You are on page 1of 5

Dàn ý mẫu 1

a, Mở bài
– Giới thiệu một số nét về tác giả, tác phẩm:
       + Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất
này
       + Rừng xà nu được đánh giá là khúc sử thi của Tây Nguyên thời kì chống Mĩ, tái hiện con đường đấu tranh của dân làng Xô 
– Giới thiệu hình tượng cây xà nu: 
       Bên cạnh hình tượng con người anh dũng, nổi bật là hình tượng cây xà nu tiêu biểu cho thiên nhiên và con người Tây Nguyên
kiêu hùng, bất khuất.
b, Thân bài: Phân tích hình tượng cây xà nu
* Vị trí của cây xà nu
       – Cây xà nu xuất hiện ở đoạn mở đầu của tác phẩm
       + “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”
       + “bát ngát đến tận chân trời”
       + “những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão”…
       – Cây xà nu xuất hiện ở kết thúc và toàn bộ thiên truyện
       + “rừng xà nu”, “cây xà nu”, “nhựa xà nu”, “lửa xà nu”, “đuốc xà nu”… được nhắc đi nhắc lại xuyên suốt thiên truyện.
       + Truyện khép lại bằng hình ảnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận.
       => Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt, trung tâm góp phần thể hiện chủ đề, tính sử thi của tác phẩm.
* Cây xà nu trong sự gắn bó với con người, cuộc sống của người Xô man
– Đặc điểm của cây xà nu:
       + Là cây họ thông
       + Gỗ quý, nhựa rất thơm
       + Sức sống mãnh liệt và ham ánh sáng mặt trời
       – Dân làng Xô man lấy gỗ xà nu, khói xà nu nhuộm đen bảng để học chữ, lửa xà nu chiếu sáng mỗi gian nhà.
       – Đuốc xà nu chiếu sáng cho nhân dân chuẩn bị vũ khí để đồng khởi.
       – Cả rừng xà nu ưỡn thân mình để bao bọc, bảo vệ buôn làng khỏi những trận bom của địch, hàng vạn cây, không có cây nào
là không thương tích.
       => Hình tượng xà nu tràn ngập trong tác phẩm gợi cho người đọc về bức tranh Tây Nguyên hùng vĩ, thơ mộng, gợi màu sắc,
không gian núi rừng Tây Nguyên, gắn với cuộc sống sinh hoạt và những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man.
       – Hình tượng cây xà nu mang vẻ đẹp tương ứng, song hành với các thế hệ cách mạng tiếp nối của dân làng Xô Man.
       + Những cây cổ thụ đại diện cho lớp người già như cụ Mết: chúng không thể bị quật ngã bởi gió bão, như cụ Mết chính là chỗ
dựa tinh thần cho cả buôn làng.
       + Những cây xà nu trưởng thành như Tnú, Mai, Dít: vết thương bom đạn mau lành như trên thân thể cường tráng (hình ảnh
lưng Tnú bị chém ngang dọc nhưng cũng lành lại thành sẹo rất nhanh).
       + Những cây xà nu mới mọc tượng trưng cho hình ảnh thiếu niên như bé Heng: “cây xà nu mới mọc lên khỏi mặt đất đã nhọn
như mũi tên, mũi lê”, như bé Heng tuy còn nhỏ đã dũng cảm bước tiếp cha anh.
       => Thế hệ này ngã xuống đã có thế hệ khác đứng lên đấu tranh giành tự do “bên cạnh một cây xà nu ngã gục đã có 4,5 cây
con mọc lên”.
       – Những nỗi đau cây xà nu phải chịu cũng là những gì mà con người nơi đây phải trải qua:
       + Nỗi đau của con người bị tra tấn, hành hạ (anh Xút, bà Nhan bị chặt đầu treo lên cây vả, Mai và đứa con bị tra tấn bằng gậy
sắt đến chết, 10 đầu ngón tay Tnú bị đốt bằng nhựa xà nu đến mức chỉ còn 2 đốt).
       – Biểu tượng hình tượng tốt đẹp của người Tây Nguyên: là kiểu ẩn dụ độc đáo về sức sống bất diệt, tinh thần bất khuất, sức
mạnh vùng dậy của dân làng Xô Man trong phong trào đấu tranh vũ trang.
       + Cả ngọn đồi xà nu hàng trăm cây gắn bó với nhau như cộng đồng người Tây Nguyên đoàn kết đánh giặc.
       + Cả cánh rừng bạt ngàn sẽ không bao giờ bị khuất phục: “cây mẹ ngã xuống, cây con mọc lên, đố nó giết hết cánh rừng này”.
       + Cây xà nu sinh sôi nảy nở, ham ánh sáng mặt trời như người Tây Nguyên chân chất khao khát tự do.
       – “Hóa thành ngọn lửa” chứng minh cho mọi sự kiện trọng đại, đau thương và anh dũng của làng Xô man.
c, Kết bài
       – Cảm nhận của em về hình tượng cây xà nu.
       – Khái quát giá trị nghệ thuật: ngòi bút giàu chất sử thi, ngôn ngữ giản dị, đậm chất Tây Nguyên, âm hưởng trang trọng,…
Dàn ý chi tiết phân tích hình tượng cây xà nu
Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trung Thành, người đã gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, có nhiều tác phẩm về những con người
và mảnh đất nơi đây.

– Giới thiệu về tác phẩm và hình tượng cây xà nu. Bên cạnh những hình tượng con người anh dũng, thì nổi bật hơn cả là hình
tượng cây xà nu.
Ví dụ: Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, ông còn có bút danh là Nguyên Ngọc. Ông là nhà văn trưởng thành
trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Một thời gian dài ông sống và gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ và có nhiều
tác phẩm về mảnh đất cũng như con người nơi đây. Tác phẩm Rừng Xà Nu được ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, nói
về những con người anh dũng, sẵn sàng hi sinh để đánh đuổi giặc. Nổi bật nhất và xuyên suốt tác phẩm chính là hình tượng cây xà
nu, dũng mãnh, đã chứng kiến và trưởng thành cùng người dân nơi đây. Cây xà nu chính là biểu tượng của những con người Tây
Nguyên anh dũng, bất khuất, kiên cường.

Thân bài
 Luận điểm 1: Vị trí xuất hiện
– Nói đến cây xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm, thể hiện chủ đề và tính sử thi của tác phẩm. Nó xuất hiện ngay ở đoạn mở
đầu, toàn bộ thiên truyện và ở đoạn kết.

 Luận điểm 2: Cuộc sống thường ngày


– Giới thiệu về cây xà nu với cuộc sống thường ngày, đó là đặc điểm cây xà nu: là cây gỗ họ thông, gỗ nhựa, quý thơm, ham sống
mãnh liệt, ham ánh sáng mặt trời.

Dẫn chứng: “cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh, ròn, hình nhọn như mũi tên lao thẳng lên
bầu trời”, “có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê”, “đại bác không giết nổi chúng, những vết thương
của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”.

– Gỗ xà nu và khói xà nu nhuộm đen bảng

– Xà nu gắn với cuộc sống sinh hoạt, không gian núi rừng tây nguyên

>> Tác giả muốn nói đến cuộc sống bình thường của cây xà nu cho thấy, trong thời bình, cây xà nu vẫn có những giá trị vô cùng
lớn lao chứ không chỉ riêng thời chiến. Cây xà nu gắn liền với bà con nơi đây từ những điều giản dị nhất. Qua đây chúng ta càng
trân quý cây xà nu hơn, một biểu tượng của đất rừng Tây Nguyên, giản dị mà trung nguyên, bất khuất, kiên cường.

>> Chất sử thi truyện ngắn được tạo bởi hình tượng cây xà nu. Nó được khai thác từ nhiều góc độ và lập đi lặp lại nhiều lần cho
thấy tính chất vô cùng quan trọng. Ví dụ như: Đôi xà nu lập lại 4 lần, rừng xà nu lập lại 5 lần, hàng vạn cây, ưỡn tấm ngực lớn của
mình ra che chở cho làng.

 Luận điểm 3: Gắn với những sự kiện trọng đại


– Rừng xà nu gắn với nhiều sự kiện trọng đại:

+ Đuốc xà nu chiếu sáng các trận đồng khởi

+ Bảo vệ buôn làng khỏi những trận bom

+ Dân làng mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu

+ Giặc đốt hai bàn tay Tnu bằng giẻ tẩm nhựa xà nu

>> Hình ảnh cây xà nu luôn dũng mãnh, bên cạnh người dân Tây Nguyên càng khẳng định được giá trị và vị trí của nó trong lòng
những con người Tây Nguyên. Cây xà nhu không trực tiếp đánh giặc nhưng nó đã ở bên, sánh bên cùng người dân nơi đây, nó
cũng góp công lao bé nhỏ vào cuộc chiến với giặc.

 Luận điểm 4: Biểu tượng cho con người – dân làng Xô man nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung
– Cụ mết:

+ Đại diện cho thế hệ già, đi tước, giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng, cách mạng: Đó là cụ Mết – cụ chính là “cây xà
nu lớn” che chở cho dân làng bằng tư tưởng, lòng dũng cảm và truyền lửa cho thế hệ trẻ, tiếp nối tư tưởng, sức mạnh, để bảo vệ
quê hương đất nước.
+ Dẫn chứng: Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một cái kìm sắt. Anh quay lại: cụ Mết! Ông cụ vẫn quắc thước
như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng. Ông ở
trần, ngực căng như một cây xà nu lớn.

>> Những miêu tả về ông cho thấy ông là người vô cùng dũng mãnh, ý chí kiên cường, lời ông nói ra nặng tựa núi sông, cả dân
làng đều im lặng nghe. Ông là người có sức ảnh hưởng mạnh.

+ Ông là người bên ngoài mạnh mẽ, nhưng bên trong vô cùng ấm áp:

Dẫn chứng: Ông cụ Mết đứng lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú. Những vết thương xưa vẫn còn ngang dọc trên tấm lưng ấy, đã
thành sẹo tím. Từ đôi mắt ông cụ lăn ra hai giọt nước mắt lớn, ông lén trở tay chùi một cách vội vã. Tnú không kịp thấy. Còn lũ
trẻ thì ngơ ngác, sửng sốt…

>> Cho thấy ông chính là cây xà nu lớn bao bọc những cây xà nu nhỏ không chỉ bằng vẻ bề ngoài cứng rắn, mạnh mẽ mà còn là
một tâm hồn cao cả, sự bao dung tận trái tim.

 – Tnu, Mai, Dít

+ Đại diện cho cây trưởng thành, thế hệ mới, thế hệ trẻ đã trưởng thành đó là Tnú, Mai và Dít. Đây là những người trẻ nhiệt huyết
và trong bom đạn họ không hề e ngại, những vết thương cũng rất mau lành.

Dẫn chứng: Những vết thương xưa vẫn còn ngang dọc trên tấm lưng ấy, đã thành sẹo tím

+ Mai là vợ của Tnú và đã hi sinh trong trận chiến với bọn giặc ở đồn Đắc Hà. Cái chết của Mai chính là sự hi sinh dũng cảm của
thế hệ trẻ, chết nhưng không hết, nó truyền lửa cho thế hệ mai sau.

+ Dít là em của Mai giờ đã là bí thư chi bộ và kiêm chính trị viên xã hội

– Bé Heng

+ Đại diện cho cây xà nu mới – hình ảnh thiếu niên – cây con mới mọc lên khỏi mặt đất đã nhọn như mũi tên, mũi lê. Bé Heng tuy
nhỏ nhưng dũng cảm tiếp bước cha anh.

>> Đánh giá: Thế hệ này ngã xuống thì thế hệ sau đứng lên, quyết tâm chống giặc, giành lại hòa bình cho quê hương đất nước.

Dẫn chứng: bên cạnh một cây xà nu ngã gục đã có 4,5 cây con mọc lên”.

 Luận điểm 5: Phản ánh nỗi đau con người phải chịu ở nơi đây
– Những nỗi đau mà cây xà nu chịu cũng chính là những nỗi đau mà những người dân nơi đây đã trải qua. Có cây bị chặt ngang
mình, có cây thì vêt thương ứa nhựa, rồi dần bầm lại, quyện thành từng cụ máu lớn…

+ Phản ánh nỗi đau con người đó là hình ảnh anh Nút, bà Nhan bị chặt đầu treo lên cây

+ Đó là Mai và đứa con bị tra tấn bằng gậy sắt đến chết

+ Đó là anh Tnú với 10 ngón tay đốt bằng nhựa xà nù và giờ chỉ còn 2 đốt.

>> Cây đau làm sao thì những người dân nơi đây đau làm vậy. Nhưng trong nỗi đau ấy là tình thần vô cùng bất khuất, không sợ
hãi khiến cho kẻ thù phải kiếp sợ. Từ những người trẻ cho đến người già, tất cả đều đồng lòng chống giặc.

 Luận điểm 6: Biểu tượng cho sức sống người Tây Ngyên
– Tác giả đã sử dụng biện pháp ẩn dụ để nói về sức sống mãnh liệt, tinh thần bất diệt, bất khuất, sức mạnh phi thường của dân làng
Xô Man nói riêng và những người anh hùng Tây Nguyên nói chung.
+ Đó là hình ảnh cả đồi xà nu hàng trăm cây gắn bó với nhau như cộng đồng người Tây Nguyên

+ Đó là hình ảnh cả cánh rừng bạt ngàn không sợ hãi, không khuất phục, cây mẹ ngã, cây con mọc lên

+ Đó là hình ảnh cây xà nu sinh sôi, nảy nở, ham ánh mặt trời như người Tây Nguyên khao khát tự do, hạnh phúc

>> Nếu rừng xà nu mạnh mẽ, ham sống, vươn lên thế nào thì đó chính là hình ảnh những con người tây  nguyên, họ cũng mạnh
mẽ, ham tự do, khát vọng lớn lao.

>> Cánh rừng xà nu bạt ngàn đã tạo ra không gian sử thi cho tác phẩm.

Kết bài
– Khát quát lại giá trị nghệ thuật: Ngòi bút giàu chất sử thi, ngôn ngữ giản dị, đậm chất tây nguyên

– Đánh giá nội dung: Đây là một khúc sử thi văn chương hiện đại, tái hiện vẻ đẹp tráng lệ hào hùng của núi rừng tây nguyên, con
người và văn hóa tây nguyên

– Cảm nhận của em về hình tượng cây xà nu, con người nơi đây, tác phẩm và tác giả.

Mở bài
Nhà văn Nguyễn Trung Thành có bút danh là Nguyên Ngọc. Ông là một trong những nhà văn có nhiều gắn bó với vùng đất Tây
Nguyên đầy nắng và gió. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông đều ở Tây Nguyên, bởi thế, những tác phẩm
thành công nhất của ông đều có nội dung và cảm hứng từ mảnh đất này.

Một trong những tác phẩm ấn tướng nhất của ông chính là Rừng xà nu được in trong tập truyện “Trên quê hương những người anh
hùng Điện Ngọc” xuất bản năm 1965. Trước khi đi vào phân tích nhân vật Tnú trong Rừng xà nu, các bạn cần giới thiệu qua nội
dung tác phẩm. Đây là câu chuyện về cuộc đời chàng trai Tây Nguyên Tnú và ngôi làng Xô Man anh dũng và kiên cường. Nhân
vật Tnú là nhân vật chính của tác phẩm. Theo lời kể của già làng Mết, Tnú là người anh hùng của làng Xô Man, là kết tinh của tất
cả những vẻ đẹp của cộng đồng nơi núi rừng Tây Nguyên.

Chi tiết thân bài


Luận điểm 1: xuất thân của Tnú
Theo lời kể của cụ Mét, Tnú từ bé đã là một đứa bé mồ côi cả cha lẫn mẹ. Tnú được lớn lên trong sự yêu thương, chăm sóc, đùm
bọc của cả dân làng Xô Man. Có thể nói, anh là đứa con chung của cả cộng đồng làng Xô Man. Vì thế, ở anh hội tụ hết thảy
những vẻ đẹp tinh túy nhất của cộng đồng Xô Man và cũng chính là núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. “Nó đấy! Nó là người Strá
mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta. Đêm nay tau kể
chuyện nó cho cả làng nghe, để mừng nó về thăm làng. Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng
mà nghe, mà nhớ”.

Luận điểm 2: Tnú là người gan dạ, kiên cường,  ham học và trung thành với Cách mạng.
Phân tích nhân vật Tnú trong Rừng xà nu, độc giả nhận ra, anh là một chàng trai cực kỳ gan dạ, dũng cảm. Ngay từ lúc còn nhỏ,
Tnú đã sớm giác ngộ lí tưởng Cách mạng, căm ghét sự tàn bạo độc ác của quân giặc. Theo chân những người lớn trong làng, Tnú
cũng đã xung phong đi nuôi giấu cán bộ Cách mạng. “Nó đeo một cái xà-lét nhỏ xíu của mẹ nó để lại, trong xà-lét trên bó rau
dưới dấu hai lon gạo trắng, nó luồn như một con sóc qua các hốc đá cheo leo, nó chạy lon ton trong rừng đi tìm nuôi anh cán
bộ”. Mặc dù nghe dân làng kể những người đi nuôi cán bộ trước bị treo cổ, bị giết dã man như thế nào nhưng Tnú không hề sợ.
Ngược lại, Tnú càng gan góc hơn. Bởi Tnú hiểu “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”.

Không chỉ là một cậu bé sớm hiểu chuyện, ghét điều ác có tình yêu với dân làng, với đất nước, Tnú còn là một người cực kỳ ham
học. Khi cán bộ Quyết dạy Tnú và Mai học, vì không theo kịp Mai, nên cậu đã lấy đá đập vào đầu mình. Sau khi nghe cán bộ
Quyết tâm sự, sau này nếu anh lỡ bị Mỹ Diệm giết thì Tnú phải thay anh làm cán bộ thì Tnú đã quyết tâm học bằng được. Có thể
thấy, tuy bé nhưng Tnú đã có nhận thức rất sâu sắc về nhiệm vụ cao cả của mình. Mặc dù quên chữ nhưng Tnú đi rừng rất nhanh
nhẹn và tháo vát. Lúc bị giặc bắt và tra tấn, trao khảo, Tnú không hề run sợ mà còn chỉ tay vào bụng mình “cộng sản đây này”.

Không chỉ lúc nhỏ, khi lớn lên, Tnú càng trung thành với Đảng với Cách mạng hơn. Khi vượt ngục trở về thành công, Tnú thay
anh Quyết lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đánh giặc.  Rồi khi chứng kiến vợ con bị lũ giặc tra tấn, bị giết Tnú không kiềm chế
nỗi căm tức, liền xông ra để cứu vợ con. Nhưng anh không cứu được vợ con. Anh bị quân giặc bắt rồi quấn khăn đốt 10 đầu ngón
tay. Lửa cháy rừng rực nhưng Tnú không hề kêu than, bởi Tnú hiểu rằng “người cộng sản không hề kêu van”. Ngược lại anh lại
“trợn mắt nhìn thằng Dục”,… Không kêu la đau đơn rên rỉ nhưng  Tnú đã thét lên “Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi.
Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Tiếng “giết”!”.  Và rồi sau đó, cả dân làng theo cụ
Mết đã vùng lên giết hết lũ giặc và cứu sống Tnú.

Luận điểm 3: là chàng trai có trái tim yêu thương người thân, gia đình sâu sắc
Càng phân tích nhân vật Tnú trong Rừng xà nu, độc giả càng cảm nhận được vẻ đẹp trong phẩm giá của chàng trai vùng Tây
Nguyên này. Sau khi vợ con bị giết, Tnú không hề bi quan, thay vì buồn đau chán chường, anh tham gia Cách mạng, đứng vào
hàng ngũ lực lượng giải phóng quân. Mặc dù xa quê hương, nhưng trong anh vẫn luôn in đậm nỗi nhớ làng Xô Man, nhớ nhà. Vì
thế, dù chỉ được về thăm làng một đêm, anh cũng cố gắng vượt sông vượt suối vượt núi để về.

Tnú hiện lên là một người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con. Khi chứng kiến cảnh vợ con bị tra tấn, anh không chịu
được mà lao vào cứu. Rồi anh dang rộng vòng tay ôm vợ con vào lòng. “Rồi Mai ôm đứa con chúi vào ngực anh. Hai cánh tay
rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Trong Tnú lúc này chất chứa đầy nỗi căm thù giặc. Tnú có 3
mối thù lớn đó là mỗi thù của riêng mình khi hai lần bị lũ giặc tra tấn, mối thù thứ hai của gia đình đó là vợ con bị giặc giết, và
mối thù thứ bà là mối thù của buôn làng. Mang theo từng ấy căm phẫn, Tnú đi theo Cách mạng, để tìm con đường tự do cho mình,
và cho buôn làng.

Luận điểm 4: hình tượng nhân vật Tnú qua hình ảnh đôi bàn tay
Phân tích nhân vật Tnú trong Rừng xà nu, độc giả thấy hình ảnh bàn thay xuất hiện nhiều và được tác giả Nguyễn Trung Thành
dành khá nhiều đất để miêu tả. Đó là bàn tay đầy yêu thương của anh Quyết khi nắm lấy tay Tnú. Đó là bàn tay Mai nắm lấy tay
anh khi anh vượt ngục trở về.

Tiếp đến là hình ảnh bàn tay đầy đau thương của Tnú khi chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị lũ giặc tra tấn. Đặc biệt là bàn tay bị
cháy đốt của Tnú. Mỗi ngón tay được tác giả miêu tả như một ngọn đuốc bừng bừng sự căm giận lũ giặc tàn bạo. Để rồi chính bàn
tay ấy đã giết chết quân giặc để báo thù cho Mai, cho con Tnú và cho cả người dân làng Xô Man. “Một ngón tay Tnú bốc cháy.
Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”.

Bàn tay ấy của Tnú còn là nhân chứng của lịch sử, là biểu tượng của sự vùng lên kiên dũng của dân làng Tây Nguyên trước quân
cướp nước và bán nước “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. “Lành mười ngón tay rồi nó ra đi. Lành thật, ngón nào
cũng cụt một đốt, nhưng còn hai đốt cũng cầm giáo, bắn súng được”. “Nó lắc đầu. Được, đây này, hai bàn tay tau đây này, nhớ
chứ? Tau vẫn cầm được súng đây, tau có cả dao găm đây. Nhưng tau không giết mày bằng súng, tau không đâm mày bằng dao
nghe chưa? Dục! Tau giết mày bằng mười đầu ngón tay cụt này thôi, tau bóp cổ mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tau bóp cổ
mày thôi!

Kết bài
Phân tích nhân vật Tnú trong Rừng xà nu một lần nữa, độc giả không khỏi cảm động trước tình yêu nước nồng nàn của nhân dân
Việt Nam nói chung và những người con vùng đất Tây Nguyên nói riêng. Tnú là nhân vật điển hình và kết tinh những vẻ đẹp của
núi rừng nơi đây. Ở anh hiện lên là một con người tráng kiện, anh dũng và kiên cường. Tnú cũng như bao người dân làng Xô Man
khác, đều có một niềm tin mãnh liệt vào Cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng. Tnú cũng như cộng đồng người dân Tây Nguyen,
luôn có một trái tim yêu thương gia đình, yêu thương đồng bào tha thiết. Tnú cũng như dân làng, sẵn sàng hy sinh bản thân để giữ
đất, giữ nước, giữ lấy cuộc sống bình yên tự do của cả buôn làng.

Có thể nói, Rừng xà nu là một khúc sử thi bi tráng về người anh hùng Tây Nguyên dũng mãnh. Tác phẩm không chỉ ca ngợi vẻ
đẹp phẩm chất, tinh thần đoàn kết, quật cường của con người Tây Nguyên mà còn ngợi ca vẻ đẹp của vùng đất đầy nắng và gió
này. Càng đọc, càng phân tích nhân vật Tnú độc giả càng cảm phục và yêu mến hơn đất và người nơi đây. Quả thực, có sống có
gắn bó với vùng đất Tây Nguyên này lắm thì nhà văn Trung Thành mới có thể viết lên những áng văn bất hủ và kinh điển như
vậy.

Bằng bút pháp nghệ thuật độc đáo, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã cho độc giả thấy một bức tranh đời sống người dân Tây
Nguyên trong những năm kháng chiến thật sinh động và ấn tượng. Chính vì ngôn ngữ đậm chất sử thi, dung dị nhưng đầy nhân
văn và độc đáo mà tác phẩm đã ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Mỗi hình ảnh câu từ, chi tiết của tác phẩm đều lôi cuốn
người đọc dõi theo và không thể rời mắt. Cách dẫn dắt câu chuyện đan xen giữa hiện thực và lời kể của già làng Mết càng khiến
hình tượng nhân vật Tnú hiện lên vừa oai hùng vừa bí ẩn lại vừa sinh động và đầy yêu thương.

You might also like