You are on page 1of 6

1Questioning the stereotype

Adolescence is a challenging period in our Tuổi mới lớn là một giai đoạn đầy thử
lives. Teenagers on the cusp of adulthood thách trong cuộc đời chúng ta. Thanh thiếu
seem self-possessed one minute and niên trên đỉnh cao của tuổi trưởng thành
foolhardy the next, or, as Bell and dường như chỉ sở hữu bản thân trong một
McBride (2010) put it, “all gasoline, no phút và dại dột trong phút tiếp theo, hoặc
brakes, and no steering wheel.” They are như Bell và McBride (2010) đã nói, “hết
expected to make decisions that will xăng, không có phanh và không có tay
profoundly affect the rest of their lives at a lái”. Họ được kỳ vọng sẽ đưa ra những
time when they seem particularly quyết định sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến phần
incapable of rationality—often throwing đời còn lại của họ vào thời điểm mà họ
themselves headlong into dangerous or dường như đặc biệt không có khả năng
risky situations. So, what is the hợp lý — thường lao đầu vào những tình
neurological explanation for this huống nguy hiểm hoặc rủi ro. Vì vậy, thần
seemingly erratic behavior and does it kinh giải thích cho hành vi dường như thất
present any advantages? thường này là gì và nó có bất kỳ ưu điểm
nào không?
2 Synaptic pruning in the adolescent
brain
Perhaps the most often cited cause of Có lẽ nguyên nhân thường được trích dẫn nhất
stereotypical teenage behavior is the của hành vi định kiến ở tuổi vị thành niên là sự
underdevelopment of the prefrontal cortex kém phát triển của vỏ não trước - phần não
—the section of our brains that governs của chúng ta chi phối các xung động và cảm
impulses and emotions, and makes rational xúc, đồng thời đưa ra các quyết định theo lý
decisions. The prefrontal cortex communicates trí. Vỏ não trước giao tiếp với các phần khác
with other sections of the brain via neuronal của não qua các điểm nối thần kinh được gọi là
junctions called synapses. During childhood, khớp thần kinh. Trong thời thơ ấu, chúng ta
we accumulate an overabundance of synapses, tích lũy quá nhiều khớp thần kinh, và khi
and as we move into adolescence over half are chúng ta chuyển sang tuổi vị thành niên, hơn
systematically removed, while others are một nửa số khớp thần kinh bị loại bỏ một cách
strengthened in order to make communication có hệ thống, trong khi những khớp thần kinh
more efficient; a process known in khác được tăng cường để giúp giao tiếp dễ
neuroscience as “synaptic pruning.” During dàng hơn; một quá trình được biết đến trong
synaptic pruning, the brain operates a “use it khoa học thần kinh là "cắt tỉa khớp thần kinh."
or lose it” policy, keeping and strengthening Trong quá trình cắt bỏ khớp thần kinh, não bộ
connections that are regularly engaged and thực hiện chính sách “sử dụng nó hoặc đánh
shedding those that aren’t. If, for example you mất nó”, giữ và củng cố các kết nối thường
regularly engage the part of your brain xuyên gắn bó và loại bỏ những kết nối không
associated with learning a foreign language, gắn kết. Ví dụ, nếu bạn thường xuyên tham gia
the synapses in this area will develop strong vào phần não liên quan đến việc học ngoại
connections and will not be trimmed back. ngữ, các khớp thần kinh trong khu vực này sẽ
However, if this is an underutilized section, phát triển các kết nối mạnh mẽ và sẽ không bị
the synapses may well be eliminated. In fact, cắt bớt. Tuy nhiên, nếu đây là một phần không
many researchers suggest that if we don’t được sử dụng tối đa, thì các khớp thần kinh
develop a skill at this point in our lives, we’re cũng có thể bị loại bỏ. Trên thực tế, nhiều nhà
unlikely to develop it at all. Brain imaging nghiên cứu cho rằng nếu chúng ta không phát
indicates that the process of synaptic pruning triển một kỹ năng nào vào thời điểm này trong
in adolescents begins at the back of the brain cuộc đời, chúng ta sẽ khó có thể phát triển nó.
and systematically moves forward towards the Hình ảnh não chỉ ra rằng quá trình cắt tỉa tiếp
frontal lobe, leaving pruning of the prefrontal hợp ở thanh thiếu niên bắt đầu ở phía sau của
cortex until last. As a result, teenagers are não và di chuyển một cách có hệ thống về phía
forced to do the majority of brain processing at thùy trán, để lại sự cắt tỉa của vỏ não trước cho
the back of their brain, rather than in the đến cuối cùng. Kết quả là, thanh thiếu niên bị
prefrontal cortex which goes someway to buộc phải thực hiện phần lớn quá trình xử lý
explaining their seeming inability to evaluate của não ở phía sau não của họ, thay vì ở vỏ
risk and make logical decisions. não trước, nơi sẽ giải thích việc họ dường như
không có khả năng đánh giá rủi ro và đưa ra
quyết định hợp lý.
3 Hormones, risk, and reward
According to Luna et al., synaptic Theo Luna và cộng sự, việc cắt tỉa khớp
pruning is not the only factor that thần kinh không phải là yếu tố duy nhất
distinguishes adolescent brains from giúp phân biệt bộ não của thanh thiếu
their adult counterparts. Luna’s group niên với bộ não của người trưởng thành.
used functional MRI (fMRI) scans to track Nhóm của Luna đã sử dụng quét MRI
blood flow through different regions of (fMRI) chức năng để theo dõi lượng máu
adolescent brains and the results showed qua các vùng khác nhau của não vị thành
that despite being underdeveloped, the niên và kết quả cho thấy rằng mặc dù kém
prefrontal cortex is actually active during phát triển, vỏ não trước vẫn thực sự
this period. However, the ability of hoạt động trong giai đoạn này. Tuy
teenagers to make rational decisions is nhiên, khả năng đưa ra quyết định hợp lý
overridden by the rush of dopamine— của thanh thiếu niên bị chế ngự bởi lượng
the hormone which triggers feelings of dopamine - hormone kích thích cảm
happiness—that occurs when they take giác hạnh phúc - xuất hiện khi họ chấp
risks. Essentially, the chemical reward is nhận rủi ro. Về cơ bản, phần thưởng hóa
so great that teenagers actively seek out học rất lớn nên thanh thiếu niên chủ động
risk. Furthermore, the nucleus accumbens tìm kiếm rủi ro. Hơn nữa, nhân - phần não
—the part of the brain that seeks pleasure tìm kiếm niềm vui và phần thưởng - được
and reward—is reasonably well thiết lập hợp lý trong não thiếu niên, và
established in the teenage brain, and thực sự dường như cạnh tranh trực tiếp với
actually seems to directly compete with vỏ não trước trong quá trình ra quyết định.
the prefrontal cortex in the decision- Nghiên cứu được thực hiện tại Đại học
making process. Research conducted at Cornell ở New York, đo lường hoạt động
Cornell University in New York, measured của não ở những đối tượng được khen
brain activity in subjects that were thưởng khi thực hiện các nhiệm vụ nhỏ. Ở
rewarded for performing small tasks. In thanh thiếu niên, trung tâm khen thưởng
adolescents, the reward center reacted far phản ứng mạnh mẽ hơn nhiều khi được
more strongly when given a medium or trao phần thưởng vừa hoặc lớn hơn là ở cả
large reward than in both adults and young người lớn và trẻ nhỏ. Khi được trao một
children. When given a small reward, phần thưởng nhỏ, thanh thiếu niên phản
teenagers reacted as if they had been given ứng như thể họ không được thưởng gì cả.
no reward at all. Again, this seems to Một lần nữa, điều này có vẻ trùng hợp với
coincide with the notion that teenage quan điểm cho rằng bộ não của thanh thiếu
brains are hard-wired to be impulsive. niên rất cứng rắn để trở nên bốc đồng. Về
Neurologically, they are capable of both mặt thần kinh, họ có khả năng ra quyết
effective decision-making and self-control, định hiệu quả và tự chủ, nhưng đôi khi bị
yet at times the temptation to seek out risk cám dỗ để tìm kiếm sự can thiệp của rủi ro
or reward intervenes, outweighing their hoặc phần thưởng, lớn hơn tính hợp lý của
rationality. họ.
4 Impulse control under pressure
Many would argue that Bell and Nhiều người cho rằng sự ví von “tất cả
McBride’s “all gasoline, no brakes, and no xăng, không phanh và không có tay lái”
steering wheel” analogy is a gross của Bell và McBride là một cách nói quá
oversimplification of teenage brain đơn giản về sự phát triển não bộ của thanh
development. In fact, according to research thiếu niên. Trên thực tế, theo nghiên cứu
conducted by Casey and Caudle (2013), được thực hiện bởi Casey và Caudle
adolescents are actually better able to (2013), thanh thiếu niên thực sự có khả
regulate impulses than adults under năng điều chỉnh xung động tốt hơn
certain circumstances. During a series of người lớn trong một số trường hợp nhất
laboratory experiments, Somerville, Hare, định. Trong một loạt các thí nghiệm trong
and Casey (2011) showed test subjects phòng thí nghiệm, Somerville, Hare và
images of positive, negative, and neutral Casey (2011) đã cho đối tượng thử nghiệm
facial expressions and measured their xem hình ảnh các biểu hiện trên khuôn mặt
ability to regulate their responses. When tích cực, tiêu cực và trung tính và đo khả
no emotional information was present (i.e., năng điều chỉnh phản ứng của họ. Khi
the facial expression was neutral), không có thông tin cảm xúc (tức là biểu
teenagers performed as well as adults, if hiện trên khuôn mặt là trung tính), thanh
not better. However, when emotional cues thiếu niên thể hiện tốt như người lớn, nếu
were present, either positive or negative, không muốn nói là tốt hơn. Tuy nhiên, khi
adolescents were far less able to suppress có những dấu hiệu cảm xúc, dù tích cực
their response. This diminished ability was hay tiêu cực, thanh thiếu niên ít có khả
not observed in adults or children, who năng kìm nén phản ứng của mình hơn. Khả
find it equally difficult to regulate control năng suy giảm này không được quan sát
whether emotional cues are present or not. thấy ở người lớn hay trẻ em, những người
This seems to contradict the này đều sùng bái việc điều chỉnh kiểm soát
oversimplification that teenagers are xem các tín hiệu cảm xúc có xuất hiện hay
generally unable to act rationally or make không. Điều này dường như mâu thuẫn với
good decisions. While this may be true in quy định quá đơn giản rằng thanh thiếu
heated or stressful situations, perhaps niên nói chung không thể hành động theo
because they tend to rely on the amygdala lý trí hoặc đưa ra quyết định đúng đắn.
—the part of the brain that guides instinct Mặc dù điều này có thể đúng trong các
—rather than the prefrontal cortex, in tình huống nóng nảy hoặc căng thẳng, có
neutral situations adolescents are actually lẽ vì chúng có xu hướng dựa vào hạch
better equipped to control impulses and hạnh nhân - phần não hướng dẫn bản năng
make rational decisions than adults. - chứ không phải vỏ não trước trán, trong
các tình huống trung tính, thanh thiếu niên
thực sự được trang bị tốt hơn để kiểm soát
các xung động và lý trí quyết định hơn
người lớn.
5 Peak performance and rapid decline
It’s also worth considering that while Cũng cần lưu ý rằng mặc dù bộ não
adolescent brains may still be in của thanh thiếu niên có thể vẫn đang
development, our ability to plan and trong quá trình phát triển, nhưng
recall events, as well as task khả năng lập kế hoạch và nhớ lại các
coordination actually begins to sự kiện của chúng ta cũng như khả
decline fairly rapidly in our mid to năng phối hợp công việc thực sự bắt
late twenties. In one study conducted đầu giảm khá nhanh ở độ tuổi từ giữa
by Timothy Salthouse, at the University đến cuối hai mươi. Trong một nghiên
of Virginia, 2,000 participants between cứu được thực hiện bởi Timothy
the ages of 18 and 60 were asked to Salthouse, tại Đại học Virginia, 2.000
solve puzzles, recall words and stories, người tham gia trong độ tuổi từ 18 đến
and identify patterns, repeatedly, over a 60 được yêu cầu giải các câu đố, nhớ
seven-year period. The results lại các từ và câu chuyện, đồng thời xác
suggested a sharp decline in skills such định các mẫu lặp đi lặp lại trong
as the ability to make quick khoảng thời gian 7 năm. Kết quả cho
comparisons, to recall unconnected thấy sự suy giảm mạnh về các kỹ năng
information, and to notice patterns and như khả năng so sánh nhanh, nhớ lại
relationships. In particular brain speed thông tin chưa được kết nối và nhận
and problem-solving declined thấy các mẫu và mối quan hệ. Đặc biệt,
noticeably at 27 and average memory tốc độ não bộ và khả năng giải quyết
started to fall at around 37 (Salthouse, vấn đề giảm đáng kể ở tuổi 27 và trí
2009). While most people compensate nhớ trung bình bắt đầu giảm ở khoảng
for this loss by accumulating 37 (Salthouse, 2009). Trong khi hầu hết
knowledge and experience, there is a mọi người bù đắp cho sự mất mát này
definite decline in some mental skills in bằng cách tích lũy kiến thức và kinh
comparison to the burgeoning nghiệm, thì có sự suy giảm rõ rệt về
adolescent brain. một số kỹ năng tinh thần so với bộ não
đang phát triển của thanh thiếu niên.
6 A call for delayed decision-making
Overall, the teenage brain is, in many Nhìn chung, bộ não của thanh thiếu
ways, not different to its adult niên, theo nhiều cách, không khác với
counterpart. However, synaptic bộ não của người lớn. Tuy nhiên, việc
pruning, regular influxes of cắt tỉa khớp thần kinh, thường xuyên
dopamine and the competition sử dụng dopamine và sự cạnh tranh
between the prefrontal cortex and giữa vỏ não trước trán và trung tâm
the brain’s reward center all affect khen thưởng của não đều ảnh hưởng
the ability of teenagers to make clear, đến khả năng đưa ra quyết định rõ
rational decisions. Yet, perhaps this ràng và hợp lý của thanh thiếu niên.
increased propensity for risk-taking Tuy nhiên, có lẽ sự gia tăng xu hướng
should be seen as beneficial as it is chấp nhận rủi ro này nên được coi là có
undoubtedly one of the factors that lợi vì nó chắc chắn là một trong những
drives adolescents to leave home, yếu tố thúc đẩy thanh thiếu niên rời
search for a partner, or seek out the khỏi nhà, tìm kiếm bạn đời hoặc tìm
kind of new experiences that might kiếm những trải nghiệm mới có thể
shape their careers. Having said that, it định hình sự nghiệp của họ. Nói như
could also be argued that as the brain is vậy, cũng có thể lập luận rằng khi não
still in development during this period, bộ vẫn đang phát triển trong giai đoạn
key decisions should be delayed until này, các quyết định quan trọng nên
later life—when we are better able to được trì hoãn cho đến khi về sau — khi
balance risk and logical decision- chúng ta có khả năng cân bằng rủi ro
making more effectively. Given that the tốt hơn và đưa ra quyết định hợp lý
desire to seek out risk and short-term hiệu quả hơn. Do mong muốn tìm kiếm
rewards is so strong, this is perhaps not rủi ro và phần thưởng ngắn hạn quá
the best time to make decisions that mạnh, đây có lẽ không phải là thời
will profoundly affect the rest of our điểm tốt nhất để đưa ra quyết định sẽ
lives. ảnh hưởng sâu sắc đến phần còn lại của
cuộc đời chúng ta.

You might also like