc và quyết định các
vấn đề liên quan đến nhân thân cũng như tài sản liên quan đến đời sống chung
của gia đình như việc chăm sóc nuôi dưỡng con cái hay xây dựng và phát
triển đời sống kinh tế của gia đình.
Quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng còn được thể hiện trong việc
yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Vợ chồng có thể
thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung trong thời

13
kỳ hôn nhân. Trong trường hợp yêu cầu Tòa án chia tài sản chung thì sẽ giải
quyết theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 tức là chia tài sản
như khi vợ chồng ly hôn. Tài sản của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính
đến các yếu tố như hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng
góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung;
bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Như vậy,
những quy định cụ thể của Luật HN&GĐ năm 2014 đã phần nào thực hiện
hóa nguyên tắc vợ chồng bình đẳng về tài sản. Mặc dù sự đóng góp của vợ,
chồng vào khối tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là khác nhau
nhưng khi thực hiện việc chia tài sản chung thì pháp luật vẫn luôn thể hiện sự
công bằng, bình đẳng của cả vợ và chồng. Trong nền kinh tế thị trường hiện
nay luôn mang đến những cơ hội đồng thời là những thách thức đối với mỗi
cá nhân khi họ tham gia vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Vì vậy, chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để một bên vợ hoặc chồng tham
gia vào sản xuất kinh doanh riêng cần phải đảm bảo được quyền bình đẳng
của vợ chồng nhằm thực hiện các quyền năng về tài sản của vợ chồng cũng
như đảm bảo cho cuộc sống của gia đình được bền vững.
Thứ hai, nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng.
“Thỏa thuận” có nghĩa là “đi tới sự đồng ý sau khi cân nhắc, thảo luận”
[43]. BLDS năm 2005 và Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014
cũng như các văn bản pháp luật khác đều tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ
chồng đối với tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Trong thời kỳ hôn nhân
vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ khối tài sản chung.
Đây hoàn toàn là sự thỏa thuận riêng của vợ chồng, người thứ ba và các chủ
thể có liên quan đến tài sản của vợ chồng không thể can thiệp đến thỏa thuận
chia này. Việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân xuất phát

14
từ nhu cầu thực tế của vợ hoặc chồng. Ngoài những trường hợp chia bị coi là
vô hiệu như quy định tại Điều 42 Luật HN&GĐ năm 2014 thì vợ chồng hoàn
toàn có quyền thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản chung, có thể vì mục
đích kinh doanh riêng của một bên vợ hoặc chồng, hoặc những lý do chính
đáng khác. Tuy nhiên sự thỏa thuận này chỉ được coi là hợp pháp khi nó được
xác lập trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, cưỡng ép đồng thời
đó là ý chí độc lập của vợ, chồng dựa trên sự nhận thức đầy đủ và rõ ràng về
những hậu quả pháp lý phát sinh sau khi chia tài sản chung.
Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định cụ thể về hình thức cũng
như các nội dung chính khi vợ chồng thỏa thuận phân chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân. Cụ thể là, thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân của vợ chồng phải được lập thành văn bản và phải có nội dung
chính bao gồm: lý do chia tài sản, phần tài sản chia, phần tài sản còn lại không
chia (nếu có) và những nội dung khác (nếu có). Ngoài ra, vợ chồng có thể yêu
cầu cơ quan công chứng có thẩm quyền công chứng văn bản thỏa thuận phân
chia tài sản hoặc yêu cầu người khác làm chứng văn bản đó. Những quy định
trên nhằm tránh việc vợ chồng thỏa thuận phân chia tài sản chung để trốn
tránh nghĩa vụ tài sản với người thứ ba hay với mục đích tẩu tán tài sản, đồng
thời nó cũng thể hiện sự tự do thỏa thuận của vợ chồng là hoàn toàn tuyệt đối
về việc định đoạt khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của họ.

Có thể nói pháp luật tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của vợ chồng
trong việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân với mục đích sản xuất
kinh doanh riêng của vợ hoặc chồng. Tuy nhiên, sự tự do thỏa thuận ấy lại bị
hạn chế và không được chấp nhận trong những trường hợp như: ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình, quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa
thành niên, còn đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có

15
khả năng lao động; trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại… [36, Điều 42].
Thứ ba, nguyên tắc sự thỏa thuận của vợ chồng chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định vợ chồng có quyền tự do
thỏa thuận và định đoạt đối với khối tài sản chung của họ trong thời kỳ hôn
nhân. Những quy định đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cá nhân vợ hoặc
chồng có thể thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ, đó có thể là việc
đầu tư sản xuất kinh doanh riêng hay những nhu cầu cá nhân khác. Do đó khi
vợ chồng có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật thì họ có thể thỏa
thuận hoặc yêu cầu Tòa án tiến hành việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân. Vợ chồng được tự do thể hiện ý chí trong việc thỏa thuận các nội dung
liên quan đến việc phân chia tài sản chung. Tuy nhiên sự tự do thỏa thuận này
không được làm ảnh hưởng hay gây bất lợi cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân
khác. Nếu sự thỏa thuận của vợ chồng vi phạm đến quyền, lợi ích, vi phạm
đạo đức xã hội thì pháp luật sẽ không thừa nhận và sự thỏa thuận của vợ
chồng sẽ bị vô hiệu. Pháp luật điều chỉnh quyền tự do định đoạt tài sản của vợ
chồng trên cơ sở sự tôn trọng quyền định đoạt của vợ chồng trong mối liên hệ
và tôn trọng các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể khác.
Tinh thần của nguyên tắc này được thể hiện và quy định cụ thể tại
Khoản 2 điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 và điều 42 Luật HN&GĐ năm
2014. Theo đó sự thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân sẽ bị vô hiệu khi với mục đích: trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp
dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên
bố phá sản; nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;
nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy
định khác của pháp luật có liên quan [36, Điều 42, Khoản 2]. Lợi ích chính

16
đáng của cộng đồng, của xã hội được bảo vệ bằng pháp luật và đạo đức xã
hội, nó trở thành giới hạn cho sự tự do ý chí của các chủ thể khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ hôn nhân gia đình nói riêng.
Nguyên tắc này thể hiện mục đích tôn trọng lợi ích của cộng đồng, của xã hội
và lợi ích chính đáng của các cá nhân trong xã hội.
Thứ tư, việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải
đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên và con đã thành niên nhưng
không có khả năng lao động.
So với Luật HN&GĐ năm 2000 thì Luật HN&GĐ năm 2014 đã có những
quy định cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ với con. Theo đó:
Mọi thỏa thuận của cha mẹ, con có liên quan đến quan hệ
nhân thân, tài sản không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình…. [36, Điều 68, Khoản 4].
Đồng thời Luật HN&GĐ năm 2014 cũng ghi nhận:
Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con;
chăm lo cho việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh cả
về thể chất, trí tuệ và đạo đức; trở thành người con hiếu thảo của gia
đình, công dân có ích cho xã hội. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình [36, Điều 69, Khoản 1,2].
Chăm sóc và nuôi dạy con cái không chỉ là nghĩa vụ của cha mẹ đối với
con mà nó còn là nghĩa vụ của cha mẹ đối với Nhà nước. Đối với bất kỳ quốc
gia nào trẻ em là đối tượng chăm sóc đặc biệt vì đó là lực lượng lao động
tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất

17
nước. Mặt khác, việc cha mẹ có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
em nhằm bảo đảm thực hiện những quyền cơ bản của trẻ em đã được ghi nhận
trong những văn bản pháp luật Quốc tế cũng như ở từng quốc gia cụ thể.
Trường hợp vợ chồng thỏa thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân, dù là phân chia toàn bộ khối tài sản chung hay chỉ phân chia một phần
thì mối quan hệ pháp lý của vợ chồng vẫn chưa chấm dứt, không vì thế mà làm
thay đổi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con cái, đặc biệt là con chưa
thành niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Việc chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải có sự thỏa thuận và thống
nhất trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con cái. Theo quy định
tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi: “Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi
ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc con không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình” [36. Điều 42, Khoản 1].
Đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên và con đã thành niên
nhưng không có khả năng lao động khi vợ chồng phân chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân một mặt nhằm đảm bảo cho quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của con cái trong gia đình mặt khác nó cũng thể hiện truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam đó là luôn có sự yêu thương, chăm sóc
lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
1.3. Sự cần thiết của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân để sản xuất kinh doanh riêng
Việc chia tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để sản xuất kinh
doanh riêng là cần thiết trong cuộc sống vợ chồng đặc biệt là trong điều kiện
kinh tế xã hội hiện nay. Bởi vì các lý do sau:
Thứ nhất, nhu cầu sản xuất kinh doanh riêng của mỗi bên vợ chồng là

18
chính đáng, được pháp luật bảo vệ, khuyến khích nhằm phát huy mọi khả
năng phát triển kinh tế.
Khi bước vào hôn nhân để duy trì cuộc sống gia đình thì vợ chồng phải
có nguồn thu nhập nhất định. Nguồn thu nhập này mang lại từ nhiều kênh
khác nhau. Đó có thể là tiền lương phát sinh từ các hoạt động mang tính chất
nghề nghiệp hoặc các lợi tức phát sinh trong quá trình kinh doanh hay trong
các giao dịch dân sự khác. Trong đó nguồn thu nhập mang lại từ các hoạt
động sản xuất kinh doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn, mang lại cho vợ chồng
những nguồn thu nhập cao hơn so với các thu nhập khác. “Sản xuất là hoạt
động tạo ra của cải vật chất nói chung” [39] còn theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014 kinh doanh được định nghĩa là “việc thực hiện liên tục một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” [35,
Điều 4, khoản 16]. Sản xuất kinh doanh riêng là nhu cầu khách quan, tự nhiên
của đời sống đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Tài sản chung của vợ
chồng là do vợ chồng cùng chung sức tạo lập, theo quy định của pháp luật thì
vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Chính vì
vậy, nếu vợ chồng không thống nhất dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh
thì một bên vợ chồng không có quyền tự quyết định phần tài sản chung để đầu
tư kinh doanh. Việc pháp luật quy định vợ chồng có quyền thỏa thuận hoặc
quyền yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục
đích sản xuất kinh doanh riêng là cơ sở pháp lý để giải quyết các yêu cầu của
vợ chồng phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Nó giúp cho bên vợ chồng
thực hiện được ý đồ kinh doanh của mình. Đó cũng chính là việc đảm bảo để
công dân thực hiện quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật hiện
hành.

19
Thứ hai, việc quy định chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân để sản xuất kinh doanh riêng là cơ sở pháp lý quan trọng và cần thiết để
đáp ứng nhu cầu về vốn khi vợ hoặc chồng tham gia sản xuất, kinh doanh riêng.
Đối với người tham gia vào kinh doanh thì yếu tố “vốn” được coi là then
chốt, có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự khởi nghiệp cũng như phát triển và
thành công của quá trình sản xuất kinh doanh. Không chỉ là cơ sở để xem xét cho
việc thành lập cơ sở kinh doanh ban đầu mà vốn còn là yếu tố để mở rộng phạm
vi kinh doanh, quyết định vị thế của chủ thể kinh doanh trên thương trường.Vì
thế vợ chồng có quyền thỏa thuận hoặc yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân để có vốn riêng thực hiện việc đầu tư, kinh doanh.
Có thể nói trong nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ như hiện
nay thì việc vợ hoặc chồng có nhu cầu tham gia vào quá trình kinh doanh, đầu
tư là khá phổ biến. Tuy nhiên, lĩnh vực kinh doanh là một lĩnh vực tiềm ẩn
khá nhiều rủi ro vì thế mà không phải trong mọi trường hợp vợ chồng đều
thống nhất được việc đầu tư kinh doanh. Có thể do nhiều lý do như không
thống nhất được phương án kinh doanh, sợ việc kinh doanh thua lỗ, không
mang lại hiệu quả kinh tế sẽ ảnh hưởng đến đời sống chung của gia đình…mà
một trong hai bên vợ hoặc chồng không muốn kinh doanh và cũng không
đồng ý lấy tài sản chung của vợ chồng để đầu tư kinh doanh chung.
Trong những trường hợp như trên thì việc pháp luật quy định vợ hoặc
chồng có thể thỏa thuận, hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân để một bên tiến hành sản xuất kinh doanh có ý nghĩa to lớn và phù
hợp với xu hướng của nền kinh tế thị trường. Việc quy định này đặc biệt tránh
được rủi ro cho gia đình khi hoạt động sản xuất kinh doanh bị thất bại, mặt
khác nó cũng đảm bảo được sự năng động, linh hoạt cho vợ chồng tham gia
kinh tế thị trường mà vẫn đảm bảo sự an toàn cho gia đình.

20
Thứ ba, việc quy định chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân nhằm mục đích sản xuất kinh doanh riêng đã đảm bảo quyền lợi cho gia
đình, lợi ích của vợ chồng cũng như của những người thứ ba có liên quan.
Kinh doanh là lĩnh vực có thể nói nếu thành công thì sẽ mang lại cho
chủ thể những lợi nhuận và thu nhập đáng kể tuy nhiên nó cũng tiềm ẩn khá
nhiều rủi ro. Hiện nay thì khái niệm rủi ro trong kinh doanh có nội dung khá
rộng, theo cách hiểu truyền thống thì rủi ro là sự không may mắn, sự tổn thất
mất mát, nguy hiểm. Rủi ro trong kinh doanh là điều không lành, điều không
tốt, bất ngờ xảy đến. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận
thực tế so với lợi nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài
ý muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác
động xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Do vậy, có thể vì
tâm lý sợ rủi ro, thua lỗ mà một bên vợ hoặc chồng không muốn tham gia
kinh doanh đầu tư chung cùng bên kia và cũng không muốn sử dụng tài sản
chung của gia đình vào việc kinh doanh thì họ sẽ tiến hành chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân để tiện cho việc kinh doanh của phía bên kia đồng thời
cũng hạn chế tối đa rủi ro cho gia đình khi mà người trực tiếp kinh doanh thua
lỗ. Đồng thời, việc vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân khi một bên kinh doanh riêng còn góp phần tạo ra sự công khai, minh
bạch tài sản của người trực tiếp kinh doanh. Có thể nói, đây cũng chính là yếu
tố đảm bảo cho quyền và lợi ích của đối tác - bên thứ ba khi tham gia quan hệ
kinh doanh với vợ hoặc chồng.
Thứ tư, việc quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân nhằm mục đích sản xuất kinh doanh là cơ sở pháp lý để giải quyết
những tranh chấp phát sinh trong quá trình vợ, chồng tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Thực tiễn đời sống kinh tế xã hội cho thấy, khi có tranh chấp về tài sản

21
giữa vợ chồng với nhau và giữa vợ chồng với những người thứ ba có liên
quan tới quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng từ hoạt động sản xuất kinh
doanh thường rất phức tạp và tranh chấp gay gắt, thường khó xác định trách
nhiệm của vợ chồng. Luật HN&GĐ năm 2000 mới chỉ dừng lại ở những quy
định mang tính chất nguyên tắc chung và khó áp dụng trong thực tiễn đời
sống như các quy định “tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để…, thực
hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng ” [27, Điều 28, Khoản 2], việc xác
định trong trường hợp nào được coi là nghĩa vụ chung, trường hợp nào được
coi là nghĩa vụ riêng thì luật lại chưa có quy định rõ ràng. Luật HN&GĐ năm
2014 đã quy định cụ thể hơn về những trường hợp được coi là nghĩa vụ
chung, nghĩa vụ riêng của vợ, chồng. Ngoài những nghĩa vụ chung về tài sản
của vợ chồng được quy định tại Điều 37 thì Luật HN&GĐ năm 2014 còn quy
định rõ đối với các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng đối với người
thứ ba không thay đổi kể cả khi vợ chồng có thỏa thuận về việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác [36].
Ngoài ra, một lý do nữa là việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân để vợ hoặc chồng đầu tư kinh doanh riêng xác định trách nhiệm,
nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng đối với những rủi ro trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh, đó là trách nhiệm tài sản riêng của một bên. Trong trường hợp
kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ thì người trực tiếp kinh doanh phải
gánh chịu hậu quả này mà không ảnh hưởng đến tài sản của bên vợ, chồng
không trực tiếp kinh doanh. Nhờ đó mà cuộc sống của các thành viên trong
gia đình được ổn định. Ví dụ, hai vợ chồng có 500 triệu đồng là tài sản chung,
họ thỏa thuận chia tài sản chung để người chồng lấy 250 triệu góp vốn mở
công ty với bạn để kinh doanh riêng. Khi việc kinh doanh thua lỗ, công ty phá
sản, giải thể thì người chồng trực tiếp kinh doanh sẽ phải chịu trách nhiệm
bằng tài sản riêng của anh ta mà không liên quan đến tài sản của người vợ.

22
Vì vậy, việc quy định chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
nhằm mục đích sản xuất kinh doanh riêng là cơ sở pháp lý quan trọng để giải
quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình vợ hoặc chồng tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh riêng. Quy định này vừa đảm bảo quyền lợi cho
vợ chồng đồng thời nó cũng bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của những
chủ thể thứ ba khác có liên quan đến quá trình kinh doanh của vợ hoặc chồng.

23
Chương 2
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN
NHÂN ĐỂ VỢ HOẶC CHỒNG SẢN XUẤT KINH DOANH RIÊNG

2.1. Quyền yêu cầu chia


Tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản thuộc hình thức
sở hữu chung hợp nhất. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “Trong thời kỳ hôn
nhân vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản
chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này, nếu không thỏa
thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết” [36].
Quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
là quyền tự định đoạt tài sản chung của vợ, chồng hoặc của cả hai. Vợ chồng
đều có quyền bình đẳng với nhau trong việc quản lý, sử dụng và định đoạt
khối tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất trong thời kỳ hôn nhân. Đây là một
quyền gắn liền với nhân thân của vợ chồng và chỉ vợ, chồng hoặc cả hai vợ
chồng mới có quyền yêu cầu. Quy định trên của pháp luật là hoàn toàn phù
hợp, xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng giữa vợ chồng. Vợ chồng có thể thỏa
thuận phân chia tài sản chung và trong trường hợp không thỏa thuận được, vợ
hoặc chồng sẽ yêu cầu Tòa án chia. Đối với trường hợp cả hai vợ chồng thỏa
thuận được việc chia tài sản chung thì những nội dung của thỏa thuận đó sẽ
được lập thành văn bản, có thể có người làm chứng hoặc vợ chồng có thể yêu
cầu cơ quan công chứng có thẩm quyền chứng nhận về các nội dung trong văn
bản mà họ đã thỏa thuận.
Trên thực tế không phải tất cả các cặp vợ chồng đều thỏa thuận được về
vấn đề chia tài sản chung. Khi giữa họ nảy sinh những bất đồng và mâu thuẫn
không thể đi đến được sự thống nhất thì một trong hai bên vợ hoặc chồng có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp

24
luật hiện hành để giải quyết những yêu cầu chính đáng của vợ hoặc chồng. Theo
quy định tại Khoản 3 Điều 38 Luật HN&GĐ năm 2014 thì Tòa án sẽ giải quyết
yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59, tức là chia tài
sản như khi vợ chồng ly hôn. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng
có tính đến các yếu tố như: hoàn cảnh gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng
góp của mỗi bên trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung đó;
bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và tạo điều
kiện để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.
Như vậy, người có quyền yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân chỉ có thể là vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng khi có lý
do chính đáng, ngoài ra không có chủ thể nào khác được quyền yêu cầu chia
tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Quyền yêu cầu chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một quyền gắn liền với nhân
thân của vợ chồng trên cơ sở hôn nhân hợp pháp. Việc pháp luật HN&GĐ chỉ
công nhận vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quyền khởi kiện của người thứ ba trong
trường hợp này không được thừa nhận (Điều 38 Luật HN&GĐ năm 2014) là
hoàn toàn phù hợp về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định này
vào thực tiễn thì vẫn còn nhiều vấn đề bất cập và khó khăn. Trên thực tế,
trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng có nghĩa vụ tài sản riêng đối với
người thứ ba nhưng họ lại không thỏa thuận hay không yêu cầu Tòa án chia
tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản riêng của mình thì
sẽ rất khó đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Để bảo
vệ quyền lợi của mình thì người thứ ba có thể khởi kiện đòi tài sản, buộc
người có nghĩa vụ về tài sản phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một vấn đề
quan trọng trong đời sống vợ chồng. Nội dung này đã được quy định lần đầu

25
tiên trong Luật HN&GĐ năm 1986 và tiếp tục được ghi nhận, phát triển trong
Luật HN&GĐ năm 2000 và mới nhất là Luật HN&GĐ năm 2014. Theo quy
định tại Luật HN&GĐ năm 2000 thì vợ chồng có thể yêu cầu chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân khi thuộc vào một trong các trường hợp như: vợ
chồng thực hiện đầu tư kinh doanh riêng; vợ chồng thực hiện nghĩa vụ dân sự
riêng hay trường hợp có lý do chính đáng khác [27, Điều 29]. Đến Luật
HN&GĐ năm 2014 thì những quy định về chia tài sản chung vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân tiếp tục được ghi nhận và hoàn thiện hơn, Điều 38 Luật
HN&GĐ năm 2014 quy định “Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có quyền
thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy
định tại Điều 42 của Luật này, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết” [36]. Luật HN&GĐ năm 2014 không quy định về việc
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được tiến hành trong
những trường hợp nào như Luật HN&GĐ năm 2000. Điều đó có nghĩa là bất
cứ lúc nào, vì lý do gì vợ chồng đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân miễn là việc chia tài sản chung đó không làm ảnh hưởng đến
lợi ích chung của gia đình, lợi ích hợp pháp của con cái và không nhằm mục
đích trốn tránh các nghĩa vụ về tài sản theo quy định tại Điều 42 Luật
HN&GĐ năm 2014.
Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để một bên vợ hoặc
chồng đầu tư sản xuất kinh doanh riêng là một trường hợp khá phổ biến nhất là
trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay khi nhu cầu kinh doanh của
các cá nhân phát triển không ngừng. Có những cặp vợ chồng xuất phát từ điều
kiện thực tế của gia đình họ quyết định chỉ cần một bên tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh, một bên tham gia vào các quan hệ lao động khác hoặc ở nhà
chăm sóc con cái, cũng có thể vợ hoặc chồng thuộc vào các đối tượng không
được phép thành lập doanh nghiệp theo quy định tại Luật Doanh nghiệp [31].

26
Các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh là nguồn mang lại những
khoản lợi ích vật chất to lớn nếu như người kinh doanh nắm bắt được thời cơ,
hiểu rõ thị trường và có đầu óc nhạy bén, tuy nhiên nó cũng là lĩnh vực tiềm
ẩn nhiều yếu tố rủi ro, đôi khi có thể làm cho chủ thể kinh doanh “khuynh gia
bại sản”. Chính vì thế mà không phải trong mọi trường hợp vợ chồng đều
thống nhất được với nhau thực hiện công việc kinh doanh vì những rủi ro có
thể xảy ra ảnh hưởng tới đời sống gia đình, con cái. Tuy nhiên nếu như một
bên vợ hoặc chồng vẫn quyết tâm với kế hoạch kinh doanh của mình thì họ có
thể yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Việc đem đầu tư khối
tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi hai bên chưa đi đến thống nhất
về kế hoạch đầu tư kinh doanh sẽ làm cho người muốn đầu tư kinh doanh mất
đi tính chủ động, mất đi “thời cơ kinh doanh” đồng thời cũng làm tăng mâu
thuẫn không đáng có trong đời sống vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng là
do cả vợ chồng cùng chung sức tạo lập, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau đối với tài sản chung. Chính vì vậy, việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho một bên vợ hoặc
chồng tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh riêng. Sự riêng biệt về
tài sản giữa vợ và chồng khi chia toàn bộ tài sản chung hoặc chia một phần
khối tài sản chung tạo điều kiện cho người trực tiếp kinh doanh có một khối
tài sản của riêng, không bị phụ thuộc vào người chồng hoặc vợ kia. Họ chủ
động về vốn và chủ động thực hiện công việc kinh doanh. Vì vậy, chia tài sản
chung để vợ hoặc chồng tiến hành sản xuất kinh doanh riêng là một lý do
hoàn toàn chính đáng. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển việc
khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất để làm giàu cho xã hội
là việc làm cần thiết, cùng với đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản
cho mỗi cá nhân. Quy định của pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân với mục đích sản xuất kinh doanh riêng chính là bảo vệ

27
quyền tự do kinh doanh của mỗi công dân nói chung và của cá nhân vợ hoặc
chồng nói riêng.
Tuy nhiên quyền yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân bị ràng buộc, hạn chế và không được công nhận nếu việc chia tài sản
chung đó thuộc một trong những trường hợp được quy định tại Điều 42 của
Luật HN & GĐ năm 2014. Khi việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích
hợp pháp của con chưa thành niên, còn đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự và không có tài sản để tự nuôi mình thì sẽ bị vô hiệu. Quyền kinh
doanh của cá nhân vợ, chồng luôn được pháp luật tôn trọng nhưng nếu như
việc vợ chồng chia tài sản chung nhằm mục đích sản xuất kinh doanh riêng
của một bên mà làm ảnh hưởng đến lợi ích của gia đình và con cái thì pháp
luật sẽ không thừa nhận. Trong mối quan hệ gia đình thì vấn đề lợi ích chính
đáng của gia đình và con cái luôn được ưu tiên hàng đầu bởi vì xuất phát từ
nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình là xây dựng gia đình ấm
no, tiến bộ, hạnh phúc. Ngoài ra, nếu như việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ như:
nuôi dưỡng, cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi
bị Tòa án tuyên bố phá sản; nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; nghĩa vụ
nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước và các nghĩa vụ khác
có liên quan theo quy định của pháp luật thì cũng sẽ bị vô hiệu. Pháp luật tôn
trọng sự tự do thỏa thuận của các chủ thể tham gia giao dịch nói chung và của
vợ chồng trong việc chia tài sản chung nói riêng. Tuy nhiên, sự thỏa thuận đó
không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các
cá nhân, tổ chức khác trong xã hội. Quyền tự do định đoạt tài sản của vợ
chồng trong trường hợp này chỉ được pháp luật bảo vệ trên cơ sở tôn trọng
quyền và lợi ích của các chủ thể khác.

28
2.2. Phƣơng thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân nhằm mục đích sản xuất kinh doanh riêng của vợ hoặc chồng
Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đã được
ghi nhận kể từ Luật HN&GĐ năm 1986, tuy nhiên pháp luật giai đoạn này
mới chỉ dừng lại ở quy định về quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân mà chưa có quy định cụ thể về việc chia toàn bộ
hay một phần khối tài sản đó. Luật HN&GĐ năm 2000, và Luật HN&GĐ
năm 2014 tiếp tục kế thừa những quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 và đã
phát triển thêm những quy định mới phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn. Điều
30 HN&GĐ năm 2000 có quy định như sau: “Trong trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia
thuộc sở hữu riêng của mỗi người, phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc
sở hữu chung của vợ chồng”, [27, tr.22]. Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy
định cụ thể và rõ ràng hơn việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân, theo đó “Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia
một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42
của Luật này, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết” [36, Điều 38, Khoản 1]. Với quy định này có thể hiểu vợ chồng có thể
chia một phần hoặc chia toàn bộ khối tài sản, có thể thỏa thuận chia hoặc yêu
cầu Tòa án giải quyết. Đối với trường hợp vợ, chồng yêu cầu Tòa án thì dù là
chia một phần hay chia toàn bộ khối tài sản chung Tòa án sẽ giải quyết việc
chia tài sản chung theo quy định tại Điều 59, tức là chia tài sản như khi vợ
chồng ly hôn.
 Chia một phần tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân
Đối với trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm
mục đích đầu tư sản xuất kinh doanh riêng thì nhu cầu về vốn của người kinh
doanh là rất quan trọng. Căn cứ vào nhu cầu về vốn để đầu tư vào sản xuất,

29
kinh doanh mà vợ, chồng chỉ yêu cầu chia một phần trong khối tài sản chung
của vợ chồng. Phần tài sản chung được chia là tổng số tài sản chung được chia
đều cho hai bên. Trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng về tài sản mà mỗi bên vợ,
chồng sẽ được một phần tương ứng khi chia tài sản. Tuy nhiên tùy vào từng
dự án kinh doanh mà vợ hoặc chồng chỉ chia một phần tài sản hoặc một nhóm
tài sản nhất định, đó có thể là quyền sử dụng đất hay một khoản tiền, ngoại tệ
hay một loại tài sản khác đủ để đáp ứng nhu cầu về vốn của hoạt động sản
xuất kinh doanh. Các tài sản còn lại chưa chia thì vẫn thuộc quyền sở hữu
chung của cả hai vợ chồng. Thực tế thì có rất nhiều các cặp vợ chồng chỉ yêu
cầu chia một phần tài sản, nhưng đồng thời cũng có nhiều trường hợp vợ
chồng lại yêu cầu chia toàn bộ khối tài sản chung. Trong nhiều trường hợp vợ
chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không phải do mâu
thuẫn về tình cảm, mà chỉ đơn giản vợ chồng muốn có nguồn vốn để đầu tư
kinh doanh riêng, mang lại lợi nhuận cho bản thân và gia đình, đảm bảo được
khả năng thực hiện nghĩa vụ tài sản của họ đối với người thứ ba, cũng như tạo
ra sự an toàn cho lợi ích chung và duy trì tính bền vững của gia đình. Vì vậy,
vợ chồng vẫn có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trong việc xác lập, thực hiện và
chấm dứt các giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.
Việc vợ chồng chỉ chia một phần tài sản trong khối tài sản chung vẫn phải
đảm bảo những quy định của pháp luật về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân của vợ chồng.
 Chia toàn bộ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân
Ngoài trường hợp vợ chồng yêu cầu chia một phần tài sản trong khối
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì pháp luật còn cho phép vợ chồng chia
toàn bộ khối tài sản chung đó. Chia toàn bộ tài sản có nghĩa là chia tất cả
những tài sản chung tại thời điểm chia, vợ chồng có những tài sản gì thì đem
chia hết, kể cả những phần tài sản đang vay người khác, cho người khác vay,

30
trừ những trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Việc chia toàn bộ tài sản
chung được đặt ra trong trường hợp vợ chồng cần một số lượng lớn tài sản để
thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba hoặc để thành lập, mở rộng
quy mô của dự án đầu tư kinh doanh riêng của mình. Một lý do nữa là họ
muốn tách bạch hoàn toàn về tài sản để người tiến hành sản xuất kinh doanh
có thể chủ động hoàn toàn trong công việc kinh doanh đồng thời nếu có rủi ro
xảy ra thì khi đó sẽ không liên quan đến phần tài sản của bên còn lại. Tuy
nhiên, cũng như trường hợp chia một phần tài sản thì việc chia toàn bộ tài sản
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng phải tuân theo những quy định của
pháp luật để tránh tình trạng vợ chồng trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về
tài sản đối với người thứ ba, ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của cộng đồng,
xã hội. Luật HN&GĐ năm 1986 quy định về trường hợp chia tài sản chung vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân đó là “khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên yêu
cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo
quy định ở Điều 42 của Luật này” [25, Điều 18]. Điều này có nghĩa là tài sản
chung của vợ chồng sẽ được chia như khi ly hôn, chia tất cả và chấm dứt sở
hữu chung. Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định rõ ràng về trường hợp
này. Luật HN&GĐ năm 2014 và Nghị định số 126/2014/NĐ-CP đã quy định
cụ thể về vấn đề trên đồng thời cũng đã khắc phục được những điểm thiếu sót
và chưa phù hợp từ những quy định pháp luật trước đó. Luật HN&GĐ năm
2014 quy định vợ chồng có thể chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân. Nguyên tắc giải quyết yêu cầu chia tài sản chung vợ
chồng vẫn dựa trên nguyên tắc chia như khi ly hôn, đó là chia đôi và có xem
xét đến công sức đóng góp của từng người.
Theo quy định tại Nghị định số 126/2014/NĐ-CP thì việc chia tài sản
chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản
của vợ chồng theo luật định. Sau khi chia tài sản chung nếu những tài sản có

31
được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ chồng mà không xác định được đó
là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh của vợ, chồng hay là
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng thì sẽ thuộc sở hữu chung của vợ
chồng. Ngoài ra, Nghị định số 126/2014/NĐ-CP cũng nêu rõ những hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đã được chia, và tài sản riêng khác có từ
trước của vợ, chồng cũng sẽ thuộc tài sản riêng của vợ, chồng. Những tài sản
riêng khác ở đây có thể hiểu là những tài sản riêng của vợ, chồng có trước khi
kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân và các tài sản khác theo quy định của pháp luật là tài sản riêng của vợ,
chồng [36, Điều 43]. Nghị định số 126/2014/ NĐ-CP đã quy định rõ ràng về
cách thức cũng như nguyên tắc áp dụng giải quyết yêu cầu chia tài sản chung
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đây là điểm tiến bộ hơn so với các quy định
pháp luật trước đó.
2.3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân để vợ hoặc chồng sản xuất kinh doanh riêng
Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định về hậu quả của việc chia tài sản
chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, như sau:
Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần
tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi
bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không
chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng [36, Điều 40].
Quy định nói trên chỉ mới đề cập đến việc xác định tài sản chung, tài
sản riêng của vợ chồng và hoa lợi, lợi tức của các bên sau khi chia mà chưa có
quy định về quyền và nghĩa vụ cụ thể của vợ chồng đối với nhau, của vợ
chồng đối với gia đình và con cái. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân của vợ chồng nhằm mục đích đầu tư sản xuất kinh doanh riêng của một

32
bên không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng về mặt pháp lý, giữa họ vẫn còn
tồn tại những mối quan hệ về nhân thân và tài sản.
2.3.1. Quan hệ nhân thân
Việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục
đích đầu tư kinh doanh riêng của một bên không làm chấm dứt quan hệ vợ
chồng trước pháp luật, quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng vẫn tồn tại như
trước khi tiến hành chia tài sản chung. Quan hệ nhân thân giữa vợ chồng vẫn
chịu sự điều chỉnh từ Điều 17 đến Điều 23 của Luật HN&GĐ năm 2014.
Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng là những lợi ích nhân thân mà mỗi bên
vợ chồng được hưởng khi họ xác lập quan hệ hôn nhân, những quan hệ này
không mang nội dung kinh tế, nó gắn liền với vợ chồng và không thể chuyển
giao cho người khác. Mặc dù vợ chồng có chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân nhưng giữa họ vẫn tồn tại các quyền và nghĩa vụ như chung thủy,
yêu thương, chăm sóc và quý trọng lẫn nhau, bình đẳng, đại diện cho nhau và
thừa kế tài sản nếu trong trường hợp một bên chết trước…. Mục đích của hôn
nhân là xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Để
hôn nhân đạt được mục đích đó thì điều cơ bản là vợ chồng phải yêu thương
nhau, chung thuỷ với nhau, quý trọng, chăm sóc giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Xuất phát từ tình yêu thương mà vợ chồng chung thuỷ với nhau, tình cảm của
họ trước sau như một. Chính hai yếu tố đó đã giúp cho vợ chồng chung sống
hạnh phúc và là cơ sở để duy trì quan hệ hôn nhân bền vững. Thực tế cho thấy
nhiều cặp vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm
mục đích tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh riêng vì không muốn
ảnh hưởng đến lợi ích gia đình, mặt khác đảm bảo đời sống ổn định của gia
đình, đây là điểm tích cực cần được khuyến khích.
Khi vợ chồng tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm
mục đích sản xuất kinh doanh riêng thì thường xảy ra hai trường hợp, đó là

33
sau khi chia tài sản chung vợ chồng vẫn ở chung với nhau hoặc vợ chồng sẽ
sống riêng. Trong trường hợp vợ chồng vẫn sống chung và cư trú cùng một
nơi thì việc quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và đối với gia đình, những quyền và
nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ chồng với nhau, với gia đình con cái vẫn được
thực hiện một cách trọn vẹn [15, tr.55,56]. Tuy nhiên, cũng có không ít trường
hợp sau khi chia tài sản chung thì vợ chồng lại sống riêng, mặc dù quyền và
nghĩa vụ về nhân thân của họ trong trường hợp này là không hề thay đổi
nhưng trên thực tế ít nhiều việc thực hiện những quyền và nghĩa vụ đó cũng bị
ảnh hưởng. Đặc biệt là vấn đề đại diện giữa vợ và chồng sẽ được thực hiện
như thế nào khi họ không ở cùng một nơi. Sau khi chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân, quyền đại diện cho nhau giữa vợ, chồng vẫn
tồn tại. Luật HN&GĐ năm 2014 đã dành riêng một mục để quy định về vấn
đề đại diện giữa vợ và chồng. Theo đó, vợ chồng có quyền đại diện cho nhau
theo ủy quyền hoặc theo pháp luật để xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao
dịch mà theo quy định của pháp luật cần phải có sự đồng ý của cả hai vợ
chồng. Vợ, chồng cũng có thể đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực
hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một
bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm
người đại diện theo pháp luật cho người đó [36, Điều 24]. Trong trường hợp
vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh
doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Bên cạnh việc quy định quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau, sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân thì trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên
thực hiện vẫn phát sinh trong trường hợp một bên vợ, chồng tham gia giao
dịch hợp pháp nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia
đình. Ngoài những quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng với nhau, thì vợ

34
chồng còn có những mối quan hệ nhân thân đối với gia đình sau khi chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
nhằm mục đích đầu tư kinh doanh riêng không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ
về nhân thân của vợ chồng đối với gia đình, đặc biệt là đối với con chưa thành
niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự. Trên cơ sở tính chất cộng đồng của hôn nhân thì ngay cả trong
trường hợp vợ chồng thỏa thuận ở riêng sau khi chia tài sản chung thì quan hệ vợ
chồng cũng không chấm dứt trước pháp luật. Vì vậy, việc chia tài sản chung
không làm thay đổi quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng.
2.3.2. Quan hệ tài sản
Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt
quan hệ vợ chồng trước pháp luật, vì vậy những tài sản phát sinh sau đó vẫn chịu
sự chi phối của quy chế pháp lý về tài sản chung. Luật HN&GĐ năm 2014 vẫn
kế thừa những quy định về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ở
Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000 tuy nhiên đã có những quy
định cụ thể và phù hợp hơn với thực tế xã hội hiện nay. Điều 38 Luật HN&GĐ
năm 2014 đã có thêm điểm khác biệt đó là vợ chồng có thể thỏa thuận chia một
phần hoặc chia toàn bộ tài sản chung. Quy định này có ý nghĩa thiết thực bởi
xuất phát từ nhu cầu thực tế mà vợ chồng có thể yêu cầu hay thỏa thuận chia một
phần tài sản vừa bảo đảm được nghĩa vụ tài sản, mục đích kinh doanh của các
bên đồng thời vẫn bảo đảm được lợi ích chung của gia đình. Trong khi đó yêu
cầu chia toàn bộ tài sản chỉ đặt ra trong những hoàn cảnh đặc biệt khi mà việc
chia một phần không đáp ứng được nhu cầu thực tế mà họ đang cần. Việc chia
tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích tạo điều kiện thuận
lợi cho một bên vợ hoặc chồng sản xuất kinh doanh riêng sẽ phát sinh những hậu
quả pháp lý về mặt tài sản. Cụ thể là:

35
Quyền sở hữu riêng của vợ, chồng đối với tài sản được chia
Theo quy định tại Luật HN&GĐ năm 2014 về hậu quả pháp lý của việc chia
tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì: “Phần tài sản được chia, hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài
sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản
còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng” [36, Điều 40].
Trong trường hợp vợ chồng có rất nhiều tài sản chung, nhưng họ chỉ thỏa
thuận để chia một phần nhỏ trong khối tài sản đó thì phần được chia đó sẽ thuộc
sở hữu riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng. Sau khi vợ chồng đã chia tài sản chung
để một bên tiến hành sản xuất kinh doanh riêng thì những khoản lợi nhuận thu
được trong quá trình sản xuất kinh doanh sẽ là tài sản riêng của bên vợ hoặc
chồng. Mặt khác, những nghĩa vụ về tài sản phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh sẽ được lấy từ tài sản riêng của bên vợ hoặc chồng trực tiếp kinh
doanh. Trong các loại hình doanh nghiệp như Công ty Trách nhiệm hữu hạn
hoặc Công ty cổ phần thì thành viên hoặc cổ đông của công ty phải chịu trách
nhiệm về tài sản trong phạm vi số vốn góp vào công ty. Ví dụ, sau khi chia tài
sản chung vợ chồng, anh A góp số tiền 500 triệu đồng cùng bạn thành lập công
ty Trách nhiệm hữu hạn. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, những
khoản lợi nhuận thu được, tiền lương hàng tháng sẽ thuộc tài sản riêng của anh
A. Đồng thời anh A cũng phải chịu trách nhiệm về tài sản trong phạm vi số vốn
500 triệu mà anh đã góp khi thành lập công ty. Đây là trách nhiệm đối với tài sản
riêng của anh và không liên quan đến những tài sản chung còn lại trong trường
hợp vợ chồng anh chỉ chia một phần trong khối tài sản chung đó. Luật HN&GĐ
năm 2014 cũng đã quy định nghĩa vụ về tài sản riêng của mỗi người được thanh
toán từ tài sản riêng của người đó (khoản 3, Điều 44). Quyền định đoạt về tài sản
riêng của vợ chồng chỉ bị hạn chế trong trường hợp tài sản riêng đó là nguồn
sống duy nhất của gia đình. Đối với những

36
tài sản riêng khi vợ chồng đã chia từ khối tài sản chung thì sẽ không chịu sự
ràng buộc của quy định trên bởi vì vợ chồng đã có sự thỏa thuận từ trước.
Ngoài những tài sản thu được từ việc đầu tư kinh doanh riêng của vợ, chồng
sau khi chia tài sản chung thì những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
khác của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng [4, Điều 14, Khoản 2].
Quyền sở hữu của vợ chồng đối với khối tài sản chung còn lại
Trong thời kỳ hôn nhân, ngoài mục đích sản xuất kinh doanh riêng thì
có những lý do khác để vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung. Nếu như theo
Luật HN&GĐ năm 1986, khi vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung thì tòa án
sẽ áp dụng chia như khi ly hôn, tức là sẽ chấm dứt chế độ tài sản của vợ
chồng. Luật HN&GĐ năm 2014 và Nghị định số 126/2014/NĐ-CP đã có quy
định phù hợp hơn, đó là việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ
chồng không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. Nghị
định số 126/2014/NĐ-CP quy định:
Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực,
nếu tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà
không xác định được đó là thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất,
kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
đó thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng [4, Điều 14, Khoản 3].
Như vậy, quy định trên đã nói rõ về những tài sản vẫn thuộc sở hữu
chung của vợ chồng kể cả sau khi vợ chồng chia tài sản chung. Ngoài ra, ở
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP còn quy định về hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
“tài sản riêng khác” của vợ, chồng, sẽ được xác định là tài sản riêng của vợ,
chồng. Có thể nói quy định trên của Nghị định số 126/2014/NĐ-CP đã mẫu
thuẫn với quy định tại Điều 33 của Luật HN&GĐ năm 2014 về tài sản chung
của vợ chồng. Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng (trừ trường hợp vợ, chồng có thỏa thuận khác) là tài

37
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản riêng của vợ, chồng bao
gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, tặng
cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định về tài sản chung của vợ
chồng (Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014). Như vậy, từ những quy định trên của
Luật HN&GĐ năm 2014 có thể hiểu rằng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nếu như vợ, chồng không có thỏa
thuận nào khác thì nó sẽ được xác định là tài sản chung của vợ, chồng. Những
hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng khác của vợ, chồng chỉ được xác định là tài sản
riêng khi vợ, chồng sử dụng tài sản đó vào hoạt động sản xuất kinh doanh riêng
của họ. Ví dụ, vợ chồng anh A thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân là số tiền 1 tỷ để anh A mở công ty kinh doanh riêng. Ngoài ra anh A còn
có một căn nhà do được bố mẹ anh tặng cho riêng anh, từ trước thời điểm chia
tài sản chung, căn nhà này anh A cho thuê mỗi tháng được 20 triệu. Theo quy
định tại Điều 33 và 43 của Luật HN&GĐ năm 2014 thì số tiền thuê nhà hàng
tháng mà vợ chồng anh A nhận được sẽ là tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân. Sau khi chia tài sản chung, ngoài số vốn 500 triệu đã được chia thì
do nhu cầu của việc kinh doanh anh A đã sử dụng căn nhà nói trên để làm văn
phòng và sử dụng vào hoạt động kinh doanh của công ty. Như vậy, kể từ thời
điểm này những thu nhập có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh và từ việc
khai thác căn nhà sẽ trở thành tài sản riêng của anh A. Có thể nói, quy định tại
khoản 2 Điều 14 của Nghị định số 126/2014/NĐ-CP là không phù hợp, nó mâu
thuẫn với quy định về nguồn gốc hình thành tài sản chung vợ chồng tại Luật
HN&GĐ năm 2014. Theo quan điểm của tác giả, thì những hoa lợi, lợi tức thu
được từ tài sản riêng của vợ chồng sẽ là tài sản chung trừ trường hợp những tài
sản riêng đó được vợ, chồng đưa vào sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh riêng của họ.

38
Ngoài ra, đối với tài sản là quyền sử dụng đất thì theo quy định tại Điều
33 Luật HN&GĐ năm 2014 quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi
kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng được thừa kế
riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản
riêng. Cần phải phân biệt rõ quyền sử dụng đất của vợ chồng có được sau khi
chia tài sản chung, nó chỉ là tài sản chung của vợ chồng nếu quyền sử dụng
đất đó không liên quan đến phần tài sản được chia từ tài sản chung của vợ
chồng. Đối với trường hợp sau khi chia tài sản chung, vợ hoặc chồng thuê đất,
được giao đất để đầu tư kinh doanh riêng thì quyền sử dụng đất đó là tài sản
riêng của vợ chồng. Pháp luật cần quy định theo hướng: quyền sử dụng đất
mà vợ chồng hoặc mỗi bên vợ hoặc chồng có được sau khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân vẫn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp
quyền sử dụng đất có được từ việc đầu tư kinh doanh riêng của mỗi bên vợ,
chồng sau khi đã chia tài sản chung.
Việc chia tài sản chung để đầu tư kinh doanh riêng một mặt tạo điều
kiện cho vợ, chồng có vốn cần thiết để sản xuất kinh doanh nhưng lý do quan
trọng hơn là vì lợi ích chung của gia đình, tránh những rủi ro trong kinh doanh
làm ảnh hưởng đến gia đình, con cái. Khi chia tài sản chung với mục đích để
đầu tư kinh doanh riêng cần phân biệt hai loại thu nhập phát sinh sau khi chia
tài sản chung đó là: hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản đã được chia do
hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại, loại thu nhập này sẽ là tài sản riêng
của vợ, chồng nếu không có thỏa thuận nào khác. Loại thứ hai là những thu
nhập khác không liên quan đến phần tài sản đã được chia, như tiền lương,
thưởng, trợ cấp, tiền trúng xổ số… đây vẫn được coi là tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân vì sau khi chia tài sản chung về nguyên tắc quan
hệ hôn nhân giữa vợ chồng và chế độ sở hữu chung hợp nhất vẫn còn tồn tại.
Vì vậy, những thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất kinh

39
doanh và những thu nhập hợp pháp khác chỉ là tài sản riêng của mỗi bên vợ
chồng khi nó gắn liền với phần tài sản riêng đã được chia, ngược lại những
thu nhập đó sẽ là tài sản chung vợ chồng nếu như không liên quan đến tài sản
đã được chia [21].
Việc quy định về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân tại Nghị định số 126/2014/NĐ-CP đã góp phần khắc
phục được sự bất cập và mâu thuẫn của những quy định pháp luật trước đây.
Nó là cơ sở pháp lý để xác định tài sản của vợ chồng sau khi chia tài sản
chung và giải quyết những tranh chấp phát sinh trong thực tiễn.
2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con chung và đời sống
chung của gia đình sau khi chia tài sản chung
Việc vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là xu hướng
phát triển chung của xã hội. Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
thì quan hệ nhân thân của vợ chồng cũng bị ảnh hưởng ở một mức độ nhất
định. Các quan hệ về tài sản lại có sự thay đổi đáng kể, khối tài sản thuộc sở
hữu riêng của vợ chồng có xu hướng tăng lên trong khi tài sản chung hợp nhất
lại có xu hướng bị giảm xuống thậm chí là không còn. Vì vậy, vấn đề đặt ra là
làm thế nào để đảm bảo được lợi ích chính đáng của gia đình sau khi vợ
chồng thỏa thuận chia tài sản chung. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với
con chung, với đời sống chung của gia đình sẽ như thế nào? Mặc dù vợ chồng
chia tài sản chung, có thể là chia toàn bộ, chia một phần tài sản xong quan hệ
vợ chồng của họ vẫn tồn tại trước pháp luật nên họ vẫn có mọi quyền và phải
thực hiện đầy đủ mọi nghĩa vụ đối với gia đình [41, tr.56,57].

Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng đối với gia đình sau
khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích
đầu tư kinh doanh riêng không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của cha mẹ

40
đối với con cái. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng đối với gia
đình là mối quan hệ giữa cha mẹ đối với con cái, đặc biệt là con chưa thành
niên hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Quyền và
nghĩa vụ nhân thân giữa cha mẹ và con cái là các lợi ích tinh thần và tình yêu
thương, gắn bó dựa trên mối quan hệ tình cảm và huyết thống. Cha mẹ có
quyền và nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên,
con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự,
cụ thể Luật HN&GĐ năm 2014 đã ghi nhận: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền
thương yêu, tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học tập và giáo dục để con
phát triển lành mạnh về thể chất, tri tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu
thảo của gia đình, công dân có ích của xã hội” [36, Điều 69, Khoản 1]. Cha
mẹ bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con
cái trong gia đình. Cha mẹ phải yêu thương con, chăm lo cho sự phát triển của
con cả về thể chất lẫn trí tuệ và đạo đức để đứa con trở thành con ngoan trong
gia đình và là công dân có ích cho xã hội. Đây là quyền cơ bản mà con cái
được hưởng và phải được đảm bảo thực hiện. Đặc biệt, xuất phát từ mối quan
hệ ruột thịt gần gũi cũng như khả năng nhận thức của con chưa thành niên,
con đã thành niên nhưng mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì pháp
luật Hôn nhân và gia đình hiện hành còn quy định cha mẹ còn là người đại
diện theo pháp luật cho con để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của con.
Gia đình có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của
mỗi con người, những mối liên hệ của con cái với các thành viên khác trong
gia đình, nhất là đối với cha mẹ sẽ quyết định cách thức ứng xử đặc biệt là về
tình cảm của con cái sau này.
Về nguyên tắc thì quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng đối với
con cái không thay đổi sau khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân. Tuy nhiên ở một khía cạnh nào đó thì những quyền và nghĩa vụ này vẫn

41
bị ảnh hưởng bởi vì sau khi chia tài sản chung vợ chồng có thể vẫn ở chung
một nhà nhưng cũng có nhiều trường hợp mỗi người ở một nơi. Nếu như vợ
chồng chỉ chia một phần tài sản chung và sau khi chia họ vẫn chung sống
cùng nhau thì việc nuôi dưỡng, chăm sóc con cái trong gia đình hầu như ít bị
ảnh hưởng, nhưng trong trường hợp vợ chồng chia toàn bộ tài sản và mỗi
người sống một nơi khác nhau thì việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối
với con cái gặp nhiều khó khăn và không được thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên,
thực tế đã phát sinh vấn đề khi vợ chồng chia toàn bộ tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân và ở riêng thì con chưa thành niên sẽ ở với ai? Trong trường hợp
này con chưa thành niên có thể ở với bố hoặc với mẹ theo sự thỏa thuận của
vợ chồng, nhưng nếu vợ chồng không có thỏa thuận và có tranh chấp về nuôi
con thì Tòa án sẽ giải quyết như thế nào trong khi pháp luật hôn nhân hiện
hành chỉ mới dừng lại ở việc quy định cho Tòa án giải quyết tranh chấp về
nuôi con khi vợ chồng ly hôn mà chưa đặt ra đối với trường hợp vợ chồng
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đây là một vấn đề cần được pháp
luật xem xét và có quy phạm phù hợp để điều chỉnh.

Quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với gia đình sau khi
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Nhu cầu đời sống chung của gia đình bao gồm các lợi ích về tinh thần,
vật chất của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình. Điều 29 và 30
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định vợ chồng có nghĩa vụ đảm bảo điều kiện
để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Tài sản chung của vợ chồng là cơ
sở kinh tế nhằm đáp ứng những lợi ích này. Vợ chồng bình đẳng với nhau về
quyền và nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt khối
tài sản chung. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ thực hiện các giao dịch nhằm
đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình như việc ăn ở, học hành và các
nhu cầu thiết yếu khác nhằm đảm bảo cuộc sống bình thường của các thành

42
viên trong gia đình. Ngoài ra, trong trường hợp “vợ chồng không có tài sản
chung, hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia
đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế
của mỗi bên” [36, Điều 30, Khoản 2]. Sự kiện chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp
luật, do đó vợ chồng vẫn phải có trách nhiệm chăm lo đời sống chung của gia
đình và xuất phát từ lợi ích chung của gia đình. Lợi ích của gia đình luôn
được ưu tiên và được đảm bảo nên sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân thì cả vợ và chồng đều phải có nghĩa vụ liên đới trong trường hợp
một bên thực hiện các giao dịch hợp pháp nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh
hoạt thiết yếu của gia đình. Đặc biệt, trong trường hợp vợ chồng ở riêng sau
khi chia tài sản chung thì giao dịch do một bên thực hiện mà không có sự thỏa
thuận với bên kia là rất phổ biến. Trong những trường hợp như vậy, nếu giao
dịch đủ điều kiện hợp pháp và nhằm phục vụ đời sống chung của gia đình ví
dụ như chi phí chăm sóc, giáo dục hay chữa bệnh cho con cái… thì vợ chồng
vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm. Nghĩa vụ phát sinh trước hết sẽ được
thanh toán bằng tài sản chung, nếu như tài sản chung không còn hoặc còn
nhưng không đủ thì vợ, chồng phải lấy tài sản riêng để thanh toán.
Một vấn đề khác đặt ra là sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân mà vợ chồng không ở chung cùng các con thì liệu có phát sinh nghĩa vụ
cấp dưỡng không? Sau khi chia tài sản chung, đặc biệt là trong trường hợp
chia toàn bộ tài sản chung thì tài sản chung về cơ bản là không còn, tài sản
riêng của các bên có sự chênh lệch lớn, mặt khác vợ chồng có nghĩa vụ ngang
nhau trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con cái nên phải có nghĩa vụ đóng góp
tài sản để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu cho sự phát triển bình thường của
con. Cha mẹ là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã
thành niên bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao

43
động và không có tài sản để tự nuôi mình. Do đó, nếu một bên vợ hoặc chồng
không sống cùng con mà trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng thì buộc
phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “Cha
mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong
trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi
phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con” [36, Điều 110]. Luật HN&GĐ năm 2000
mới chỉ quy định nghĩa vụ cấp dưỡng của vợ hoặc chồng đối với con cái trong
trường hợp vợ chồng ly hôn mà chưa có quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng
trong trường hợp vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Luật
HN&GĐ năm 2014 đã khắc phục điểm thiếu sót trên và đã quy định rõ trong
trường hợp vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà
ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình, quyền và lợi ích hợp pháp của
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; yêu cầu chia
tài sản để nhằm trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng sẽ bị tuyên là vô
hiệu. Nuôi dưỡng, cấp dưỡng con cái là nghĩa vụ của cha mẹ, và pháp luật sẽ
không thừa nhận việc trốn tránh nghĩa vụ trên dù là ở bất kỳ hình thức nào
[36, Điều 42, Khoản 1,2]. Quy định trên đã góp phần quan trọng trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình đặc biệt là của con chưa thành
niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động.
2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba khi chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân để một bên sản xuất, kinh doanh riêng
Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong
các giao dịch đối với người thứ ba. Những nghĩa vụ này có thể được xác lập
trước hoặc trong trong thời kỳ vợ chồng chia tài sản chung. Khoản 4 Điều 39
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng

44
với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực
vẫn có giá trị pháp lý trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác” [36]. Trong
cuộc sống hằng ngày để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ,
chồng tham gia xác lập và thực hiện các giao dịch với các chủ thể khác. Xuất
phát từ yêu cầu sản xuất kinh doanh riêng của một bên mà vợ, chồng thỏa
thuận chia tài sản chung. Tuy nhiên, tính đến trước thời điểm việc chia tài sản
chung của vợ chồng có hiệu lực thì các nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ
chồng cùng thỏa thuận xác lập hay do một bên xác lập nhưng nhằm đáp ứng
nhu cầu của gia đình thì vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm. Những thỏa
thuận về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không
làm thay đổi quyền và nghĩa vụ tài sản của họ xác lập trước đó với người thứ
ba. Pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản và quyền tự do kinh doanh
của vợ, chồng nhưng sự thỏa thuận đó không được trốn tránh các nghĩa vụ trả
nợ cho tổ chức, cá nhân cũng như các nghĩa vụ về tài sản khác theo quy định
của pháp luật. Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có
quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung. Theo quy
định tại Khoản 3 Điều 41 thì: “Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời
điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác”. Sau khi vợ chồng chia tài sản
chung thì ngoài những tài sản riêng có từ trước của mỗi người, họ còn có một
phần tài sản được chia từ khối tài sản chung để đầu tư kinh doanh riêng. Quá
trình đầu tư kinh doanh có thể mang lại nhiều lợi nhuận cho chủ thể kinh
doanh nhưng đồng thời nó cũng mang lại những rủi ro và những khoản nợ về
tài sản nhất định. Nếu trường hợp sau một thời gian chia tài sản chung để vợ,
chồng kinh doanh riêng mà vợ chồng lại có thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của
việc chia tài sản chung thì những giao dịch trước đó sẽ là nghĩa vụ riêng của
từng người, trừ trường hợp họ thỏa thuận khác và có thể trở thành nghĩa vụ

45
chung của cả vợ, chồng. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có biểu hiện
trốn tránh việc thực hiện đối với người thứ ba thì thiết nghĩa trong trường hợp
này người thứ ba có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc người có nghĩa vụ
phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình. Quy định trên là phù hợp và là căn
cứ để người thứ ba có thể tự bảo vệ những quyền và lợi ích chính đáng của
bản thân khi những lợi ích đó bị xâm hại.
2.4. Vấn đề chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích sản xuất kinh doanh riêng
Luật HN&GĐ năm 2014 cũng không có quy định cụ thể về việc khôi
phục chế độ tài sản chung của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, thông qua các quy định về chấm dứt hiệu lực của
việc chia tài sản chung vợ chồng thì nó cũng đã thể hiện được nội dung của
việc khôi phục chế độ tài sản chung vợ chồng. Theo quy định của pháp luật
thì vợ chồng có quyền thỏa thuận chia tài sản chung đồng thời cũng có quyền
thỏa thuận để chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung đó. Sau khi vợ
chồng thỏa thuận về việc chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung thì các
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trở lại từ đầu và áp dụng theo quy định tại
Điều 33, 43 của Luật HN&GĐ năm 2014 về tài sản chung, tài sản riêng của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, những tài sản đã chia trước đó thì vẫn giữ
nguyên. Trước đây những quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 và Nghị
định số 70/NĐ-CP không có quy định việc vợ chồng thỏa thuận chấm dứt
hiệu lực của việc chia tài sản chung mà thay vào đó lại là quy định về khôi
phục chế độ tài sản chung. Quy định trên là không phù hợp bởi bản chất của
việc vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân với mục đích đầu tư
kinh doanh riêng chỉ là giải pháp để đáp ứng nhu cầu về vốn khi vợ hoặc
chồng muốn tham gia các hoạt động đầu tư kinh doanh, nó không đương
nhiên làm chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng. Do đó giữa vợ chồng

46
vẫn tồn tại chế độ sở hữu chung hợp nhất đối với những tài sản được thừa kế
chung, tặng cho chung. Vì vậy, việc khôi phục chế độ tài sản chung chỉ có ý
nghĩa và thực sự cần thiết nếu có quy định rằng việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân sẽ làm chấm dứt hoàn toàn chế độ sở hữu chung của vợ
chồng, nói cách khác là thừa nhận chế độ biệt sản nếu vợ chồng chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân. Theo Luật HN&GĐ năm 2014 và Nghị định số
126/NĐ-CP thì việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. Như vậy,
không chỉ trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc
chia tài sản chung mà ngay cả trong giai đoạn chia tài sản chung nếu như
những tài sản có được mà không xác định được đó là thu nhập từ hoạt động
sản xuất kinh doanh hay từ tài sản riêng khác của vợ chồng thì thuộc sở hữu
chung của vợ chồng.

47
Chương 3
NHỮNG VƢỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG VIỆC ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG ĐỂ TIẾN HÀNH HOẠT
ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.1. Một số vƣớng mắc, bất cập khi áp dụng pháp luật về chia tài
sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để vợ hoặc chồng sản xuất
kinh doanh riêng
So với những quy định về việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân ở Luật HN& GĐ năm 1986 thì Luật HN& GĐ năm 2000 và Luật
HN&GĐ năm 2014 đã có sự phát triển và cụ thể hơn, góp phần đáp ứng được
nhu cầu chính đáng của vợ chồng và củng cố chế độ hôn nhân gia đình. Bên
cạnh những thành tựu đã đạt được thì một số quy định về chia tài sản chung
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn chưa cụ thể và thiếu những văn bản
hướng dẫn chi tiết dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất. Thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân với mục đích để một bên vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng
đã cho thấy những điểm bất cập và chưa hợp lý. Cụ thể là:
3.1.1. Quyền yêu cầu chia tài sản chung để một bên vợ hoặc chồng
sản xuất kinh doanh riêng
Quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là quyền gắn
liền với nhân thân của vợ chồng. Pháp luật hiện hành mới chỉ quy định quyền
yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng mà
chưa có sự tham gia của chủ thể thứ ba, đó có thể là chủ nợ hoặc là người mà
vợ hoặc chồng có nghĩa vụ dân sự riêng phải thực hiện. Việc quy định chỉ vợ,
chồng mới có quyền thỏa thuận chia hoặc yêu cầu Tòa án chia khi vợ chồng
không thỏa thuận được việc chia và không thừa nhận quyền của chủ thể thứ
ba là phù hợp về mặt nguyên tắc, tuy nhiên trên thực tế thì có nhiều trường

48
hợp vợ chồng không thỏa thuận hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung
nhằm trốn tránh nghĩa vụ thanh toán của mình. Như vậy, sẽ không đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Trong những trường hợp
như trên, người thứ ba có thể yêu cầu Tòa án thông báo việc chia tài sản của
vợ chồng là vô hiệu khi việc chia tài sản đó nhằm trốn tránh việc thực hiện
nghĩa vụ với họ. Đồng thời, họ cũng có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án buộc
người có nghĩa vụ về tài sản phải thực hiện. Quy định này nhằm tạo cơ sở
pháp lý để người thứ ba tự bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình khi
tham gia các giao dịch về tài sản với vợ, chồng.
3.1.2. Hình thức chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Có thể thấy so với Luật HN&GĐ năm 2000 thì Luật HN&GĐ năm 2014
đã có những điểm mới hơn. Đó là Luật HN&GĐ năm 2014 không quy định về
những lý do được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nữa. Nếu như trước
đây ở Luật HN&GĐ năm 2000 quy định tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân chỉ được chia khi một trong hai bên muốn: đầu tư kinh doanh
riêng; thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì Luật
HN&GĐ năm 2014 chỉ quy định “Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có quyền
thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung” [36]. Quy định tại Điều
29 Luật HN&GĐ năm 2000 đã thể hiện những điểm bất cập khi áp dụng trong
thực tế, vì rất khó để đưa ra căn cứ xác định lý do như thế nào được coi là chính
đáng hay không chính đáng. Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 cũng không loại
trừ được những trường hợp như thế nào bị coi là vô hiệu khi vợ chồng yêu cầu
chia tài sản chung mà mới chỉ dừng lại ở quy định “Việc chia tài sản chung của
vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật
công nhận” [27, Điều 29, Khoản 2]. Đến Luật HN&GĐ năm 2014 đã khắc phục
được những điểm bất cập trên và được tháo gỡ tại Điều 42 về những trường hợp
chia tài sản chung bị coi là vô hiệu.

49
Việc chia tài sản chung được thể hiện dưới hình thức văn bản. Văn bản
thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng được công chứng theo yêu cầu của vợ
chồng hoặc quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cũng như Luật HN&GĐ năm
2000 thì Luật HN&GĐ năm 2014 chưa có quy định nào thể hiện việc thỏa
thuận chia tài sản chung của vợ chồng bắt buộc phải công chứng. Ví dụ vợ
chồng anh C dùng tài sản chung để kinh doanh, việc kinh doanh thua lỗ và
công ty của họ bị phá sản. Nhằm để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ đối với các chủ
nợ, vợ chồng anh đã thỏa thuận chia toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân. Do chưa có các quy định của pháp luật bắt buộc việc thỏa thuận chia tài
sản chung vợ chồng phải công chứng tại các cơ quan có thẩm quyền nên rất
khó kiểm soát những trường hợp như của vợ chồng anh C nói trên. Theo tác
giả, ngoài việc phải có quy định bắt buộc văn bản thỏa thuận chia tài sản
chung vợ chồng phải được công chứng thì cũng cần có quy định là vợ chồng
phải công khai việc chia tài sản chung đối với người thứ ba có liên quan đến
các giao dịch về tài sản với vợ chồng.
3.1.3. Về hiệu lực của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân
Theo quy định của pháp luật, hiệu lực của văn bản thỏa thuận về chia
tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định theo những thời
điểm khác nhau. Tùy vào hình thức chia tài sản chung của vợ chồng là thỏa
thuận hay yêu cầu Tòa án giải quyết mà thời điểm này khác nhau. Trường hợp
nếu văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ
thời điểm có hiệu lực thì việc chia tài sản sẽ có hiệu lực từ ngày tháng năm
lập văn bản. Đối với các văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng
mà được lập tại Văn phòng công chứng thì thời điểm có hiệu lực thường là
ngay sau khi hai bên ký và được công chứng. Ví dụ như văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà cụ thể là quyền sử dụng đất và

50
tài sản gắn liền với đất giữa ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị X tại Văn
phòng công chứng Hà nội. Do ông bà không có thỏa thuận cụ thể về thời điểm
có hiệu lực của việc chia tài sản chung nên trong văn bản thỏa thuận có quy
định thời điểm có hiệu lực là “ ngay sau khi ký và được công chứng”. Ngoài
ra, đối với các trường hợp yêu cầu Tòa án giải quyết thì việc chia tài sản sẽ có
hiệu lực từ ngày Quyết định cho chia tài sản chung của Tòa án có hiệu lực
pháp luật.
Từ thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật đã cho thấy những điểm
còn hạn chế và thiếu chặt chẽ. Việc quy định thời điểm có hiệu lực đối với
trường hợp vợ chồng thỏa thuận và lập văn bản về việc chia tài sản chung là
từ thời điểm được xác định trong văn bản đã tạo ra kẽ hở để các bên vợ chồng
hợp lý hóa việc chia tài sản và trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người thứ
ba. Vì vậy, cần phải thống nhất về thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa
thuận chia tài sản chung vợ chồng để tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng giải
quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến việc chia tài sản chung vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân [23, tr.79-80].
3.1.4. Về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung khi một bên vợ
hoặc chồng đầu tư kinh doanh riêng trong thời kỳ hôn nhân
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định cụ thể về hậu quả pháp lý của việc chia
tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân “Trong trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau
khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng” [36]. So
với Luật HN&GĐ năm 2000 thì HN&GĐ năm 2014 đã quy định thêm về trường
hợp “vợ chồng có thỏa thuận khác” thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với sự tự
do ý chí, thỏa thuận của vợ chồng. Đồng thời những thỏa thuận của vợ chồng về
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cũng không làm

51
thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với
người thứ ba.
Như vậy, quy định về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ
chồng thì chỉ phần tài sản được chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ đó mới
được coi là tài sản riêng còn các tài sản khác vẫn chịu sự chi phối của quy chế
pháp lý về tài sản chung. Sau khi chia tài sản chung và một bên vợ hoặc
chồng sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh riêng thì người đó hoàn toàn
chủ động và có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tài sản này
mà không chịu sự chi phối của người kia. Theo các quy định về quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng thì người chồng, vợ
không trực tiếp kinh doanh vẫn có quyền thể hiện ý chí khi vợ hoặc chồng
định đoạt phần tài sản riêng mà tài sản đó đã đưa vào sử dụng, hoa lợi, lợi tức
là nguồn sống duy nhất của gia đình. Vì vậy, cần phải có quy định cụ thể về
vấn đề này. Bởi vì khi đã chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
để một bên vợ hoặc chồng kinh doanh riêng thì phần hoa lợi, lợi tức thu được
từ hoạt động kinh doanh đó là tài sản riêng. Chia tài sản chung để một bên vợ
hoặc chồng đầu tư kinh doanh riêng không có những mâu thuẫn nội tại trong
quan hệ vợ chồng mà chỉ là vấn đề không thống nhất được việc dùng tài sản
để đầu tư, kinh doanh. Việc quy định hậu quả pháp lý của việc chia tài sản
chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Điều 40 của Luật HN&GĐ năm
2014 là phù hợp. Theo quy định tại Điều 33 của Luật HN&GĐ năm 2014,
trong thời kỳ hôn nhân mọi tài sản mà vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ
chồng đều được coi là còn tài sản chung của vợ chồng. Khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân, vì quan hệ vợ chồng vẫn đang tồn tại và do tính chất
cộng đồng của hôn nhân chi phối nên thu nhập do lao động, do hoạt động sản
xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên vợ chồng về

52
nguyên tắc vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Việc quy định trên cũng không
phù hợp với mong muốn của vợ chồng khi có yêu cầu chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân, bởi xuất phát từ các lý do như thực hiện nghĩa vụ dân sự
riêng, đầu tư kinh doanh riêng hay các lý do chính đáng khác mà vợ chồng
yêu cầu chia tài sản chung, nhưng không vì thế mà họ muốn chấm dứt chế độ
tài sản chung vợ chồng. Việc quy định vợ chồng được chia tài sản chung để
một bên thực hiện đầu tư kinh doanh riêng không chỉ giúp mỗi bên vợ chồng
thực hiện mục đích kinh doanh của mình để tìm kiếm lợi nhuận mà nó còn
giúp vợ chồng tránh được những căng thẳng không đáng có trong đời sống
chung. Sau khi chia tài sản chung, đa số các cặp vợ chồng đều vẫn sống chung
chỉ trong những hoàn cảnh đặc biệt họ mới sống riêng. Việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân không phải là quy định về li thân nên không
đương nhiên dẫn đến chế độ biệt sản và do quan hệ vợ chồng vẫn chưa chấm
dứt nên giữa họ vẫn có những ràng buộc về mặt pháp lý với nhau, với gia đình
và con cái.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, cho thấy quy định về hậu quả pháp
lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là chưa đầy đủ và thiếu
thống nhất. Luật HN&GĐ năm 2014 và Nghị định số 126 đã giải quyết vấn đề
trên khi quy định cụ thể và rõ ràng việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
và những thu nhập phát sinh mà không xác định được là từ việc sản xuất kinh
doanh riêng hay từ những tài sản riêng khác của vợ chồng thì thuộc sở hữu
chung của vợ chồng.
3.1.5. Về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung
chưa được pháp luật quy định
Sau khi vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
và thỏa thuận đó có hiệu lực thì vấn đề đặt ra là cần phải xác định các

53
quyền và nghĩa vụ của họ đối với gia đình, con cái và đối với người thứ ba có
liên quan.
Thứ nhất, đối với gia đình, con cái Luật HN&GĐ năm 2014 quy định
cụ thể những nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng như: nghĩa vụ phát sinh
từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để
tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do
con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để một bên vợ
hoặc chồng sản xuất kinh doanh riêng không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân
của họ. Do vậy, giữa vợ và chồng vẫn còn tồn tại những mối quan hệ về nhân
thân và tài sản đối với gia đình, con cái. Tuy nhiên, pháp luật hôn nhân gia
đình hiện hành vẫn chưa có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng đối với gia đình, con cái sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân. Một trường hợp đặt ra là nếu trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận
hoặc yêu cầu chia toàn bộ khối tài sản chung và lúc này giữa họ không còn tài
sản chung nào nữa, tài sản của ai làm ra thuộc về người đó thì khi đó lợi ích
của gia đình, con cái sẽ giải quyết như thế nào? Ai sẽ là người đứng ra chịu
trách nhiệm cho những chi phí sinh hoạt tối thiểu của gia đình nếu như giữa
vợ chồng không có một thỏa thuận cụ thể? Điều 42 Luật HN&GĐ năm 2014
cũng quy định là việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị
tuyên là vô hiệu khi ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền
lợi ích của con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình; chia để trốn tránh nghĩa vụ nuôi
dưỡng cấp dưỡng. Tuy nhiên, như thế nào là ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi
ích của gia đình và nếu có phát hiện ra việc trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng;
cấp dưỡng thì ai sẽ là người đứng ra yêu cầu Tòa án tuyên bố việc chia tài sản
chung của vợ chồng đó là vô hiệu thì pháp luật lại chưa có quy định. Vì vậy,

54
mặc dù Luật HN&GĐ năm 2014 đã có quy định nhưng để vận dụng vào thực
tiễn đời sống thì cần phải có các văn bản hướng dẫn rõ ràng hơn nữa.
Thứ hai, đối với người thứ ba có liên quan thì Luật HN&GĐ năm 2014
đã quy định rõ ràng là quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba
phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị
pháp lý, việc chia tài sản chung vợ chồng không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ
về tài sản đã xác lập trước đó của họ, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận
khác. Như vậy, cho dù vợ chồng có thỏa thuận chia toàn bộ hay một phần tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì cũng không làm chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ về tài sản của họ đã có trước đó với người thứ ba. Nếu như việc chia
tài sản chung của vợ chồng lại nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho
cá nhân, tổ chức thì sẽ bị tuyên là vô hiệu. Vấn đề đặt ra là nếu như vợ chồng
cố tình trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì người thứ ba có được
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hay không? Pháp luật vẫn chưa có
những quy định cụ thể về trường hợp này. Đây là những điểm thiếu sót của
pháp luật và trong thời gian tới thiết nghĩ cần phải có những văn bản hướng
dẫn cụ thể để các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 được phát huy tác
dụng trong thực tế đời sống.
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích đầu tƣ kinh
doanh riêng
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân khi một bên vợ hoặc chồng đầu tư kinh doanh riêng
không chỉ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng và gia đình nói
riêng mà nó còn tạo ra hành lang pháp lý và phù hợp để vợ chồng chủ động
tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng các nhu cầu chính đáng
của vợ chồng và có cơ sở pháp lý cần thiết để giải quyết các tranh chấp phát

55
sinh trong thực tế chia tài sản chung của vợ chồng hiện nay. Để đảm bảo tính
thực thi của pháp luật cần phải hoàn thiện những quy định về một số nội dung
cụ thể sau:
3.2.1. Về quyền yêu cầu chia tài sản chung để một bên đầu tư kinh
doanh riêng
Vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng đều có quyền yêu cầu chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân để đầu tư kinh doanh riêng. Trong quá trình
thực hiện các công việc kinh doanh, khi vợ hoặc chồng có nghĩa vụ tài sản
riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản
chung của vợ chồng không được sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ
này trừ khi vợ chồng có thỏa thuận. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là trong
nhiều trường hợp người có nghĩa vụ tài sản riêng không có hoặc không đủ tài
sản riêng để thực hiện nghĩa vụ của mình với người thứ ba và họ cũng không
thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng hoặc không yêu cầu Tòa án chia
tài sản chung nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình. Trong
trường hợp này nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người thứ ba (chủ
nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì sẽ khó mà
bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên, nếu quy định cho
họ có quyền yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng phải chia tài sản chung để người
có nghĩa vụ thực hiện việc trả nợ cho họ cũng không hợp lý, bởi việc chia tài
sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là quyền nhân thân gắn liền với
vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân. Nếu quy định người thứ ba có quyền này
thiết nghĩa là không hợp lý. Để khắc phục những hạn chế trên về quyền yêu
cầu chia tài sản chung đồng thời nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của người thứ ba khi họ tham gia vào các quan hệ tài sản liên quan đến
vợ hoặc chồng thì pháp luật có thể quy định họ có quyền khởi kiện yêu cầu
Tòa án tuyên bố việc chia tài sản chung vợ, chồng là vô hiệu nếu như có

56
những căn cứ chứng minh việc chia tài sản đó nhằm trốn tránh việc thực hiện
nghĩa vụ với họ.
3.2.2. Về hình thức của việc chia tài sản chung để một bên đầu tư
kinh doanh riêng
Trong hai hình thức chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
thì hình thức vợ chồng thỏa thuận và lập thành văn bản là phổ biến hơn, tuy
nhiên vẫn còn tồn tại nhiều điểm chưa hợp lý. Chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân để một bên đầu tư kinh doanh riêng là một trường hợp
đặc thù. Tài sản mang vào đầu tư kinh doanh và tài sản không mang vào đầu
tư kinh doanh, những tài sản phát sinh trong quá trình đầu tư kinh doanh và
những tài sản khác phát sinh trong đời sống vợ chồng là rất khó xác định. Vì
vậy, văn bản thỏa thuận chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
phải thể hiện trung thực, rõ ràng việc chia tài sản chung và văn bản này cần
phải được công chứng tại các cơ quan có thẩm quyền để có cơ sở giải quyết
những tranh chấp phát sinh sau này. Cần phải quy định về hình thức của thỏa
thuận chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Cụ thể là: trong
mọi trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng phải được công
chứng tại các cơ quan có thẩm quyền. Quy định này, một mặt nhằm nâng cao
giá trị pháp lý cho các thỏa thuận của vợ chồng đồng thời nó cũng là căn cứ
pháp lý để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba có liên
quan trong các quan hệ tài sản với vợ chồng, đảm bảo quyền lợi cho gia đình,
con cái. Hiện nay, công chứng là một dịch vụ công thuận lợi, các văn phòng,
phòng công chứng phát triển rộng rãi, thủ tục nhanh gọn, dễ dàng để thực
hiện. Cả Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật HN&GĐ năm 2014 đều chưa có
quy định này. Vì vậy, theo tác giả cần phải bổ sung quy định bắt buộc văn bản
thỏa thuận chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải được
công chứng để góp phần nâng cao giá trị pháp lý của văn bản, đồng thời cũng

57
góp phần giải quyết khi có tranh chấp phát sinh trên thực tế xuất phát từ việc
chia tài sản chung của vợ chồng loại trừ việc trốn tránh nghĩa vụ tài sản khi vợ
chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Đối với trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung thì sau
khi quyết định về việc chia tài sản chung có hiệu lực pháp luật, bên vợ hoặc
chồng sử dụng tài sản vào mục đích đầu tư kinh doanh riêng cần phải lưu bản
sao quyết định chia tài sản này cùng hồ sơ đăng ký kinh doanh để nhằm mục
đích làm minh bạch nguồn vốn mà vợ, chồng sử dụng vào việc kinh doanh,
tránh hiện tượng tẩu tán tài sản khi làm ăn thua lỗ sau này. Đây cũng là cơ sở
để bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể khác có liên quan đến hoạt động
đầu tư kinh doanh của vợ hoặc chồng.
3.2.3. Về thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung vợ chồng
Hiện nay, những quy định của pháp luật hiện hành về hiệu lực của việc
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đang còn nhiều điểm hạn
chế và chưa thống nhất. Do đó, việc xác định thời điểm có hiệu lực của việc
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân rất quan trọng và cần thiết vì nó
không những là cơ sở pháp lý để xác định khi nào vợ hoặc chồng có quyền sở
hữu tài sản chung đã chia mà nó còn là thời điểm để xác định việc vợ chồng
được quyền quyết định đối với những tài sản đã chia đó mà không cần phải có
sự bàn bạc, thỏa thuận với người kia. Cần phải thống nhất về thời điểm có
hiệu lực của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo
hướng là: đối với trường hợp yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung thì
hiệu lực của việc chia sẽ được tính kể từ ngày quyết định chia tài sản của Tòa
án có hiệu lực. Trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận việc chia tài sản chung
và lập thành văn bản thì thời điểm phát sinh hiệu lực sẽ là ngày văn bản này
được công chứng, chứng thực. Bên cạnh đó, văn bản thỏa thuận chia tài sản
chung của vợ chồng sẽ không có hiệu lực trong trường hợp văn bản thỏa
thuận đó bắt buộc phải được công chứng.

58
Việc quy định thống nhất về thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với mục đích đầu tư kinh
doanh riêng như trên sẽ góp phần hạn chế đáng kể trong việc vợ chồng lợi dụng
kẽ hở của những quy định pháp luật hiện hành về hiệu lực của việc chia tài sản
chung nhằm mục đích tẩu tán hoặc trốn tránh nghĩa vụ về tài sản đối với người
thứ ba, làm sai lệch sự thật về việc chia tài sản chung của vợ chồng.
Để khắc phục những điểm thiếu sót trên theo tôi nên quy định đối với
các văn bản thỏa thuận chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
cần phải công chứng, chứng thực tại các cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo
tính hợp pháp của những thỏa thuận đó. Hiện nay, dịch vụ công chứng là một
dịch vụ công rất phổ biến và thủ tục tương đối dễ dàng, thuận lợi. Việc quy
định thỏa thuận chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ có
hiệu lực khi văn bản đó được công chứng, chứng thực sẽ giúp cho thỏa thuận
đó có giá trị pháp lý cao hơn. Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật HN&GĐ năm
2014 chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Vì vậy theo quan điểm của
chúng tôi, cần phải bổ sung quy định trên để tạo cơ sở pháp lý cho thỏa thuận
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đồng thời cũng đảm
bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong trường hợp vợ
chồng có mục đích trốn tránh nghĩa vụ về tài sản đối với họ, bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho con cái và những thành viên khác trong gia đình.
3.2.4. Về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân để một bên vợ, chồng sản xuất kinh doanh riêng
Để những quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình về chia tài sản
chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đồng bộ và đảm bảo tính khả thi trong
thực tế thì cần phải quy định cụ thể về hậu quả pháp lý theo hướng như sau:
- Cần quy định rõ những tài sản mà vợ chồng có được sau khi chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân do được thừa kế chung, tặng cho chung là

59
tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp người để lại di sản thừa kế, người
tặng cho tài sản có sự phân định rõ ràng phần quyền của mỗi bên vợ, chồng
trong khối tài sản đó.
- Cần có quy định về việc niêm yết hoặc công bố công khai việc vợ
chồng tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân tại nơi vợ chồng cư
trú để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba có giao dịch liên
quan đến vợ chồng [21, tr.26].
- Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác phát sinh từ việc sản xuất kinh doanh riêng sẽ là tài sản
riêng của vợ, chồng.
- Đối với những tài sản riêng khác mà vợ, chồng có trước, trong hoặc
sau khi chia tài sản chung, nếu họ sử dụng tài sản riêng đó vào hoạt động sản
xuất kinh doanh riêng thì những thu nhập hay hoa lợi, lợi tức thu được sẽ là tài
sản riêng của vợ, chồng. Nếu họ không sử dụng vào việc sản xuất kinh doanh
riêng thì những hoa lợi, lợi tức đó vẫn là tài sản chung của vợ chồng, chịu sự
điều chỉnh của pháp luật về tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
3.2.5. Về các trường hợp chia tài sản chung bị coi là vô hiệu
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định cụ thể hơn về các trường hợp chia
tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị coi là vô hiệu. Tuy nhiên
cách thức giải quyết hậu quả của việc chia tài sản chung thì lại chưa được đề
cập đến. Hiện nay, trong thực tế cũng tồn tại khá phổ biến những trường hợp
núp dưới hình thức là chia tài sản chung để đầu tư kinh doanh riêng nhưng
thực chất ý đồ của họ là nhằm trốn tránh những nghĩa vụ về tài sản phải thực
hiện với người thứ ba. Đây là một vấn đề phức tạp cả về mặt lý luận và thực
tiễn, chỉ giải quyết được những điểm còn tồn tại trên thì mới bảo đảm được tốt
nhất quyền và lợi ích hợp pháp không chỉ của vợ chồng mà còn của các chủ
thể khác tham gia các giao dịch về tài sản với họ. Vì thế, theo chúng tôi,

60
trong trường hợp phát hiện ra những dấu hiệu của việc chia tài sản mà vi
phạm vào những trường hợp đã được quy định cụ thể nói trên (Điều 42 Luật
HN&GĐ năm 2014) thì cần phải thực hiện việc kiểm kê toàn bộ tài sản có
liên quan đến hai vợ chồng và áp dụng mọi biện pháp cần thiết để phòng ngừa
việc tẩu tán tài sản, từ đó có cơ sở để khắc phục cho phù hợp, ngoài việc vận
dụng các quy định của Luật HN&GĐ thì cần phải liên hệ vận dụng các quy
định pháp luật khác. Ví dụ như trường hợp vợ chồng chia tài sản chung nhằm
trốn tránh các nghĩa vụ về nuôi dưỡng, cấp dưỡng hay các nghĩa vụ về thuế,
tài chính đối với Nhà nước thì các chế tài của Luật Hành chính, Luật Hình sự
cũng sẽ được quy định và áp dụng phù hợp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích
hợp pháp của những người liên quan.
3.2.6. Về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân
Theo pháp luật một số nước trên thế giới quy định trách nhiệm của vợ
chồng đối với đời sống chung sau khi chia tài sản chung được quy định rất rõ
ràng. Chẳng hạn như theo pháp luật của Pháp quy định vợ hoặc chồng có
trách nhiệm đóng góp các chi phí cho gia đình, nuôi dạy con theo khả năng
của mỗi bên, nếu một trong hai bên vợ chồng không còn tài sản sau khi tách
tài sản riêng thì người kia phải trả hết các chi phí hoặc Tòa án sẽ quyết định
một bên vợ hoặc chồng sẽ nộp một khoản cho bên còn lại và bên còn lại sẽ
một mình chịu trách nhiệm thanh toán mọi chi phí trang trải cho gia đình.
Pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam chưa có những quy định cụ thể
về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân, vì vậy đã gây nhiều khó khăn trong xét xử khi có tranh chấp phát
sinh trong thực tế. Để khắc phục những thiếu sót trên thì cần phải có những
quy định cụ thể xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân. Cần phải có quy định thống nhất để có căn cứ

61
xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng sau khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân. Bởi vì việc xác định đâu là tài sản chung, tài sản riêng
có quan hệ mật thiết với việc xác định được chính xác quyền và nghĩa vụ về
tài sản của vợ chồng.
Ngoài ra, đối với trường hợp vợ chồng chia toàn bộ khối tài sản trong
thời kỳ hôn nhân thì sẽ gây khó khăn tới đời sống chung của gia đình. Đối với
vấn đề này Luật Hôn nhân và gia đình cần quy định cụ thể theo hướng: Vợ
chồng thỏa thuận về mức đóng góp các chi phí bảo đảm cho nhu cầu sinh hoạt
thiết yếu hàng ngày của gia đình sau khi chia tài sản chung. Sự thỏa thuận này
của vợ chồng cần phải thể hiện rõ trong văn bản thỏa thuận chia tài sản chung.
Nếu vợ chồng không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án
dựa vào khả năng tài chính và thu nhập thực tế của từng bên để quy định mức
đóng góp của vợ hoặc chồng đối với đời sống chung cho phù hợp.
Đồng thời, pháp luật cũng cần phải có những quy định về nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa vợ và chồng trong trường hợp một bên gặp khó khăn, lâm vào
tình trạng túng thiếu do lý do khách quan, tài sản chung của vợ chồng không
còn hoặc còn nhưng không đủ để thực hiện nghĩa vụ tài sản và không đủ để
đảm bảo cuộc sống bình thường trong khi bên còn lại có điều kiện kinh tế và
có tài sản riêng. Bên cạnh đó cũng cần quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng đối
với con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng bị tàn tật, không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Bởi vì khi vợ chồng chia
tài sản chung, có thể sống chung hoặc sống riêng thì người con phải chịu rất
nhiều thiệt thòi nên nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái phải được đảm bảo.

62
KẾT LUẬN

Thông qua việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Chia tài sản chung vợ
chồng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh” tác giả đã phân tích và
làm rõ được các nội dung chính sau:
Thứ nhất, ở chương những vấn đề lý luận chung đã đưa ra những khái
niệm cơ bản về chia tài sản chung vợ chồng, các nguyên tắc cơ bản áp dụng
việc tiến hành chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đặc biệt,
Luận văn đã phân tích sự cần thiết và ý nghĩa của việc chia tài sản chung vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân gắn với việc tạo điều kiện cho một bên vợ hoặc
chồng sản xuất, kinh doanh riêng. Những vấn đề lý luận này có ý nghĩa trong
việc nghiên cứu và xây dựng pháp luật điều chỉnh việc vợ chồng chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân với mục đích sản xuất, kinh doanh riêng của
một bên vợ hoặc chồng.
Thứ hai, Luận văn đã phân tích những quy định của Luật HN&GĐ năm
2014 và văn bản hướng dẫn có liên quan đến việc chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân. Cụ thể là các vấn đề: quyền yêu cầu chia tài sản
chung; phương thức chia; hậu quả pháp lý của việc chia; quyền, nghĩa vụ của
vợ, chồng sau khi chia tài sản chung. So với Luật HN&GĐ năm 2000 thì Luật
HN&GĐ năm 2014 đã có những điểm tiến bộ hơn khi quy định về việc chia
tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đó là những quy định về hậu
quả pháp lý sau khi chia; quy định về phương thức chia; quy định về những
trường hợp chia tài sản bị coi là vô hiệu. Những quy định mới trên đã phù hợp
hơn với yêu cầu của thực tiễn đồng thời nó là cơ sở pháp lý để giải quyết
những tranh chấp phát sinh sau này. Ngoài ra, Luận văn đã phân tích những
hình thức đầu tư kinh doanh trực tiếp của vợ, chồng dưới hình thức thành lập
hay quản lý các loại hình công ty theo quy định của Luật doanh nghiệp như:
Doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty Cổ phần, Công ty Hợp danh.

63
Qua các hình thức đầu tư này để thấy rõ hậu quả pháp lý của việc chia tài sản
chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng
trong một số lĩnh vực nhất định.
Thứ ba, Luận văn đã phân tích những điểm vướng mắc, bất cập khi vận
dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân vào thực tế. Đồng thời, cũng đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với
mục đích đầu tư kinh doanh riêng.
Trong nhịp sống sôi động của nền kinh tế thị trường hiện nay, vợ chồng
ngày càng tham gia tích cực vào các hoạt động sản xuất kinh doanh trên rất
nhiều lĩnh vực để tìm kiếm lợi nhuận, nâng cao đời sống của gia đình cũng
như khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Đối với người kinh doanh thì yếu
tố vốn là vô cùng quan trọng vì nó quyết định đến thành công hay thất bại của
công việc kinh doanh, trên tinh thần đó Luật Hôn nhân và gia đình đã ghi
nhận quyền thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân khi một bên vợ hoặc chồng muốn đầu tư kinh doanh
riêng. Những quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình hiện hành đã tạo
điều kiện rất nhiều cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân
nói chung và của cá nhân vợ hoặc chồng nói riêng.

64
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đồng Ngọc Ba (2005), “Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về các loại
hình doanh nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (01), tr.12-18.
2. Chính phủ (2001), Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
3. Chính phủ (2013), Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi), Hà Nội.
4. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm
2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hôn nhân
và gia đình, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Cừ (2002), “Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2000”, Tạp chí Luật học, (6), tr.3-9.
6. Nguyễn Văn Cừ (2005), Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn
nhân và Gia đình Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Cừ (2008), “Phương thức giải quyết tranh chấp về tài sản của
vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh”, Đề tài nghiên cứu Khoa
học “Tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh”, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Dung (2000), “Hoàn thiện quy định về góp vốn và xác định
tư cách thành viên công ty theo Luật Doanh nghiệp năm 2005”, Tạp chí
Luật học, (tháng 09), tr.28-37.
9. Trương Thanh Đức (2014), “Bình luận chế định tài sản của vợ chồng trong
dự luật HN &GĐ sửa đổi” http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com.
10. Nguyễn Hồng Hải (2003), “Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Hôn nhân và gia đình hiện hành”,
Tạp chí Luật học, (5).

65
11. Nguyễn Hồng Hải, “Nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí Luật học, tr.19-23.
12. Nguyễn Minh Hằng (2012), “Cẩm nang pháp luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam”, Nxb Thông tin truyền thông, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Hạnh (2012), Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp
luật Việt Nam. Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện. Luận văn Thạc sĩ
luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
14. Trần Đức Hoài (2006), Một số vấn đề về tài sản vợ chồng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội.
15. Phạm Hồng Minh Hoàng (2013), Chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học,
Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
16. Bùi Minh Hồng (2009), “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng
liên hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam”,
http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com.
17. Nguyễn Thị Thu Hồng (2012), Công chứng các văn bản liên quan đến
tài sản của vợ chồng, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Trần Thị Huệ, “Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng theo Điều 25 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 ”, Tạp chí Luật học, tr.22-24.
19. Ngô Thị Hường (2008), “Đăng ký quyền sở hữu tài sản và việc xác định
tài sản chung, riêng của vợ chồng”, Tạp chí Luật học, (10), tr. 22-28.
20. Ngô Thị Hường (2008), “Một số vấn đề lý luận về quyền sở hữu tài sản
của vợ chồng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh”, Trích từ Đề tài
nghiên cứu khoa học “Tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh”, Hà Nội.

66
21. Nguyễn Phương Lan (2002), “Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản
chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Luật học, tr.22-27.
22. Nguyễn Phương Lan (chủ nhiệm) (2008), “Tài sản vợ chồng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh”, Đề tài nghiên cứu Khoa học, Hà Nội.
23. Bùi Thị Mừng (2008), “Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân để một bên đầu tư kinh doanh”, Đề tài nghiên cứu Khoa học
“Tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh”, Hà Nội.
24. Bùi Thị Tố Nga (2012), Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luận văn Thạc sĩ
luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
25. Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và Gia đình, Hà Nội.
26. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
27. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và Gia đình, Hà Nội.
28. Quốc hội (2000), Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06 về việc thi
hành Luật Hôn nhân và Gia đình, Hà Nội.
29. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
30. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, Hà Nội.
31. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
32. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội.
33. Quốc hội (2006), Luật Công chứng, Hà Nội.
34. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
35. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
36. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình, Hà Nội.
37. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày
23/12 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một
số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Hà Nội.

67
38. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp
(2001), Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT ngày 03/01/2000 hướng dẫn
thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Hà Nội.
39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia
đình, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
40. Phạm Văn Thiệu (2003), “Về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi
phá sản doanh nghiệp tư nhân”, Tòa án nhân dân, tr.14-17.
41. Phạm Thị Tươi (2012), Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
42. Nguyễn Kim Vân (2009), “Phân chia tài sản chung của vợ chồng và
quyền lợi của người thứ ba”, http://www.baomoi.com.
43. Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.

68

You might also like