You are on page 1of 27

TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN

Học Văn Chị Hiên 2021

RỪNG XÀ NU
Nguyễn Trung Thành

“ Nguyên Ngọc đích thực là một trí thức của núi rừng, là nhà văn hóa của Tây
Nguyên, là nghệ sĩ thực thụ của những miền “Rẻo cao” đất nước. Văn Nguyên Ngọc
cuốn hút người ta, không phải chỉ bởi cách trần thuật bằng chính giọng điệu của
nhân vật của anh, với thứ ngôn ngữ hết sức hồn nhiên, ngây thơ, đầy những hình ảnh
ví von ngộ nghĩnh, mà còn bằng cả tâm hồn rất Tây Nguyên, cũng rất Hà Giang –
Mèo Vạc.”

(Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)

THÔNG TIN TÁC GIẢ

Từ khóa - Sở trường viết về vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ, thơ
mộng mà anh hùng, bất khuất.
Nguyễn Trung - Ông hiểu về phong tục tập quán và con người Tây
Thành Nguyên - nơi ông từng yêu mến, gắn bó trong hai
( Nguyên Ngọc) cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
- Đặc điểm sáng tác: Mang đậm khung hướng sử thi
và cảm hứng lãng mạn

Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên. Qua
hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp
cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh đất âm vang

1
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung dũng, kiên
cường. Ông đã viết về con người ở mảnh đất này với tấm lòng trân trọng, cảm phục:
trong cuộc kháng chiến chống Pháp là “Đất nước đứng lên”, trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ là “Rừng xà nu”, cả hai tác phẩm đều được xem là đỉnh cao của văn học
hiện đại trong hai thời kỳ lịch sử đó. Truyện của Nguyễn Trung Thành có lối viết
trong sáng, chặt chẽ, ngôn ngữ đẹp, giàu chất hiện thực nhưng lại có tầm khái quát
cao, đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn, tất cả tạo nên sức hấp dẫn và lôi cuốn với
người đọc.

THÔNG TIN TÁC PHẨM

Xuất xứ Viết năm 1965, in lần đầu trên tạp chí Văn nghệ Quân Giải
phóng Trung Trung bộ số 2/1965, sau được in trong tập
“Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.

Hoàn cảnh sáng tác: - Đầu năm 1965, Mỹ đổ bộ ồ ạt vào miền Nam và tiến
hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc.
- “Rừng xà nu” được viết đúng thời điểm cả nước sục
sôi đánh Mỹ và được hoàn thành ở khu căn cứ chiến
trường miền Trung Trung Bộ.
- Mặc dù “Rừng xà nu” viết về sự kiện nổi dậy của
dân làng Xô Man trong thời kì đồng khởi trước 1960
nhưng chủ đề tư tưởng tác phẩm vẫn có quan hệ mật
thiết với tình hình thời sự của cuộc kháng chiến lúc
tác phẩm ra đời.

2
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
Nhận xét về tác giả và tác phẩm
1. Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó. Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng,
man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn
rỏi mênh mông, tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây,
hàng vạn, hàng triệu cây vô tận. Không khí ở đây thơm lừng. Nệm lá dưới mặt đất ngả
lưng êm ru… (Nguyên Ngọc, ‘Về truyện ngắn Rừng xà nu', Nhà văn nói về tác phẩm,
Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)

2. Rừng xà nu là truyện của một đời, và được kể trong một đêm. Đó là cái đêm dài
như cả một đời. Nhưng nó cũng ngắn, cũng chỉ là một đêm trong sự sống vất vả, đau
khổ và hạnh phúc trường tồn ở đây, bởi "nhà ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy
gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời...". (Nguyên Ngọc, ‘Về
truyện ngắn Rừng xà nu', Nhà văn nói về tác phẩm, Hà Minh Đức biên soạn, Nxb
Giáo dục, 2000)

3. Và ông cụ Mết của tôi cũng tất yếu phải đến. Ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên của
thời Đất nước đứng lên trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng
không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự
giác hơn của các thế hệ sau. (Nguyên Ngọc, ‘Về truyện ngắn Rừng xà nu', Nhà văn
nói về tác phẩm, Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Giáo dục, 2000)

4. Nếu nói Nguyễn Tuân suốt đời săn tìm cái đẹp, thì cũng có thể nói, Nguyên Ngọc
suốt đời săn tìm những tính cách anh hùng, những sự tích anh hùng. (Giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh)

5. Gần nửa thế kỉ qua, truyện ngắn “Rừng xà nu” như một nỗi ám ảnh đẹp từ cảnh sắc
đến con người giữa chốn ngàn xanh (Trích bài viết “Về lại “Rừng xà nu”, Báo Kon
Tum Online, Tạ Văn Sỹ)

6. Văn Nguyên Ngọc là một dạng văn có ma lực. Giản dị, chắt lọc và trong veo. (Nhà
thơ Trần Đăng Khoa)

7. Văn Nguyên Ngọc là thứ văn văn trong, sáng như mật ong, lại đượm ướp một làn
hương rất đặc biệt. Đọc cứ bàng hoàng, váng vất mãi. Nguyên Ngọc hơn người ở tài
văn. Không có thực tài, không thể viết được thế. (Nhà thơ Trần Đăng Khoa)

3
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
8. Dưới góc nhìn văn hóa, ta thấy “Rừng xà nu” có nội dung rất quan trọng: văn hóa
làng và những tình cảm thâm trầm, cao đẹp. Và đó là cơ sở của nội dung thứ hai: Tinh
thần bất khuất của người dân Tây Nguyên. Tinh thần ấy lớn mạnh được là nhờ nó bám
rễ sâu chặt vào “đất làng”. (Đặng Văn Vũ)

9. Nguyên Ngọc đích thực là một trí thức của núi rừng, là nhà văn hóa của Tây
Nguyên, là nghệ sĩ thực thụ của những miền “Rẻo cao” đất nước. Văn Nguyên Ngọc
cuốn hút người ta, không phải chỉ bởi cách trần thuật bằng chính giọng điệu của nhân
vật của anh, với thứ ngôn ngữ hết sức hồn nhiên, ngây thơ, đầy những hình ảnh ví von
ngộ nghĩnh, mà còn bằng cả tâm hồn rất Tây Nguyên, cũng rất Hà Giang - Mèo Vạc.
(Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)

III. NỘI DUNG TÁC PHẨM

Bố cục phân tích

1. Hình tượng cây xà nu

2. Hình tượng nhân vật Tnu

3. Hình tượng nhân vật cụ Mết

4. Các nhân vật khác: Dít, Heng

* Hướng dẫn phân tích tác phẩm


1. Hình tượng rừng xà nu, cây xà nu

a. Giới thiệu - Cây xà nu là một loại cây họ thông, có nhiều ở Tây


khái quát về cây xà Nguyên, đây là loại cây có sức sống mãnh liệt, nó có
nu thể sinh sôi, nảy nở ngay cả trên những vùng đất khô

4
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
cằn hay khí hậu khắc nghiệt: “Một loại cây hùng vĩ và
cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút,
vạm vỡ, ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã, vừa rắn rỏi,
vừa mênh mông, tưởng như đã sống từ ngàn đời, còn
sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng triệu cây vô
tận…” Chính loài cây có sức sống man dại và trong
sạch này đã trở thành nỗi ám ảnh đối với Nguyễn
Trung Thành khi viết về Tây Nguyên.
- Ý nghĩa và vị trí:
+ Mở đầu tác phẩm nhà văn đã tập trung miêu tả cây xà
nu bằng một đoạn văn dài. Kết thúc tác phẩm vẫn là
hình ảnh những rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến tận
chân trời. Đây là kết cấu theo kiểu đầu cuối tương
ứng, không chỉ có ý nghĩa hoàn tạo ấn tượng cho kết
cấu tác phẩm mà còn nhấn mạnh ý nghĩa biểu tượng
của cây xà nu.
+ Rừng xà nu còn có mặt trong suốt tác phẩm với
những biến thể khác nhau như củi xà nu, khói xà nu,
nhựa xà nu, lá xà nu. lửa xà nu...
=> Xà nu trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo,
chứa đựng ý nghĩa tư tưởng sâu xa của tác phẩm.

b. Phân tích cụ thể ● Ý nghĩa thực


- Xà nu là loại cây đặc thù, tiêu biểu cho vẻ đẹp hoang
sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên.
- Hình ảnh xà nu trong tác phẩm còn tạo nên một
không gian nghệ thuật mang đậm hương vị sử thi của
câu chuyện.
● Ý nghĩa biểu tượng: xà nu được miêu tả trong sự ứng
chiếu với con người.

5
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
- Xà nu trở thành một nhân vật gắn bó mật thiết với
cuộc sống chiến đấu của con người Tây Nguyên.
+ Có mặt trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của
người dân làng Xô Man, lửa xà nu cháy giần giật
trong bếp, khói xà nu dùng để xông bảng cho Tnú và
Mai học chữ.
+ Tham dự vào những sự kiện trọng đại, chứng kiến
bao thăng trầm biến cố và cũng như bước đường
trưởng thành của dân làng Xô Man, Tnú đọc thư anh
Quyết gửi trước khi hi sinh dưới ánh lửa xà nu, cụ
Mết kể lại với dân làng trang sử bi hùng của làng Xô
Man gắn với một quãng đời của Tnú trong nhà ưng,
bên bếp lửa xà nu cháy sáng; khi Tnú bị bắt, giặc đã
đốt tay anh bằng giẻ tẩm nhựa xà nu.
- Cây xà nu trở thành biểu tượng cho số phận và
phẩm chất của con người Tây Nguyên, được đặc tả
ở phần mở đầu và phần cuối của tác phẩm.
+ Mở đầu tác phẩm là hình ảnh ngọn đồi xà nu bị tàn
phá bởi đại bác của kẻ thù: “hàng vạn cây, không có
cây nào không bị thương… chỗ vết thương nhựa ứa ra
tràn trề… rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện
thành từng cục máu lớn” => những thương tích ấy
thượng trung cho những mất mát, đau thương vô bờ
mà dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào Tây
Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc kháng
chiến: anh Xút, bà Nhan bị chặt đầu treo trên cây vả,
mẹ con Mai bị sát hại, đôi bàn tay Tnú bị tra tấn…
+ Hình ảnh những cây xà nu non, mới mọc, thay thế
những cây đã ngã “ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên
lao thẳng lên bầu trời gợi nhắc đến thế hệ trẻ của dân

6
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
làng Xô Man với sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ, ham
mê lí tưởng, tiếp nối thế hệ đi trước trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ. Đó là Tnú, Mai mưu trí dũng cảm.
Đó là Dít gan góc, mạnh mẽ. Đó là bé Heng thông
minh nhanh nhẹn.
+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu “nó phóng lên
rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng…” tượng trưng cho
niềm khát khát khao tự do, hướng tới ánh sáng của
Đảng, lí tưởng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên:
Tnú và Mai từ nhỏ đã tham gia nuôi giấu cán bộ, Tnú
vượt ngục đi giải phóng quê hương, Dít thay Mai làm
cách mạng.
+ Sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành
động hủy diệt của kẻ thù: “Đạn đại bác không giết nổi
chúng, những vết thương của chúng chóng lành như
trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất
nhanh, thay thế những cây đã ngã…” => tượng trưng
cho sức sống mãnh liệt, bất khuất kiên cường mà sự
vươn lên mạnh mẽ của người dân Tây Nguyên trong
cuộc chiến mất còn với kẻ thù: Tnú bị tra tấn dã man,
bị đốt mười ngón tay nhưng vẫn kiên cường tiếp tục
cầm súng chiến đấu.
+ Hình ảnh cây xà nu đại thụ ưỡn tấm ngực lớn ra che
chở cho làng:
● Mang bóng dáng của cụ Mết - người già làng nuôi
dưỡng ngọn lửa khát vọng, tự do, là chỗ dựa tinh thần
cho các thế hệ con cháu. Cụ Mết được hình dung như
một cây xà nu lớn vững chãi, hiện thân cho truyền
thống thiêng liêng của bao thế hệ dân làng Xô Man.
● Mang ý nghĩa ẩn dụ về những con người đang chiến

7
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
đấu để bảo vệ quê hương đất nước trong những năm
chống Mĩ.
+ Những ngọn đồi xà nu, những cánh rừng xà nu nối
tiếp nhau chạy hút tầm mắt đến tận chân trời cho thấy
rừng xà nu không chỉ tượng trưng cho một làng Xô
Man bé nhỏ hay một vùng núi rừng Tây Nguyên. Đó
còn là biểu tượng cho cả miền Nam, cả dân tộc Việt
Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ.

c. Đánh giá + Nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, biểu tượng, từ ngữ giàu
hình ảnh, giàu sức biểu cảm.
+ Có thể nói hình tượng xà nu là một sáng tạo nghệ
thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành, nó được
dùng như một ẩn dụ chỉ những con người Tây
Nguyên: yêu tự do, giàu sức sống, bất khuất, kiên
trung, thủy chung với cách mạng. Như vậy hình
tượng xà nu đã được tác giả đưa lại cho bao ý nghĩa
mới mẻ, giàu tính thẩm mĩ và ý nghĩa nhân sinh

Phân tích cụ thể:

Một hình tượng nổi bật và xuyên suốt trong truyện ngắn này là hình tượng cây
xà nu. Hình ảnh này không chỉ là khung cảnh thiên nhiên làm nền cho câu chuyện mà
còn mang một ý nghĩa biểu tượng rộng lớn. Mở đầu và kết thúc truyện đều là hình ảnh
cánh rừng xà nu: “ đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu
nối tiếp tới chân trời” ( câu này được nhắc lại gần nguyên vẹn ở đoạn kết, như một vĩ
thanh láy lại, gây ấn tượng nổi bật, tạo một dư ảnh và dư âm đọng lại trong tâm trí độc
giả sau khi câu chuyện đã khép lại).

8
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021

Trước hết, cây xà nu là một loại cây họ thông, có nhiều ở Tây Nguyên, đây là
loại cây có sức sống mãnh liệt, nó có thể sinh sôi, nảy nở ngay cả trên những vùng đất
khô cằn hay khí hậu khắc nghiệt: “Một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và
trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã, vừa rắn rỏi, vừa
mênh mông, tưởng như đã sống từ ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây,
hàng triệu cây vô tận…” Chính loài cây có sức sống man dại và trong sạch này đã trở
thành nỗi ám ảnh đối với Nguyễn Trung Thành khi viết về Tây Nguyên. Mở đầu tác
phẩm nhà văn đã tập trung miêu tả cây xà nu bằng một đoạn văn dài. Kết thúc tác
phẩm vẫn là hình ảnh những rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến tận chân trời. Đây là
kết cấu theo kiểu đầu cuối tương ứng, không chỉ có ý nghĩa hoàn tạo ấn tượng cho kết
cấu tác phẩm mà còn nhấn mạnh ý nghĩa biểu tượng của cây xà nu. Rừng xà nu còn có
mặt trong suốt tác phẩm với những biến thể khác nhau như củi xà nu, khói xà nu, nhựa
xà nu, lá xà nu. lửa xà nu...
Và quả là rừng xà nu trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo, chứa đựng
ý nghĩa tư tưởng sâu xa của tác phẩm. Chúng ta hiểu vì sao truyện ngắn này có tên là
“Rừng xà nu”. Tác giả cũng đã nói rõ vai trò của hình tượng xà nu trong sự tổ chức
các chi tiết nghệ thuật và quy tụ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Xà nu là loại cây
đặc thù, tiêu biểu cho vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên. Hình ảnh
xà nu trong tác phẩm còn tạo nên một không gian nghệ thuật mang đậm hương vị sử
thi của câu chuyện. Có lẽ chăng chính cánh rừng xà nu là cảm hứng để nhà văn sáng
tác tác phẩm? Nguyên Ngọc kể lại: “ Bắt đầu như thế nào? Không, quả thực bắt đầu
tôi chưa hề có câu chuyện, cốt truyện nào cả. Bắt đầu đến với ngòi bút, gần như không
hề tính trước, là một khu rừng xà nu, những cây xà nu. Hồi tháng 5 - 1962, hành quân
từ miền Bắc vào, tôi cùng đi với anh Nguyễn Thi. Nguyễn Thi về Nam Bộ, tôi rẽ
xuống khu Năm. Cùng đi dọc Trường Sơn từ Bắc vào, đến điểm chia tay mỗi người về
chiến trường của mình, là khu rừng bát ngát phía Tây Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một
khu rừng xà nu xa típ tắp tận chân trời. Tôi yêu say mê rừng xà nu từ ngày đó [ … ],
Nguyễn Thi và tôi đã sống với nhau một ngày một đêm chia tay cuối cùng trong khu
rừng tuyệt vời ấy [...] Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy, ngồi viết, rừng xà nu lại
bỗng đột ngột đến với tôi, chảy ra dưới ngòi bút của tôi!...Rừng xà nu chợt đến. Và lập

9
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
tức tôi biết tôi đã tạo được không khí, đã có không gian ba chiều. Và cũng lập tức đã
nhập được vào không khí và không gian ấy”.

Chính vì xà nu mang ý nghĩa biểu tượng nên sự miêu tả về loài cây ở đây luôn
luôn được đặt trong sự ứng chiếu với con người gợi ra những liên tưởng về đời sống -
số phận cùng phẩm cách của con người - dân làng Xô man. Xà nu trở thành một
nhân vật gắn bó mật thiết với cuộc sống chiến đấu của con người Tây Nguyên.
Hình ảnh rừng xà nu có mặt trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân làng
Xô Man, lửa xà nu cháy giần giật trong bếp, khói xà nu dùng để xông bảng cho Tnú
và Mai học chữ. Xà nu còn tham dự vào những sự kiện trọng đại, chứng kiến bao
thăng trầm biến cố và cũng như bước đường trưởng thành của dân làng Xô Man, Tnú
đọc thư anh Quyết gửi trước khi hi sinh dưới ánh lửa xà nu, cụ Mết kể lại với dân làng
trang sử bi hùng của làng Xô Man gắn với một quãng đời của Tnú trong nhà ưng, bên
bếp nửa xà nu cháy sáng; khi Tnú bị bắt, giặc đã đốt tay anh bằng giẻ tẩm nhựa xà nu.
Có thể nói xà nu luôn là người bạn, chặng đường sinh sống song hành chứng kiến
cùng với chặng đường biến động của cuộc sống con người nơi đây.
Là người bạn đồng hành gắn bó, cây xà nu còn trở thành biểu tượng cho số
phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên, được đặc tả ở phần mở đầu và
phần cuối của tác phẩm. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh ngọn đồi xà nu bị tàn phá bởi
đại bác của kẻ thù: “hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương… chỗ vết
thương nhựa ứa ra tràn trề… rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục
máu lớn” . Những thương tích ấy thượng trung cho những mất mát, đau thương vô bờ
mà dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua
trong cuộc kháng chiến: anh Xút, bà Nhan bị chặt đầu treo trên cây vả, mẹ con Mai bị
sát hại, đôi bàn tay Tnú bị tra tấn… Hình ảnh những cây xà nu non, mới mọc, thay thế
những cây đã ngã “ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời gợi nhắc
đến thế hệ trẻ của dân làng Xô Man với sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ, ham mê lí
tưởng, tiếp nối thế hệ đi trước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Đó là Tnú, Mai mưu
trí dũng cảm. Đó là Dít gan góc, mạnh mẽ. Đó là bé Heng thông minh nhanh nhẹn.
Bên cạnh đó, với đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu “nó phóng lên rất nhanh để tiếp
lấy ánh nắng…” tượng trưng cho niềm khát khát khao tự do, hướng tới ánh sáng của

10
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
Đảng, lí tưởng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên: Tnú và Mai từ nhỏ đã tham gia
nuôi giấu cán bộ, Tnú vượt ngục đi giải phóng quê hương, Dít thay Mai làm cách
mạng. Kiên gan bền bỉ, sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy
diệt của kẻ thù: “Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng
chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế
những cây đã ngã…” . Những hành động đó tượng trưng cho sức sống mãnh liệt, bất
khuất kiên cường mà sự vươn lên mạnh mẽ của người dân Tây Nguyên trong cuộc
chiến mất còn với kẻ thù: Tnú bị tra tấn dã man, bị đốt mười ngón tay nhưng vẫn kiên
cường tiếp tục cầm súng chiến đấu.
Thủ pháp “ứng chiếu” giữa thiên nhiên và con người cũng còn được thể hiện
ngay khi miêu tả nước, tác giả thường dùng cách so sánh với cây xà nu. Cụ Mết thì “
ngực căng như một cây xà nu lớn”; vết thương trên lưng Tnu do dao giặc chém thì “ứa
một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thẫm như nhựa xà nu”.
Gan góc, mạnh mẽ, hình ảnh cây xà nu đại thụ ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng
như mang bóng dáng của cụ Mết - người già làng nuôi dưỡng ngọn lửa khát vọng, tự
do, là chỗ dựa tinh thần cho các thế hệ con cháu. Cụ Mết được hình dung như một cây
xà nu lớn vững chãi, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng của bao thế hệ dân làng
Xô Man. Ở đây, xà nu còn mang ý nghĩa ẩn dụ về những con người đang chiến đấu
để bảo vệ quê hương đất nước trong những năm chống Mĩ. Những ngọn đồi xà nu,
những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy hút tầm mắt đến tận chân trời cho thấy rừng
xà nu không chỉ tượng trưng cho một làng Xô Man bé nhỏ hay một vùng núi rừng Tây
Nguyên. Đó còn là biểu tượng cho cả miền Nam, cả dân tộc Việt Nam trong những
năm kháng chiến chống Mĩ.Thủ pháp nghệ thuật “ứng chiếu” trong miêu tả tạo nên
một sự chuyển hóa, hòa nhập giữa hình tượng thiên nhiên và con người, một bản hợp
ca đầy chất thơ hào hùng, tráng lệ về sức sống bất diệt và cuộc chiến đấu bất khuất của
nhân dân giành tự do.

Như vậy, với nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, biểu tượng, từ ngữ giàu hình ảnh, giàu
sức biểu cảm, có thể nói hình tượng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của
Nguyễn Trung Thành. Rừng xà nu được dùng như một ẩn dụ chỉ những con người
Tây Nguyên: yêu tự do, giàu sức sống, bất khuất, kiên trung, thủy chung với cách

11
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
mạng. Như vậy hình tượng xà nu đã được tác giả đưa lại cho bao ý nghĩa mới mẻ, giàu
tính thẩm mĩ và ý nghĩa nhân sinh.

2. Hình tượng nhân vật Tnú

a. Giới thiệu khái - Nhà văn là người gắn bó mật thiết và có duyên với đất
quát về Tnú và người Tây Nguyên, ngòi bút của Nguyễn Trung
Thành luôn bám sát với những vấn đề cấp thiết và
trọng đại của dân tộc. Trang văn của ông mang đậm
tính sử thi và ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
- “Rừng xà nu” là một trong những sáng tác tiêu biểu
của Nguyễn Trung Thành. Truyện ngợi ca lòng yêu
nước, sức sống quật cường của con người Tây Nguyên
bên những rừng xà nu bạt ngàn, từ đó khẳng định một
chân lí khách quan “Chúng nó đã cầm súng, mình phải
cầm giáo”, chỉ có đấu tranh bạo lực cách mạng để
chống lại bạo lực phản cách mạng mới mang đến
chiến thắng trước bè lũ Mỹ - Ngụy
- Qua nhân vật Tnú, tác giả không chỉ muốn khắc họa
một tượng đài anh hùng mà còn thể hiện niềm tự hào
đối với thế cha anh trong cuộc kháng chiến vĩ đại của
dân tộc.

b. Vị trí nhân vật - Là nhân vật trung tâm tác phẩm


- Là cây xà nu trưởng thành từ trong bão tố chiến tranh
- Đại diện tiêu biểu cho tập thể anh hùng
- Vừa là thế hệ kế tiếp của cụ Mết, vừa là thế hệ chuyển
giao nhiệm vụ cho thế hệ sau
=> Được xây dựng theo kiểu nhân vật sử thi, nhân vật anh
hùng kết tinh những vẻ đẹp cộng đồng.

12
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
c. Phân tích nhân ● Từ nguyên mẫu ngoài đời đến ý đồ nghệ thuật
vật - Nguyên mẫu của nhân vật là anh Đề, người Xê Đăng.
Để làm nổi bật không khí Tây Nguyên, nhà văn đã
thay anh Đề bằng Tnú, thay Xê Đăng bằng Strá, làng
Xô Man.
● Khi Tnú còn nhỏ
- Xuất thân: là một đứa trẻ mồ côi lớn lên bằng sự đùm
bọc và che chở của người dân làng Xô Man, Tnú là
người anh hùng được hun đúc từ tinh thần Xô Man, từ
dòng máu thuần khiết của con người Tây Nguyên bất
khuất được truyền từ đời Đăm Săn, Xinh Nhã.
- Phẩm chất: Ngay từ nhỏ, Tnú đã gan góc, dũng cảm,

c. Đánh giá chung - kiên


Nhìncường,
chung tuổi
Tnúthơ
mangđầy vẻ
ắp truyện
đẹp kếtchiến
tinh đấu,
tâm chiến
hồn,
công:
phẩm chất cũng như số phận người Xô Man, Tây
+ Tnú đã sớm
Nguyên dũnggiác ngộkiên
cảm, CM, từ bé bất
cường, anh khuất,
đã luôngiàu
ghi tình
nhớ
lời
yêudạy của cụvới
thương Mết:
gia“Cán bộ quê
đình, là Đảng, Đảngcách
hương, còn thì núi
mạng,
nước
mangnày
sứccòn”
sống bất diệt của núi rừng Tây Nguyên.
- Bất
+ chấpcốt
Với một sự truyện
lùng vây,
hấpkhủng bốvăn
dẫn, lời dã man của kẻ giàu
trau chuốt, thù,
Tnú
hình và Maithấm
ảnh, vẫn đẫm
xung màu
phong
sắcvào
núirừng nuôi
rừng, giấuthuật
nghệ cán
bộ.
thấm đượm tính sử thi độc đáo, Nguyễn Trung
+ Sự gan đã
Thành góc, trung
khắc họathực biểucông
thành hiệnvẻrõđẹp
nhấtvàqua
sứcchi tiết
mạnh
Tnú học chữ.
của Tnú là sựHọc
kết chữ
tinhthua
củaMai, để trị
vẻ đẹp, sứctộimạnh
hay quên
con
mặt chữ,
người Tnú
Tây đã lấy đá
Nguyên nóiđập vào và
riêng đầucon
đến người
chảy máu.
VN nói
+ Đi liêntrong
chung lạc, phải
thời đi
đạiđường rừng,cách
đấu tranh Tnú mạng.
rất sáng ý: giặc
phục kích, Tnú trèo lên cây cao nhìn quanh một lượt
rồi xé rừng mà đi, qua sông không lội chỗ nước êm mà
cưỡi lên những con thác, băng băng như cá kình, bằng
Phân tích cụ thể:
lòng quả cảm, gan góc, phi thường.
+ Một lần vượt sông Đắk Năng, Tnú bị giặc phục kích
và bị bắt, cậu chì kịp nuốt lá thư vào bụng, giặc tra
Nhà văn là người gắn bó mật thiết và có duyên với đất và người Tây Nguyên,
tấn, tấm lưng nhỏ ngang dọc những vết dao chém,
máu ứa ra, Tnú vẫn không thốt lên một lời khai, thậm13
chí dám chỉ vào bụng mình mà trả lời bọn giặc: "
Cộng sản ở đây."
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
ngòi bút của Nguyễn Trung Thành luôn bám sát với những vấn đề cấp thiết và trọng
đại của dân tộc. Trang văn của ông mang đậm tính sử thi và ngợi ca chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Các nhân vật đều được hút vào một vấn đề lớn: vận mệnh của dân
tộc. Mỗi con người đã hòa nhập cái cá nhân vào vận mệnh chung của đất nước, vận
mệnh đã chi phối tính cách của nhân vật, nâng họ lên tầm vóc anh hùng. Trong dụng ý
nghệ thuật của nhà văn, ông muốn tô đậm hình tượng tính cách anh hùng – nòng cốt
bảo vệ Tổ quốc, đó là “truyện của một đời được kể trong một đêm”. Người đọc sẽ
không khó khăn để nhận ra người “được kể trong một đêm” đó chính là Tnu – nhân
vật trung tâm, nhân vật tư tưởng - người anh hùng dũng sĩ của làng Xô Man, người
Stra và của cả dân tộc Tây Nguyên.

Tnu là người con vinh quang của làng Xô Man, của người Stra được Nguyễn
Trung Thành khắc họa bằng những nét độc đáo đậm nét sử thi. Tnu – đại diện tiêu
biểu của người dân Tây Nguyên được xây dựng với hai đặc điểm: nhân vật tư tưởng
và nhân vật trữ tình. Nhân vật có chức năng gánh vác tư tưởng của tác phẩm( tư tưởng
yêu nước, lý tưởng cách mạng); nhân vật có đời tư nhưng đời tư lại được miêu tả xuất
phát từ vấn đề cộng đồng. Lý lịch của Tnú là bản lý lịch chung cho cả dân làng
Xôman, người Stra, của cả dân tộc đau thương trong chiến tranh và chiến đấu. Có thể
nói nhân vật Tnú là một bước tiến mới trong nhận thức và biểu hiện những phẩm chất
của một người anh hùng lý tưởng trong thời đại cách mạng.

Ở Tnú không còn là vấn đề “tìm đường”, “nhận đường” như anh hùng Núp
trong bài “Đất nước đứng lên” hay A Phủ trong “ Vợ chồng A Phủ”. Tnu đã được
nuôi dưỡng và lớn lên trong làng Cách mạng, đặc biệt lại được ở gần anh Quyết, cán
bộ của Đảng, Tnú đã học chữ, sớm được giác ngộ và đi theo Cách mạng. Câu chuyện
của Tnú được mở ra từ chỗ những câu chuyện của anh hùng Núp và A Phủ dần khép
lại.

Tnú là một người anh hùng yêu tự do, gắn bó với Cách mạng và trung thành
tuyệt đối với Đảng. Trước hết, Tnú là một đứa trẻ mồ côi được lớn lên trong sự yêu
thương đùm bọc của dân làng Xô man. Tham gia tiếp tế, làm liên lạc cho cán bộ ở
trong rừng, mặc dù giặc khủng bố dân làng rất tàn bạo: treo cổ anh Xút trên cây vả

14
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
đầu làng; chặt đầu bà Nhan đầu cột súng, những Tnú và Mai quyết không sợ. Bởi liên
lạc là con đường máu của Cách mạng, của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Nếu
con đường máu bị cắt đứt thì có nghĩa là cuộc kháng chiến của chúng ta cũng không
bao giờ đi tới thắng lợi. Vì thế dù có phải hi sinh nhiều hơn nữa con đường ấy vẫn
phải sống. Có lần anh Quyết hỏi “ Các em không sợ giặc bắt à? Chúng nó giết như
anh Xút, bà Nhan đấy!” , Tnú trả lời dứt khoát “ Cụ Mết nói cán bộ là Đảng, Đảng còn
núi nước này còn!” . Đó là con đường anh đã chọn, con đường của cá nhân và cũng là
của cả dân tộc. Tnú còn là cậu bé giàu cá tính và tinh thần Cách mạng, thể hiện qua
các chi tiết: Học chữ chậm hiểu hơn Mai, tự giận mình, lấy hòn đá đập vào đầu chảy
cả máu; học chữ hay quên nhưng lại là cậu bé làm liên lạc thông minh, lanh lợi, quả
cảm: chọn chỗ nước xiết để qua, không qua chỗ nước êm giặc hay phục kích. Biết giặc
phục kích thì trèo lên cây cao tìm hướng cắt rừng mà đi. Khi bị bắt nuốt vội lá thư vào
bụng. Giặc tra tấn dã man và hỏi: “ Cộng sản ở đâu?”, Tnu đặt bàn tay ấm lên bụng
mà nói “ Cộng sản ở đây này”. Lập tức lưng anh lại bầm những vết chém ngang dọc
của kẻ thù nhưng chúng không thể khuất phục được anh – con người “uy vũ bất năng
khuất”

Khi trưởng thành, Tnú vượt ngục để trở về với dân làng, lãnh đạo dân làng tiếp
tục chiến đấu. Trở về làng, Tnú đã trưởng thành, là một chàng trai cao lớn, rắn chắc,
đẹp như cây xà nu cường tráng nhất của núi rừng Tây Nguyên. Anh Quyết hy sinh,
Tnú thay anh Quyết chỉ huy đội du kích làng Xô man khiến bọn thằng Dục phải gầm
lên: “ Con cọp đó mà không giết sớm nó làm loạn cả núi rừng này rồi”. Bọn thằng
Dục đưa quân về bao vây làng hòng vây bắt anh nhằm khuất phục ý chí Cách mạng
của anh. Điểm then chốt của truyện là câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú và cuộc
nổi dậy của dân làng Xô man. Tnú trở về gặp Mai, người bạn liên lạc lớn lên bên
nhau, giờ họ đã là vợ chồng. Câu chuyện tình được nhà văn vừa kể vừa đẹp, lãng mạn,
vừa thấm đượm màu sắc bi tráng. Hạnh phúc đến với gia đình Tnu vẻn vẹn một năm
trời, khi đứa con đầu lòng cất tiếng khóc chào đời chưa tròn một tháng tuổi thì gia
đình của anh bị kẻ thù tàn bạo giày xéo tan nát đến bi thương. Âm mưu của kẻ thù “
Bắt con cọp con, tất sẽ dụ được con cọp đực trở về”. Chúng bắt Mai và đứa con bé
bỏng của anh, tra tấn bằng gậy sắt vô cùng dã man. Vợ con anh đã chết gục dưới đòn

15
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
thù. Tnu nấp gần đó, anh chứng kiến tất cả. Anh không cứu nổi vợ con, tay anh bứt
đứt hàng chục quả vả mà không hề hay biết. Lòng hận thù và đau đớn khiến tim anh
quặn thắt, máu trào lên biến hai con mắt thành hai cục lửa lớn. Anh thét lên dữ dội và
nhảy bổ ra cứu vợ con, nhưng làm sao cứu được khi anh chỉ có hai bàn tay không. Tác
giả để cho cụ Mết nhắc đi nhắc lại bốn lần: “ Ừ! Tnú không cứu sống được mẹ con
Mai” như một điệp khúc đau thương của gia đình anh cũng như của làng Xô man
trong câu chuyện kể. Tnú cũng không cứu nổi chính mình, anh bị giặc bắt, chúng
quấn giẻ vào mười đầu ngón tay anh, tẩm nhựa xà nu rồi đốt. Anh bị cháy ở đầu ngón
tay mà nghe như đang cháy ở cả trong lồng ngực., trong bụng, đau đớn tới mức răng
anh cắn nát môi anh, máu chảy mặn chát ở đầu lưỡi. Với bản lĩnh kiên cường của
người cộng sản, anh cắn răng chịu đựng, lòng căm thù dồn lên đôi mắt, anh ngã xuống
ngất đi, thét lên tiếng thét căm hờn làm vang vọng cả rừng núi : “Giết!”.

Điều đó đồng thời phản ánh quy luật cuộc sống có áp bức có đấu tranh, không
còn chần chừ gì nữa, cụ Mết dẫn thanh niên về làng lãnh đạo nhân dân nổi dậy, giết
chết mười tên ác ôn, cứu được Tnú nhưng đôi bàn tay của anh thì mãi tật nguyền.

Qua bi kịch của gia đình Tnú cũng như bi kịch của dân làng Xô man, nhà văn
muốn lý giải bi kịch của cả dân tộc Việt Nam thông qua lời cụ Mết: “Tnú không cứu
được mẹ con Mai vì trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng”, “ Tau không nhảy ra cứu
mày, tau cũng có hai bàn tay không”. Và cuộc đời Tnú sẽ kết thúc ra sao nếu như cụ
Mết và dân làng không nổi dậy giết chết mười mấy tên ác ôn? Tiếng cụ Mết ồ ồ, vang
như lời sấm truyền của dân tộc “ Chém! Chém hết!”, Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên!
Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một
cây giáo, một cái mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông. Đốt lửa
lên!”. Đó là một tất yếu của lịch sử: “ Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Bạo
lực phải được chống trả bằng bạo lực và đó cũng là con đường duy nhất để giải phóng
quê hương . Đó cũng là chân lý của thời đại, của dân tộc mà cụ Mết muốn ghi tạc vào
lòng các thế hệ con cháu.

Chi tiết đôi bàn tay Tnú là một chi tiết nghệ thuật độc đáo, không phải trong
câu chuyện cụ Mết vô tình dừng lại để hỏi Tnu: “ Mười đầu ngón tay mày vẫn cụt thế

16
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
à?”, câu hỏi gợi về đôi bàn tay Tnu. Lúc còn nguyên vẹn, đôi bàn tay biết cầm phấn
viết chữ, biết lao động, biết liên lạc, biết xách vài lon gạo đi nuôi cán bộ; đôi bàn tay
trung nghĩa khi đặt tay lên bụng “ Cộng sản ở đây này”; đôi bàn tay tình nghĩa khi gặp
lại Mai: tay trong tay nước mắt giàn giụa, là đôi bàn tay dang rộng lần cuối che chở
cho mẹ con Mai... Đôi bàn tay khi bị hủy hoại, Tnu bị bắt, thằng Dục quấn giẻ tẩm
dầu xà nu lên mười đầu ngón tay của anh rồi châm lửa đốt từng ngón. Thằng Dục
thích thú nhấm nháp sự man rợ, tàn bạo của nó. Nhưng nó lại không ngờ “ mười ngón
tay đã thành mười ngọn đuốc”. Mười ngọn đuốc đốt cháy lên lòng căm hờn trong Tnu
cùng tiếng thét như một phát súng lệnh cho cả dân làng đồng khởi: “ Giết!”. Cụ Mết
và cả dân làng Xô man bừng bừng khí thế nổi dậy, giết chết mười tên ác ôn. Ngọn lửa
trên mười ngón tay của Tnú đã tắt, nhưng đôi bàn tay đã trở thành tật nguyền, trở
thành chứng tích tội ác dã man của giặc. Chúng muốn hủy hoại đôi bàn tay của anh
hùng hủy diệt đôi bàn tay cầm súng chiến đấu, nhưng chúng đã không thể hiểu được
sức mạnh và sự trừng phạt của đôi bàn tay đó đối với chúng sau này. Đôi bàn tay –
một chi tiết nhỏ nhưng lại có sức hàm chứa tư tưởng lớn: một khám phá nhận thức về
kẻ thù và sức mạnh của con người, của dân tộc.

Tnú được về thăm dân làng một đêm, được cùng cụ Mết và mọi người ôn lại kỷ
niệm xưa, dù đau thương nhưng thật anh hùng. Anh tìm lại được bóng hình mình qua
bé Heng, tìm lại được bóng hình người bạn liên lạc, người vợ thân yêu qua Dít... Tnu
thực sư là đứa con chung của làng Xô man, người Stra. Thật xứng đáng với Mai trước
kia và Dít sau này.

Như vậy, hình tượng Tnú điển hình cho tinh thần đấu tranh đến với cách mạng
của người dân Tây Nguyên, đồng thời làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ:
"Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo." Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là
bi kịch của người dân Strá khi chưa giác ngộ lý tưởng. Tnú là người có thừa sức mạnh
cá nhân nhưng với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo, anh đã không thể
bảo vệ được vợ con và bản thân. Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô Man cầm vũ khí
đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí: phải dùng bạo lực
cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng. Con đường đấu tranh của Tnú từ tự

17
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xô Man nói
riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.

Tnú là kiểu nhân vật tư tưởng hòa quyện với nhân vật trữ tình tạo nên sức hấp
dẫn của tác phẩm. Câu chuyện bi tráng về cuộc đời và gia đình anh cũng là câu
chuyện bi tráng của làng Xô man, của cả dân tộc Tây Nguyên. Vẻ đẹp của Tnú là vẻ
đẹp của cộng đồng, sáng ngời tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng Cách mạng.
Tnú là nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật hiện đại nhưng vẫn mang nét đẹp của nhân
vật anh hùng trong sử thi cổ đại: Đăm Săn, Xinh Nhã của núi rừng Tây Nguyên. Qua
bi kịch cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô man, tác giả gửi bức thông điệp
tới độc giả” Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là con đường duy nhất để
giải phóng quê hương, đất nước, xây dựng cuộc sống hòa bình, độc lập, ấm lo, hạnh
phúc.
Với một cốt truyện hấp dẫn, lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, thấm đẫm màu
sắc núi rừng, nghệ thuật thấm đượm tính sử thi độc đáo, Nguyễn Trung Thành đã khắc
họa thành công vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh của vẻ đẹp, sức mạnh con
người Tây Nguyên nói riêng và con người VN nói chung trong thời đại đấu tranh cách
mạng.

3. Hình tượng nhân vật cụ Mết

a. Giới thiệu khái - Hình tượng cụ Mết mang bóng dáng của người anh
quát về nhân vật cụ hùng Núp - người con ưu tú của cuộc kháng chiến
Mết chống Pháp được nhà văn khắc họa trong “Đất nước
đứng lên”. Nguyễn Trung Thành đã từng viết trong
một bài hồi ức về nhân vật cụ Mết: “Ông là cội
nguồn, là Tây Nguyên của một thời “Đất nước đứng
lên” còn trường tồn đến hôm nay.”
- Cụ Mết cũng như Tnú là biểu tượng cho vẻ đẹp anh

18
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
hùng của dân làng Xô Man, được Nguyễn Trung
Thành khắc họa bằng bút pháp sử thi. Ông xuất hiện
trong tác phẩm với tư cách là người kể chuyện cho
con cháu nghe về cuộc đời Tnú.

b. Ngoại hình - Cụ Mết là người đại diện cho thế hệ đầu tiên của
làng Xô Man những năm chống Mỹ, biểu tượng cho
sức mạnh truyền thống, tinh thần kiên cường, bất
khuất của nhân dân Tây Nguyên. Cụ được miêu tả
trong dáng dấp của một người anh hùng, thân hình
“quắc thước”, “mắt sáng và xếch ngược”, “vết sẹo ở
má phải bóng loáng”, “râu dài đến ngực và đen
bóng”, ngực căng như một cây xà nu lớn, bàn tay
chắc nịch, nặng như kìm sắt và sần sùi như vỏ cây xà
nu.
=> Đây là hình ảnh một già làng kiên nghị, vững chắc, tiềm
tàng sức mạnh thể chất và uy lực tinh thần.

c. Vẻ đẹp tâm hồn - Là một già làng trầm tính, kín đáo và uy nghi: là
và phẩm chất người đứng đầu, là linh hồn của Xô Man, cụ Mết
được người dân Xô Man kính trọng và yêu mến.
+ Tiếng nói của cụ dội vang lồng ngực như âm âm vọng
của núi rừng, như lời phán truyền của lịch sử, quá
khứ.
+ Cách nói như ra lệnh, ngôn ngữ giản dị mà dứt khoát,
thể hiện sự quyết đoán của người đứng đầu.
+ Không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!” khi vừa ý nhất chỉ
nói “Được!”. Đó là tính cách của một con người luôn
yêu cầu người khác cũng như bản thân phải hoàn

19
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
thành nhiệm vụ, sống có trách nhiệm và phải biết
vươn lên.
- Là người giàu tình yêu thương dân làng và quê
hương.
+ Là già làng, cụ yêu thương trân trọng tất cả mọi
người bằng tấm lòng nhường nhịn và chia sẻ.
+ Luôn tự hào về vẻ đẹp và truyền thống của dân làng
Xô Man. Theo cụ, “Gạo của người Strá mình ngon
nhất”, “núi rừng không có cây nào mạnh bằng cây xà
nu đất ta”.
+ Cụ ca ngợi tính cách trung thực của Tnú: “Đời nó khổ
nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
=> Cụ trở thành nhịp cầu nối kết giữa quá khứ và hiện tại,
mang trong mình sức mạnh truyền thống cộng đồng.
- Là người có lòng tin tưởng tuyệt đối vào Cách
mạng.
Dưới thời Mĩ - Diệm, cụ Mết tổ chức dân làng nuôi
giấu cán bộ.
Cụ dạy người dân Xô Man từ già đến trẻ phải biết gắn
bó với Cách mạng bằng niềm tin tuyệt đối.
Lãnh đạo nhân dân nổi dậy, cụ đã chọn cho Xô Man
con đường đấu tranh mang chân lí thời đại chống Mĩ,
con đường đấu tranh vũ trang chiến tranh nhân dân,
“chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”.

Khái quát => Hình ảnh cụ Mết giúp người đọc nhận thức được
nhiều điều: biết sống hướng về cội nguồn, tự hào về các
thế hệ cha anh, trân trọng những hi sinh mất mát của họ
để thấy giá trị của tự do, độc lập trong cuộc sống hiện tại,
biết sống có lí tưởng để vươn tới một cuộc sống tốt đẹp.

20
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021

Phân tích cụ thể:

Cụ Mết được hình dung như một cây xà nu lớn vững chãi, hiện thân cho truyền
thống thiêng liêng của bao thế hệ dân làng Xô Man được nhà văn nhắc đến tuy không
nhiều nhưng có vai trò vô cùng quan trọng với mạch truyện. Hình tượng cụ Mết mang
bóng dáng của người anh hùng Núp - người con ưu tú của cuộc kháng chiến chống
Pháp được nhà văn khắc họa trong “Đất nước đứng lên”. Nguyễn Trung Thành đã
từng viết trong một bài hồi ức về nhân vật cụ Mết: “Ông là cội nguồn, là Tây Nguyên
của một thời “Đất nước đứng lên” còn trường tồn đến hôm nay.” Cụ Mết cũng như
Tnú là biểu tượng cho vẻ đẹp anh hùng của dân làng Xô Man, được Nguyễn Trung
Thành khắc họa bằng bút pháp sử thi. Ông xuất hiện trong tác phẩm với tư cách là
người kể chuyện cho con cháu nghe về cuộc đời Tnú.

Cụ Mết là ai? Có ý nghĩa gì với mạch truyện đến vậy ? Cụ Mết là gạch nối giữa
lịch sử và hiện tại, là thế hệ chiến đấu từ thời chống thực dân Pháp. Đó cũng là người
đại diện cho thế hệ đầu tiên của làng Xô Man những năm chống Mỹ, biểu tượng
cho sức mạnh truyền thống, tinh thần kiên cường, bất khuất của nhân dân Tây
Nguyên. Cụ được miêu tả trong dáng dấp của một người anh hùng, thân hình “quắc
thước”, “mắt sáng và xếch ngược”, “vết sẹo ở má phải bóng loáng”, “râu dài đến ngực
và đen bóng”, ngực căng như một cây xà nu lớn, bàn tay chắc nịch, nặng như kìm sắt
và sần sùi như vỏ cây xà nu. Đây là hình ảnh một già làng kiên nghị, vững chắc, tiềm
tàng sức mạnh thể chất và uy lực tinh thần.

Với nét vẽ đậm chất sử thi, cụ Mết hiện lên mang đậm nét vẽ về một người anh
hùng chinh chiến lâu năm, một già làng trầm tính, kín đáo và uy nghi. Cụ là người
đứng đầu, là linh hồn của Xô Man, cụ Mết được người dân Xô Man kính trọng và yêu
mến. Tiếng nói của cụ dội vang lồng ngực như âm âm vọng của núi rừng, như lời
phán truyền của lịch sử, quá khứ. Cách nói như ra lệnh, ngôn ngữ giản dị mà dứt
khoát, thể hiện sự quyết đoán của người đứng đầu. Không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!”
khi vừa ý nhất chỉ nói “Được!”. Đó là tính cách của một con người luôn yêu cầu người

21
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
khác cũng như bản thân phải hoàn thành nhiệm vụ, sống có trách nhiệm và phải biết
vươn lên. Một cái đầu lạnh và một trái tim ấm, già làng là người giàu tình yêu thương
dân làng và quê hương. Cụ luôn yêu thương trân trọng tất cả mọi người bằng tấm lòng
nhường nhịn và chia sẻ. Hơn thế cụ Mết luôn tự hào về vẻ đẹp và truyền thống của
dân làng Xô Man. Theo cụ, “Gạo của người Strá mình ngon nhất”, “núi rừng không có
cây nào mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cụ ca ngợi tính cách trung thực của Tnú: “Đời
nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Có thể nói cụ Mết đã trở thành
nhịp cầu nối kết giữa quá khứ và hiện tại, mang trong mình sức mạnh truyền thống
cộng đồng.
Là một già làng, đồng thời cụ còn mang trong mình một tấm lòng sục sôi, nung
nấu chiến đấu giành tự do cho dân tộc. Cụ có lòng tin tưởng tuyệt đối vào Cách mạng.
Dưới thời Mĩ - Diệm, cụ Mết tổ chức dân làng nuôi giấu cán bộ. Cụ dạy người dân Xô
Man từ già đến trẻ phải biết gắn bó với Cách mạng bằng niềm tin tuyệt đối. Lãnh đạo
nhân dân nổi dậy, cụ đã chọn cho Xô Man con đường đấu tranh mang chân lí thời đại
chống Mĩ, con đường đấu tranh vũ trang chiến tranh nhân dân, “chúng nó đã cầm súng
thì mình phải cầm giáo”.

Lật giở từng trang văn, bạn đọc như đang đắm mình với câu chuyện kể lại của
cụ. Hình ảnh cụ Mết giúp người đọc nhận thức được nhiều điều: biết sống hướng về
cội nguồn, tự hào về các thế hệ cha anh, trân trọng những hi sinh mất mát của họ để
thấy giá trị của tự do, độc lập trong cuộc sống hiện tại, biết sống có lí tưởng để vươn
tới một cuộc sống tốt đẹp.

4. Các nhân vật khác

Dít + Tiêu biểu cho lực lượng chiến đấu hôm nay, là sự tiếp nối
tự nhiên truyền thống anh hùng, bất khuất của cụ Mết, Tnú
và Mai.
+ Cô bé Dít trưởng thành một cách nhanh chóng từ đau

22
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
thương. Ở cô bộc lộ sự gan góc sức chịu đựng hiếm có.
Khi T nú lên đường đi bộ đội, Dít đã thay Tnú lãnh đạo
cuộc chiến đấu của cả dân làng.

Bé Heng + Cậu bé có những nét hồn nhiên, sống động, tiêu biểu cho
thế hệ măng non của làng Xô Man, Heng sẽ nối tiếp xứng
đáng con đường đã chọn của Tnú, Mai và cụ Mết.
+ Heng là hình ảnh của một cây xà nu non còn mang trong
mình bao sinh lực tràn trề hứa hẹn sẽ trở thành cây xà nu
mạnh mẽ và bất tử. Đó là đại diện của thế hệ tương lai nối
tiếp truyền thống và hứa hẹn sẽ đi xa hơn thế hệ cha anh.

5. Đặc sắc Nội dung + Nghệ thuật

A, NỘI DUNG:

Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, biểu dương tinh thần bất khuất, ý chí
chiến đấu của người Tây Nguyên và con đường giải phóng dân tộc của nhân dân ta

B. NGHỆ THUẬT:

Kết hợp nhuần nhuyễn giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

- Khuynh hướng sử thi thể hiện đậm nét ở các phương diện:
+ Đề tài: truyện bàn đến vấn đề sinh tử hết sức hệ trọng
Khuynh hướng không chỉ của cả cộng đồng Xô Man mà của cả dân tộc
sử thi Việt Nam.

23
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
+ Chủ đề: trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân miền Nam
chỉ có con đường duy nhất là cầm vũ khí, vùng lên chiến
đấu, giải phóng quê hương.
+ Nhân vật: hệ thống nhân vật trong tác phẩm là những con
người kết tinh cao độ nhiều phẩm chất tiêu biểu của cả
cộng đồng: gắn bó với dân làng, trung thành với Cách
mạng, căm thù giặc sâu sắc, kiên cường, bất khuất. dũng
cảm. Lý tưởng các nhân vật luôn gắn bó với vận mệnh
của cả dân tộc. Các nhân vật được xây dựng thể hiện sự
nối tiếp của các thế hệ cách mạng làng Xô Man.
+ Nghệ thuật trần thuật: câu chuyện mới diễn ra nhưng
được kể như một câu chuyện lịch sử bằng ngôn ngữ,
giọng điệu của sử thi trong không khí trang trọng và thái
độ trang nghiêm của người kể và người nghe. Giọng kể
trầm hùng khiến cho câu chuyện mang màu sắc thiêng
liêng như một trang sử cộng đồng.
+ Giọng văn trang trọng, hùng tráng.

Cảm hứng lãng - Cảm hứng lãng mạn cách mạng thể hiện qua các phương
mạn diện:
+ Đề cao vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong sự đối
lập với sự tàn bạo của kẻ thù.
+ Lời văn giàu sức tạo hình, giọng văn giàu cảm xúc tha
thiết.

IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO


1. Mở bài
MB1:
"Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên

24
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
Ngực dám đó những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loại sên!"
Hình ảnh những con người Việt Nam ấy đã đi vào thơ ca như một niềm thơ lớn và trở
thành phần hồn của mỗi người con đất Việt. Yêu biết mấy hình ảnh người dân quê tôi:
cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu. Văn thơ thời kỳ kháng chiến chống
Mĩ đã dựng lại cả một thời kỳ máu lửa, đi sâu tìm tòi khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của
con người. Tôi nhớ mãi mãi một Tnú, cụ Mết trong "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung
Thành. Họ là hiện thân của vẻ đẹp con người Việt Nam, của sức sống dân tộc. Năm
tháng trôi đi và lịch sử đã bước sang trang mới nhưng những con người ấy vẫn sáng
ngời lên nhắc nhở ta về một quãng đường đầy gian khổ, đau thương, lại rất đỗi anh
hùng mà đất nước mình đã đi qua. Để rồi mỗi lần đọc lại tôi không khỏi ngỡ ngàng vì
người dân mình đẹp quá, dũng cảm; và lòng tôi được như sống lại những ngày còn
chiến tranh bom đạn ấy.
MB2:
Có lẽ bởi giới văn nhân nhạy cảm quá, họ dễ nặng lòng bởi nhịp thở của những
mảnh đất, con người ở bất kì đâu mà đất ấy, người ấy cứ trở đi trở lại trong những tác
phẩm của họ. Nếu Kim Lân nặng nghĩa nặng tình với dân tình làng cảnh Việt Nam
chốn đồng bằng Bắc Bộ, nếu Nguyễn Tuân tả vùng Tây Bắc bằng ngòi bút tha thiết
tình yêu thì Nguyễn Trung Thành lại như mắc duyên mắc nợ với Tây Nguyên hùng vĩ.
Thiên nhiên và con người Tây Nguyên đã kết tinh vẻ đẹp lại nơi tác phẩm “Rừng xà
nu” của chính ông và lôi cuốn tâm hồn bạn đọc vào những ý văn nhẹ nhàng mà sâu
lắng.
MB3:
“Rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành (tức Nguyễn
Ngọc) cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam chống
Mỹ, cứu nước. Bên cạnh những anh hùng và tập thể anh hùng, ở Rừng xà nu, Nguyễn
Trung Thành còn sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật mang tính biểu trưng cho
sức mạnh của dân tộc và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại. Đó chính là hình
tượng cây xà nu.
MB4:

25
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây
Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người dân nơi đây
đã cung cấp cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh
đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những người con trung
dũng, kiên cường. Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Trung Thành - bút
danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”; thì trong những năm kháng
chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền
Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện
ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con
người Tây Nguyên trong cuộc chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm
chính là hình tượng cây xà nu.

2. Kết bài
KB1: Trong tác phẩm “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi đã viết:
“Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh”
Không khí ấy, tâm thế ấy có lẽ đã được diễn tả sâu sắc nhất trong truyện ngắn “Rừng
xà nu”. Những trang văn của Nguyễn Trung Thành khép lại nhưng đã mở ra trước mắt
ta tượng đài những người anh hùng bất khuất, không bao giờ chịu khuất phục trước dã
tâm của kẻ thù. m hưởng sử thi của thiên truyện vẫn còn âm vang trong lòng bạn đọc
như tiếng gọi của đại ngàn Tây Nguyên, như lời khẳng định chắc chắn một sự thật lịch
sử, rằng: để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi trường tồn, không có cách nào
khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác. “Rừng xà
nu” của Nguyễn Trung Thành sẽ mãi sáng ngời những vẻ đẹp tráng lệ và hào hùng ấy.

KB2: Bấy nhiêu hi sinh là bấy nhiêu tự hào. Biết bao gian khổ là biết bao những kiên
trì, quyết tâm cho một ngày mai “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Những người con của
núi rừng Tây Nguyên như cụ Mết, Tnú, Mai... là kết tinh của bao gian lao và cả tinh
thần anh dũng, kiên cường của tình yêu nước nồng nàn luôn rực cháy trong tim. Xây

26
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
dựng thành công hình tượng người anh hùng, tập thể anh hùng mang âm hưởng sử thi,
với lời văn chau chuốt, sinh động, Nguyễn Trung Thành cùng thiên truyện “Rừng xà
nu” đã để lại ấn tượng mạnh mẽ nơi người đọc, khiến ta vẫn còn nhớ mãi, thương mãi
và tự hào mãi về những năm tháng gian lao mà huy hoàng của dân tộc:
“Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!”

27

You might also like