You are on page 1of 13

BÀI THU HOẠCH HỒ SƠ LS.

HC 15
KHIẾU KIỆN VỀ CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Luật sư tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
khởi kiện

TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN HỒ SƠ 15


Ngày 14/06/2016 ông Bùi Quang Hải sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Kim
sinh năm 1981, thường trú 179/8/1, Trần Phú, phường 5, thành phố A, nộp hồ sơ
xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất
tại bộ phận tiếp nhận và giao trả kết quả thuộc UBND thành phố A, diện tích
156,7m2 đất ở căn nhà số 179/8/1 Trần Phú, phường 5, thành phố A, đất trên gồm
2 phần:
- Phần thứ nhất: 102m2 thuộc thửa 351 tờ bản đồ số 09 (bản đồ năm
2000) đã được UBND thành phố A cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sỡ
hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BM 62400 ngày 11/01/2013.
- Phần thứ 2: 54,7m2 trong thửa đất số 164, tờ bản đồ 09 (bản đồ năm
2000) phường 5, trên đất có dãy nhà cấp 4 do ông Mĩ xây năm 2000.
Ngày 07/09/2016 chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai thành phố A có thông
báo số 2728/TB-CNVPĐK trả hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất cho ông Hải và bà Kim.
Không đồng ý với thông báo 2728/TB-CNVPĐK ông Hải và bà Kim đã
nộp đơn khởi kiện ra tòa án nhân dân thành phố A
Ngày 09/12/2017 tòa án nhân dân tp A ra bản án sơ thẩm sau đó hai ông bà
kháng cáo và tòa án nhân dân tỉnh H ra bản án phúc thẩm ngày 05/04/2018, bản án
phúc thẩm số 04/2018/HC-PT buộc chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai nhận lại
hồ sơ của ông Hải và bà Kim và giải quyết các thủ tục tiếp theo quy định của pháp
luật.
Ngày 20/02/2018 sau khi có bản án phúc thẩm ông Hỉa và bà Kim nộp hồ
sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại bộ
phận tiếp nhận và giao trả hồ sơ thuộc UBND TP.A có biên nhận ngày 06/06/2018
có kết quả.

1
Ngày 14/08/2018 chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai tp.A ra văn bản số
4171/CNVPĐK-ĐKCG, giải trình đã trình hồ sơ lên văn phòng đăng kí đất đai
thành phố A vào ngày 02/02/2018 số 3187/PC-CNVPĐK.
Ngày 24/08/2014 ông Hải làm đơn khiếu nại về việc chậm giải quyết cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 07/01/2019 ông/ bà tiếp tục nộp đơn khiếu naijUBND tp A chậm giải
quyết cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình ông theo bản án số
04/08/2018/HC-PT.
Ngày 30/01/2019 UBND thành phố A ra văn bản số 504/UBND-TNMT trả
lời cho ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim, ngày 09/03 UBND tp.A đã có
công văn số 1133/UBND-TNMT xin ý kiến hướng dẫn giải quyết, ngày
06/06/2018 sở tài nguyên và môi trường đã có văn bản số 2847/STNMT-
CCQLĐĐ gửi tổng cục quản lý đất đai xem xét hướng dẫn giải quyết, nên trong
thời gian chờ chỉ đạo tạm trả hồ sơ cho ông Bùi Quang Hải, bà Đặng Thị Kim.
Ngày 18/03/2019 UBND thành phố A, đã ban hành văn bản số 1126/UBND-
TNMT, giải quyết đơn khiếu nại ngày 07/01/2019, trả lời lý do tạm trả lại hồ sơ vì
lo vướng mắc trong việc áp dụng quy định của pháp luật, cần xin ý kiến hướng dẫn
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nếu đủ điều kiện thì sẽ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định.
Ngày 04/04/2019 không đồng ý với các phương án giải quyết của UBND
tp.A, ông/ bà đã nộp đơn khởi kiện đến tòa án nhân dân tỉnh H yêu cầu: tuyên hủy
văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 và văn bản số 1126/UBND-
TNMT ngày 18/03/2019 của UBND thành phố A và buộc UBND thành phố A tiếp
nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và
tài sản gắn liền với phần đất diện tích 54,7m2 thuộc thửa đất số 164, tờ bản đồ 09
(bản đồ năm 2000) phường 5, tp.A theo quy định của PL.
XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ
NKK: Ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim
NBKK: Chủ tịch UBND TP.A UBND TP.A.
KẾ HOẠCH XÉT HỎI CỦA LUẬT SƯ
Hỏi NBK:
2
Hỏi người được ủy quyền UBND tp.A
- Nguồn gốc đất ông Mĩ là sàn phơi cá đucợ gia đình ông Mĩ đổ đất xây
kè từ năm 1993 phải không?
- Thửa đất của ông Hải và bà Kim là được ông Mĩ (bố ông Hải) bán lại
phải không?
Hỏi người được ủy quyền UBND tp.A:
- Theo bản đồ địa chính được phê duyệt năm 2002 phần diện tích đất
54,7m2 là phần diện tích đất tăng thêm trong thửa đất số 164 tờ bản đồ số 9 phải
không?
- Theo quyết định 1352 thì phần thửa đất phù hợp với quy hoạch đất ở đô
thị phải không?
- Hiện tại thửa đất 54,7m2 này không có bất cứ tranh chấp gì phải không?
Hỏi người được ủy quyền UBND tp.A:
- Ngày 20/04/2018 UBND có nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của ông Hải hay không?
Hỏi người được ủy quyền UBND tp.A:
- Thửa đất số 164 bản đồ số 9 của ông Hải và bà Kim là được ông Mĩ bán
lại phải không?
- Thửa đất số 164 bản đồ số 9 này được ông Mĩ xẫy kè đỗ đất từ sàn phơi
cá phải không?
- Có xác nhận nào nói đất của ông Hải là lấn biển hay không?Hay xác
nhận do bố ông Hải kê Kè đổ đất trước đó là sàn phơi cá?
Hỏi người được ủy quyền UBND tp.A:
- Văn bản số 1126 là văn bản giải quyết khiếu nại của UBND tp A với
ông Hải không?
- Xin ông cho biết, thể tức ban hành quyết định giải quyết khiếu nại là
theo hướng dẫn luật khiếu nại phải không?
- Theo ông việc UBND ban hành giải quyết khiếu nại này là đúng hay
sai?
Hỏi NKK:

3
Hỏi ông Hải: Việc trả lại hồ sơ nhiều lần của UBND tp.A có gây ra nhiều
thiệt hại cho gia đình ông không? Nguồn gốc đất của vợ chồng ông là như thế nào?
Bà cho biết có phải bố chồng (ông Mĩ) đã bán lại cho vợ chồng bà thửa đát này
đúng không?
I. KẾ HOẠCH HỎI
Vấn đề cần chứng minh, lí do khởi kiện và ý kiến của các bên (cơ sở thực tiễn =>
cơ sở pháp lý)

Người tiếp Vấn đề cần Câu hỏi Mục đích hỏi Trả lời
nhận câu chứng minh
hỏi

NKK Nguồn gốc đất Mục đích lấn biển? Để chứng Đưa ra điều
không thuộc minh mục khoản luật nào
trường hợp đc Ông Mỹ có quyền đích sử dụng
cấp GCNQSD tặng cho mảnh đất đất (cho thuê
đất trên không? Căn cứ nhà) không
nào nằm trong
phạm vi
khuyến khích
của NN
Mục đích sử dụng
diện tích đất
54,7m2 ở thời điểm
hiện tại?

Trình tự/thủ NKK có biết các Chứng minh


tục, thẩm quyền trường hợp cấp người khởi
ban hành văn GCNQSDĐ khi kiện không
bản là đúng chưa có căn cứ quy nắm được quy
định pháp luật sẽ định, hoặc
được xử lý như thế nắm được
nào? nhưng vẫn cố
tình hiểu sai
để đạt được
mục đích cá
nhân

Hình thức văn Văn bản tạm trả hồ Chứng minh


bản Tạm trả hồ sơ có giúp NKK việc gửi văn

4
sơ (đối với văn hiểu được các lý do bản tạm trả hồ
bản số 504) tại sao UBND sơ là chính
TP.A chưa cấp xác, kịp thời,
GCNQSDĐ ko? giải đáp thắc
mắc của NKK

NBK Nguồn gốc đất


không thuộc
trường hợp dc
cấp GCNQSD

Trình tự/thủ Tại sao thời điểm khẳng định 09/3/2018: gửi
tục,thời gian, trả hồ sơ chậm hơn UBND tỉnh văn bản số
thẩm quyền ban so với ngày hẹn? trả hồ sơ 1133/UBND-
hành văn bản là muộn là có TNMT để xin ý
đúng căn cứ kiến của Sở
TN&MT =>
Ngày 06/6/2018:
Sở TN&MT gửi
văn bản số 2847
để xin hướng dẫn
từ Tổng cục
Quản lý đất
đai=> Ngày hẹn
trả lại trong thời
gian chờ hướng
dẫn từ các cơ
quan này nên lịch
trả bị chậm.

Căn cứ để trả NĐ 01/2017 điều


chậm? 2.40 sửa đổi điều
61.2 NĐ 43/2014 về
thời gian thực hiện
thủ tục hành chính
về đất đai:
Thời gian thực
hiện thủ tục ông
Hải là 30 ngày.
Thời gian này
được tính kể từ

5
ngày nhận được
hồ sơ hợp lệ;
không tính thời
gian xem xét
xử lý đối với
trường hợp sử
dụng đất có vi
phạm pháp
luật => Đang
trong thời gian
xem xét sử dụng
đất có vi phạm
hay ko nên thời
gian chờ hướng
dẫn ko tính vào
thời hạn 30
ngày

Hiện tại đã được Chưa


STN&MT và Tổng
cục Quản lý đất đai
hướng dẫn chưa?

Hình thức văn Lí do ra văn bản về CM việc ra Tạm trả là để trả


bản Tạm trả hồ việc tạm trả hồ sơ? văn bản tạm hồ sơ và thông
sơ (đối với văn trả hồ sơ là có báo cho ng nộp
bản số 504) căn cứ, ko vi hồ sơ về việc
phạm PL đang chờ hướng
dẫn từ các cơ
quan chuyên
ngành khác

NLQ

Người làm
chứng

BẢN LUẬN CỨ CỦA LUẬT SƯ


6
TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM
V/v: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người khởi kiện – Ông Bùi Quang
Khải và vợ là bà Đặng Thị Kim trong Vụ án Hành chính khiếu kiện việc cấp
Giấy chứng nhận QSDĐ của Chủ tịch UBND TP A

Kính thưa: Hội Đồng Xét Xử (HĐXX)


Thưa: Vị Đại diện Viện Kiểm Sát Nhân dân (VKSND), cùng toàn thể các quý
vị đang có mặt trong phiên toà ngày hôm nay.

Tôi là Luật sư Lê Thị Thúy – thuộc Văn phòng Luật M1K23- Đoàn Luật sư
TP HN.
Ngày hôm nay, tôi tham dự phiên tòa với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho Ông Bùi Quang Khải và vợ là bà Đặng Thị Kim trong Vụ án
Hành chính khiếu kiện việc cấp Giấy chứng nhận QSDĐ của Chủ tịch UBND TP
A.

Kính thưa Hội đồng xét xử!


Ngày 20/4/2018, gia đình ông Bùi Quang Khải nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy
chứng nhận QSDĐ đối với diện tích 54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ số 9
tại địa chỉ 179/8/1 Trần Phú, phường 5 Thành phố A. Diện tích này trước đây là
sàn phơi cá của bố ông Hải làm từ năm 1993. Đến năm 1998 thì bố ông xây kè đổ
đất và tiếp tục làm nơi phơi cá. Năm 2000 thì xây phòng trọ cho thuê và đến năm
2002 thì chuyển giao cho vợ chồng ông Khải.
Theo Giấy tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả của chi nhánh VPĐKĐĐ TPA thì
ngày hẹn trả kết quả là ngày 06/06/2018.
Do tới ngày hẹn trả vẫn chưa có kết quả nên ông Khải yêu cầu Chi nhánh
VPĐKĐĐ giải trình nguyên nhân. Ngày 14/8/2018, Chi nhánh VĐKĐĐ TPA ra
VB số 4171/CNVPĐK-ĐKCG giải trình nguyên nhân là đã trình hồ sơ tới phòng
TNMT và UBND TP A từ ngày 02/7/2018 nhưng chưa nhận lại hồ sơ nên chưa thể
giải quyết hồ sơ của ông.
Ngày 24/8/2018, ông Bùi Quang Hải làm đơn khiếu nại tới Chủ tịch UBND
TP A và TP. TNMT TP A về việc chậm giải quyết cấp GCNQSĐ cho vợ chồng
ông.
Ngày 30/1/2019, UBND TP A ra VB số 504/UBND-TNMT v/v tạm trả hồ sơ
ĐK cấp GCN của vợ chồng ông với lý do là trong Luật đất đai và các văn bản
hướng dẫn thi hành luật không quy định việc cấp GCNQSDĐ đối với trường hợp
sử dụng đất có nguồn gốc lấn biển. Trong thời gian chờ hướng dẫn, UBND TP A
tạm trả hồ sơ.
Ngày 18/3/2019, UBND Tp H ra văn bản số 1126/UBND-TNMT v/v giải
quyết đơn khiếu nại ngày 07/01/2019 của ông Bùi Quang Khải. Theo đó, UBND
TP A cho rằng đất nhà ông thuộc trường hợp lấn biển, trong luật không quy định
7
việc cấp giấy đối với loại đất này, UBND TP A đã xin hướng dẫn giải quyết và
đang chờ kết quả nên việc tạm trả hồ sơ cấp giấy cho gia đình ông là phù hợp.
Không đồng ý với nội dung trên, ngày 4/4/2019, Ông Bùi Quang Khải và vợ
là Đặng Thị Kim khởi kiện đến Tòa án ND Tỉnh H: yêu cầu tòa án giải quyết hủy
văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019, văn bản số 1126/UBND-TNMT
ngày 18/3/2019 và buộc UBND TP A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp
GCNQSDĐ diện tích 54,7m2 cho gia đình ông.

Ngày 18/4/2019, Tòa án NDTP H đã ra thông báo số 47/2019/TLST-HC về


việc thụ lý vụ án hành chính sơ thẩm. Và ngày 21/10/2019, TAND Tỉnh H Quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo QĐ số 13/2019/QĐXXST-HC.

Kính thưa Hội đồng xét xử


Sau khi nghiên cứu hồ sơ và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa, tôi
xin nêu quan điểm của mình để chứng minh việc UBND TP A ban hành các văn
bản nói trên và không thực hiện thủ tục cấp Giấy CNQSDĐ cho gia đình Ông Bùi
Quang Khải là không có cơ sở, trái với quy định của pháp luật. Cụ thể:

1. UBND TP H đã có hành vi không thực hiện nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật:
Căn cứ Khoản 3, Khoản 4 Điều 3 Luật TTHC 2015:
“3. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ
chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực
hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
4. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi quy định tại khoản 3 Điều này mà
hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân”
Việc UBND TP A trả lại hồ sơ, không tiến hành cấp Giấy CNQSDĐ cho vợ
chồng Ông Bùi Quang Hải khi hồ sơ xin cấp của vợ chồng ông đã đầy đủ theo quy
định của pháp luật đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của gia đình ông Bùi Quang Hải.

Căn cứ Điều 23 Luật TTHC 2015:


“Điều 23. Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án
1. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi
hành và phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Ngày 4/8/2018, Tòa án ND Tỉnh H đã ban hành bản án phúc thẩm số
04/2018/HC-PT tuyên xử: buộc Chi nhánh VPĐKĐĐ tiếp nhận lại hồ sơ cấp giấy
CNQSDĐ của vợ chồng ông và giải quyết các thủ tục tiếp theo theo quy định.
8
Tuy nhiên khi gia đình ông nộp lại hồ sơ thì UBND TP A lại trả lại hồ sơ.
Như vậy trong phạm vi quyền hạn của mình, UBND TP A đã không nghiêm chỉnh
chấp hành bản án của Tòa án phúc thẩm tỉnh H đã tuyên.

Căc cứ mục 40 Điều 2 NĐ 01/2017 ngày 6/1/2017:


“40. Sửa đổi Điều 61 NĐ 43/2014 như sau:
“Điều 61. Thời gian thực hiện thủ tục hành chính về đất đai
2. Thời gian thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất; ….
được quy định như sau:
a) Đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là không quá 30
ngày;
4. Thời gian quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này được tính kể từ ngày
nhận được hồ sơ hợp lệ; không tính thời gian các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy
định của pháp luật; không tính thời gian tiếp nhận hồ sơ tại xã, thời gian thực
hiện nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất; không tính thời gian xem xét xử lý
đối với trường hợp sử dụng đất có vi phạm pháp luật, thời gian trưng cầu giám
định.
Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, chưa hợp lệ thì trong thời gian không quá
03 ngày làm việc, cơ quan tiếp nhận, xử lý hồ sơ phải thông báo và hướng dẫn
người nộp hồ sơ bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ theo quy định.”

Căn cứ Điểm c Khoản 5 Điều 60 Nghị định 43/2014:


“c) Trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ
có trách nhiệm trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết.”

Như vậy kể từ ngày vợ chồng Ông Bùi Quang Hải nộp hồ sơ xin cấp
GCNQSDĐ (ngày 20/4/2018) đến ngày nhận được văn bản trả lời của UBND TP
A là tạm trả hồ sơ (ngày 30/1/2019) là hơn 280 ngày mà UBND TP A không có
bất kỳ thông tin trả lời nào cho ông, để ông phải làm đơn kiến nghị nhiều lần mới
được trả lời và khi trả lời thì cũng không đúng quy định của pháp luật.
Bởi theo quy định của pháp luật, nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì phải thông báo và
hướng dẫn cho người nộp hồ sơ bổ sung, hoàn chỉnh theo quy định. Trường hợp
đối với đất có vi phạm pháp luật, cần có thời gian trưng cầu giám định để không
tính thời gian quy định thì gia đình ông cũng không thuộc trường hợp này. Đất gia
đình ông do tôn tạo mà có, sử dụng ổn định không có tranh chấp, chưa bị lập bất
kỳ 1 biên bản vi phạm nào kể từ năm 1993 đến nay.
Như vậy với vai trò quản lý nhà nước của mình, UBND TP A đã không làm
tròn trách nhiệm, ban hành văn bản 504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019, văn bản
số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 nhằm không thực hiện nội dung công việc
thuộc thẩm quyền được giao.
9
2. Thửa đất của gia đình ông hoàn toàn đủ điều kiện được cấp GCNQSDĐ
theo quy định của pháp luật. Cụ thể:

Căn cứ K2 Đ101 Luật Đất đai 2013:


“Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà
không có giấy tờ về quyền sử dụng đất
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại
Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01
tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân
dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông
thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy
hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất.”

Căn cứ Khoản 5 Điều 95 Luật đất đai năm 2013:


“5. Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đã kê khai đăng
ký được ghi vào Sổ địa chính, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nếu có nhu cầu và có đủ điều
kiện theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan;”

Diện tích 54,7m2 Thửa đất 164 tờ bản đồ số 9 nhà ông Hải được sử dụng ổn
định từ năm 1997 đến nay, được khu phố và bà con xung quanh xác nhận ngày
21/6/2016 về quá trình tôn tạo và không có tranh chấp, được phường xác nhận
không có tranh chấp tại đơn đăng ký xin cấp GCN ngày 08/01/2016 , từ khi tôn tạo
là năm 1998 đến nay chưa có bất kỳ văn bản nào xác định đất vi phạm và lập biên
bản xử lý vi phạm, phù hợp với quy hoạch (theo QĐ 1352/QĐ-UBND ngày
27/6/2014 thì thửa này thuộc quy hoạch đất ở đô thị) , đã được đăng ký trong sổ
địa chính (được đánh số tờ 09 số thửa 164 trong bản đồ quản lý đất đai của địa
phương) nên thửa đất của nhà Ông hoàn toàn đủ điều kiện được cấp GCNQSDĐ
theo quy định.

Mặt khác theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật đất đai năm 2013:
“Điều 9. Khuyến khích đầu tư vào đất đai
Nhà nước có chính sách khuyến khích người sử dụng đất đầu tư lao động,
vật tư tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào các việc sau đây:
2. Khai hoang, phục hóa, lấn biển, đưa diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất
có mặt nước hoang hóa vào sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;”

Căn cứ Điểm b Mục 1 Điều 2 Nghị định 01/2017:


10
“1.Sửa đổi, bổ sung Điều 3 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5
năm 2014 như sau:
“Điều 3. Xác định loại đất
1. Trường hợp đang sử dụng đất không có giấy tờ quy định tại các khoản 1,
2 và 3 Điều 11 của Luật đất đai thì loại đất được xác định như sau:
b) Trường hợp đang sử dụng đất do lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng
đất trái phép thì căn cứ vào nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng đất để xác định
loại đất.”

Căn cứ Khoản 2 Điều 20 Nghị định 43/2014:


“2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng
khác trong thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7
năm 2004; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là không có tranh chấp sử
dụng đất; phù hợp với quy hoạch …..thì được công nhận quyền sử dụng đất như
sau:
a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn
mức giao đất ở quy định tại Khoản 2 Điều 143 và Khoản 4 Điều 144 của Luật Đất
đai (sau đây gọi là hạn mức giao đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công
nhận là đất ở.
Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức giao
đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở; trường hợp
diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức
giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở
và các công trình phục vụ đời sống đó;
4. Việc áp dụng quy định về hạn mức đất ở của địa phương để xác định diện
tích đất ở trong các trường hợp quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều này được
thực hiện theo quy định tại thời điểm người sử dụng đất nộp hồ sơ đăng ký, cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất hợp lệ.”

Căn cứ Khoản 1 Điều 22 Nghị định 43/2014:


“Điều 22. Việc xử lý, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng
đất có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 01 tháng 7 năm 2014
1. ….
Trường hợp đã có điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt mà nay diện tích đất lấn, chiếm
không còn thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình công cộng; không thuộc chỉ
giới xây dựng đường giao thông; không có mục đích sử dụng cho trụ sở cơ quan,
công trình sự nghiệp và công trình công cộng khác thì người đang sử dụng đất
được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
11
sản khác gắn liền với đất và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của
pháp luật.
5. Người đang sử dụng đất ổn định trong các trường hợp quy định tại
Khoản 1, Điểm a và Điểm c Khoản 2, Điểm b Khoản 3 Điều này mà không có
tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định như sau:
a) Trường hợp thửa đất có nhà ở thì diện tích đất ở được công nhận theo
quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 20 của Nghị định này;”

Căn cứ Mục 18 Điều 2 Nghị định 01/2017 ngày 3/3/2017 :


18. Sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 5 Điều 22 như sau:
“a) Trường hợp thửa đất có nhà ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng
hạn mức công nhận đất ở tại địa phương nếu đã sử dụng đất ổn định trước ngày
15 tháng 10 năm 1993; diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở
tại địa phương nếu đã sử dụng đất ổn định từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến
trước ngày 01 tháng 7 năm 2014;”

Như vậy, hiện tại trên thửa đất nhà Ông Hải có dãy nhà phòng trọ được xây
dựng từ năm 2000. Nếu UBND TP A cho rằng nguồn gốc khu đất này là do lấn
chiếm thì với quá trình quản lý, sử dụng của gia đình ông Hải suốt từ năm 1998
đến nay và theo quy hoạch sử dụng đất của địa phương, cũng như theo các quy
định hiện hành của pháp luật nói trên, gia đình Ông Hải hoàn toàn có đủ điều kiện
để được cấp GCSQSDĐ đối với thửa đất này.

Căn cứ Khoản 2 Điều 26 Luật đất đai 2013:


“Điều 26. Bảo đảm của Nhà nước đối với người sử dụng đất
1. Bảo hộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hợp pháp của người
sử dụng đất.
2. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất cho người sử dụng đất khi có đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật.”
Căn cứ khoản 5 Điều 19 NĐ 43/2014:
“Điều 19. Các trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
5. Người đang sử dụng đất không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.”

Vợ chồng Ông Hải được bố mẹ ông chuyển giao cho ông quyền sử dụng đất
và trên đất có dãy nhà trọ được xây dựng từ năm 2000. Việc vợ chồng ông sử dụng
thửa đất này là hoàn toàn hợp pháp và phù hợp với quy định của pháp luật. Thửa
đất này không thuộc trường hợp không được cấp GCNQSDĐ.
12
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
I.1. Kết luận:
Từ những lập luận có căn cứ nêu trên, tôi khẳng định việc UBND TP A ban
hành văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 v/v tạm trả hồ sơ ĐK cấp
GCN và văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 v/v giải quyết đơn khiếu
nại ngày 07/01/2019 của ông Bùi Quang Khải với lý do là trong luật đất đai và các
văn bản hướng dẫn thi hành luật không quy định việc cấp giấy đối với trường hợp
sử dụng đất có nguồn gốc lấn biển là không có cơ sở, trái với quy định của pháp
luật, thể hiện sự yếu kém trong năng lực chuyên môn cũng như trách nhiệm đối
với công vụ mình được giao làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của thân chủ tôi.
I.2. Kiến nghị:
Căn cứ:
- Điều điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
- Luật đất đai năm 2013.
- Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật đất đai.
- Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/1/2017 sửa đổi, bổ sung một số nghị định
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ông Bùi Quang
Hải và vợ là bà Đặng Thị Kim về việc hủy văn bản số 504/UBND-TNMT ngày
30/01/2019 v/v tạm trả hồ sơ ĐK cấp GCNQSDĐ và văn bản số 1126/UBND-
TNMT ngày 18/3/2019 v/v giải quyết đơn khiếu nại ngày 07/01/2019 của ông Bùi
Quang Khải. Đồng thời buộc UBND tỉnh A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp
GCNQSD Đ đối với diện tích 54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ số 09
phường A thành phố A cho gia đình ông Bùi Quang Khải.
Kính đề nghị Hội đồng xét xử hãy bằng sự nghiêm minh, sáng suốt và công
tâm của mình, xem xét chấp nhận tuyên hủy 02 văn bản nêu trên và buộc UBND
A thực hiện cấp GCNQSD Đ cho gia đình ông Bùi Quang Hải, nhằm bảo đảm
công bằng xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của tôi.
Tôi xin cảm ơn HĐXX và quý vị đã lắng nghe!
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của Người khởi kiện

Sử Khắc Hoàng Long

13

You might also like