You are on page 1of 22

Đề 1: Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng nhân vật Tnú trong đoạn

trích: “Thằng dục không giết Tnu....ngổn ngang quanh đống lửa”. Từ đó, nhận
xét vẻ đẹp sử thi trong tác phẩm.

A. MỞ BÀI CHUNG
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Trong thế giới nghệ thuật của mình, mỗi
nhà văn thường chọn cho mình một miền "đất nhớ", đó là mảnh đất gắn bó, nơi lưu
lại những cảm xúc yêu thương, tự hào.  Nhà văn Nguyễn Trung Thành cũng có một
miền đất nhớ như thế. Ông quê ở Quảng Nam nhưng gắn bó với Tây Nguyên trong
cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Vùng đất Tây Nguyên với núi
rừng hùng vĩ, đầy bí ẩn mà thơ mộng, có cánh chim Ling, chim Chơ rao rực rỡ sắc
màu, có âm thanh trầm hùng ngân vang của đàn Gông, đàn Tơ Rưng cùng những
con người bộc trực, dũng cảm, kiên trung một lòng gắn bó cách mạng được ông ưu
ái và dành nhiều niềm thương yêu. Bởi vậy ông đặc biệt thành công khi viết về đề
tài Tây Nguyên. Tác phẩm “Rừng xà nu” được viết năm 1965 khi cuộc kháng
chiến chống Mĩ của dân tộc ta đang trong giai đoạn ác liệt. Tác phẩm được in trong
tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc” và là tác phẩm tiêu biểu của
Nguyễn Trung Thành viết về Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn văn “Thằng Dục không giết Tnú ngay…
đỉnh núi Ngọc Linh về” đã thể hiện vẻ đẹp mang tính sử thi của tác phẩm.
B. THÂN BÀI
1. Khái quát
Rừng xà nu là câu chuyện một đời người kể trong một đêm. Truyện kể về
nhân vật Tnú sau ba năm đi “lực lượng” được về thăm làng. Đêm đó, bên bếp lửa,
cụ Mết kể lại cho dân làng nghe câu chuyện cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân
làng Xô Man. Kết truyện, cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở về đơn vị. Trong tác phẩm,
nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng được một hệ thống nhân vật phong
phú, phản ánh hiện thực cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ của đồng bào Tây
Nguyên anh dũng. Tham gia cuộc chiến đấu ấy là các thế hệ của dân làng Xô Man
như Bà Nhan, anh Xút, Tnú, Dít, Mai, bé Heng… và trong đó không thể không
nhắc tới nhân vật chính của tác phẩm là Tnú.
Nhân vật Tnú trong tác phẩm: Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành
công nhân vật Tnú giống như biểu tượng cho Tây Nguyên anh dũng trong chiến
đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc. Tnú có lai lịch xuất thân đặc biệt, vốn là đứa trẻ
mồ côi, cha mẹ chết sớm, lớn lên trong sự đùm bọc, yêu thương của dân làng Xô
Man, là đứa con chung của cộng đồng nên hội tụ vẻ đẹp cộng đồng. Số phận, tính
cách và phẩm chất của nhân vật Tnú tiêu biểu và kết tinh cho số phận, vẻ đẹp và
con đường cách mạng của nhân dân Tây Nguyên như già làng Mết đã nói về Tnú
“Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”...
Nguyễn Trung Thành đã rất thành công với nghệ thuật điển hình hóa nhân
vật Tnú với hình ảnh bàn tay mười ngón bị đốt cụt mỗi ngón một đốt, mà nó có thể
được coi là trung tâm của mọi vẻ đẹp của nhân vật này. Trong đó, đoạn trích thuộc
phần gần cuối của truyện, diễn tả cảnh nhân vật Tnú bị thằng Dục đốt mười đầu
ngón tay nhưng anh vẫn cắn răng chịu đựng, thể hiện rõ phẩm chất của người cách
mạng, của người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
 2. Hình tượng nhân vật Tnú trong đoạn văn
2.1. Hoàn cảnh của nhân vật Tnú trong đoạn văn:
Sau ba năm sống trong ngục tù của bọn giặc, Tnú vượt ngục trở về làng, trở
thành một chàng trai cao lớn, rắn chắc như cây xà nu đẹp đẽ, cường tráng nhất khu
rừng Tnú gặp lại Mai cô bạn liên lạc thuở nào nay đã trở thành một cô gái xinh
đẹp, dịu dàng. Và chuyện tình của sau đó thật đẹp đẽ, thơ mộng. Họ lấy nhau,
hạnh phúc trọn vẹn khi đứa con ra đời. Đó là đoạn đời hạnh phúc, đẹp đẽ nhất của
Tnú. Nhưng tội ác của bọn giặc đã khiến chuyện tình của họ trở nên ngắn ngủi và
nhuốm màu sắc bi tráng. Nghe tin Tnú trở về lãnh đạo dân làng Xô man chuẩn bị
khởi nghĩa, kẻ thù quyết phải bắt được Tnú thì mới có thể dập tắt được phong trào
cách mạng nên khủng bố dữ dội. Không bắt được Tnú, bọn giặc nghĩ ra một kế đê
hèn, chúng bắt mẹ con Mai tra tấn dã man bằng cơn mưa gậy sắt. Khi chứng kiến
cảnh vợ con bị tra tấn, lòng căm thù trong con người anh sục sôi nóng bỏng, hai
tay Tnú “bíu chặt lấy gốc cây” rồi sau đó “anh đã bứt hàng chục trái vả mà không
hay”. Để khi căm hờn và đau thương hòa quyện và dâng cao thì hai con mắt anh
như hai cục lửa lớn - ngọn lửa của nỗi đau, sự yêu thương và căm hờn đang cháy
sục sôi trong đáy mắt, trong con tim của Tnú. Mặc cho sự ngăn cản của cụ Mết,
Tnú xông lên cứu mẹ con Mai nhưng anh đã không thể cứu được vợ con.
2.2. Vẻ đẹp bi hùng của nhân vật Tnú ngời sáng trong hoàn cảnh đau thương:
* Nỗi đau mà Tnú phải trải qua:
Vợ con Tnú chết ngay trước mắt anh và bản thân anh cũng bị bắt, bọn giặc
cũng sẽ giết anh. Nhưng khi bắt được Tnú, bọn giặc không để cho anh chết ngay
mà buộc anh phải trải qua nỗi đau cào xé khi từng phần trên cơ thể bị hủy hoại.
Mặt khác, Bọn giặc đốt mười ngón tay Tnú nhằm khủng bố và tiêu diệt ý chí phản
kháng của dân làng Xô Man. Thằng ác ôn Dục đã giơ cao ngọn đuốc, cười sằng sặc
và dọa: đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây! Kẻ thù
tìm mọi cách để tiêu diệt lòng yêu nước của dân làng Xô Man. Chúng lùa dân làng
đến nhà ưng để chứng kiến việc đốt mười đầu ngón tay của Tnú. Thằng lính to béo
nhất dùng giẻ tẩm dầu xà nu quấn lên mười đầu ngón tay Tnú rồi thằng Dục châm
lửa đốt. Nhựa xà nu vốn bắt lửa rất nhanh nên chẳng bao lâu mười đầu ngón tay
Tnú đã biến thành mười ngọn đuốc. Miêu tả sự kiện này, nhà văn đã sử dụng đến
thủ pháp quay chậm của điện ảnh khi đếm: “Một ngón tay Tnú bốc cháy, 2 ngón, 3
ngón”…. Cách đếm chậm với những câu văn ngắn, nặng nề đã đè nặng lên tâm trí
người đọc một nỗi ám ảnh khủng khiếp về nỗi đau đớn mà Tnú phải trải qua.
Nằm trong dòng chảy của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
nhưng Nguyễn Trung Thành không hề dễ dãi khi miêu tả nỗi đau của Tnú. Nhà văn
cũng đem đến cho người đọc những hình dung xác thực nhất, chân thực nhất về nỗi
đau đớn đến quằn quại của Tnú khi khẳng định: lửa không chỉ cháy trên mười đầu
ngón tay Tnú mà còn thiêu đốt trong lồng ngực, trong bụng anh, thứ lửa ở bên
ngoài đang cháy trên da thịt đã lan vào tận tâm can. Bởi vậy, Tnú đã cảm thấy
“máu mặn chát ở đầu lưỡi. Rằng anh đã cắn nát môi anh rồi”.
* Cảnh Tnú bị tra tấn còn làm nổi bật ở anh vẻ đẹp của sức chịu đựng phi
thường, của bản lĩnh và của sự dũng cảm đến kiên cường:
- Sức chịu đựng phi thường:
Nhưng ngay ở thời điểm nỗi đau tưởng như đã vượt qua giới hạn chịu đựng
của người, Tnú đã thể hiện sức chịu đựng phi thường của mình. Nhớ đến lời dạy
của anh Quyết “Người cộng sản không thèm kêu van…”, Tnú đã không kêu lấy
một lời. Tình yêu Đảng, yêu cách mạng đã cho anh một sức mạnh phi thường để
dồn nén tất cả nỗi đau vào bên trong và vượt qua.
Quá trình vật lộn với nỗi đau khủng khiếp từ da thịt, từ tâm can Tnú đã
chứng minh cho phẩm chất không thể thiếu của một người anh hùng: sức chịu
đựng phi thường và lòng dũng cảm. Những người anh hùng trong văn học 1945-
1975 cũng thường được các tác giả gắn với phẩm chất này, song ở đây nhờ thể
hiện lòng dũng cảm của Tnú qua việc chống chọi với việc thân thể mình bị hủy
hoại, tác giả đã thực sự gây được sự xúc động mãnh liệt cũng như sự cảm phục,
thán phục với người anh hùng Tnú.
- Ngọn lửa đau thương đã làm bùng lên ngọn lửa căm thù
Có thể nhận thấy trong thời khắc Tnú bị giặc tra tấn, tác giả đã cố tình tô
đậm nỗi đau đớn mà anh phải gánh chịu. Song ở những người anh hùng như Tnú,
nỗi đau không bao giờ để gợi lên sự đáng thương, yếu ớt, gục ngã mà bao giờ cũng
là chất xúc tác cực mạnh để làm bật lên ý chí và sức mạnh. Ngọn lửa mà giặc đốt
trên mười đầu ngón tay Tnú đã lan vào đến tâm can của anh, nhưng nó đã không
còn là ngọn lửa hủy diệt mà là ngọn lửa đấu tranh mãnh liệt cho sự sống. Điều đó
thể hiện rất rõ qua tiếng thét dữ dội của Tnú “Giết”. Tác giả đã đưa ra những lời
bình luận trực tiếp để cho thấy ý nghĩa tiếng hét của Tnú: “Tnú thét lên một tiếng.
Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành những tiếng thét
dữ dội hơn”. Vượt qua ý nghĩa là tiếng thét gắn với nỗi đau cụ thể của một người
cụ thể, tiếng thét của Tnú là sự cộng hưởng, là sự đồng vọng từ tiếng thét của đại
ngàn, của hàng vạn cây xà nu, của nỗi đau mà dân làng Xô Man đã trải qua, lớn
hơn đó cũng chính là tiếng thét của lịch sử, của đất nước, của thời đại để tố cáo tội
ác của kẻ thù và để trở thành mệnh lệnh tiến công. Chỉ một tiếng thét của Tnú khi
đã dội lên liền kéo theo tiếng thét ồ ồ của cụ Mết: Chém! Chém hết!. Như vậy,
tiếng thét đau thương, căm thù của Tnú đã làm cho dân làng Xô Man bừng tỉnh,
thôi thúc dân làng vùng dậy cầm giáo cầm mác vùng lên. Tiếng thét ấy khiến dân
làng Xô Man có đủ dũng khí để dưới sự lãnh đạo của cụ Mết đồng khởi nổi dậy với
một khí thế “long trờ lở đất”. Tiếng chân người đạp trên sàn nhà ưng ào ào. Bọn
lính kêu lên thất thanh. Đầu tiên là cụ Mết. Cụ đứng đấy với cây mác dài trong tay.
Bàn tay của người già làng ấy đã hạ gục thằng Dục. Rồi các thanh niên, tất cả các
thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa được mài
bằng đá núi Ngọc Linh mà Tnú mang về. Mười tên giặc đã bị giết hết bằng giáo
mác mà chính bàn tay dân làng Xô Man và Tnú đã làm ra. Ánh lửa xà nu đang
cháy ngùn ngụt giữa nhà ưng sau đó soi tỏ mười xác kẻ thù ngổn ngang trong đêm
đồng khởi
Như vậy, ngay ở hoàn cảnh khó khăn nhẩt, Tnú vẫn khơi dậy, thổi bùng lên
ý chí và sức mạnh đấu tranh cho cả buôn làng. Đó thực sự là phẩm chất của một
người anh hùng.
3. Đánh giá
3.1. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhà văn khắc hoạ nhân vật bằng chính diễn biến, những sự việc quan trọng
trong cuộc đời Tnú làm nổi bật tính cách với nỗi đau và bi kịch cá nhân, bằng ngôn
ngữ và hành động mang đậm màu sắc Tây Nguyên. Tnú được xây dựng bằng bút
pháp sử thi bi tráng, anh trở thành người anh hùng của núi rừng Tây Nguyên. Nghệ
thuật xây dựng nhân vật kết hợp giữa tả thực và biểu tượng, phân tích thế giới nội
tâm nhân vật sắc sảo, lời văn trau chuốt giàu hình ảnh, giọng điệu ngợi ca, tự
hào…. Tnú gắn với một biểu tượng về sức sống bất diệt của Tây Nguyên là cây xà
nu. Đôi bàn tay Tnú là biểu tượng độc đáo cho cuộc đời và số phận của nhân vật.
Không khí kể chuyện như một cuộc kể khan của già làng. Lối viết hiện đại pha
trộn nhiều yếu tố sử thi dân gian làm cho Tnú, một nhân vật của thời kháng chiến
chống Mĩ lại phảng phất hình bóng của người anh hùng trong sử thi cổ đại.
3.2. Nhận xét vẻ đẹp sử thi của nhân vật Tnú:
Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô
hoành tráng, có tính chất toàn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng
đồng, dân tộc, ca ngợi những người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng
của dân tộc. Qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành gợi ra được số phận và
phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó
là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây
Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó
khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng. Đặc
biệt, chi tiết bàn tay Tnú khi bị thiêu đốt bằng chính nhựa xà nu thành mười ngọn
đuốc trở thành biểu tượng đậm chất sử thi. Hai bàn tay đuốc lửa của Tnú đã châm
ngòi cho phong trào Đồng khởi của dân làng Xô Man vùng lên tiêu diệt bọn giặc
tàn ác và trở thành biểu tượng của khí phách Việt Nam trong công cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm thời đại ngày nay. Lời văn khi thể hiện nhân vật rất giàu
hình ảnh, giàu nhạc tính có nhịp điệu, với nhiều cấu trúc thành trùng điệp, những
hình ảnh tương phản có giọng điệu khi hào hùng khi tha thiết…
3.3. Nhận xét về t tính sử thi trong tác phẩm “Rừng xà nu”
- Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô
hoành tráng, có tính chất toàn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng
đồng, dân tộc, ca ngợi những người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng
của dân tộc.
- Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” được thể hiện ở các phương
diện:
+ Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm là lời kể tác giả kết hợp lời kể nhân
vật nhưng chủ yếu là lời nhân vật. Câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy
của dân làng Xôman được cụ Mết kể bên bếp lửa với giọng kể trang trọng như
truyền cho các con cháu những trang sử bi thương và hào hùng của cộng đồng.
Cách trần thuật như vậy gợi nhớ cách kể các “khan” (trường ca) của người dân tộc
ở Tây Nguyên. Bên bếp lửa chung của dân làng các bài khan được kể như hát suốt
đêm, những trường ca đầy chất sử thi về lịch sử mang màu sắc huyền thoại của bộ
tộc, về những người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh, khát vọng của cộng đồng.
Trong “Rừng xà nu” câu chuyện cụ Mết kể cho dân làng nghe là câu chuyện của
thời hiện tại nhưng lại được kể như một câu chuyện lịch sử với giọng điệu, ngôn
ngữ mang đậm tính sử thi.
+ Thiên nhiên trong “Rừng xà nu” thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất
thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu và kết
thúc tác phẩm vẫn là rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời.
+ Bằng bút pháp sử thi, với những hình ảnh đặc tả giàu khả năng gợi cảm,
nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, nhà văn xây dựng thành công hình tượng
một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể đến trong tác phẩm đều có tính đại
diện cao, mang trong mình phẩm chất của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong
Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng
đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng. Tuy nhiên, tất cả họ đều giống
nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách
mạng, yêu núi nước, yêu buôn làng, quyết tâm đánh giặc đến cùng.
+ Giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất
rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính
sử thi hoàng tráng của tác phẩm. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả
thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một
cảm giác say sưa.
+ Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng.
Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng đặc biệt. Lối kết cấu này như cái khung
bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Câu truyện mở ra bằng hình ảnh rừng
xà nu được đặc tả kỹ lưỡng và sắc nét. Cuối tác phẩm rừng xà nu cũng xuất hiện để
khép lại câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để
mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một
chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh
hùng ca vô tận của Tây Nguyên.
3.4. Đánh giá chung về nhân vật Tnú
Tác giả Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nhân vật Tnú thành hình tượng
tiêu biểu cho con người Tây Nguyên dũng cảm, kiên cường trong thời đại chống
Mĩ cứu nước. Hình ảnh đôi bàn tay Tnú được nhắc đi nhắc lại trong tác phẩm như
một biểu tượng đầy ý nghĩa về cuộc đời đau thương, mất mát, hờn căm; là chứng
tích tội ác của kẻ thù, thể hiện tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh giải phóng
và vẻ đẹp của chủ nghĩa yêu nước, anh hùng cách mạng. Hình ảnh đôi bàn tay Tnú
còn tượng trưng cho sức sống mãnh liệt không bạo lực nào có thể tiêu diệt được
của con người Tây Nguyên. Hai bàn tay Tnú đã trở thành một chi tiết nghệ thuật
đặc biệt có giá trị thẩm mĩ và ý nghĩa khái quát lớn lao, sâu sắc.
Đoạn trích thể hiện bi kịch và vẻ đẹp phẩm chất của Tnú trong cuộc đấu
tranh cách mạng đau thương mà anh dũng, tiêu biểu cho số phận và tinh thần quật
khởi của người dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

C. KẾT LUẬN
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Những tác phẩm nghệ thuật đạt
đến chuẩn mực của cái hay, cái đẹp sẽ và mãi “vượt qua mọi sự băng hoại của
thời gian và chỉ mình nó không chấp nhận cái chết”. Với những đặc sắc về nghệ
thuật và ý nghĩa sâu sắc về nội dung của “Rừng xà nu”, ta có thể tin rằng tác phẩm
sẽ vẫn mãi vẹn nguyên và tỏa sáng bất chấp thời gian.
Đê 2: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích: “Người đàn
bà bỗng chép miệng ...nhìn đàn con tôi chúng được ăn no” . Từ đó nhận xét về
giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
A. MỞ BÀI CHUNG
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Lã Nguyên đã nói về yêu cầu của văn
chương nghệ thuật và thiên chức của người nghệ sĩ “Nhà văn chân chính có sứ
mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh
mông”. Nguyễn Minh Châu đã ý thức được sâu sắc thiên chức ấy của người cầm
bút trong công cuộc đổi mới văn học nên trở thành người mở đường tinh anh và
tài hoa của văn học Việt Nam sau năm 1975. Đứng trước sự thay đổi của thời đại,
nhận thức được nhu cầu đổi mới văn học, Nguyễn Minh Châu đã người tiên phong
gieo những hạt giống đầu tiên trên con đường đổi mới. Nếu như trong giai đoạn
trước Nguyễn Minh Châu sáng tác theo cảm hứng sử thi đậm nét, sau năm 1975
ông đã chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức và triết lý nhân
sinh. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu có sức hấp dẫn riêng biệt, nhà văn khẳng
định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nét phong cách kết hợp hài hòa chất triết lí cuộc
đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng nhân vật được soi thấu trong quan hệ đa
chiều, phức tạp và đề cao, tôn vinh những giá trị cuộc sống. Truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau
năm 1975. Đây là một tác phẩm hay đậm tính nhân văn, thể hiện một lối tư duy
mới mẻ của nhà văn về cái đẹp, nghệ thuật và số phận con người trong cuộc mưu
sinh nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà chép miệng…ăn
no” đã giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó ta còn thấy được
một giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Minh Châu.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là
hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng
chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan
niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã
tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải
bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương
mất mát.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng
khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với
cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng
quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh
có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần
mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho,
cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như
“một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và
toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại,
bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã
“khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của
tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai
trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh
của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp
như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ
thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích
mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia
đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Lão đàn
ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Trong cơn giận dữ
như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt
lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn
ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành
cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ
im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Phùng cũng
chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình
đau lòng hơn. Thằng Phác là con trai của lão đàn ông và người đàn bà vì thương
mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai
cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ người đàn bà nên chánh
án Đẩu đã gọi chị đến tòa án và trong hoàn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân vật người đàn
bà được bộc lộ rõ nét.
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích
2.1. Số phận bất hạnh:
- Không có tên tuổi, xấu xí: Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện
người đọc vẫn không biết tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm
định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị....như
một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh,
là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác
không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng,
người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng không phải quá phổ biến
nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.
Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh
của cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải
thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho
các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Từ nhỏ chị đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ
mặt sau một bận lên đậu mùa. Vì xấu nên không ai lấy, chị có mang với người con
trai nhà hàng chài hay đến mua bả về đan lưới rồi thành vợ chồng, được anh ta
mang theo xuống sống dưới thuyền. Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ
có hạnh phúc và ấm êm nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam
lũ, bấp bênh, đau khổ càng làm cho diện mạo chị trở nên xấu xí và thô kệch, thể
hiện rõ qua hình ảnh lưng áo bạc phếch, gương mặt tái ngắt như buồn ngủ vì thức
trắng đêm kéo lưới, nửa thân dưới ướt sũng...Số phận, cuộc đời của chị được tác
giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn trong câu
chuyện của chị với Phùng và Đẩu ở toà án huyện.
- Nghèo khổ: Nghèo khổ, làm ăn khó nhọc lại còn đông con, cả gia đình hàng
chài trên dưới mười người phải sống chung trên con thuyền chật chội. Theo lời chị
“từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm
động biển suốt hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc
chấm muối…”
- Bị bạo hành: Không chỉ bị cái xấu, cái nghèo đói, lam lũ đeo đuổi mà
người đàn bà còn thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ. Như chánh án Đẩu
nhận xét trước đó thì “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước
không có một người chồng nào như hắn”. Còn theo lời người đàn bà thì Bất kể lúc
nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống
rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Nếu như ở các đoạn văn
trước, người đọc chỉ thấy người đàn bà bị chồng đánh tàn độc thì qua lời người đàn
bà trong đoạn trích đã biết thêm việc chị bị chồng đánh là hoàn toàn vô lí. Chị
không có lỗi lầm gì nhưng lão đàn ông vẫn có thể đánh chị bất cứ lúc nào. Có lẽ,
người đàn bà bị đánh nhiều đến mức khiến chị nghĩ việc chị bị chồng đánh là lẽ
đương nhiên như những đàn ông hàng chài khác uống rượu, bị chồng đánh như
một phần quen thuộc của cuộc đời.
- Nỗi đau về tinh thần: Ngoài nỗi khổ vì vật chất, sự đau đớn về thể xác,
người đàn bà còn phải chịu nỗi đau về tinh thần. Thật đau đớn biết bao khi người
mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó
“Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”.
Việc những đứa con phải chứng kiến cảnh mẹ bị đánh khiến người đàn bà cảm
thấy xấu hổ, nhục nhã và đau đớn. Hơn nữa, chị lo lắng liệu khi những đứa con
nhìn thấy cảnh bạo lực ấy tâm hồn non nớt của chúng sẽ ra sao? Chúng sẽ nghĩ gì
về bố và mẹ? Sau này lớn lên liệu chúng có giống bố không? Chị đã cố giữ gìn một
mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui sống, tâm hồn chúng
không vẩn đục nhưng chị hoàn toàn bất lực.
=> Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn,
khốn khổ, không có sự che chở yêu thương. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất
học và lạc hậu. Số phận đầy bi kịch ấy của chị được tác giả tái hiện đầy cảm thông
và chia sẻ.
2.2. Vẻ đẹp của người đàn bà trong đoạn trích
Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự
tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy
mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng
một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà
văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá,
phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ
nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng
và ngợi ca. 
* Thấu hiểu chồng, vị tha cao thượng
Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người
đàn bà hiểu rõ nguyên nhân mình bị chồng đánh. Chị hiểu, lão đàn ông đánh mình
không phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia
đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến
người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như
một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng
nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng trước những đứa con, trước Phùng và Đẩu.
Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như muốn quy
kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay “Không
chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Thấu hiểu chồng phải làm ăn
lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về
mình cho rằng mình chính là nguyên nhân đẩy người chồng tới đau khổ “Giá tôi
đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” và ”nhưng cái lỗi
chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Thậm chí, chị sẵn
sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.
* Thương con:
Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn
ác và chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi
người đàn bà đã kiên quyết từ chối. Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà
chủ yếu là vì chị thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là
tất cả những gì chị có trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có
người đàn ông để chèo chống lúc sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con
trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà hàng chài không sống như trên đất
được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để nuôi con khôn lớn “Đàn bà ở
thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất
được”. Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân, cam chịu
những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy. Thậm chí, chị
coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện
đương nhiên. Cũng vì thương con, sợ con bị tổn thương nên chị mới xin chồng lên
bờ đánh. Tình mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ
nữ được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc
sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ như chị
nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng
thật dễ hiểu.
* Sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời
Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với
người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất
học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Sự trải đời ấy
của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những
hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của
chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện
đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và
sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người
từng trải với con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình. Chị hiểu thiện chí của Phùng
và Đẩu khi khuyên mình bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song chị càng hiểu hơn
về thực tiễn đời sống trên sông nước. Chị chắt lọc từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ
một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị muối mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng
chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”.
Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng
vũ phu tàn bạo. Chị cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông
trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên
phải gánh lấy cái khổ”. Người đàn bà quê mùa, thất học còn chỉ cho Phùng và Đẩu
bất cập trong chính sách, chủ trương của của chính quyền là Làm nhà trên đất ở
một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp
đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được! Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ
lẽ và “ngộ” ra bao điều.

* Nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường.


Trong khổ đau, bất hạnh người đàn bà vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh
phúc nhỏ bé, hiếm hoi. Hạnh phúc của chị là những lúc trên thuyền vợ chồng con
cái vui vẻ, hòa thuận với nhau. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn
bà khiến “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ
cười”. Nụ cười hạnh phúc hiếm hoi của chị được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc
đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi, phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn,
từ những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Để từ đó, ta nhận ra dường niềm vui,
niềm hạnh phúc lớn nhất đối với người người đàn bà chính là sự tận tụy hi sinh cho
chồng con Khi Phùng hỏi chị “Cả đời chị có một lúc nào thật vui không?” thì câu
trả lời của người đàn bà là “Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi
chúng nó được ăn no…”. Điều đó, cho thấy niềm vui lớn nhất, hạnh phúc nhất của
chị là khi được nhìn đàn con ăn no. Người đàn bà thật sự đã làm người đọc xúc
động vì tình mẫu tử thiêng liêng. Vì các con, chị quên hết nhọc nhằn, cực khổ, chị
coi những bất hạnh, khó khăn, ngọc nhằn mà chị phải gánh chịu như những hạt cát
để gió thổi bay còn những hạnh phúc mà chị nhận được dù quá nhỏ nhoi nhưng chị
vẫn hết sức nâng niu, trận trọng, giữ gìn.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Tạo tình huống truyện độc dáo mang ý nghĩa khám phá. Trong đoạn trích,
nhân vật xuất hiện trong cuộc đối thoại với Phùng và Đẩu. Ngôn ngữ đối thoại sinh
động phù hợp với tính cách nhân vật và đậm tính triết lý. Lời văn giản dị mà sâu
sắc, đa nghĩa. Cách kể chuyện tự nhiên, cảm xúc. Khắc hoạ nhân vật bằng việc đi
sâu vào thế giới nội tâm phức tạp và đầy mâu thuẫn trong cuộc sống thường nhật.
Biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của
người đàn bà để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca…
Ngoài ra, với bút pháp hướng nội, cảm hứng thế sự, cách lựa chọn ngôi kể, điểm
nhìn thích hợp đã làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết
phục.
3.2. Nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn
học.
Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Tình yêu
thương giành cho những người phụ nữ càng sâu sắc bao nhiêu thì nỗi đau cho thân
phận bất hạnh của họ trong những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau
ấy từ thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ theo dòng chảy đến với những
Thị Nở, người vợ nhặt…và trở nên đầy ám ảnh trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu. Trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng
nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động nghèo khổ, lam lũ,
bất hạnh. Người phụ nữ ấy tuy số phận đầy bất hạnh nhưng lại có những phẩm chất
đáng quí của người phụ nữ Việt Nam, tâm hồn tỏa sáng những phẩm chất cao đẹp:
tảo tần, chịu thương, chịu khó, nhân hậu, bao dung, giàu đức hy sinh và lòng vị tha,
thương chồng thương con và nhất là lòng thương yêu con vô bờ bến.
3.3. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn
Nhân vật người đàn bà hàng chài tuy xấu xí, nghèo khổ nhưng mang phẩm
chất tốt đẹp của người phụ nữ. Qua đó, tác giả đã nêu lên cách nhìn nhận, đánh giá
con người phải có cái nhìn toàn diện, nhiều chiều. Không thể nhìn nhận vẻ bề
ngoài để suy ra bản chất bên trong của một con người. Không thể nhìn nhận con
người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Phải đặt trong hoàn cảnh và các mối quan hệ
mới thấu hiểu được bản chất bên trong của họ. Đúng như nhà văn Nam Cao từng
viết: "Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu
họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi . . . toàn những cớ
để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương;
không bao giờ ta thương".
Mặt khác, nhà văn còn cho ta thấy cuộc vật lộn để mưu sinh của con người
đầy khó nhọc. Gánh nặng của cuộc mưu sinh tác động và thậm chí có thể đe dọa
hạnh phúc gia đình và con người cần phải kiên cường đối diện với khó khăn, thử
thách để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn cũng
khẳng định vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia
đình. Một trong những phẩm chất làm nên điều kì diệu ấy là lòng bao dung vị tha
và đức hi sinh của họ. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã
tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam.
3.3. Nhận xét về giá trị nhân đạo:
Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề
nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự
tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Giọng kể buồn
thương, thể hiện nỗi lo âu, trăn trở trước cuộc mưu sinh nhọc nhằn của con người.
Nhà văn cảm thông, chia sẻ và ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, phát hiện và trân
trọng vẻ đẹp trong tâm hồn của người đàn bà hàng chài, cảm phục trước sự hi sinh
thầm lặng của chị.
3.4. Nhận xét về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:
Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền
với hiện thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời,
phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con
người.
Đề 3: Đoạn số 1:
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước
sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn
màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi.
Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra
ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có
lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn
xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một
chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ
đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng
chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng
hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng
cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ!”.
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng,
không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu,
tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc
máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác
– thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy
một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như
một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề
ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức
nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến
lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế!
Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không
biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung
chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám
lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại
chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái
tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát.
(Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr
72-73)
Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên.
Từ đó, nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm.

I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang
đứng…lảo đảo ngã dúi xuống cát” thuộc phần đầu của truyện đã diễn tả phát hiện
của nghệ sĩ Phùng, từ đó góp phần thể hiện một tình huống truyện có tính nhận
thức.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Khái niệm tình huống truyện: Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò
là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi
một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư
tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Bên cạnh đó, từ tình huống
truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được
bộc lộ. Nói cách khác thì tình huống truyện như một thứ nước rửa ảnh làm nổi
hình, nổi sắc nhân vật. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình
huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của
tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát,
khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn. Nhà văn Nguyễn
Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc
thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy
thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống
truyện hết sức độc đáo.
- Tính huống truyện ở đoạn trước:
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng
khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với
cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng
quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh
có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Với tâm thế của
một người nghệ sĩ chân chính khao khát cái đẹp, Phùng đã mai phục ở bãi biển này
suốt gần một tuần mà chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Sau khi suy nghĩ, tìm
kiếm, Phùng quyết định sẽ thu vào tờ lịch tháng bảy của bộ lịch năm sau cảnh
thuyền thu lưới vào lúc bình minh. Và buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được
một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được
một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một
“vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ
thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt
đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ
khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên
tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình.
2. Phát hiện của Phùng trong đoạn trích: Bức tranh hiện thực đời sống nghiệt
ngã
Trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục thể hiện những
khám phá, phát hiện về nghệ thuật và đời sống, khiến tình huống truyện được phát
triển. Éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh
nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải
là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí,
một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng
mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn.
Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe rà phá mìn của Mĩ trên bãi cát,
và gã đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng da của lính Ngụy. Phải chăng cái ác
mà Mĩ Ngụy gieo xuống đất nước ta còn không khủng khiếp bằng cuộc chiến giữa
cái thiện với cái ác trong cuộc sống hòa bình. Hay đó là hậu quả của cuộc chiến
tranh vẫn hiện hữu ngay cả khi hòa bình lập lại. Tưởng rằng cuộc chiến đấu giành
độc lập tự do ta đã giải quyết được trọn vẹn, mang lại niềm vui cho mọi người.
Nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng còn biết bao vấn đề đặt ra: Đói
kém, bệnh tật, bạo lực gia đình … Dấu tích của chiến tranh để lại không chỉ là mấy
cái xe hỏng mà hơn nữa là cuộc sống đói nghèo, lạc hậu của những người như hai
con người bất hạnh kia. Người đàn bà từ dáng vẻ đến hành động đều thể hiện sự
bất lực, buông xuôi và cam chịu thể hiện qua cánh tay buông thõng, đôi mắt nhìn
xuống dưới chân khi “đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc
nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.
Tiếp đó, Phùng lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng đau lòng.
Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Với môt
vẻ “hùng hổ, mặt đỏ gay”, lão đàn ông dùng chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa để
đánh vợ “chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng
chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong cơn giận dữ như lửa
cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng
quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra
sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho
vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng
kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng,
nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn.
Phùng chưa hiểu nổi những gì đang xảy ra trước mắt, sau vài phút đứng há
mồm ra mà nhìn, anh chỉ kịp vứt máy ảnh định chạy đến can thiệp, Nhưng cũng
chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình
đau lòng hơn. Thằng Phác, là con trai của lão đàn ông và người đàn bà chạy tới
như một mũi tên và giật chiếc thắt lưng từ tay cha nó, vung chiếc khóa sắt quật vào
giữa khuôn ngực trần của cha để che chở cho người mẹ đáng thương. Lão đàn ông
từ chỗ đánh vợ thì giờ chuyển sang đánh con “Lão đàn ông định giằng lại chiếc
thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát
khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”.
Có thể nhận thấy trong đoạn văn là một tấn bi kịch gia đình đầy đau đớn.
Trong gia đình ấy có một người chồng độc ác, đánh vợ một cách tàn độc, nguyền
rủa vợ con bằng những lời lẽ nặng nề, nghiệt ngã nhất; có một người vợ chỉ biết
cam chịu trước những trận đòn vô cớ của người chồng; có một đứa con vì thương
mẹ nên căm ghét và đánh lại cả bố. Nghệ sĩ Phùng là người chứng kiến câu chuyện
gia đình ấy và từ đây trong anh có thêm những phát hiện, nhận thức về hiện thực
đời sống. Chỉ có điều, phát hiện lần này của anh đầy bất ngờ và trớ trêu như trò
đùa quái ác của cuộc sống mà trong đó, cuộc đời thực hiện lên thật trần trụi, đau
đớn biết bao. Hóa ra, cuộc sống không chỉ tồn tại cái đẹp mà còn có bao nhiêu điều
nghịch lí, đau lòng. Nếu như trước đó, cảnh tượng hiện ra trước mắt anh là bức
tranh nghệ thuật đầy lãng mạn, đẹp tuyệt đỉnh thì màn bạo lực gia đình liên
hoàn mà anh vừa chứng kiến chính là bức tranh hiện thực đời sống đầy nghiệt
ngã. Tất cả những sự việc ấy diễn ra khiến cảm giác, cảm xúc trong Phùng hoàn
toàn thay đổi. Không còn thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn nữa mà thay vào đó là
ngạc nhiên, đau đớn. Đằng sau bức tranh nghệ thuật đẹp, lãng mạn mà anh tưởng
là toàn thiện, toàn mĩ kia hóa ra lại ẩn chứa một hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã,
đáng sợ. Và đó là chính là tính hai mặt của hiện thực đời sống.
3. Ý nghĩa của phát hiện (Nhận xét về tình huống nhận thức trong tác phẩm)
Những khám phá, phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong đoạn trích và tác phẩm
đã bộc lộ một tình huống truyện vô cũng độc đáo, có tính nhận thức về đời sống và
nghệ thuật. Thông điệp nhận thức được thể hiện sâu sắc khi giúp người đọc nhận
ra:
Cuộc sống hóa ra vốn chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và
trái, xa và gần… nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng
chứa đầy những mâu thuẫn, đối lập. Bởi vậy con người không được nhìn cuộc đời
bằng cái nhìn đơn giản, một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để khám
phá ra bản chất thật của đời sống.
Những khám phá, phát hiện ấy còn giúp ta nhận thức được mối quan hệ giữa
hiện thực đời sống và nghệ thuật. Con thuyền nghệ thuật thì lãng mạn, lung linh
huyền ảo nhưng ở rất xa, còn cuộc đời đôi khi rất nghiệt ngã lại ở rất gần. Người
nghệ sĩ chân chính không chỉ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để phát hiện ra
bản chất thật của đời sống mà còn phải đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời. Bởi
nghệ thuật chân chính là cuộc đời và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ biết rung động
trước cái đẹp trước hết phải là người biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời. 
Vậy là Phùng đã nhận ra một điều mà có lẽ từ đó sẽ thay đổi cái nhìn của
anh về lao động nghệ thuật và khẳng định quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ
thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống.
Nghệ thuật đích thực không thể xa rời cuộc đời, dù cuộc đời đó có đau đớn, trần
trụi bao nhiêu. Vì nghệ thuật sẽ không là gì nếu nó không phục vụ cho cuộc sống
và làm cho nó tốt hơn lên. Nghệ thuật chỉ có thể sống được và xanh tươi khi nó
thực sự bám rễ vào cuộc đời. Nói như Biêlinxki thì văn học “trước hết là cuộc
đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Chi tiết Phùng vứt bỏ chiếc máy ảnh mà lao vào
giúp đỡ người đàn bà đã khẳng định rõ thêm điều này.
3. Đánh giá
Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo nên một
tình huống truyện khá độc đáo. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc kết
hợp với cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật khắc họa nhân vật sắc sảo, ... Điểm nhìn
linh hoạt bởi truyện được kể ở ngôi thứ nhất xưng "tôi", và người kể chuyện chứng
kiến lại toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối, ít có sự tham gia của các nhân vật
khác. Người kể chuyện mang đặc điểm của người nghệ sĩ đang đi tìm cái đẹp theo
một chủ đề: sự hài hòa trong yên tĩnh của con người và thiên nhiên khiến người
đọc nhận ra nhiều điều về cuộc sống và mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật.
Bức tranh người nghệ sĩ chụp được tưởng là bức tranh tĩnh vật thì nó lại rất động
với trạng thái phức tạp, nhức nhối của nó. Tình huống truyện giúp ta hiểu rõ hơn về
các nhân vật, làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và chứa đựng giá trị hiện thực và
giá trị nhân đạo sâu sắc:
+ Giá trị hiện thực: Sau khi đất nước hòa bình thống nhất, cuộc sống đã tốt
đẹp hơn rất nhiều nhưng đâu đó vẫn còn những khoảng tối hoặc tranh sáng tranh
tối. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia
đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hy sinh gian
khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go,
lâu dài, cần có sự quan tâm của các cấp chính quyền và cộng đồng.
+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau
khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu
tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của người lao động và hướng đến một cuộc sống tốt đẹp
hơn.

Đề 4: Đoạn số 1
Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong
đoạn trích sau. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về quan điểm triết lí nhân sinh của
Lưu Quang Vũ được thể hiện trong đoạn trích.
Hồn Trương Ba: (ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy) Không! Không!
Tôi không muốn sống như thế này mãi! (nhìn chân tay thân thể) Tôi chán cái chỗ ở
không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta
bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù
riêng nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ là một lát!
(Trên sân khấu, hồn Trương Ba tách ra khỏi xác anh hàng thịt và hiện lờ mờ
trong dáng nhân vật Trương Ba thật. Thân xác bằng thịt vẫn ngồi nguyên trên
chõng và lúc này chỉ còn là thân xác)
Xác hàng thịt: (bắt đầu) Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn
khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi được tôi đâu, dù tôi chỉ là thân xác..
Hồn Trương Ba: A, mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói!
Mày không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…
Xác hàng thịt: Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi
rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức
mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy!
Hồn Trương Ba: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết,
không có tư tưởng không có cảm xúc!
Xác hàng thịt: Có thật thế không?
Hồn Trương Ba: Hoặc nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém mà bất cứ con thú
nào cũng thèm được: Thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…
Xác hàng thịt: Tất nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: Khi ông ở bên nhà
tôi…Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn
lại.. Đêm hôm đó suýt nữa thì…
Hồn Trương Ba: Im đi, đấy là mày chứ, chân tay mày hơi thở của mày…
Xác hàng thịt: Thì tôi có ghen đâu! Ai lại ghen với chính thân thể mình nhỉ?
Tôi chỉ trách là sao đêm hôm ấy, ông lại tự dưng bỏ chạy, hoài của… Này nhưng
ta nên thành thật với nhau một chút: Chẳng nhẽ ông không xao xuyến chút gì à?
Hà hà, cái món tiết canh cổ hủ, khấu đuôi và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn
ông lâng lâng cảm xúc được sao? Để thoả mãn tôi, chẳng nhẽ ông không tham dự
vào chút đỉnh gì? Nào hãy thành thật trả lời đi!
Hồn Trương Ba: Ta...ta... đã bảo mày im đi!
Xác hàng thịt: Rõ là ông không dám trả lời. Giấu ai chứ không thể giấu tôi
được! Hai ta đã hoà với nhau làm một rồi!
Hồn Trương Ba: Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong
sạch, thẳng thắn…
Xác hàng thịt: Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những
đòi hỏi của tôi mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!
Hồn Trương Ba: (bịt tai lại)Ta không muốn nghe mày nữa!
Xác hàng thịt: (lắc đầu) Ông cứ việc bịt tai lại! Chẳng có cách nào chối bỏ tôi
được đâu! Mà đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức mạnh. Ông có nhớ
hôm ông tát thằng con ông toé máu mồm máu mũi không? Cơn giận của ông lại có
thêm sức mạnh của tôi! Ha ha..
Hồn Trương Ba: Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo.
Xác hàng thịt: Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu
phải lỗi tại tôi.. (buồn rầu) Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng
được quý trọng chứ! Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể
làm lụng, cuốc xới. ông nhìn ngắm trời đất cây cối người thân…Nhờ có đôi mắt
của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành
hạ tâm hồn con người. Người ta xâm phạm thể xác.. Những vị lắm chữ nhiều sách
như các ông là hay vin vào có tâm hồn là quý, khuyên con người ts sống với hồn,
để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở nhếch nhác.. Mỗi bữa cơm rôi đòi ăn tám,
chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ
tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ?
Hồn Trương Ba: Nhưng…nhưng..
Xác hàng thịt: Hãy công bằng hơn, ông Trương Ba ạ! Từ nãy tới giờ chỉ có
ông nặng lời với tôi, chứ tôi thì vẫn nhã nhặn với ông đấy chứ? (thì thầm) Tôi rất
biết cách chiều chuộng linh hồn.
Hồn Trương Ba: Chiều chuộng?
Xác hàng thịt: Chứ sao? Tôi thông cảm với những trò chơi tâm hồn của ông.
Nghĩa là những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn
bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh vì để sống mà ông phải nhân nhượng
tôi. Làm xong điều gì xấu ông cứ đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết
cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện. hà
hà…miễn là.. ông vẫn làm đủ mọi việc để thoả mãn những thèm khát của tôi!
Hồn Trương Ba: Lí lẽ của anh thật ti tiện!
Xác hàng thịt: Ấy đấy, ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy! Có phải lí lẽ của tôi
đâu, tôi chỉ nhắc lại những điều ông vẫn tự nói với mình và những người khác đấy
chứ! Đã bảo chúng ta tuy hai mà một mà!
Hồn Trương Ba: (như tuyệt vọng) Trời! Xác hàng thịt (an ủi) Ông đừng nên tự
dằn vặt làm gì! Tôi đâu muốn làm khổ ông, bởi tôi cũng rất cần đến ông. Thôi,
đừng cãi cọ nhau nữa. Chằng còn cách nào khác đâu! Phải sống hoà thuận với
nhau thôi! Cái hồn vía ương bướng của tôi ơi, hãy về với tôi này!
(Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt. Trên sân khấu nhân vật
Trương Ba biến đi. Chỉ còn lại xác hàng thịt mang hồn Trương Ba ngồi lặng lẽ bên
chõng…)
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ,
Ngữ văn 12, tập hai, NXBGD Việt Nam, 2019)
A. MỞ BÀI CHUNG
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Đối tượng của văn học vốn là thân phận
con người, nên chỉ có kẻ nào đọc và hiểu nó sẽ hóa thành không phải là một
chuyên gia nghiên cứu văn học mà là một kẻ hiểu biết con người một cách sâu
sắc”. (Văn chương lâm nguy, Todorov). Quả đúng như vậy bởi văn học chính là
cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học. Mỗi nghệ sĩ lớn
đều ý thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và cuộc sống. Đời sống và con
người là nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn cho những sáng tác đầy nảy nở, bước
đi của những nẻo đường là một giọt chắt chiu tư tưởng được hình thành. Những
năm tám mươi của thế kỉ XX, Lưu Quang Vũ là một hiện tượng của sân khấu kịch
trường Việt Nam. Ông là một trong những người đi trước trong phong trào đổi mới
văn học, nghệ thuật, dùng ngòi bút của mình để góp phần đem đến những điều tốt
đẹp cho con người. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết năm 1981,
có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian được công diễn vào năm 1998, là một
trong những tác phẩm kịch xuất sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Bằng ngòi bút giàu
chất triết lý, Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới. Kịch bản của
ông không đơn thuần là chuyện vay mượn xác tái sinh mà còn đặt vấn đề về lẽ
sống con người qua nỗi khổ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, qua mâu
thuẫn giữa tâm hồn (thanh cao) và thể xác (phàm tục), vở kịch mang chứa những
triết lý nhân sinh.
- Giới thiệu đoạn trích: Trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
Lưu Quang Vũ đã dựng lên các cuộc đối thoại để đẩy xung đột nội tâm của hồn
Trương Ba lên đến tận cùng buộc phải giải quyết. Từ đó ý nghĩ tư tưởng, những
triết lí nhân sinh được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía. Trong đó, cuộc đối
thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là đáng chú ý hơn cả.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1.1. Giới thiệu về hồn Trương Ba
Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn,
có tâm hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà
ông bị bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế
Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch
cảnh vô lí hơn. Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại
phải trú nhờ linh hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ
“bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn
Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng
trở nên xa lạ với bạn bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính
mình. Bản thân Trương Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu
cầu vốn không phải của bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng
đau khổ. Ông đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình.
2. Đối thoại hồn Trương Ba và xác hàng thịt
2.1 . Tâm thế của hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại:
Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã để cho
hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” và tự giãi bày tâm sự,
nỗi lòng của mình “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi
chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ
này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình
thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Tư thế ngồi “ôm
đầu” đã cho người đọc thấy hình ảnh của một con người đầy đau khổ, lại có sự kết
hợp của ba từ phủ định liên tiếp “không…không…không”, lời thoại của hồn là các
câu cảm thán, ngắn, lời văn dồn dập, hối thúc thể hiện tâm trạng căng thẳng, bức
bối, đau khổ, dằn vặt, bế tắc đến cùng cực, không thể chịu đựng dày vò hơn được
nữa nên vụt đứng dậy… Có thể thấy hồn Trương Ba đang đau khổ, bức bối là bởi
ông không còn được là mình nữa. Ông phải sống trong thân xác của một kẻ khác
và cái thân xác ấy làm ông ghê tởm. Ông ước muốn có hình hài riêng và muốn
được tách ra khỏi xác hàng thịt dù chỉ giây lát. Nắm bắt được nguyện vọng của
nhân vật, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo ra tình huống hồn và xác phân thân để đối
đáp với nhau. Tưởng rằng, khi tách ra khỏi xác hàng thịt, hồn sẽ phần nào giải tỏa
được nỗi đau khổ bị dồn nén bấy lâu khi có cơ hội cất lên tiếng nói của mình
nhưng hóa ra không phải vậy.
2.2. Xác hàng thịt lấn lướt, sỉ nhục hồn Trương Ba
Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt hồn Trương Ba
gọi xác hàng thịt là mày, sau đó gọi là anh. Xác hàng thịt gọi hồn Trương ba là
ông. Dựa trên cách xưng hô này thì vai trên vai dưới rất rõ ràng. Hồn Trương Ba ở
vai trên và xác hàng thịt ở vai dưới. Tuy nhiên, trong cuộc đối thoại xác hàng thịt
không hề lép vế, yếu thế mà còn lấn lướt và sỉ nhục hồn Trương Ba. Bởi vì xác
hàng thịt ngày càng ý thức được vai trò của nó. Nó nói” “Có đấy! Xác thịt có tiếng
nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến.
Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao
khiết của ông đấy! Nó còn khẳng định nó là “cái bình để giữ linh hồn”, nhờ nó mà
hồn Trương Ba mới có thể làm lụng, cuốc xới, ngắm nhìn trời đất, người thân. Xác
thịt tuy âm u, đui mù nhưng có thể lấn át, sai khiến, thậm chí đồng hóa linh hồn
cao khiết. Hồn không thể còn nguyên vẹn, trong sạch, khi phải chung sống và
chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục. Để chứng minh điều đó nó đã kể ra
những việc mà hồn Trương Ba đã làm dướu sự sai khiến của nó. Đó là cái đêm khi
ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ
nghẹn lại” và “suýt nữa thì...”. Hồn Trương Ba sống trong thể xác phàm tục của
người hàng thịt giờ đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn mà trước đây ông
cho là dung tục như tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi. Khi giận dữ, hồn Trương Ba đã sử
dụng vũ lực một cách tàn bạo với con trai. Với sức mạnh của xác hàng thịt, ông đã
tát thằng con đến toé máu mồm, máu mũi…
Rõ ràng, Hồn Trương Ba đã nhiễm những thói hư tật xấu của xác hàng thịt.
Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn
có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Nó nói “Nực cười
thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi mà còn nhận là
nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”. Nó còn sỉ nhục khi nói Trương Ba hãy chơi
trò chơi tâm hồn. Hãy thỏa mãn nó và mỗi khi làm việc xấu hãy đổ tội hết cho nó.
Hãy cứ nghĩ mình cao khiết nhưng chỉ vì hoàn cảnh. Thậm chí nó cho rằng đấy
chính là lí lẽ hồn Trương Ba tự nói với mình và người khác “Có phải lí lẽ của tôi
đâu, tôi chỉ nhắc lại những điều ông vẫn tự nói với mình và những người khác đấy
chứ!”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời
thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ
trích, châm chọc. Hồn Trương Ba thanh cao, trong sạch phải sống với xác hàng thịt
thô lỗ, phàm tục, đầy thói hư tật xấu đã là đau khổ lắm rồi. Vậy mà thật sỉ nhục khi
xác hàng thịt nhắc đi nhắc lại cái điều “Đã bảo chúng ta tuy hai mà một mà!”.
Ngoài ra, xác hàng thịt còn bày tỏ những bất công mà mình phải gánh chịu khi
sống với linh hồn Trương Ba “Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy
phục! Đâu phải lỗi tại tôi.. (buồn rầu) Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi
cũng đáng được quý trọng chứ!”. Xác hàng thịt cho rằng khi sống chung với hồn
Trương Ba nó bị xúc phạm, bị bỏ bê nhếch nhác, khổ sở…vì những lý do không
chính đáng. Chẳng hạn “Mỗi bữa cơm rôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn
thịt hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn
chứ?”. Một mặt nó đấu tranh cho những nhu cầu chính đáng của mình, mặt khác
nó tìm cách ve vuốt, đề nghị hồn Trương Ba trở về sống hoà hợp với mình.
Nhìn chung, trong cuộc đối thoại, xác hàng thịt có thế chủ động, đặt nhiều câu
hỏi phản biện, lí lẽ giảo hoạt, trở thành kẻ thắng thế, buộc Trương Ba phải quy
phục.
2.3. Thái độ của Hồn Trương Ba trước sự lấn lướt sỉ nhục của xác hàng thịt
Khi tách khỏi xác hàng thịt, hồn Trương Ba có cơ hội bày tỏ tâm trạng uất
ức, tức giận vì phải chung sống với cái xác thô lỗ, tầm thường, dung tục. Hồn cũng
không che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với xác là “kẻ âm u đui mù, không cảm
xúc, không tư tưởng, không có tiếng nói”...; kẻ có nhu cầu vật chất thấp kém gần
với con thú (thèm ăn ngon, thèm rượu thịt), sức mạnh thể chất gắn với sự tàn
bạo… Hồn cũng phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng định linh
hồn có đời sống riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”… Ông mắng xác hàng
thịt là “lí lẽ của anh thật là ti tiện” và “Ta…ta…đã bảo mày im đi”…Nhưng trước
lí lẽ của xác hàng thịt, Trương Ba cuối cùng cũng phải thừa nhận rằng mình đuối lí,
mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác và bị thể xác đó điều khiển, dẫn đến sự tha
hoá không có cách gì chuyển biến được. Những đối thoại ngắn và dần dần là
những lời thoại bỏ lửng cho thấy sự đuối lí của hồn trong cuộc đối thoại cùng xác.
Một mặt tức tối trước những lí lẽ ti tiện của xác hàng thịt, mặt khác Trương
Ba hoàn toàn bối rối, lúng túng, không thể phản bác những ý kiến đó. Kết thúc
cuộc đối thoại, hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở về
cuộc sống trái với chính mình, chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ,
tuyệt vọng và trở thành người thua cuộc. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập
lại vào xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” đã diễn tả cô đọng tính chất căng
thẳng của xung đột kịch và sự bế tắc của hồn Trương Ba.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật xây dựng cuộc đối thoại:
Lưu Quang Vũ đã tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu
tượng, xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua
lời thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa
hành động bên ngoài và hành động bên trong. Ngôn ngữ kịch vừa có màu sắc mỉa
mai, dí dỏm, vừa mang tính chất triết lí nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân
vật.
3.2. Nhận xét về triết lí nhân sinh trong đoạn trích (Ý nghĩa của cuộc đối thoại)
Triết lí nhân sinh hay nhân sinh quan là vấn đề quan trọng đối với mỗi con
người, là toàn bộ những kinh nghiệm, cách nhìn nhận chung nhất về cuộc sống của
con người và cũng là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt mục tiêu, hành động của con
người. Bên cạnh đó nhân sinh quan còn là nguồn gốc của mọi suy nghĩ, hành vi và
chi phối các hoạt động của con người trong đời sống. Nói vắn tắt thì nó là cách
người ta nhìn cuộc đời hay là cái đạo làm người của người ta. Trong đoạn trích
Lưu Quang Vũ đã thể hiện những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc. Nếu trong tích
truyện dân gian, được sống là niềm hạnh phúc lớn lao, nên mặc dù mang thân anh
hàng thịt nhưng Trương Ba vẫn sống cuộc sống vui vẻ, thì trong vở kịch của Lưu
Quang Vũ, việc phải trú nhờ vào thân xác thô kệch của anh hàng thịt lại là một
nghịch cảnh phi lý, trái tự nhiên, là hoàn cảnh trớ trêu mà hồn Trương Ba buộc
phải chấp nhận, quy phục. Đây chính là mấu chốt của tấn bi kịch mang tên hồn
Trương Ba, da hàng thịt. Chính vì vậy cuộc đối thoại giữa hồn và xác tuy căng
thẳng, quyết liệt nhưng mang đến nhiều ý nghĩa và triết lí nhân sinh sâu sắc:
Trong tích truyện cổ, dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, cho rằng
hồn luôn quyết định và điều khiển thể xác. Còn ở đây Lưu Quang Vũ đã thể hiện
quan niệm mới mẻ là linh hồn và thể xác dù có mối quan hệ hữu cơ với nhau
nhưng chúng vẫn có sự tồn tại độc lập tương đối, chi phối lẫn nhau. Sự chi phối
của xác hàng thịt với hồn Trương Ba cho thấy rất rõ điều đó.
Hơn nữa, hồn và xác là những ẩn dụ nghệ thuật. Xác hàng thịt là ẩn dụ cho
bản năng, nhu cầu ham muốn, dục vọng tầm thường của con người, hồn Trương Ba
là thế giới tinh thần luôn hướng đến sự thanh cao, trong sạch, lương thiện. Xung
đột giữa Hồn và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên ngoài
một đằng, bên trong một nẻo”, sự thiếu hài hòa, không thống nhất trên các phương
diện: linh hồn và thể xác, vật chất và tinh thần, nội dung và hình thức, bản năng và
lý tưởng, cao cả và tầm thường... là xung đột dai dẳng giữa các mặt tồn tại trong
một con người. Có thể nói cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt chính là cuộc
đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần người và
phần con trong mỗi con người. Trong cuộc đấu tranh thường xuyên diễn ra trong
con người ấy thì linh hồn phải biết kiểm soát, chế ngự thể xác chứ không được để
thể xác lấn át rồi đổ hết tội cho nó. Nếu để thể xác lấn át, con người sẽ trở nên
phàm phu, thô tục, tha hóa, sẽ chạy theo những ham muốn tầm thường.
Từ bi kịch của hồn Trương Ba không được sống là mình, Lưu Quang Vũ đặt
ra vấn đề khuyên người ta phải biết sống hài hòa giữa linh hồn và thể xác, sống
đúng là mình. Ông cũng phê phán lối sống giả, không đúng là mình khiến con
người dễ bị tha hóa. Mặt khác, tác giả cũng phê phán lối sống chỉ vì linh hồn, vì
quá trọng linh hồn mà bỏ bê thể xác khiến thể xác nhếch nhác, khổ sở. Đó cũng là
lối sống duy tâm, cực đoan, lười biếng và không tưởng. Sự tha hóa của hồn Trương
Ba còn khiến chúng ta nhận ra rằng con người sống trong môi trường dung tục rất
dễ bị tha hóa, dung tục hóa. Điều này làm ta nhớ đến một câu nói "Những thói xấu
ban đầu là người khách lạ qua đường, sau đó là người bạn thân ở chung nhà và
kết cục trở thành ông chủ khó tính" hoặc nhớ đến câu tục ngữ mà cha ông ta bằng
trải nghiệm của mình đã đúc rút thành “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Vì
vậy, con người cần luôn tự hào về đời sống tâm hồn của mình; dũng cảm nhìn
thẳng vào sự tha hoá của bản thân; nỗ lực đấu tranh với nghịch cảnh, với dục vọng
tầm thường để vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Sâu sắc hơn, từ mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong đoạn trích, Lưu
Quang Vũ còn hướng chúng ta đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Nội
dung và hình thức vốn là hai phạm trù khác nhau, không thể từ cái nọ suy ra cái kia
nhưng chúng phải thống nhất với nhau trong một chỉnh thể . Nếu đúng thống nhất
và phù hợp với nhau thì có thể tạo nên giá trị và sức mạnh. Còn nếu chúng không
phù hợp với nhau sẽ làm giảm giá trị, thậm chí có nguy cơ đe dọa đến đến sự tồn
tại của sự vật hiện tượng.

You might also like