You are on page 1of 24

RỪNG XÀ NU

- Nguyễn Trung Thành


I. Tiểu dẫn
1. Tác giả
- là người dân biển Quảng Nam, nhưng tên tuổi của ông lại gắn liền với những
tác phẩm viết về vùng rừng núi Tây Nguyên. Tình yêu và sự hiểu biết sâu sắc về
mảnh đất này là tiền đề cơ sở để nhà văn sáng tác được nhiều tác phẩm có giá trị
về thiên nhiên và cuộc sống con người nơi đây.
- cảm hững chủ đạo: cảm hứng về quê hương, đất nước và những con người VN
anh hùng
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời
- đầu năm 1965 ở khu căn cứ của quân giải phóng ở miền Trung Trung Bộ. Đây
là thời điểm diễn ra cuộc đổ quân đầu tiên của Mĩ, ngày bắt đầu chiến tranh cục
bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta. RXN được viết trong những ngày “nghiêm
trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt, hào hứng, hào hùng: dân tộc ta bước vào
cuộc chạm trán mất còn trực tiếp với đế quốc Mĩ” (Nguyên Ngọc)
- Tóm tắt:
+ Truyện kể về cuộc đời của Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man, ngôi làng đi theo
Đảng, cách mạng từ những năm tháng đen tối, khó khăn nhất.
+ Khi còn là một cậu bé, Tnú đã cùng Mai vào rừng tiếp tế cho anh Quyết, được anh dạy học
chữ, dạy làm cách mạng. Tnú bị giặc bắt, bị tra tấn dã man vẫn không khai ra cán bộ.
+ Sau khi ra tù, Tnú trở về làng, cùng với Mai thành vợ thành chồng, có một đứa con. Khi anh
Quyết hy sinh, Tnú thay anh lãnh đạo dân làng đánh giặc.
+ Kẻ thù khủng bố buôn làng. Để dụ bắt Tnú, kẻ thù bắt, tra tấn vợ và con Tnú đến chết, Tnú
tay không lao ra cứu vợ con cũng bị bắt trói, bị giặc đốt cháy mười đầu ngón tay bằng giẻ tẩm
nhựa xà nu.
+ Cụ Mết lãnh đạo dân làng tự vũ trang giáo mác, rìu, rựa… nổi dậy giết chết toàn bộ tiểu đội
ác ôn của thằng Dục cứu sống Tnú.
+ Tnú từ biệt dân làng đi bộ đội giải phóng. Ba năm sau, anh về thăm làng. Lúc này em gái
của Mai là Dít đã trưởng thành, lại tiếp tục làm cán bộ cách mạng.
II. Văn bản
1. Hình tượng cây xà nu
a. Là hình ảnh gắn bó với cuộc sống của người dân Tây Nguyên
* là loài cây đặc thù, tiêu biểu của mảnh đất TN-> bối cảnh hùng vĩ mà hoang dã
mang đậm màu sắc núi rừng cho câu chuyện

- được tác giả nhắc đến bằng những lời đắm say, ngưỡng mộ: “Tôi yêu say mê
cây xà nu, ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch. Mỗi cây
cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa. Tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi, mênh mông, tưởng
như đã sống từ ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau…”
- Với kết cấu vòng tròn-> gợi hình ảnh của một thiên nhiên bao la phóng
khoáng, cảm giác về những sức mạnh thiên nhiên lớn lao, nguyên sơ, thuần
khiết và hoang dại + sự trường tồn vô hạn của sự sống.
- vừa được chạm khắc trong những hình khối mênh mông, vừa được đặc tả trong
những chi tiết tinh tế, được cảm nhận đồng thời bằng cả thị giác, khứu giác, xúc
giác, xà nu hiện lên với cả hình sắc, hương thơm, ánh sáng và hơi nóng nồng
nàn. Những câu văn miêu tả vừa đẹp đẽ vừa mê đắm thể hiện tình yêu, niềm tự
hào ngây ngất khi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước. Những
“đồi xà nu…, rừng xà nu…” thực sự là một thiên nhiên mơ mộng và hùng vĩ làm
nền cho hình ảnh con người xuất hiện, đem đến chất thơ và sắc thái lãng mạn
đặc biệt cho truyện ngắn.
- Nhưng điều bất thường: không được miêu tả trong không khí bình yên mà hiện
lên trong bom đạn hủy diệt của kẻ thù.
+ ở trong tầm đại bác của giặc-> phải liên tiếp chịu những trận pháo kích của
giặc Mĩ; không có cây nào không bị thương. Có cây bị chặt đứt ngang mình,
nhựa ứa ra. Có cây vừa lớn ngang tầm ngực người đã bị đại bác chặt làm đôi, vết
thương không lành được, năm mười hôm thì cây chết.
+ trước sự hủy diệt tàn khốc của kẻ thù, xà nu đã chứng tỏ một sức chịu đựng,
một sức sống mãnh liệt mà hiếm loài cây nào có được. Chính cụ Mết, linh hồn
của Xô Man, đã từng quả quyết: "Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất
ta"(202). Và Nguyễn Trung Thành đã dành thật nhiều những lời văn chất chứa
những niềm ngưỡng mộ để nhấn mạnh vào vẻ đẹp tràn đầy sức sống của rừng
cây xà nu. Loài cây này đã không chịu khuất phục súng đạn. Những cây bị
thương nhựa đặc quện lại, vết thương lành chúng lại vượt lên. Cạnh những cây
bị chết, 4, 5 cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình mũi tên lao thẳng lên bầu
trời. Cây xà nu ham ánh sáng đã vượt lên mưa bom bão đạn để sống, để khẳng
định sức sống bất diệt của mình. Cả rừng cây ngạo nghễ, bất diệt, thách thức kẻ
thù. Chúng trở thành biểu tượng của thiên nhiên, mảnh đất Tây Nguyên tươi
đẹp, hùng vĩ, thơ mộng, bất diệt.
* Xà nu gắn bó mật thiết, máu thịt với con người Tây Nguyên.
- Xà nu có mặt trong những sinh hoạt hàng ngày: lửa xà nu trong bếp mỗi nhà, lửa xà nu trong
nhà ưng, khói xà nu lem luốc khuôn mặt những đứa trẻ, khói xà nu hun bảng đen cho Tnú và
Mai học cái chữ...
- Xà nu còn tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng: Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn
che chở cho dân làng trong mưa bom bão đạn, đuốc xà nu soi đường cho dân làng vào rừng
mài vũ khí. Lửa xà nu cháy rừng rực trên mười đầu ngón tay Tnú. Ánh lửa xà nu soi xác giặc
ngổn ngang trong đêm làng Xô Man nổi dậy.
- Trong không khí sục sôi, quyết tử nổi dậy, "Cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy
khắp rừng". Xà nu dường như cũng biết tiễn đưa, biết lưu luyến khi Tnú lên đường...Xà nu
trong con mắt, trong những trang văn của Nguyễn Trung Thành đã thực sự trở thành người
bạn, người con của dân làng, biết chia bùi sẻ ngọt, sống chết cùng con người. Một loài cây
nặng tình, nặng nghĩa.
b) Xà nu còn là một hình tượng nghệ thuật đặc biệt khi luôn gắn bó và hiện diện trong mọi biến cố của cuộc đời
Tnú

- Từ nhỏ, khi muốn học cái chữ của Đảng để lớn lên “làm cán bộ giỏi”, Tnú đã cùng anh Quyết và Mai “đốt khói
xông bảng nứa đen kịt” để lấy bảng viêt chữ - xà nu đã có mặt ngay trong chặng đường đầu tiên Tnú đi làm cách
mạng.

- Khi vượt ngục Kon Tum trở về làng, Tnú đã gặp Mai ở cửa rừng xà nu cạnh con nước lớn, nói với Mai những
lời nói yêu thương; xà nu lại chứng kiến một kỷ niệm đẹp đẽ trong cuộc đời Tnú.

- Trong cái đêm kinh hoàng khi vợ con bị giết, khi chỉ có một mình với hai bàn tay không lao vào kẻ thù, Tnú đã
bị giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu lên mười đầu ngón tay để đốt khiến cho “mười ngón tay thành mười ngọn đuốc”
- ngọn đuốc xà nu làm bùng cháy căm thù với tội ác man rợ của kẻ thù. Ngọn đuốc xà nu ghi khắc sự đau đớn
cùng cực của Tnú cả về tinh thần và thể xác, ngọn đuốc xà nu cũng đồng thời soi sáng một chân lý thời đại:
không thể thắng giặc với hai bàn tay không, “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

- Sau đêm đau thương ấy, Tnú từ biệt dân làng đi bộ đội giải phóng, ngay trong đêm anh đã cầm lấy cây đuốc xà
nu soi cho Dít gằn gạo ăn đườn. Tới khi anh về phép rồi trở về đơn vị, hình ảnh đầu tiên của quê hương khi gặp
mặt, hình ảnh cuối cùng của làng quê khi chia tay vẫn là những cánh rừng xà nu, cụ Mết cùng Dít tiễn Tnú đến
“cửa rừng xà nu gần con nước lớn” - xà nu thực sự là hình ảnh thân yêu vô cùng của làng quê trong lòng Tnú.
* Nhưng rừng cây xà nu chỉ thực sự có ý nghĩa và trở thành một hình tượng văn học độc đáo
khi nó được thể hiện như một ẩn dụ, một biểu tượng về vẻ đẹp của người Xô Man, người Tây
Nguyên. Vì thế khi mô tả rừng cây, khi kể chuyện về con người, tác giả luôn tạo ra sự tương
ứng. Viết về cây cũng là viết về người, viết về người, ta lại thấy hiển hiện cây rừng.
- Khi miêu tả xà nu, Nguyễn Trung Thành thường sử dụng phép nhân hoá, những ngôn ngữ
dành nói về một sinh thể sống, về con người: “Xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân mình,… vết
thương… bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn… Xà nu ưỡn tấm ngực lớn của
mình ra che chở cho làng…” Xà nu cũng tạo thành những thế hệ. Có những cây phải hi sinh
chúng chết gục vì bom đạn, có những cây bị thương, nhựa đặc quện lại thành từng cục máu
lớn. Xà nu cũng bất khuất, chúng nén đau thương mà vươn lên, những cây con cũng vượt lên
để tiếp bước cha anh mình. Cách miêu tả ấy đã đem đến cho xà nu cả sự mạnh mẽ và cường
tráng, cả linh hồn và tâm trạng, cả nỗi đau đớn và sự che chở cao thượng, bao dung… Đó
cũng là những phẩm chất cơ bản của người dân Tây Nguyên.
- Khi miêu tả con người, nhà văn lại đưa đến cho người đọc những liên tưởng
đầy ấn tượng về xà nu: từ cụ Mết “ngực căng như một cây xà nu lớn”, tới Tnú
với tấm lưng bị giặc chém “ứa một giọt máu đậm, từ sáng tới chiều thì tím thâm
lại như nhựa xà nu”. Xà nu và con người Xô Man đã thực sự hòa nhập với nhau
trong cả sự mạnh mẽ cường tráng và những bất hạnh đau thương.
2. Hình tượng những thế hệ người TN anh hùng
* Nguyễn Trung Thành viết "Rừng xà nu" vào mùa hè 1965, khi đế quốc Mỹ đổ quân
ào ạt vào miền Nam Việt Nam, cả dân tộc sôi sục quyết tâm diệt Mĩ- Ngụy. Phong trào
đồng khởi của người dân Tây Nguyên đã được phản ánh sống động trong tác phẩm
này. Cùng với hình tượng rừng xà nu, hình tượng những thế hệ người Tây Nguyên bất
khuất, kiên cường đã tạo nên thành công đặc biệt của tác phẩm.
* Bối cảnh để từ đó tác giả để cho những nhân vật của mình xuất hiện là một không
khí chiến tranh khốc liệt. Đó là những ngày Mĩ Diệm khủng bố gắt gao. "Không đêm
nào nó không đi lùng, không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang
rừng"(204). Chúng bắt bớ, trừng phạt những ai đi theo cán bộ. Anh Xút, bà Nhan đã bị
chúng chặt đầu, cán bộ Quyết cũng hi sinh... Rừng cây và dân làng bị chúng tàn phá,
hủy diệt, nhưng chính trong lửa đạn thử thách ấy người Tây Nguyên đã khẳng định
được phẩm chất ưu tú, quí giá của mình. Họ như rừng cây xà nu trùng trùng, điệp điệp
ngạo nghễ kiên cường.
2.1. Cụ Mết là người có tình yêu sâu sắc dành cho buôn làng, sự gắn bó máu thịt
với quê hương
- Khi Tnú đi xa về, cụ dẫn anh ra máng nước đầu làng dội rửa, bằng việc ấy, cụ
như muốn nhắc nhở người con xa quê: dù có đi tới phương trời nào cũng phải
ghi nhớ và trân trọng nguồn cội thiêng liêng của quê hương. Cụ Mết đã đón anh
bằng tấm lòng yêu thương nồng hậu của một người cha: quyết định anh ở nhà cụ
trong đêm về làng, động viên khích lệ anh: “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng
được” - cụ đã đem đến cho Tnú, người con bất hạnh của dân làng Xô Man, một
cảm giác ấm áp của gia đình khi trở về làng. Ngồi ăn cơm với Tnú, nhìn hai bàn
tay cụt đốt của anh, “ông cụ đặt chén cơm xuống giận dữ”, đó là biểu hiện sâu
sắc nhất của nỗi đau đớn xót thương cho Tnú, nỗi căm giận kẻ thù tàn bạo không
thể nguôi ngoai.
- Khi kể cho dân làng nghe về cái chết của vợ con Tnú, dù câu chuyện đã xảy ra tới ba năm,
cụ cũng không kìm nổi sự tiếc thương, đau đớn và xúc động, cụ “vụng về trở bàn tay lau một
giọt nước mắt” như muốn che giấu lòng mình. Nhưng chính cử chỉ vụng về ấy đã bộc lộ trái
tim nhân hậu và tình yêu sâu sắc của cụ với dân làng.
- Nói chuyện với Tnú, cụ luôn tự hào khẳng định bằng cách nói tuyệt đối, có phần hơi cực
đoan, thái quá, cách nói quen thuộc của lòng yêu: “Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”,
“Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”. Với cụ Mết, quê hương thật đẹp đẽ và
lớn lao, là thiêng liêng nhất
- Nhận được gói muối quý giá từ những người đi xa về cụ luôn chia đều cho các bếp trong
làng, để dành cho những người đau ốm - vị mặn của những hạt muối nhỏ bé cũng là vị mặn
đậm đà của tình yêu thương trong trái tim người già làng.
2.3. Trong vai trò của một già làng thời đánh Mỹ, cụ Mết kiên cường, vững chãi như một cây xà nu lớn, là chỗ dựa tin cậy
của dân làng, có sức lôi cuốn mạnh mẽ với dân làng.
- Cụ nhận thức được vai trò của Đảng, của Cách mạng, và khi đã tin cụ đã dẫn dắt dân làng một lòng đi theo Đảng bất chấp
sự khủng bố dã man của kẻ thù.
- Cụ Mết cũng là người nhận thức sâu sắc tội ác của kẻ thù. Cụ hiểu không có con đường nào khác là phải vùng lên đánh lại
chúng. Câu nói giản dị của cụ chắc nịch như một chân lí của thời đại: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!".
- Trong làng, cụ cũng là người đứng đầu biết nhìn xa trông rộng, biết lo cho cuộc chiến đấu chung của dân làng. Cụ động
viên dân làng lo dự trữ lương thực để có thể đủ ăn tới ba năm bởi “đánh Mỹ phải đánh dài”.

- Với trí tuệ sắc sảo của một người đứng đầu, cụ Mết không chỉ nhắc tới sự kiện đau thương và chiến thắng oanh liệt của dân
làng trong đêm ấy như một kỷ niệm, cụ đã khái quát, đúc kết và khắc sâu quy luật tất yếu của cuộc chiến tranh cách mạng:
“Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Chân lý ấy đã được rút ra từ chính những trang sử đầy máu và nước mắt của
làng Xô Man, thông qua giọng kể “trầm và nặng” của già làng, nó sẽ trở thành lời phán truyền thiêng liêng của lịch sử cho
các thế hệ con cháu.
- Cụ Mết trong ngày thường cũng có một ý nghĩa thiêng liêng đối với các thế hệ người Xô Man. Cụ thường kể những câu
chuyện đau thương mà anh dũng của người XM. Lời nói nghiêm trang cùng những câu nhắc nhở: hãy lắng mà nghe, nhớ lấy,
ghi lấy... Những câu chuyện, những lời nhắc nhở ấy khơi dậy ở lòng người, tình yêu, tinh thần trách nhiệm đối với truyền
thống quí báu của dân tộc họ. Cụ Mết thực sự là linh hồn bất diệt của rừng núi, của người Strá, người Tây Nguyên, là người
giữ lửa, truyền lửa truyền thống ấy để nó cháy mãi mãi

=> Cụ Mết là một hình tượng nhân vật đẹp gợi nhớ hình ảnh những già làng, tộc trưởng trong sử thi, thần thoại, truyền
thuyết, trong những bản trường ca Tây Nguyên xưa. Bút pháp miêu tả đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành cùng sự chi
phối của khuynh hướng sử thi trong nền cảm hứng chung của văn học 1945 - 1975 khiến nhân vật không chỉ hiện lên với
những phẩm chất ưu tú của cộng đồng mà còn là nhân vật có cá tính riêng đặc sắc. Thông qua nhân vật cụ Mết, Nguyễn
Trunh Thành đã ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên
trong thời đánh Mỹ, cũng đồng thời khái quát chân lý lịch sử lớn lao của thời đại, lý giải sâu sắc và thuyết phục con đường
giải phóng nhân dân, đất nước.
* Tnú, người anh hùng, nhân vật trung tâm của tác phẩm.
- Tnú ít xuất hiện trực tiếp, anh hiện lên trong lời kể của cụ Mết. Cụ Mết đã kể
chuyện Tnú bằng cái giọng ồ ồ dội vang lồng ngực. Hình ảnh những người dân
làng chăm chú, thành kính ngồi bên bếp lửa lắng nghe câu chuyện đã tạo cho
độc giả cảm giác đang được nghe kể về một người anh hùng phi thường. Dường
như Tnú vừa bước ra từ những trang sử thi, vừa gần gũi, vừa lung linh cao đẹp.
Có thể nói ở số phận và tính cách của anh toát lên những nét tiêu biểu nhất của
con người Tây Nguyên.
* Hình tượng nhân vật Tnú điển hình cho tính cách TN
- ở Tnú nổi bật lên tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm
- trong cuộc sống cũng như trong công việc, Tnú là người có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung
thành với cách mạng
+ ngay từ nhỏ, cậu bé Tnú đã được cụ Mết truyền cho niềm tin: “Đảng còn, núi nước này
còn”.
+ tham gia lực lượng vũ trang đánh Mĩ, Tnú rất nhớ quê hương nhưng anh chỉ về thăm làng
khi được phép của cấp trên, khi đã có chữ kí của người chỉ huy. Băng rừng vượt núi vất vả là
thế, đường sá xa xôi nguy hiểm là thế nhưng Tnú cũng chỉ về thăm làng đúng 1 đêm như quy
định trong giấy phép. Tính kỉ luật trong đấu tranh cách mạng biểu hiện thành lòng tuyệt đối
trung thành với cách mạng. Khi bị đốt 10 đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt cả gan ruột, cả
hệ thần kinh anh. Trong hoàn cảnh ấy, Tnú vẫn không kêu nửa lời bởi anh luôn tâm niệm lời
dặn của anh Quyết: “Người cộng sản không thèm kêu van”. Cũng xuất phát từ lòng trung
thành với cách mạng, Tnú lên đường chiến đấu với niềm tin tưởng vững chắc vào chiến thắng
của cách mạng.
- Tnú giàu lòng yêu thương và cũng cháy bỏng căm hờn. Cả yêu thương và căm hờn đều mang tính cách TN

+ Tnú là người con nghĩa tình của buôn làng. Anh mồ côi từ nhỏ, sống trong sự yêu thương, đùm bọc của dân làng Xoman.
Anh gắn bó tha thiết với cánh rừng xà nu. Anh thuộc từng đoạn suối, quãng đường. Trở về làng sau 3 năm đi lực lượng, Tnú
xúc động khi nhận ra tiếng chày dồn dập của làng anh- tiếng chày thân yêu của người Strá, của mẹ, của vợ mà anh luôn day
dứt trong 3 năm xa cách. Nỗi đau đớn khi đi qua cái cây lớn ở cửa rừng nơi anh đã gặp lại Mai lần đầu lúc ra khỏi ngục Kon
Tum, niềm sung sướng khi gặp lại dân làng, khi nhớ mặt nhớ tên từng người dù ba năm xa cách; cảm giác xúc động dâng
trào khi để vòi nước của làng mình dội lên khắp người như ngày trước… , đó là những sắc thái tâm trạng của một con người
có sự gắn bó tha thiết với quê hương, gia đình, vợ con. Bởi vậy, Tnú xứng đáng là người con chung của cả buôn làng, là tấm
gương sáng để cụ Mết dạy bảo thế hệ sau
+ Tnú là người bạn nghĩa tình của Mai từ khi còn nhỏ, là người yêu của Mai khi trưởng thành, là người chồng, người cha đầy
trách nhiệm. Khi Mai và con bị tra tấn hành hạ tàn khốc, Tnú đã xông ra cứu mặc dù trong tay anh không có vũ khí. Động
lực, sức mạnh đã thôi thúc anh để anh có thể xông vào kẻ thù dũng mãnh như hùm thiêng bất chấp cả nguy hiểm chỉ có thể
bắt nguồn từ trái tim rực cháy 2 ngọn lửa: yêu thương và căm thù

You might also like