You are on page 1of 392

TR¦êNG §¹I HäC TH¦¥NG M¹I

bé m«n tµi chÝnh doanh nghiÖp


Chñ biªn: TS. Vò Xu©n Dòng

Gi¸o tr×nh

NhËp m«n
tµi chÝnh - tiÒn tÖ

Nhµ xuÊt b¶n thèng kª


Hµ Néi, 2012

1
2
LêI NãI §ÇU

Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội cho thấy tài chính và tiền tệ ngày
càng giữ vị trí và vai trò quan trọng trong trật tự kinh tế của các quốc
gia và của toàn thế giới. Tài chính và tiền tệ trở thành những dòng huyết
mạch gắn kết, làm lưu hoạt và thúc đẩy sự phát triển mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nếu sử dụng chúng không hợp lý thì
cũng có thể trở thành tác nhân gây trì trệ và khủng hoảng kinh tế. Do đó,
việc nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài chính - tiền tệ để đúc rút
thành những nền tảng lý thuyết nhằm soi tỏ thực tiễn và làm căn cứ định
hướng sử dụng hợp lý các công cụ tài chính, tiền tệ đã trở thành nhu cầu
cần thiết và không có giới hạn đối với các nhà nghiên cứu, các nhà
hoạch định chính sách và đối với mọi chủ thể trong xã hội.
Với mong muốn có thể đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập tại
Trường Đại học Thương mại, tập thể giảng viên Bộ môn Tài chính doanh
nghiệp, Khoa Tài chính - Ngân hàng đã tổ chức biên soạn và trân trọng
giới thiệu cuốn giáo trình Nhập môn Tài chính - Tiền tệ. Trong lần biên
soạn này, tập thể tác giả đã bám sát chương trình khung theo hướng dẫn
của Bộ Giáo dục và Đào tạo để trình bày, giới thiệu những nguyên lý cơ
bản trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, đồng thời cập nhật, bổ sung những
kiến thức mới theo yêu cầu của sự hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay
ở Việt Nam.
Giáo trình Nhập môn Tài chính - Tiền tệ được xem là tài liệu cần
thiết phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy của giảng viên và việc học
tập của sinh viên thuộc các chuyên ngành đào tạo về kinh tế của Trường
Đại học Thương mại như quản trị doanh nghiệp, kinh tế thương mại, kế
toán, kiểm toán, tài chính, ngân hàng, thương mại điện tử,... Bên cạnh
đó, giáo trình còn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu,
quản lý và độc giả quan tâm.

3
Tham gia biên soạn giáo trình:
 Chủ biên: TS. Vũ Xuân Dũng
 Biên soạn chương 1: PGS,TS. Lê Thị Kim Nhung
 Biên soạn chương 2: Ths. Nguyễn Thùy Linh
 Biên soạn chương 3: TS. Vũ Xuân Dũng và Ths. Vũ Xuân Thủy
 Biên soạn chương 4: TS. Vũ Xuân Dũng
 Biên soạn chương 5: Ths. Nguyễn Thị Minh Hạnh
 Biên soạn chương 6: Ths. Nguyễn Thanh Huyền và CN. Đỗ Thị Diên
 Biên soạn chương 7: Ths. Nguyễn Thùy Linh và CN. Đỗ Thị Diên
 Biên soạn chương 8: Ths. Nguyễn Thanh Huyền và Ths. Lê Hà Trang
 Biên soạn chương 9: Ths. Nguyễn Thị Minh Hạnh và CN. Đỗ Thị Diên
 Biên soạn chương 10: GVC Trần Thanh Nghị
 Biên soạn chương 11: GVC Trần Thanh Nghị và Ths. Vũ Xuân Thủy
 Biên soạn chương 12: PGS, TS. Lê Thị Kim Nhung
Trong quá trình biên soạn, mặc dù tập thể tác giả đã có nhiều cố
gắng, song do lĩnh vực tài chính - tiền tệ rất rộng lớn, luôn biến đổi phức
tạp nên cuốn sách sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định.
Tập thể tác giả rất mong nhận được các ý kiến phê bình, góp ý của độc
giả để giúp cho lần tái bản sau của giáo trình sẽ được hoàn thiện hơn.

TËP THÓ T¸C GI¶

4
Chương 1
NH÷NG VÊN §Ò C¥ B¶N VÒ TµI CHÝNH

Chương này đề cập đến những vấn đề cơ bản về phạm trù tài chính
với việc tìm hiểu nguồn gốc ra đời và phát triển của nó, làm rõ bản chất
của tài chính giúp người đọc phân biệt giữa tài chính với tiền tệ và với
các phạm trù phân phối khác, đi sâu luận giải các chức năng của tài chính
và hệ thống tài chính trong nền kinh tế quốc dân.

1.1 QU¸ TR×NH H×NH THµNH Vµ PH¸T TRIÓN CñA TµI CHÝNH
Tài chính là một phạm trù kinh tế khách quan, có lịch sử hình thành
và phát triển của nó. Lịch sử đã chứng minh, tài chính chỉ ra đời, tồn tại
và phát triển trong những điều kiện nhất định, khi mà ở đó có những hiện
tượng kinh tế - xã hội khách quan xuất hiện và tồn tại. Có thể xem những
hiện tượng kinh tế - xã hội đó là tiền đề khách quan quyết định sự ra đời,
tồn tại và phát triển của tài chính với tư cách là một phạm trù kinh tế -
lịch sử.
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, phân công lao động
xã hội và chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã làm xuất hiện
sản xuất và trao đổi hàng hóa, theo đó tiền tệ xuất hiện1. Sự xuất hiện của
sản xuất hàng hóa và các quan hệ tiền tệ đã tạo nên một bước ngoặt lớn
mang tính cách mạng trong lĩnh vực phân phối: từ phân phối bằng hiện
vật chuyển sang phân phối dưới hình thái giá trị. Đây chính là phân phối
tài chính, là cơ sở làm nảy sinh các quan hệ tài chính trong xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hóa, sự phát triển của sản xuất xã hội cũng đi
từ giản đơn đến phức tạp, việc trao đổi hàng hóa có thể tiến hành trực
tiếp hàng đổi hàng hoặc có thể thực hiện thông qua trung gian là tiền. Ở
giai đoạn phát triển cao hơn, trở thành nền kinh tế thị trường, việc trao
đổi hàng hóa chủ yếu được tiến hành thông qua tiền. Phân công lao động
1
Xem lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ (chương 2)

5
xã hội càng sâu sắc, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người tham gia
sản xuất hàng hóa ngày càng gia tăng, làm xuất hiện mối quan hệ về lợi
ích giữa họ. Trong bối cảnh đó, đồng tiền được sử dụng làm phương tiện
để phân chia của cải xã hội, nhằm giải quyết mối quan hệ về lợi ích và
thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể. Từ đó hình thành nên các mối quan hệ
tài chính giữa các chủ thể trong xã hội trong quá trình sản xuất và trao
đổi hàng hóa (hiện nay còn gọi là quan hệ tài chính tư).
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cũng đã chứng minh rằng,
khi chế độ tư hữu xuất hiện thì xã hội bắt đầu phân chia thành các giai
cấp và có sự đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội. Chính sự xuất hiện
của sản xuất, trao đổi hàng hóa và tiền tệ là một trong các nguyên nhân
chủ yếu thúc đẩy mạnh mẽ sự phân chia giai cấp và đối kháng giai cấp.
Kết quả của quá trình đấu tranh giai cấp đó là sự xuất hiện của Nhà nước.
Để duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước đòi hỏi phải có
một nguồn lực tài chính nhất định và Nhà nước với tư cách là người có
quyền lực chính trị đã bắt buộc các tầng lớp dân cư trong xã hội đóng
góp thông qua hình thức thuế, công trái…. Từ đó, các mối quan hệ tài
chính giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội bắt đầu hình thành.
Thông qua các quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã
hội, Nhà nước đã huy động, tập trung một bộ phận của cải xã hội dưới
hình thức tiền tệ để lập nên các quỹ tiền tệ của Nhà nước, đáp ứng nhu
cầu chi tiêu nhằm duy trì bộ máy quản lý, an ninh, quốc phòng… và thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Có thể nói rằng, sự xuất hiện
của Nhà nước đã làm xuất hiện một lĩnh vực hoạt động tài chính gắn liền
với hoạt động của Nhà nước - đó là tài chính Nhà nước (hiện nay còn gọi
là tài chính công).
Cần phải nhấn mạnh rằng, tài chính công là một khái niệm hiện đại,
bởi đầu thế kỷ XX trong các sách và tài liệu chuyên ngành, người ta
thường sử dụng thuật ngữ Tài chính Nhà nước. Sự thay đổi có tính bước
ngoặt về quan niệm tài chính công diễn ra vào những năm 30 của thế kỷ
XX có mối quan hệ chặt chẽ với sự chuyển dịch quyền hạn từ cơ quan
công quyền trung ương sang hình thức các tổ chức công quyền địa
phương dựa trên nguyên tắc lãnh thổ, sự phát triển về các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại.

6
Trong các nền kinh tế tự cung tự cấp, nền kinh tế hàng hóa giản đơn,
kinh tế thị trường tự do cạnh tranh từ thế kỷ XIX về trước, Nhà nước
không can thiệp vào các hoạt động kinh tế, Nhà nước được ví như người
“canh gác” xã hội và thực hiện chức năng chính trị, quản lý bộ máy hoạt
động của Nhà nước. Do vậy, Nhà nước sử dụng tài chính như một công
cụ thực hiện các hoạt động đơn thuần về mặt chính trị của Nhà nước và
là một “yếu tố trung lập” đứng ngoài các hoạt động kinh tế. Sau chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, đặc biệt sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế
giới 1929 - 1933, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bị suy thoái trầm trọng.
Để vực dậy nền kinh tế tư bản ở các quốc gia trong điều kiện thị trường
không hoàn hảo, các Nhà nước tư bản ngày càng chú trọng thực hiện
chức năng kinh tế song song với thực hiện chức năng chính trị, vì vậy vai
trò của Nhà nước đã được thay đổi. Trong bối cảnh đó, cần phải xác định
đúng vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ với thị trường, nhất là
trong lĩnh vực cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cho xã hội. Tài chính
công được coi là công cụ hữu hiệu mà Nhà nước sử dụng để can thiệp
vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế thị trường phát triển theo
hướng hiện đại. Bằng hoạt động của tài chính công, nền kinh tế vĩ mô và
hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội được điều chỉnh theo những
cách thức khác nhau tùy theo các giai đoạn phát triển và các điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể của từng quốc gia.
Như vậy, cùng với sự phát triển của Nhà nước, với việc thực hiện
các chức năng của Nhà nước, phạm vi hoạt động của tài chính không
ngừng được mở rộng và tác động ngược trở lại đối với các hoạt động
kinh tế - xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong
nền kinh tế thị trường, tài chính là công cụ được Nhà nước khai thác, vận
dụng để quản lý, điều khiển nền kinh tế - xã hội nhằm mục đích thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và nâng cao phúc lợi xã hội. Có thể nói rằng, sự phát
triển kinh tế hàng hóa tiền tệ đã tạo điều kiện khách quan cho sự mở rộng
các quan hệ tài chính của Nhà nước nói riêng và trong toàn bộ nền kinh
tế quốc dân nói chung.

7
Từ sự phân tích trên, có thể coi (i) sự ra đời, tồn tại và phát triển
của sản xuất và trao đổi hàng hóa, (ii) sự ra đời, tồn tại và phát triển của
Nhà nước là hai tiền đề khách quan quyết định sự ra đời, tồn tại và phát
triển của phạm trù tài chính. Cùng với sự phát triển của các tiền đề khách
quan, tài chính cũng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện, các mối quan hệ tài chính ngày càng phát triển mạnh mẽ, sâu
rộng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, những tiền đề khách
quan quyết định sự tồn tại và phát triển của tài chính vẫn đang hiện diện
đầy đủ và vận động song hành. Vấn đề đặt ra là làm sao có thể sử dụng
phạm trù tài chính đang tồn tại khách quan một cách đúng đắn nhằm
phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng đất nước. Để đạt
được mục tiêu đó, đòi hỏi phải hiểu rõ và có nhận thức đúng về phạm trù
tài chính.
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị, phát
sinh trong quá trình phân phối của cải xã hội thông qua việc hình thành
và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm đáp ứng cho
các lợi ích khác nhau của các chủ thể trong xã hội.

1.2. B¶N CHÊT CñA TµI CHÝNH


Việc xác định đúng đắn bản chất của tài chính có ý nghĩa quan
trọng, tạo cơ sở cho việc phân biệt phạm trù tài chính với các phạm trù
kinh tế khác, nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Để hiểu rõ được bản chất của tài chính, trước hết
chúng ta xem xét các biểu hiện bên ngoài của nó, từ đó tìm ra những
điểm chung bao trùm mọi quan hệ tài chính.
1.2.1. Nội dung và đặc trưng của các quan hệ tài chính
Quan sát thực tế quá trình vận động của nền kinh tế - xã hội có thể
nhận thấy các biểu hiện bên ngoài của tài chính là hiện tượng thu vào
bằng tiền và chi ra bằng tiền của các chủ thể trong xã hội, qua đó tài
chính được cảm nhận như là sự vận động của các quỹ tiền tệ, đại diện
cho những sức mua nhất định của các chủ thể trong xã hội. Nói đến tài

8
chính, người ta không chỉ thấy tiền tệ ở trạng thái tĩnh mà còn thấy lượng
tiền tệ nhất định đang vận động để tạo nên những thế năng về sức mua
hay biến những thế năng đó thành hiện thực. Theo đó, các mối quan hệ
tài chính luôn diễn ra một cách đa dạng, phức tạp và đan xen trong một
tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế thị trường. Có
thể sắp xếp các mối quan hệ tài chính thành các nhóm như sau:
Thứ nhất, quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các tổ chức và cá
nhân trong xã hội. Đó là mối quan hệ phát sinh khi người dân, các nhóm
cá nhân kinh doanh hay doanh nghiệp,… thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
cho Nhà nước, nộp tiền phí, lệ phí khi sử dụng các hàng hóa dịch vụ
công do Nhà nước cung cấp; ngược lại, Nhà nước cũng có thể thực hiện
các trợ cấp về tài chính cho các chủ thể trong xã hội như cấp vốn (đầu tư
vốn) hình thành nên các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước, thực hiện
các khoản hỗ trợ tài chính (các gói kích cầu) cho các chủ thể kinh doanh,
cấp kinh phí hoạt động cho các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức
xã hội để các đơn vị này có thể thực hiện những chức năng nhiệm vụ Nhà
nước giao, hay trợ cấp tài chính cho người dân (những đối tượng đặc
biệt) thuộc đối tượng hưởng phúc lợi xã hội.
Thứ hai, quan hệ tài chính giữa các tổ chức và cá nhân với nhau
trong xã hội. Đây là nhóm quan hệ tài chính đa dạng và phức tạp nhất, nó
bao gồm:
- Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với
nhau và với các tổ chức xã hội, các tầng lớp dân cư. Đây là các mối quan
hệ trong thanh toán tiền mua bán hàng hóa dịch vụ, thanh toán tiền
lương, tiền công với người lao động,...
- Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh
với các tổ chức trung gian tài chính (như ngân hàng thương mại, tổ chức
tín dụng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng,…) và với các
cá nhân. Đây là các mối quan hệ tài chính trong việc huy động và đầu tư
vốn trên thị trường tài chính của các chủ thể trên. Ví dụ doanh nghiệp
vay vốn của ngân hàng thương mại, hoặc phát hành trái phiếu, hoặc phát
hành cổ phiếu và nhà đầu tư mua,…

9
- Quan hệ tài chính giữa các tổ chức trung gian tài chính với nhau và
với các tầng lớp dân cư. Các mối quan hệ này phát sinh trong quá trình
nhận tiền gửi, cho vay, liên doanh liên kết,… và các quan hệ tài chính
khác.
- Quan hệ tài chính giữa các hộ gia đình, các cá nhân với nhau như
vay mượn, thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ,….
Thứ ba, quan hệ tài chính trong nội bộ một chủ thể (một doanh
nghiệp, một ngân hàng thương mại, một hộ gia đình,…). Ví dụ như quan
hệ phân phối, điều hòa vốn giữa các bộ phận, các chi nhánh trong một
doanh nghiệp, quan hệ phân phối lợi nhuận và sử dụng các quỹ trong
doanh nghiệp,...
Ngoài ra, trong bối cảnh mở cửa hội nhập quốc tế, với xu hướng
toàn cầu hóa mạnh mẽ, còn phải kể đến các mối quan hệ tài chính giữa
các chủ thể của quốc gia này với các chủ thể của một quốc gia khác hay
với các tổ chức quốc tế. Đó là các quan hệ tài chính quốc tế như quan hệ
vay nợ, viện trợ giữa các Chính phủ hoặc giữa Chính phủ của một nước
với các tổ chức Phi Chính phủ, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế; các
quan hệ đầu tư trực tiếp, gián tiếp giữa các tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân giữa các quốc gia với nhau,…
Qua những biểu hiện cụ thể nêu trên có thể thấy rằng, các quan hệ
tài chính đều liên quan đến tiền tệ. Tiền tệ xuất hiện trong các mối quan
hệ tài chính không phải với chức năng thước đo giá trị mà với chức năng
phương tiện thanh toán và phương tiện tích lũy giá trị - đại diện cho một
lượng giá trị, đặc trưng cho một thế năng về sức mua nhất định gọi là
nguồn lực tài chính. Trong thực tế, nguồn tài chính được nói đến dưới
nhiều tên gọi khác nhau như: vốn tiền tệ, vốn bằng tiền, tiền vốn và các
tên gọi riêng khác trong các trường hợp cụ thể. Ở mỗi chủ thể, khi nguồn
tài chính được tập trung (thu vào) là khi các quỹ tiền tệ được hình thành
(tạo lập), và khi nguồn tài chính phân tán (chia ra) là lúc các quỹ tiền tệ
được sử dụng. Nói một cách khác, quá trình vận động của các nguồn tài
chính cũng chính là quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, ở đó các
chủ thể kinh tế - xã hội tham gia phân phối các nguồn tài chính thông qua
các hoạt động thu chi bằng tiền của mình.

10
1.2.2. Bản chất của tài chính
Qua việc xem xét các mối quan hệ tài chính nêu trên, có thể xác định
nội dung kinh tế của phạm trù tài chính như sau: Tài chính được đặc
trưng bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng
phương tiện thanh toán và phương tiện tích lũy giá trị trong quá trình tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ - đại diện cho những sức mua nhất định
của các chủ thể kinh tế - xã hội. Nói cách khác, tài chính là tổng thể các
mối quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn lực tài chính thông qua
quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích
lũy hay tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội.
Bản chất của tài chính được thể hiện trên các khía cạnh sau:
(1) Tài chính là những quan hệ kinh tế, nhưng không phải mọi quan hệ
kinh tế trong xã hội đều thuộc phạm trù tài chính. Tài chính chỉ bao gồm
những quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị.
(2) Tài chính là những quan hệ phân phối phát sinh trong quá trình
hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Đây là một đặc trưng quan trọng
của tài chính. Việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ mang những
đặc điểm sau:
- Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng thể hiện quan hệ sở hữu. Sự vận động
của các quỹ tiền tệ có thể diễn ra trong phạm vi một hình thức sở hữu
hoặc giữa các hình thức sở hữu khác nhau, nhưng khi kết thúc một giai
đoạn vận động của quỹ (hình thành hay sử dụng) thì mỗi chủ thể của
hình thức sở hữu này hay hình thức sở hữu khác sẽ nhận được cho mình
một phần nguồn lực tài chính như là kết quả tất yếu của quá trình phân
phối của cải xã hội dưới hình thái giá trị.
Trong nền kinh tế thị trường, với sự ra đời và phát triển của thị
trường tài chính, việc tạo lập các quỹ tiền tệ trong xã hội có thể diễn ra
trực tiếp giữa các chủ thể, cũng có thể diễn ra gián tiếp thông qua thị
trường tài chính. Song dù dưới hình thức nào, sự tạo lập các quỹ tiền tệ -
sự tích góp các nguồn lực tài chính ở các chủ thể cũng vẫn là sự phản ánh
kết quả của quá trình phân phối. Còn quá trình phân phối bao giờ cũng
chịu sự chi phối bởi quyền sở hữu - một yếu tố cơ bản của quan hệ sản

11
xuất xã hội. việc sử dụng các quỹ tiền tệ phụ thuộc quyền sở hữu, cũng
như tùy thuộc vào quy ước, nguyên tắc sử dụng quỹ, ý chí chủ quan của
người sở hữu trong quá trình phân phối.
- Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng thể hiện tính mục đích của nguồn tài
chính. Trong nền kinh tế thị trường, phần lớn các quỹ tiền tệ đều có mục
đích sử dụng cuối cùng là tích lũy hoặc tiêu dùng. Ví dụ: Ngân sách Nhà
nước (quỹ tiền tệ đặc biệt của Nhà nước) để phục vụ cho việc thực hiện
các chức năng của Nhà nước; vốn của doanh nghiệp (một quỹ tiền tệ đặc
biệt của doanh nghiệp) để phục vụ cho hoạt động kinh doanh; quỹ bảo
hiểm xã hội dùng để trợ cấp cho người lao động khi họ mất sức lao
động,… Bên cạnh đó còn tồn tại các quỹ tiền tệ trung gian được hình
thành và sử dụng có thời hạn phục vụ cho việc hình thành và sử dụng các
quỹ tiền tệ có mục đích sử dụng cuối cùng khác. Ví dụ như quỹ tiền tệ
của ngân hàng thương mại huy động được từ việc nhận tiền gửi nhằm
mục đích cho vay, qua đó hình thành nên quỹ tiền tệ của doanh
nghiệp,…
- Các quỹ tiền tệ luôn luôn vận động, tức là chúng thường xuyên
được tạo lập và thường xuyên được sử dụng. Một dạng khác của sự vận
động đó và nhằm những mục đích cụ thể nào đó là các quỹ lớn được chia
thành các quỹ nhỏ hơn, hoặc các quỹ nhỏ có thể được khuyếch trương
nhờ sự tập trung các quỹ nhỏ tương ứng. Ví dụ: Ngân sách Nhà nước
được chia thành các quỹ dùng cho phát triển kinh tế, văn hóa, giáo
dục,…; hoặc các quỹ tập trung của tổng công ty được tạo nên từ các quỹ
tương ứng của các đơn vị thành viên trực thuộc.
(3) Tài chính là quan hệ kinh tế chịu sự tác động trực tiếp của Nhà
nước, của pháp luật, nhưng tài chính không phải là hệ thống các luật lệ
về tài chính. Luật Tài chính là công cụ của Nhà nước để điều tiết các
quan hệ tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu của Nhà nước. Điều này giải
thích tại sao trong các chế độ xã hội khác nhau thì chính sách tài chính và
mục đích sử dụng tài chính cũng khác nhau.
Qua việc phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng: Trong đời sống thực
tế, thật khó phân biệt tài chính với tiền tệ, bởi chúng luôn song hành với

12
nhau, tuy nhiên chúng vẫn là hai phạm trù độc lập, có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Tiền tệ, về bản chất là vật ngang giá chung trong trao đổi
hàng hóa với chức năng thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương
tiện thanh toán và phương tiện tích lũy giá trị. Tài chính không phải là
tiền tệ với bản chất và chức năng như vậy, tài chính là phạm trù phân
phối dưới hình thái giá trị (thông qua tiền tệ), nhưng tài chính không phải
là tiền hay quỹ tiền tệ. Tiền tệ chỉ là phương tiện biểu hiện các quan hệ
tài chính trong quá trình phân phối của cải xã hội mà đặc trưng riêng có
của nó là tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau cho các mục đích
khác nhau.
Giá cả cũng là một phạm trù liên quan đến phân phối dưới hình thái
giá trị, nhưng sự phân phối qua giá cả chỉ phát sinh khi có sự chênh lệch
giữa giá trị và giá cả hàng hóa trong trao đổi. Khi trao đổi không ngang
giá, giá cả cao hơn hoặc thấp hơn giá trị, sẽ xảy ra sự dịch chuyển giá trị
từ chủ thể này sang chủ thể khác. Còn tài chính là phạm trù phân phối
phản ánh sự dịch chuyển giá trị qua việc tạo lập hay sử dụng các quỹ
tiền tệ.
Tiền lương cũng là một phạm trù phân phối gắn liền với quá trình
phân phối theo lao động. Tiền lương muốn được thực hiện (tức là trả
lương) phải thông qua tài chính - qua sự vận động độc lập của giá trị với
sự hình thành quỹ tiền lương của các doanh nghiệp hay các tổ chức. Tiền
lương sau khi trả cho người lao động cũng là một bộ phận của nguồn tài
chính để hình thành nên “ngân sách gia đình”, tài chính của cá nhân. Vì
thế tiền lương và tài chính là hai phạm trù độc lập nhưng gắn bó chặt chẽ
với nhau.
Nhận thức đúng đắn bản chất của tài chính có ý nghĩa quan trọng cả
về lý luận và thực tiễn, giúp xác định rõ phạm vi các quan hệ tài chính
trong lĩnh vực phân phối, giúp xác định vị trí của tài chính trong hoạt
động thực tiễn, là công cụ phân phối sản phẩm xã hội được tạo ra từ hoạt
động sản xuất xã hội. Điều đó tạo cơ sở cho việc vận dụng các quan hệ
tài chính tồn tại khách quan để đưa ra các chính sách tài chính đúng đắn,
đồng thời thông qua các chính sách tài chính để tổ chức các quan hệ tài

13
chính nhằm phát huy các tác động tích cực của nó tới các hoạt động và
các quan hệ kinh tế - xã hội theo phương hướng đã xác định.
Bản chất của tài chính còn được thể hiện rõ nét thông qua các chức
năng của nó.

1.3. CHøC N¡NG CñA TµI CHÝNH


Chức năng của tài chính là thuộc tính khách quan vốn có, là khả
năng hay thế năng bên trong biểu lộ tác dụng xã hội của nó. Trong đời
sống xã hội, tài chính có hai chức năng là phân phối và giám đốc.
1.3.1. Chức năng phân phối
Chức năng phân phối là thuộc tính khách quan vốn có, thể hiện bản
chất của phạm trù tài chính. Con người nhận thức và vận dụng khả năng
khách quan đó để tổ chức việc phân phối của cải xã hội dưới hình thái
giá trị. Chính nhờ chức năng này mà các nguồn lực đại diện cho những
bộ phận của cải xã hội được phân chia và sử dụng cho các mục đích khác
nhau, đáp ứng những lợi ích khác nhau của đời sồng kinh tế - xã hội.
Từ đó, có thể cho rằng: Chức năng phân phối của tài chính là chức
năng mà nhờ vào đó các nguồn lực đại diện cho những bộ phận của cải
xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau để sử dụng cho các mục
đích khác nhau, đảm bảo những nhu cầu khác nhau và những lợi ích
khác nhau của xã hội.
Đối tượng phân phối ở đây là nguồn của cải xã hội dưới hình thái giá
trị, là nguồn tài chính đang vận động một cách độc lập với tư cách là
phương tiện thanh toán, phương tiện tích lũy giá trị trong quá trình tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Xét về mặt nội dung, nguồn tài chính (đối tượng phân phối) bao gồm
các bộ phận:
- Bộ phận của cải xã hội mới được sáng tạo ra trong năm (tổng sản
phẩm quốc nội - GDP).
- Bộ phận của cải xã hội tích lũy trong quá khứ.

14
- Bộ phận của cải được chuyển từ nước ngoài vào và bộ phận của cải
trong nước chuyển ra nước ngoài.
- Bộ phận tài sản, tài nguyên quốc gia có thể cho thuê, nhượng bán
có thời hạn.
Xét về hình thức biểu hiện, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng
hữu hình hoặc vô hình. Nguồn tài chính hữu hình là nguồn tài chính được
biểu hiện dưới hình thức giá trị và hình thức hiện vật như tiền nội tệ,
ngoại tệ, bất động sản, tài nguyên, đất đai,... Nguồn tài chính vô hình là
nguồn tài chính tồn tại dưới dạng những sản phẩm không có hình thái vật
chất như: dữ liệu, thông tin, hình ảnh, ký hiệu, phát minh, sáng chế, bí
quyết kỹ thuật... những sản phẩm kể trên bản thân chúng có giá trị và
trong điều kiện kinh tế thị trường chúng có thể chuyển thành tiền qua
mua bán, do đó, chúng được coi là một bộ phận cấu thành của tổng thể
các nguồn tài chính trong xã hội.
Chủ thể phân phối là Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức xã
hội, hộ gia đình hay cá nhân dân cư. Chủ thể phân phối có thể xuất hiện
trên một trong các tư cách là:
- Người có quyền sở hữu các nguồn tài chính: Chủ thể phân phối ở
đây là những người chủ đích thực của vốn tiền tệ. Họ có quyền phân phối
và sử dụng chúng theo ý muốn chủ quan của mình.
- Người có quyền sử dụng các nguồn tài chính: Chủ thể phân phối ở
đây là những người không quyền sở hữu vốn tiền tệ nhưng họ được trao
quyền sử dụng vốn tiền tệ. Nói khác đi đó là những người đi vay và họ có
quyền phân phối và sử dụng số vốn đi vay đó theo các mục đích đã định.
- Người có quyền lực chính trị: Chủ thể muốn nói ở đây là Nhà
nước. Nhà nước không phải với tư cách là người có quyền sở hữu hay
quyền sử dụng các nguồn lực tài chính, nhưng Nhà nước vẫn có thể huy
động tập trung các nguồn tài chính từ các tổ chức và cá nhân nhờ vào
quyền lực chính trị của mình, thông qua các quy định pháp luật như thuế,
phí, lệ phí,...
- Ngoài ra còn có các nhóm thành viên xã hội: chủ thể muốn đề cập
ở đây là các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội,

15
nghiệp đoàn,... do có sự ràng buộc của các quan hệ xã hội mà các tổ chức
này là người chủ trì, với tư cách là chủ thể phân phối khi họ nhận được
các khoản đóng góp hội phí của các thành viên, các khoản ủng hộ, đóng
góp tự nguyện...
Kết quả của quá trình phân phối là sự hình thành (tạo lập) hoặc sử
dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể trong xã hội nhằm những mục đích
nhất định.
Phân phối tài chính mang những đặc điểm như sau:
- Phân phối tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thái giá
trị, không kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị. Nói cách khác, phân
phối của tài chính là phân phối dưới hình thái giá trị nhưng không chứa
đựng sự vận động ngược chiều của hai hình thái giá trị như trong mua
bán hàng hóa.
- Phân phối của tài chính là sự phân phối luôn luôn gắn liền với sự
hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Thông qua chức năng
phân phối của tài chính, các quỹ tiền tệ nhất định được hình thành hoặc
sử dụng, nhưng chính trong các quá trình đó, bản chất của tài chính -
phân phối dưới hình thái giá trị - vẫn không thay đổi. Các quỹ tiền tệ
được hình thành (được khuếch trương), được sử dụng (được chia nhỏ) vì
những mục đích nhất định, theo tác dụng hẹp hơn hay rộng hơn nhưng đó
vẫn là một quá trình phân phối dưới hình thái giá trị. Trong mối quan hệ
kế tiếp giữa lĩnh vực phân phối và trao đổi, hay phân phối và tiêu dùng
trong quá trình tái sản xuất xã hội, phân phối tài chính diễn ra ở chính
ngay điểm tiếp giáp của các lĩnh vực đó. Đó là khi việc thanh toán tiền
mua, bán hàng hóa dịch vụ được thực hiện và theo đó các quỹ tiền tệ
khác nhau hoặc được hình thành hoặc được sử dụng.
- Các quan hệ phân phối tài chính không phải bao giờ cũng nhất thiết
kèm theo sự di chuyển giá trị từ chủ thể phân phối này sang chủ thể phân
phối khác. Khi một doanh nghiệp kinh doanh có lợi nhuận và nộp thuế
thu nhập cho Nhà nước, quan hệ tài chính này dẫn đến sự dịch chuyển
một lượng giá trị từ doanh nghiệp đó vào Ngân sách Nhà nước. Nhưng
khi doanh nghiệp đó phân phối lợi nhuận sau thuế để hình thành nên các

16
quỹ của doanh nghiệp (quỹ đầu tư phát triển kinh doanh, quỹ khen
thưởng, quỹ phúc lợi,…) thì không dẫn đến sự dịch chuyển giá trị sang
một chủ thể khác, chỉ là một sự phân phối quỹ lớn thành các quỹ nhỏ hơn
để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của chính doanh nghiệp đó.
- Quá trình phân phối diễn ra một cách thường xuyên, liên tục bao
gồm cả phân phối lần đầu và phân phối lại, trong đó phân phối lại là đặc
trưng chủ yếu của phân phối tài chính.
Phân phối lần đầu là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản
xuất, cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật
chất hay thực hiện các dịch vụ trong các đơn vị sản xuất và dịch vụ. Phân
phối lần đầu được thực hiện trước hết và chủ yếu tại khâu cơ sở của hệ
thống tài chính (tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình). Kết thúc
quá trình phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội trong lĩnh vực sản
xuất được chia thành các bộ phận và được đưa vào các quỹ tiền tệ cơ bản
như sau:
+ Một phần để bù đắp chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản
xuất. Phần này hình thành nên quỹ khấu hao tài sản cố định và quỹ bù
đắp vốn lưu động đã ứng ra của các đơn vị.
+ Một phần hình thành quỹ lương của đơn vị để trả lương cho người
lao động. Kết quả của việc sử dụng quỹ lương tạo nên quỹ tiền tệ của các
hộ gia đình.
+ Một phần góp vào để hình thành các quỹ dự phòng, bảo hiểm: bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm kinh doanh,…
+ Một phần là thu nhập của các chủ sở hữu về vốn hay các nguồn tài
nguyên, góp phần phục vụ cho việc tiến hành sản xuất hay dịch vụ của
đơn vị. Phần này lại bao gồm các phần: phần dành cho các cổ đông nắm
giữ cổ phần, phần dành cho các trái chủ, các ngân hàng đã cho các doanh
nghiệp vay vốn,...
Qua phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội mới chỉ được chia
thành các phần thu nhập cơ bản. Nếu chỉ dừng lại ở đó, việc phân phối
chưa thể đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của toàn xã hội, các chủ thể ở khu

17
vực phi sản xuất sẽ không có được nguồn tài chính cần thiết để tồn tại và
hoạt động. Do đó, phân phối lại trở thành đòi hỏi khách quan của xã hội.
Phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ
bản, những quỹ tiền tệ đã được hình thành trong phân phối lần đầu ra
phạm vi toàn xã hội hoặc theo những mục đích cụ thể hơn của các quỹ
tiền tệ.
Phân phối lại là đặc trưng quan trọng nhất của phân phối tài chính,
nó diễn ra ở tất cả các khâu của hệ thống tài chính, với mọi chủ thể trong
xã hội. Nếu như phân phối lần đầu chỉ diễn ra một lần duy nhất thì phân
phối lại không giới hạn số lần phân phối. Các quỹ tiền tệ sau khi được
hình thành lại được sử dụng, tạo nên sự luân chuyển không ngừng của
các nguồn lực tài chính trong xã hội từ chủ thể này sang chủ thể khác.
Phân phối lại đã phát huy tác dụng to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế
- xã hội, thể hiện qua những điểm sau:
+ Phân phối lại đảm bảo cho lĩnh vực không sản xuất có nguồn tài
chính (vốn tiền tệ) để tồn tại, duy trì hoạt động và phát triển.
+ Phân phối lại tác động tích cực tới chuyên môn hóa và thúc đẩy sự
phát triển của phân công lao động xã hội, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý,
thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
+ Phân phối lại thực hiện điều tiết thu nhập giữa các thành phần kinh
tế và các tầng lớp dân cư góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Trên thực tế, quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại luôn tiến
hành đồng thời và có sự đan xen lẫn nhau phù hợp với sự vận động của
nền kinh tế - xã hội. Trong cùng một khoảng thời gian vừa có quá trình
phân phối lần đầu diễn ra ở lĩnh vực sản xuất vật chất, vừa có quá trình
phân phối lại diễn ra trên bình diện toàn bộ nền kinh tế - xã hội, nhằm
đảm bảo cho mọi chủ thể đều có nguồn lực tài chính để tồn tại, để thực
hiện chức năng nhiệm vụ của mình theo phân công lao động xã hội.
1.3.2. Chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc của tài chính cũng là một thuộc tính khách
quan vốn có của phạm trù tài chính, bắt nguồn từ bản chất của tài chính.

18
Xuất phát từ quá trình phân phối của tài chính, đặt ra đòi hỏi khách quan
phải tiến hành kiểm tra giám sát, tức là phải thực hiện chức năng giám
đốc. Con người nhận thức và vận dụng khả năng khách quan này của tài
chính để tổ chức công tác kiểm tra tài chính đối với quá trình phân phối
các nguồn tài chính dưới hình thái giá trị.
Vì vậy, có thể hiểu: chức năng giám đốc của tài chính là chức năng
mà nhờ đó việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình
phân phối của tài chính nhằm đảm bảo cho các quỹ tiền tệ (nguồn tài
chính) luôn được tạo lập và sử dụng đúng mục đích đã định.
Đối tượng của giám đốc tài chính là quá trình vận động của các
nguồn tài chính, quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Đây cũng
chính là đối tượng của chức năng phân phối.
Chủ thể của giám đốc tài chính cũng chính là các chủ thể phân phối
tài chính. Bởi vì, để cho quá trình phân phối của tài chính đạt tới tối đa
tính mục đích, tính hợp lý, tính hiệu quả thì bản thân các chủ thể phân
phối phải tiến hành kiểm tra xem xét quá trình phân phối đó. Sự kiểm tra
có thể diễn ra dưới dạng: xem xét tính cần thiết, quy mô, tính mục đích
và hiệu quả của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Kết quả của giám đốc tài chính là phát hiện những mặt được và chưa
được của quá trình phân phối, từ đó giúp tìm ra các biện pháp hiệu chỉnh
quá trình vận động của các nguồn tài chính, quá trình phân phối của cải
xã hội theo các mục tiêu đã định nhằm đạt hiệu quả cao của việc tạo lập
và sử dụng các quỹ tiền tệ. Như vậy, giám đốc tài chính không chỉ đơn
thuần là kiểm tra giám sát quá trình phân phối của tài chính, mà còn bao
gồm khả năng tư vấn cho các chủ sở hữu các nguồn tài chính, các quỹ
tiền tệ biết cách sử dụng các nguồn tài chính như thế nào cho hiệu quả
nhất, ngăn ngừa và phòng tránh rủi ro.
Chức năng giám đốc của tài chính có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, giám đốc tài chính là giám đốc bằng đồng tiền, thông qua
sự vận động của tiền vốn khi tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện
thanh toán và phương tiện cất trữ giá trị. Giám đốc tài chính không
đồng nhất với mọi loại kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền nói chung
trong xã hội.

19
Thứ hai, giám đốc tài chính được thực hiện thông qua việc phân tích
đánh giá các chỉ tiêu về tài chính như: cơ cấu tài chính, hệ số nợ, hệ số an
toàn vốn, khả năng tự tài trợ, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời,…
Qua đó giúp cho các chủ thể rút ra được những kết luận và kịp thời hiệu
chỉnh đối với quá trình phân phối. Nói cách khác, giám đốc tài chính đưa
tới khả năng tự kiểm tra giám sát của mỗi chủ thể trong xã hội nhằm giúp
họ đạt tới mục tiêu đề ra.
Thứ ba, giám đốc tài chính được tiến hành một cách thường xuyên,
liên tục và vì vậy nó mang tính hiệu quả, tính kịp thời. Do quá trình phân
phối của tài chính, quá trình vận động của các nguồn tài chính diễn ra
một cách thường xuyên liên tục nên giám đốc tài chính cũng diễn ra
thường xuyên liên tục. Chính nhờ vào đặc điểm kể trên mà giám đốc tài
chính đem lại hiệu quả và có tác dụng rất kịp thời.
Trong thực tiễn, công tác giám đốc - kiểm tra tài chính được tiến
hành rộng rãi trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của tài chính,
thông qua tất cả các khâu của hệ thống tài chính. Giám đốc tài chính phát
huy tác dụng to lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội:
+ Giám đốc tài chính đảm bảo cho quá trình phân phối của tài chính
diễn ra một cách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế
khách quan, đáp ứng được yêu cầu của mọi chủ thể trong xã hội.
+ Giám đốc tài chính góp phần thúc đẩy việc sử dụng các yếu tố
nguồn lực (vật tư, lao động, tiền vốn) trong xã hội một cách tiết kiệm và
hiệu quả.
+ Giám đốc tài chính góp phần thiết lập và thực thi kỷ luật tài chính
trong phạm vi mỗi chủ thể và góp phần thúc đẩy việc nâng cao ý thức
chấp hành các luật lệ tài chính của Nhà nước.
Là những thuộc tính khách quan vốn có bên trong của phạm trù tài
chính, chức năng phân phối và chức năng giám đốc của tài chính có mối
liên hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ với nhau. Chính sự hiện diện của chức
năng phân phối đã đòi hỏi sự cần thiết phải có chức năng giám đốc để
đảm bảo cho quá trình phân phối được đúng đắn, hợp lý, theo mục tiêu

20
đã định. Trong thực tế, hoạt động giám đốc - kiểm tra tài chính có thể
diễn ra đồng thời với hoạt động phân phối, cũng có thể diễn ra độc lập
tương đối, không đi liền ngay với hoạt động phân phối mà có thể đi trước
hoặc sau khi hoạt động phân phối kết thúc.
Việc phân định các chức năng của tài chính là quá trình nhận thức
chủ quan của con người về các khả năng khách quan phát huy tác dụng
xã hội của một phạm trù kinh tế. Vì vậy, việc nhận thức đó không tránh
khỏi đưa đến những ý kiến khác nhau về các chức năng của tài chính.
Trong quá trình khái quát lý luận, có ý kiến cho rằng tài chính còn có
chức năng tổ chức chu chuyển vốn, nhưng như đã phân tích ở trên, đối
tượng phân phối của tài chính là các nguồn tài chính trong quá trình vận
động của nó. Do đó, nội dung của chức năng phân phối đã bao hàm cả
việc tổ chức chu chuyển vốn trong xã hội, không cần tách thành một
chức năng độc lập của tài chính.
Cũng có ý kiến cho rằng, tài chính còn có chức năng kích thích hay
điều tiết hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy nhiên có thể thấy rằng đấy là vai
trò của tài chính, là kết quả của việc vận dụng chức năng phân phối và
chức năng giám đốc của tài chính, chứ không phải là một chức năng của
tài chính.

1.4. HÖ THèNG TµI CHÝNH


1.4.1. Khái niệm
Như đã phân tích ở phần bản chất của tài chính, các mối quan hệ tài
chính nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội vô cùng phong phú, đa
dạng và phức tạp. Tính đa dạng, phong phú của các hoạt động tài chính
bắt nguồn từ tính đa dạng của các hoạt động kinh tế - xã hội, mà hoạt
động tài chính là một bộ phận trong đó. Ở mỗi lĩnh vực hoạt động khác
nhau các quan hệ tài chính mang những đặc trưng riêng khác nhau, các
quỹ tiền tệ đặc thù được hình thành và sử dụng cho những mục đích khác
nhau. Tuy nhiên giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc, phụ
thuộc lẫn nhau trong sự vận động không ngừng của các nguồn tài chính,
tạo nên những mắt xích trong một chuỗi thống nhất thể hiện bản chất của
phạm trù tài chính. Đó là hệ thống tài chính.

21
Hệ thống tài chính là tổng thể các quan hệ tài chính trong các lĩnh
vực hoạt động khác nhau của nền kinh tế - xã hội, nhưng giữa chúng có
mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập, phân phối và sử
dụng các nguồn lực tài chính, các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã
hội hoạt động trong các lĩnh vực đó.
1.4.2. Cấu trúc của hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính là một tập hợp gồm nhiều bộ phận khác nhau, có
mối quan hệ liên kết hữu cơ với nhau theo một trật tự thống nhất. Có thể
xem xét cấu trúc của hệ thống tài chính qua các tiêu thức sau:
1.4.2.1. Căn cứ vào hình thức sở hữu các nguồn lực tài chính
Hệ thống tài chính bao gồm hai bộ phận là tài chính Nhà nước và tài
chính phi Nhà nước.
Tài chính Nhà nước gắn liền với các hoạt động kinh tế, chính trị, xã
hội của Nhà nước. Nhà nước với quyền lực chính trị của mình tham gia
vào quá trình phân phối của tài chính, tạo lập nên các quỹ tiền tệ thuộc sở
hữu Nhà nước và sử dụng chúng phục vụ cho mục đích chung của quốc
gia, của cộng đồng xã hội, phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của
mình. Tài chính Nhà nước bao gồm: Tài chính Nhà nước trực tiếp và tài
chính Nhà nước gián tiếp.
- Tài chính Nhà nước trực tiếp là tài chính của bộ máy Nhà nước.
Các cơ quan, đơn vị của bộ máy Nhà nước là chủ thể trực tiếp quản lý
các quỹ tiền tệ thuộc bộ phận tài chính này. Tài chính Nhà nước trực tiếp
bao gồm:
+ Tài chính của các cơ quan thuộc hệ thống lập pháp như Văn phòng
Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân các cấp.
+ Tài chính của các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp như Văn
phòng Chính phủ, văn phòng các Bộ, Ngành trung ương và các đơn vị
quản lý Nhà nước trực thuộc chúng, Văn phòng UBND các cấp và các
sở, ban ngành trực thuộc.
+ Tài chính của hệ thống cơ quan tư pháp như Viện kiểm sát nhân
dân các cấp, tòa án nhân dân các cấp.

22
- Tài chính Nhà nước gián tiếp là tài chính của các cơ quan, đơn vị
thuộc khu vực Nhà nước nhưng nằm ngoài bộ máy Nhà nước. Tài chính
Nhà nước gián tiếp bao gồm:
+ Tài chính các đơn vị sự nghiệp Nhà nước như các đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang, an ninh quốc phòng, các trường học, nhà văn hóa, bệnh
viện, viện nghiên cứu,...
+ Tài chính của các DNNN bao gồm các doanh nghiệp tài chính
(NHTM, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm,...) và các doanh
nghiệp phi tài chính (các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và dịch vụ).
Trong các doanh nghiệp này, Nhà nước có thể sở hữu toàn bộ (công ty
trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên) hay một phần vốn kinh
doanh (công ty cổ phần) ở mức đủ để là người đại diện chủ sở hữu.
Tài chính phi Nhà nước gắn liền với hoạt động kinh tế của khu vực
tư nhân, biểu hiện qua hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và cá
nhân trong nền kinh tế. Tài chính khu vực tư luôn gắn liền với chức năng
kinh doanh của các chủ thể như các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, nhóm cá nhân kinh doanh... Vì vậy, tài
chính tư nhân có vai trò chủ yếu là tạo lập và sử dụng vốn nhằm tìm
kiếm và tối đa hóa lợi nhuận. Bên cạnh đó, tài chính khu vực tư còn bao
gồm tài chính các hộ gia đình, tài chính các tổ chức xã hội hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận như các tổ chức từ thiện.

HÖ THèNG TµI CHÝNH

TµI CHÝNH NHµ N¦íC TµI CHÝNH PHI NHµ N¦íC

Tài Tài Tài Tài chính Tài chính Tài chính Tài chính Tài chính
chính chính chính các đơn doanh các tổ chức dân cư các tổ
cơ quan cơ quan cơ quan vị sự nghiệp kinh doanh (hộ gia chức phi
lập pháp hành tư pháp nghiệp nhà nước và doanh đình) Chính
nghiệp phi
pháp Nhà nước phủ
nhà nước

23
1.4.2.2. Căn cứ vào mục tiêu của việc sử dụng các nguồn lực tài
chính trong việc cung cấp hàng hóa dịch vụ cho xã hội
Theo tiêu thức này, hệ thống tài chính bao gồm tài chính công và tài
chính tư.
Trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp, bên cạnh khu vực tư, Chính
phủ cũng tham gia sản xuất và cung ứng hàng hóa dịch vụ cho xã hội, và
vai trò của các hoạt động kinh tế của khu vực công ngày càng trở nên rất
quan trọng. Các loại hàng hóa dịch vụ được cung ứng hàng ngày có thể
chia thành hai loại: hàng hóa dịch vụ công và hàng hóa dịch vụ tư. Hàng
hóa dịch vụ tư được trao đổi trên thị trường trên cơ sở ngang giá, mang
tính kinh doanh và chủ yếu do khu vực tư thực hiện. Tuy nhiên, khu vực
tư không thể đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của công chúng đối với mọi loại
hàng hóa dịch vụ và phần lớn các hàng hóa dịch vụ công (đặc biệt là
hàng hóa dịch vụ công thuần túy) thuộc vai trò đảm nhiệm của Chính
phủ. Bởi nếu để cho khu vực tư cung cấp các hàng hóa dịch vụ công
cộng thì sẽ làm tăng chi phí, không hiệu quả và làm giảm phúc lợi xã hội.
Như vậy, tài chính công gắn liền với việc tạo ra và cung cấp các
hàng hóa, dịch vụ công cộng cho xã hội không vì mục tiêu lợi nhuận, gắn
liền với Nhà nước và các chủ thể công quyền, bao gồm: Ngân sách Nhà
nước, Tín dụng Nhà nước, Tài chính các cơ quan hành chính Nhà nước,
Tài chính các đơn vị sự nghiệp Nhà nước, Tài chính các tổ chức phi lợi
nhuận.
Tài chính tư gắn liền với việc tạo ra và cung cấp các hàng hóa, dịch
vụ tư hướng tới mục tiêu lợi nhuận, bao gồm: Tài chính dân cư (Hộ gia
đình), Tài chính các loại hình doanh nghiệp tư nhân, Tài chính các loại
hình doanh nghiệp Nhà nước (doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước hoặc có
vốn của Nhà nước).

24
HÖ THèNG TµI CHÝNH

TµI CHÝNH C¤NG TµI CHÝNH T¦

Ngân Tín Tài chính Tài chính Tài chính Tài chính Tài chính Tài chính
sách dụng các cơ các đơn vị các tổ các loại dân cư các loại
Nhà Nhà quan sự nghiệp chức phi hình (hộ gia hình
nước nước hành Nhà nước lợi nhuận doanh đình) doanh
chính nghiệp
nghiệp
Nhà Nhà
tư nhân
nước nước

1.4.2.3 Căn cứ vào đặc điểm hoạt động của từng lĩnh vực tài chính
Trong từng lĩnh vực hoạt động khác nhau của nền kinh tế - xã hội,
hoạt động tài chính mang những đặc điểm riêng, có vai trò, cơ cấu tổ
chức riêng và ở đó có các quỹ tiền tệ đặc thù. Dựa trên tiêu thức này,
người ta chia hệ thống tài chính thành các khâu tài chính. Có thể chỉ ra
các tiêu chí chủ yếu của một khâu tài chính là:
- Một khâu tài chính phải là một điểm hội tụ của các nguồn tài chính,
là nơi thực hiện việc “bơm” và “hút” các nguồn tài chính. Nói cách khác,
được coi là một khâu tài chính nếu ở đó có các quỹ tiền tệ đặc thù được
tạo lập và sử dụng.
- Được coi là một khâu tài chính nếu ở đó việc tạo lập và sử dụng
các quỹ tiền tệ luôn gắn liền với một chủ thể phân phối xác định.
- Được xếp vào cùng một khâu tài chính nếu các hoạt động tài chính
có cùng tính chất, đặc điểm, vai trò, cùng hình thức thể hiện.
Hệ thống tài chính bao gồm các khâu: Tài chính doanh nghiệp, Ngân
sách Nhà nước, Bảo hiểm, Tín dụng, Tài chính hộ gia đình và cá nhân,
Tài chính các tổ chức xã hội.

25
NG¢N S¸CH
NHµ N¦íC

TµI CHÝNH
TÝN DôNG
DOANH NGHIÖP
THÞ TR¦êNG
TµI CHÝNH

TµI CHÝNH Hé GIA §×NH


B¶O HIÓM
Vµ C¸C Tæ CHøC X· HéI

Chú thích: Quan hệ trực tiếp


Quan hệ gián tiếp

Sơ đồ: Mối quan hệ giữa các khâu trong hệ thống tài chính

* Nội dung hoạt động cơ bản của các khâu trong hệ thống tài chính
(1) Ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nước là khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc
gia. Đây là một tụ điểm của các nguồn tài chính gắn liền với việc tạo lập
và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước với mục đích phục vụ
cho hoạt động của bộ máy Nhà nước các cấp và thực hiện các chức năng
của Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội. Hoạt động cơ bản của Ngân
sách Nhà nước bao gồm:
+ Động viên, tập trung các nguồn tài chính cho việc tạo lập quỹ tiền
tệ của Nhà nước (quỹ ngân sách) trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu.
Việc tập trung này có thể thực hiện dưới hình thức các khoản thu bắt
buộc, hoặc cũng có thể dưới hình thức các khoản đóng góp tự nguyện.
+ Phân phối và sử dụng quỹ ngân sách cho việc thực hiện các nhiệm
vụ kinh tế - xã hội theo chức năng của Nhà nước (như duy trì bộ máy
Nhà nước, củng cố quốc phòng an ninh, phát triển văn hóa xã hội, phát
triển kết cấu hạ tầng, đầu tư kinh tế).

26
+ Giám đốc, kiểm tra đối với các khâu tài chính khác và với mọi
hoạt động kinh tế - xã hội gắn liền với quá trình thu chi ngân sách.
Ngân sách Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển của hệ thống tài chính quốc gia và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
(2) Tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở trong hệ thống tài chính quốc
gia. Đây là một tụ điểm của các nguồn tài chính gắn với hoạt động sản
xuất kinh doanh hàng hóa hay dịch vụ. Hoạt động tài chính của doanh
nghiệp luôn gắn liền với các chủ thể của nó là các doanh nghiệp (pháp
nhân hoặc thể nhân), đó là:
+ Tổ chức huy động vốn và phân phối vốn cho các nhu cầu của quá
trình sản xuất kinh doanh.
+ Tổ chức chu chuyển vốn một cách liên tục và có hiệu quả nhằm
đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp.
+ Phân phối doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp theo đúng các
yêu cầu của quá trình tái sản xuất kinh doanh của các chủ sở hữu doanh
nghiệp, theo đúng các quy định của pháp luật.
+ Giám đốc quá trình vận động của các nguồn tài chính trong doanh
nghiệp, đồng thời kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của quá trình sản
xuất kinh doanh gắn liền với các quá trình đó.
Tài chính doanh nghiệp có quan hệ với các khâu khác của hệ thống
tài chính như: quan hệ với hộ gia đình thông qua trả lương, thưởng, lợi
tức cổ phần, trái phiếu; quan hệ với ngân sách Nhà nước thông qua nộp
thuế; quan hệ với các tổ chức tín dụng thông qua việc thu hút các nguồn
tài chính để tạo lập vốn hoặc để trả nợ gốc và lãi vay... Quan hệ giữa tài
chính doanh nghiệp với các khâu tài chính khác có thể là trực tiếp với
nhau cũng có thể thông qua thị trường tài chính.
(3) Bảo hiểm
Bảo hiểm là một khâu trong hệ thống tài chính, bảo hiểm có nhiều
hình thức và quỹ tiền tệ khác nhau, nhưng tính chất chung và đặc biệt của

27
các quỹ bảo hiểm là được tạo lập và sử dụng để bồi thường tổn thất nhiều
dạng cho những chủ thể tham gia bảo hiểm tùy theo mục đích của quỹ.
Trong đó: Bảo hiểm thương mại (trước đây gọi là bảo hiểm rủi ro) là
hình thức động viên thu hút nguồn vốn trong xã hội thông qua đóng góp
phí bảo hiểm của những người tham gia bảo hiểm (pháp nhân hoặc thể
nhân) để tạo lập quỹ tiền tệ nhằm bồi thường tổn thất cho họ khi có rủi ro
bất ngờ xảy ra gây thiệt hại vật chất theo các điều khoản đã ghi trong hợp
đồng bảo hiểm. Các quỹ bảo hiểm được tạo lập và sử dụng có tính chất
thương mại, hoạt động hướng tới mục tiêu lợi nhuận.
Bảo hiểm xã hội động viên, thu hút các nguồn vốn thông qua sự
đóng góp của người lao động hoặc các đơn vị sử dụng lao động, các
thành viên trong xã hội để tạo lập quỹ tiền tệ nhằm bồi thường hoặc trợ
cấp cho người lao động khi bị tạm thời hoặc vĩnh viễn mất sức lao động,
trợ cấp về khám chữa bệnh,... Bảo hiểm xã hội không vì mục đích lợi
nhuận mà mang tính chất tương trợ cộng đồng xã hội.
Trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ bảo hiểm, trước hết bảo
hiểm có quan hệ trực tiếp với các khâu tài chính khác qua việc thu phí
bảo hiểm và chi bồi thường. Đồng thời, do khả năng tạm thời nhàn rỗi
của các nguồn tài chính trong các quỹ bảo hiểm, các quỹ này có thể được
sử dụng tạm thời như các quỹ tín dụng và như vậy bảo hiểm cũng có thể
có quan hệ với các khâu khác thông qua thị trường tài chính. Trên ý
nghĩa này có thể coi bảo hiểm như một khâu tài chính trung gian trong hệ
thống tài chính.
(4) Tín dụng
Tín dụng là một khâu tài chính đặc biệt gắn liền với việc tạo lập và
sử dụng quỹ tiền tệ thông qua việc thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi để cho vay, đáp ứng các nhu cầu về vốn phục vụ cho sản xuất kinh
doanh và phát triển kinh tế - xã hội theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn
và có lợi tức. Tín dụng là một khâu trung gian quan trọng trong hệ thống
tài chính.
Hoạt động của tín dụng bao gồm:
+ Tạo lập quỹ tín dụng thông qua động viên thu hút các nguồn tài
chính tạm thời nhàn rỗi trong xã hội theo nguyên tắc hoàn trả và có lợi tức.

28
+ Sử dụng các quỹ tín dụng đã tạo lập để cho vay nhằm đáp ứng nhu
cầu về vốn tạm thời cho các chủ thể trong xã hội theo nguyên tắc hoàn
trả và có lợi tức.
(5) Tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình, cá nhân
(Tài chính dân cư)
Sự vận động của các nguồn tài chính của các tổ chức xã hội và hộ
gia đình có cùng tính chất là phục vụ cho mục đích tiêu dùng nên được
xếp vào một khâu của hệ thống tài chính.
Các tổ chức xã hội là khái niệm riêng để chỉ các tổ chức chính trị -
xã hội, các đoàn thể xã hội, các hội nghề nghiệp,... (còn gọi là các tổ
chức phi Chính phủ).
Hoạt động của tài chính các tổ chức xã hội bao gồm:
+ Tạo lập quỹ tiền tệ thông qua sự đóng góp hội phí, quyên góp, ủng
hộ của các thành viên trong và ngoài nước và của các cá nhân, các tổ
chức xã hội khác (gồm cả các tổ chức quốc tế) và của Chính phủ.
+ Sử dụng quỹ tiền tệ đã được tạo lập nhằm mục đích tiêu dùng cho
hoạt động của các tổ chức xã hội. Khi các quỹ chưa được sử dụng, số
dư ổn định có thể tham gia thị trường tài chính thông qua các quỹ tín
dụng hoặc các hình thức khác (mua tín phiếu, trái phiếu,...). Do vậy, tài
chính các tổ chức xã hội cũng có quan hệ với các khâu khác trong hệ
thống tài chính.
Hoạt động của tài chính các hộ gia đình, cá nhân:
+ Tạo lập quỹ tiền tệ từ tiền lương, tiền công, thu nhập của các thành
viên trong gia đình do lao động hay sản xuất kinh doanh; từ nguồn thừa
kế tài sản; từ nguồn biếu tặng lẫn nhau trong và ngoài nước; từ các nguồn
khác như: lãi tiền gửi ngân hàng, lợi tức từ những khoản góp vốn, mua
trái phiếu, cổ phiếu... Việc tạo lập quỹ tiền tệ của hộ gia đình từ hoạt
động sản xuất kinh doanh có thể coi là một bộ phận của khâu cơ sở trong
hệ thống tài chính, bởi nó góp phần tạo nên của cải xã hội.
+ Sử dụng các quỹ tiền tệ đã tạo lập chủ yếu cho mục đích tiêu dùng
của gia đình, nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của các hộ gia đình cũng

29
có thể được sử dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong phạm vi
kinh tế hộ gia đình, hoặc tham gia vào thị trường tài chính qua việc góp
cổ phần, mua cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu,....
Như vậy, các khâu của hệ thống tài chính luôn có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình vận động của
chúng, theo đó các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế quốc dân không
ngừng được dịch chuyển để đáp ứng nhu cầu phát triển của toàn xã hội.
Hệ thống tài chính được ví như hệ thống tuần hoàn (huyết mạch) của nền
kinh tế.

C¢U HáI ¤N TËP CH¦¥NG 1

1. Tài chính là gì? Hãy phân tích các tiền đề khách quan dẫn đến sự
ra đời và phát triển của tài chính?
2. Phân tích bản chất của tài chính trong nền kinh tế thị trường?
3. Hãy phân tích chức năng phân phối của tài chính? Liên hệ việc
vận dụng chức năng đó trong hoạt động của từng khâu tài chính?
4. Hãy phân tích chức năng giám đốc của tài chính? Liên hệ việc vận
dụng chức năng đó trong hoạt động của từng khâu tài chính?
5. Phân tích mối quan hệ giữa hai chức năng của tài chính?
6. Chứng minh rằng quá trình phân phối lại của tài chính là một tất
yếu khách quan?
7. Hệ thống tài chính là gì? Hãy trình bày kết cấu của hệ thống tài
chính? Nêu các đặc trưng khái quát của các bộ phận trong hệ thống tài
chính khi căn cứ vào đặc điểm hoạt động của từng lĩnh vực tài chính?

30
Chương 2
NH÷NG VÊN §Ò C¥ B¶N VÒ TIÒN TÖ

Sự phát triển của kinh tế sản xuất và trao đổi hàng hoá đã dẫn đến sự
ra đời của tiền và tạo điều kiện cho quá trình phân phối chuyển đổi dần
từ hình thái hiện vật sang một hình thái linh hoạt hơn là phân phối bằng
giá trị. Chương này sẽ giới thiệu những kiến thức tổng quan về phạm trù
tiền tệ trên các khía cạnh khái niệm, nguồn gốc ra đời, các hình thái tiền
tệ, chức năng và vai trò của tiền tệ, cũng như các chế độ lưu thông tiền
tệ. Qua đó, giúp người học hiểu rõ hơn mối quan hệ biện chứng giữa cặp
phạm trù tài chính - tiền tệ cũng như những thuộc tính độc lập vốn có của
tiền tệ. Đây cũng là chương cung cấp những lý luận cơ bản làm nền tảng
để nghiên cứu các chương học sau.

2.1. LÞCH Sö RA §êI Vµ PH¸T TRIÓN CñA TIÒN TÖ


2.1.1. Nguồn gốc ra đời và khái niệm tiền tệ
2.1.1.1. Nguồn gốc ra đời
Sự ra đời của tiền gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và
trao đổi hàng hoá. Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thuỷ,
với công cụ lao động thô sơ, năng suất lao động thấp, con người thường
chỉ có một số sản phẩm ít ỏi thu về sau một ngày săn bắn, hái lượm. Khi
đời sống cộng đồng phát triển, ý thức phân công lao động được hình
thành và lượng sản phẩm dư thừa đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa
các thị tộc. Trong giai đoạn này, trao đổi sản phẩm mang tính ngẫu nhiên
và được thực hiện bằng phương thức trao đổi sản phẩm trực tiếp H - H’.
Đây là bước tiến lớn để xã hội công xã thoát khỏi tình trạng tự cung tự
cấp.
Tuy nhiên, quá trình trao đổi hàng hoá ở giai đoạn này còn rất sơ
khai và chủ yếu được thực hiện dựa trên nguyên tắc sự trùng khớp ngẫu
nhiên về nhu cầu sử dụng. Tức là đòi hỏi các cá nhân tham gia vào quá

31
trình trao đổi hàng hóa phải trực tiếp gặp nhau và đặc biệt là phải có sự
phù hợp về nhu cầu trao đổi với nhau. Ví dụ như một người cần vải và có
thóc phải gặp được người cần thóc và có vải thì sự trao đổi hàng hoá mới
có thể diễn ra. Như vậy, việc thực hiện giá trị của một hàng hoá này phụ
thuộc vào giá trị sử dụng của một hàng hoá khác. Ngoài ra, trong hình
thức trao đổi này người ta còn phải thoả thuận về tỷ lệ giá trị của hàng
hoá, về số lượng hàng hoá trao đổi,... Cùng với việc cải tiến công cụ lao
động và quá trình phân công lao động xã hội ngày một sâu sắc hơn, nền
sản xuất hàng hoá phát triển mạnh, do đó, hình thái biểu hiện giá trị của
các hàng hóa không còn mang tính ngẫu nhiên nữa. Lúc này, hàng hoá
trên thị trường đã phong phú đa dạng hơn, đòi hỏi phạm vi trao đổi phải
được mở rộng hơn.
Sự phát triển của quá trình trao đổi hàng hóa dẫn đến vật trung gian
trong trao đổi hàng hoá đã ra đời. Quá trình trao đổi được thể hiện dưới
phương trình H-vật trung gian-H’. Ban đầu, vật trung gian hay vật ngang
giá chung là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp được với nhiều
hàng hoá thông thường khác. Đặc điểm của chúng là có giá trị sử dụng
thiết thực, quý hiếm, dễ bảo quản, vận chuyển và mang tính đặc thù địa
phương. Về sau, với sự phát triển của quá trình trao đổi, vật ngang giá
chung được giới hạn ở một số hàng hoá quý hiếm và có ý nghĩa tượng
trưng như da thú, vỏ sò, vòng đá,... Khi lực lượng sản xuất phát triển,
phạm vi không gian trao đổi hàng hóa được mở rộng, đồng thời, khi trao
đổi hàng hoá đã trở thành nhu cầu thường xuyên của con người thì tình
trạng có nhiều vật ngang giá chung đã gây khó khăn cho sự lưu thông
trao đổi hàng hoá, khi đó vật ngang giá chung bằng kim loại khẳng định
được ưu thế và thay thế dần các vật ngang giá chung khác. Kim loại đầu
tiên được sử dụng làm vật ngang giá chung là sắt và kẽm, sau đó là đồng
và bạc. Đến đầu thế kỷ XIX, với những đặc điểm ưu việt của vàng như
tính quý hiếm, tính dễ dát mỏng, chia nhỏ, có tính bền trong sử dụng và
gọn nhẹ... vàng bắt đầu đóng vai trò vật ngang giá chung và hình thái tiền
tệ được cố định ở vàng, lúc đó, vàng được gọi là “kim loại tiền tệ”. Như
vậy, khi vàng độc chiếm vị trí vật ngang giá chung thì cái tên “vật ngang
giá chung” được thay bằng “tiền tệ”.

32
Sự ra đời của vật ngang giá chung trong trao đổi đã đánh dấu giai
đoạn mở đầu cho sự xuất hiện của tiền tệ, đồng thời là bước chuyển hoá
từ nền kinh tế trao đổi trực tiếp sang nền kinh tế tiền tệ. Quá trình hoàn
thiện từng bước của vật ngang giá chung mà kết quả là sự xuất hiện của
tiền tệ ở đầu thế kỷ XIX, không những phản ánh số lượng và chủng loại
hàng hoá đưa ra thị trường ngày càng phong phú, mà còn phản ánh trình
độ sản xuất hàng hoá đã tiến bộ vượt bậc so với thời gian trước đây. Trải
qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau
để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế.
Như vậy, tiền tệ là một phạm trù kinh tế lịch sử. Sự xuất hiện của
tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loài người trong lĩnh vực kinh tế. Kể
từ khi ra đời, tiền tệ đã trở thành tác nhân thúc đẩy nhanh chóng các hoạt
động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế - xã hội. Theo
K.Mark: “Tiền tệ ra đời là một sự tất yếu khách quan, tiền tệ là sản phẩm
tất yếu của quá trình trao đổi, là hình thái giá trị phát triển cao nhất trong
trao đổi”2.
2.1.1.2. Khái niệm tiền tệ
K.Mark (1818-1883) dưới cái nhìn của một nhà biện chứng duy vật
đã nghiên cứu nguồn gốc ra đời của tiền qua sự phát triển các hình thái
giá trị và ông đã khẳng định: tiền có nguồn gốc từ hàng hoá, từ thế giới
hàng hoá tách ra. Theo quan điểm của K.Mark, tiền tệ được định nghĩa
như sau: Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, tách ra khỏi thế giới
hàng hóa, được dùng làm vật ngang giá chung để đo lường và biểu
hiện giá trị của tất cả các hàng hóa khác và thực hiện trao đổi giữa
chúng.
Tiền tệ ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự phát sinh, tồn tại và
phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quá trình này chứng minh
rằng “...cùng với sự chuyển hoá chung của sản phẩm lao động thành
hàng hoá, thì hàng hoá cũng chuyển hoá thành tiền tệ”3. Tiền tệ là một
hàng hoá đặc biệt. Cũng như các hàng hoá khác, tiền tệ có hai thuộc tính:
2
C.Mác. Tư bản, Quyển 1, Tập 1, NXB Sự thật Hà nội, 1962, Tr 134
3
C.Mác. Tư bản, Quyển 1, Tập 1, NXB Sự thật Hà nội, 1962, Tr 138

33
giá trị và giá trị sử dụng. Để sáng tạo ra tiền tệ, cũng có lượng hao phí
lao động sống của những người thợ khai thác vàng, thợ đúc tiền kết tinh
trong đồng tiền vàng, và với vai trò là trung gian trong trao đổi hàng hóa,
có thể trao đổi với tất cả các hàng hóa khác thì lúc này tiền tệ có khả
năng giúp con người thỏa mãn mọi nhu cầu sử dụng . Như vậy, tiền tệ có
giá trị sử dụng đặc biệt : giá trị sử dụng xã hội. K.Mark nhận xét: “ giá trị
sử dụng của hàng hoá bắt đầu từ lúc nó rút ra khỏi lưu thông, còn giá trị
sử dụng của tiền tệ với tư cách là phương tiện lưu thông lại chính là sự
lưu thông của nó”.4
Lịch sử của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã chứng minh rằng nền
kinh tế hàng hoá là một thực thể đầy biến động. Nó tồn tại và phát triển
theo một quy luật khách quan. Bước vào thế kỷ 20, cùng với sự phong
phú của đời sống kinh tế, khi đề cập đến tiền tệ người ta không nhìn nó
một cách hạn hẹp và giản đơn rằng tiền tệ chỉ là tiền kim loại hay tiền
giấy mà đã xem xét trên giác độ rộng hơn kể cả các loại séc, số dư tiền
gửi tại ngân hàng,... nếu chúng có thể chuyển đổi dễ dàng thành tiền mặt
thì cũng có thể xem là tiền theo nghĩa rộng. Samuelson đã viết: “Bản chất
của tiền ngày nay đã được phơi bày rõ ràng, người ta muốn có tiền tệ với
danh nghĩa là tiền chứ không phải hàng hoá, không phải vì bản thân nó
mà vì những thứ mà dùng nó sẽ mua được”5... “bản chất của tiền là để
dùng làm phương tiện trao đổi”6.
Ngày nay, ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh
tế thị trường phát triển, tiền tệ không đơn thuần là phương tiện trao đổi
mà người ta còn sử dụng tiền để đầu tư, để cho vay và xem như một dạng
của cải, một đối tượng để sở hữu.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền là bất cứ thứ
gì được chấp nhận chung trong thanh toán để đổi lấy hàng hóa, dịch vụ
và thực hiện các nghĩa vụ tài chính.

4
C.Mac. Góp phần phê phán chính trị kinh tế học. NXB Sự thật Hà Nội, 1964, Trg 129
5
P.A.Samuelson - Kinh tế học I - Viện quan hệ quốc tế 1989 - Trg 332
6
P.A.Samuelson - Kinh tế học I - Viện quan hệ quốc tế 1989 - Trg 332

34
2.1.2. Các hình thái tiền tệ
Với quan điểm về tiền tệ rất rộng mở của các nhà kinh tế học hiện
đại, từ khi xuất hiện tới bây giờ, tiền tệ đã trải qua các hình thái sau đây.
2.1.2.1. Hoá tệ (commodity money)
- Hoá tệ phi kim loại
Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển, hình thái
biểu hiện của giá trị hàng hóa trong trao đổi không còn ngẫu nhiên. Phạm
vi của trao đổi đã vượt khỏi cái khung nhỏ hẹp một vài hàng hoá, giới
hạn trong một vài địa phương. Sự trao đổi ngày càng mở rộng giữa các
hàng hoá, đòi hỏi phải có một hàng hoá có tính đồng nhất, tiện dụng
trong vai trò của vật ngang giá, có thể tạo điều kiện thuận lợi trong trao
đổi và bảo tồn giá trị.
Khoảng 2000 năm trước công nguyên, vật ngang giá chung sử dụng
trong trao đổi hàng hóa thường được chọn từ một loại hàng hoá có giá trị sử
dụng cần thiết chung cho nhiều người, có thể bảo tồn lâu ngày đồng thời
mang tính chất phổ biến, đặc trưng cho địa phương, khu vực nơi diễn ra
quan hệ trao đổi. Thời cổ đại ở Trung Quốc, vật ngang giá chung rất đa dạng
từ da cừu, vỏ trai đến thóc, vải... ; ở Hy Lạp, La Mã dùng súc vật; Tây Tạng,
Mông Cổ dùng chè; Bắc Mỹ dùng thuốc lá,…. làm vật trung gian trong trao
đổi. Và ngày nay, một số bộ lạc ở Châu Phi, Châu Úc còn dùng cá khô,
thuốc lá làm vật trung gian trao đổi. Những hoá tệ dạng này có nhiều nhược
điểm gây khó khăn cho quá trình trao đổi hàng hóa. Do mỗi vùng, mỗi địa
phương chọn một hay một số loại hàng hóa làm vật ngang giá chung để trao
đổi trong phạm vi địa phương mình nên đã dẫn đến tính không đồng nhất về
hình thái và chất lượng của vật ngang giá chung. Bên cạnh đó, những vật
ngang giá chung có ý nghĩa thiết thực đối với dân cư như gia súc, lương
thực,…nhưng lại khó bảo quản trong thời gian dài; khó vận chuyển từ nơi
này đến nơi khác do tính cồng kềnh; khó phân chia hay gộp lại nên không
thuận tiện khi tham gia trao đổi với các hàng hóa có giá trị quá nhỏ hay quá
lớn so với vật ngang giá chung.
Mặt khác, theo đà phát triển của nền sản xuất, sự hình thành một thị
trường rộng lớn đã đòi hỏi vật ngang giá chung mang tính phổ biến và đồng
nhất hơn, do đó dẫn đến việc sử dụng tiền tệ kim loại.

35
- Hoá tệ kim loại
Từ thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, tiền kim loại đã bắt đầu được sử
dụng và phát triển rộng rãi trong suốt thời kỳ các triều đại phong kiến.
Kim loại được chọn làm bản vị cho chế độ tiền tệ các nước cũng được
thay thế từ những kim loại kém giá (sắt, đồng, kẽm...) đến những kim
loại có giá trị cao (bạc, vàng). Để thuận tiện hơn trong quá trình sử dụng,
một số thương nhân đã tự in đúc tiền và sau này nhà nước chính thức ban
hành tiêu chuẩn giá cả cho đồng tiền quốc gia và thống nhất kỹ thuật in –
đúc tiền để đảm bảo uy tín, tính chất pháp lý của đồng tiền, đồng thời
chứng thực quyền lực nhà nước.
Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, nền sản xuất và trao đổi hàng hoá
phát triển mạnh mẽ đòi hỏi vật trung gian trao đổi phải có giá trị cao, tồn
tại như một hình thức được nhiều người chấp nhận và phải có độ bền để
bảo tồn giá trị theo thời gian. Từ đó, vàng và bạc đã loại dần các kim loại
kém giá, dễ rỉ sét để trở thành tiền tệ phổ biến trong khoảng thế kỷ 18 và
19. Trong giai đoạn này, có những nước đã thực hiện chế độ song bản vị,
nghĩa là cùng thừa nhận vàng và bạc là tiền tệ trong lưu thông. Cho đến
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, người ta phát hiện ra nhiều mỏ bạc, năng
suất khai thác bạc tăng lên, kim loại bạc được tạo ra nhiều hơn nên giá trị
của nó đã bị suy giảm so với vàng. Khi đó, vai trò trung gian trong trao
đổi hàng hóa của bạc đã bị sụt giảm rất nhiều so với vàng và kim loại
vàng đã trở thành thước đo giá trị của bạc. Lúc này, hầu hết các nước
phương Tây đã áp dụng chế độ bản vị vàng. Mối quan hệ giao thương bị
phụ thuộc nhiều vào châu Âu nên các nước châu Á như Nhật Bản, Ấn
Độ, Trung Quốc, các nước Đông Dương,... sau đó cũng lần lượt chuyển
sang chế độ bản vị vàng. Một đặc trưng quan trọng của hóa tệ kim loại để
giúp chúng ta phân biệt với các đồng tiền kim loại khác là giá trị danh
nghĩa của hóa tệ kim loại khi xuất xưởng luôn bằng giá trị nội tại của nó.
Đồng tiền vàng đủ giá hay vàng thoi, bạc nén là minh chứng rõ nét nhất
cho đặc trưng này: Giá trị danh nghĩa ghi trên bề mặt đồng tiền phải bằng
trọng lượng đồng cân của đồng tiền đó khi xuất xưởng.
Hoá tệ kim loại có ưu điểm là tính chất đồng nhất cao về chất lượng,
giá trị ít biến đổi, dễ bảo quản, dễ vận chuyển, dễ chia nhỏ hay gộp lại...

36
và đặc biệt là khi vàng được sử dụng làm tiền tệ thì các ưu điểm trên
càng nổi trội hơn. Tuy nhiên vẫn có nhược điểm là nguồn khai thác có
hạn. Khi quy mô sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển đòi
hỏi sự gia tăng của phương tiện trao đổi thì nguồn hoá tệ kim loại
không còn đủ khả năng đáp ứng, do đó, các nước dần chuyển sang sử
dụng tín tệ.
2.1.2.2. Tín tệ
Tín tệ (còn gọi là tiền phù hiệu) là loại tiền tệ mà bản thân tự nó
không có giá trị (hoặc giá trị nội tại không đáng kể so với giá trị danh
nghĩa), song nhờ có sự tín nhiệm của mọi người mà có giá trị trao đổi và
được sử dụng trong lưu thông.
Có các dạng tín tệ cơ bản sau:
- Tín tệ kim loại
Tiền bằng kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với kim loại tiền tệ
thuộc hình thái hoá tệ. Ở hình thái này giá trị nội tại của kim loại thường
không phù hợp với giá trị danh nghĩa của nó. Ở thời kỳ đầu của tín tệ kim
loại, các kim loại có giá trị cao như vàng, bạc được sử dụng làm tín tệ
kim loại. Tuy nhiên, khi việc khai thác những kim loại này ngày càng
khó khăn, giá trị những kim loại này ngày càng cao, dẫn đến việc phát
hành và lưu hành đồng tín tệ là vàng và bạc cũng gặp phải những khó
khăn nhất định. Vì thế, cần thiết phải có một loại tiền tệ khác thay thế
cho phù hợp với yêu cầu trong trao đổi lưu thông và thanh toán hàng hóa
dịch vụ. Ngày nay, tín tệ kim loại vẫn được sử dụng trong lưu thông dưới
dạng các loại tiền đúc bằng kim loại kém giá (tiền xu của các quốc gia).
- Tiền giấy
Tiền giấy khả hoán
Tiền giấy khả hoán là loại tiền giấy được ấn định tiêu chuẩn giá cả
bằng vàng và có thể trực tiếp chuyển đổi ra vàng theo hàm lượng Nhà
nước đã công bố.Tiền giấy khả hoán được lưu hành trong chế độ bản vị
vàng hối đoái, khi số lượng tiền đúc bằng vàng trong lưu thông không đủ
để làm phương tiện trao đổi, Nhà nước phát hành tiền giấy vào lưu thông

37
và công bố hàm kim lượng của đồng tiền. Tiền giấy khả hoán là 1 mảnh
giấy được in thành tiền để lưu hành, thay thế cho tiền bằng vàng hay tiền
bằng bạc mà người ta kí gửi ở ngân hàng. Người có loại tiền giấy này có
thể đến ngân hàng để đổi lấy 1 số lượng vàng hay một số lượng bạc
tương đương với giá trị ghi trên tờ giấy được sử dụng làm tiền vào bất cứ
lúc nào mà họ cần.
Như vậy, bất cứ lúc nào mọi người cũng có thể đem tiền giấy khả
hoán đó đổi lấy vàng hay bạc có giá trị tương đương với giá trị được ghi
trên tiền giấy khả hoán đó. Ở Trung Hoa từ đời Tống đã xuất hiện tiền
giấy. Vì những nhu cầu mua bán, các thương gia hình thành từng thương
hội có nhiều chi nhánh ở khắp các thị trấn lớn. Các thương gia ký thác
vàng hay bạc vào hội sở của thương hội rồi nhận giấy chứng nhận của
hội sở thương hội, với giấy chứng nhận này các thương gia có thể mua
hàng ở các thị trấn khác nhau có chi nhánh của thương hội, ngoài loại
giấy chứng nhận trên triều đình nhà Tống còn phát hành tiền giấy và
được dân chúng chấp nhận.
Ở Việt Nam vào cuối đời Trần, Hồ Quý Ly đã thí nghiệm cho phát
hành tiền giấy. Nhân dân ai cũng phải nộp tiền kim loại (vàng nén hoặc
bạc nén) vào cho Nhà nước, cứ 1 quan tiền kim loại đổi được 2 quan tiền
giấy, việc sử dụng tiền giấy của Hồ Quý Ly thất bại vì nhà Hồ sớm bị lật
đổ, dân chưa quen sử dụng tiền giấy và sai lầm khi xác định quan hệ giữa
tiền kim loại và tiền giấy (bao hàm ý nghĩa tiền giấy có giá trị thấp hơn).
Nguồn gốc của tiền giấy chỉ có thể được hiểu rõ khi xem xét lịch sử
tiền tệ các nước Châu Âu. Từ đầu thế kỷ thứ XVII, ở Hà Lan ngân hàng
Amsterdam đã cung cấp cho những thân chủ gửi vàng vào ngân hàng
những giấy chứng nhận bao gồm nhiều tờ nhỏ. Khi cần, có thể đem
những tờ nhỏ này đổi lấy vàng hay bạc tại ngân hàng. Trong thanh toán
cho người khác các giấy nhỏ này cũng được chấp nhận. Sau đó một ngân
hàng Thụy Điển tên Palmstruch đã mạnh dạn phát hành tiền giấy để cho
vay. Từ đó ngân hàng Palmstruch có khả năng cho vay nhiều hơn vốn tự
có. Với nhiều loại tiền giấy được phát hành, lưu thông tiền tệ bị rối loạn
vì nhiều nhà ngân hàng lạm dụng gây nhiều thiệt hại cho dân chúng. Do

38
đó, vua chúa các nước phải can thiệp vì cho rằng việc đúc tiền từ xưa là
vương quyền và mặt khác việc phát hành tiền giấy là một nguồn lợi to
lớn. Vương quyền các nước Châu Âu thừa nhận một ngân hàng tự có
quyền phát hành tiền giấy với những điều kiện nhất định:
+ Điều kiện khả hoán: Có thể đổi lấy bất cứ lúc nào tại ngân hàng
phát hành
+ Điều kiện dự trữ vàng làm đảm bảo: Ban đầu là 100% sau còn 40%
+ Điều kiện phải cho Nhà nước vay không tính lãi khi cần thiết.
Tiền giấy bất khả hoán
Tiền giấy bất khả hoán (tiền phù hiệu) là tiền giấy được ấn định tiêu
chuẩn giá cả bằng pháp luật, bắt buộc lưu hành và không thể trực tiếp
chuyển đổi ra vàng theo tiêu chuẩn Nhà nước quy định.
Sự xuất hiện của tiền giấy bất khả hoán trong lịch sử đã được đánh
dấu bởi hai mốc thời gian quan trọng là Đại chiến thế giới lần thứ nhất và
khủng hoảng kinh tế thế giới 1929. Thế chiến thứ nhất đã làm cho các
quốc gia tham chiến không còn đủ vàng để đổi cho dân chúng. Nước Anh
từ năm 1931 đã cưỡng chế lưu hành tiền giấy bất khả hoán, nước Pháp
năm 1936. Năm 1929, khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn đến ở nước Đức
mọi người đua nhau rút tiền, do đó Ngân hàng Trung ương Đức đã phải
dùng vàng trả nợ nước ngoài và do đó số trữ kim gần như không còn.
Tiến sĩ Schacht (1933 – 1936) đã áp dụng chính sách tiền tài trợ bằng
cách phát hành trái phiếu, để tài trợ sản xuất và những chương trình kinh
tế, xã hội lớn. Biện pháp này làm giảm 50% thất nghiệp, sản xuất tăng
41% (1934). Từ đó, nhiều nhà kinh tế cho rằng giá trị tiền tệ không phải
dựa vào dự trữ vàng như các quan điểm trước đây.
Ngày nay các nước đều áp dụng chế độ lưu thông tiền giấy. Tiền
giấy do ngân hàng trung ương thống nhất phát hành là đồng tiền hợp
pháp được lưu hành với giá trị bắt buộc và nhà nước không thực hiện
chuyển đổi tiền giấy ra vàng. Tuy nhiên, vàng vẫn được thừa nhận là một
trong những cơ sở đảm bảo của giấy bạc lưu hành cũng như là một tiêu
chuẩn để xác định tính chất mạnh, yếu của các loại tiền giấy trên thị

39
trường quốc tế. Tiền giấy được sử dụng làm phương tiện trao đổi ngày
càng phổ biến vì những tiện lợi như dễ mang theo trong người, dễ cất
giữ. Mặt khác, việc in tiền với nhiều mệnh giá khác nhau có thể đáp ứng
cho nhu cầu trao đổi chi ly và chính xác. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu
điểm trên, việc lưu hành tiền giấy cũng bộc lộ những nhược điểm, đó là
dễ bị làm giả, chi phí lưu thông cao vì dễ bị rách nát sau một thời gian sử
dụng và tiền giấy có thể gây ra hiện tượng lạm phát nếu phát hành một
khối lượng tiền giấy quá lớn so với nhu cầu về tiền của nền kinh tế.
- Bút tệ (bank money)
Bút tệ hay còn gọi là tiền ghi sổ chỉ được tạo ra thông qua hoạt động
của hệ thống ngân hàng, bút tệ không có hình thái vật chất và chỉ là
những con số thể hiện số dư trên tài khoản ngân hàng. Cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của ngân hàng, quá trình thanh toán ngày nay được tập
trung đại bộ phận qua ngân hàng thông qua các bút toán chuyển khoản
hoặc thanh toán bù trừ trên tài khoản ký thác. Sự ra đời của tiền ghi sổ
cùng với các chứng từ thanh toán như séc, giấy chuyển ngân, giấy nhờ
thu... đã làm đa dạng các phương tiện thanh toán bên cạnh hình thức
thanh toán bằng tiền mặt, đồng thời còn tạo điều kiện giảm bớt những chi
phí lưu hành tiền giấy như in ấn, bảo quản, kiểm điểm, vận chuyển. Vì
vậy, việc sử dụng tiền ghi sổ được coi là xu hướng phát triển tất yếu của
nền kinh tế phát triển. Bút tệ có những ưu điểm hơn hẳn tiền giấy, có thể
kể đến như: Sử dụng bút tệ an toàn hơn do tránh được rủi ro mất mát; quá
trình sử dụng bút tệ để giao dịch qua hệ thống ngân hàng thuận tiện, tiết
kiệm chi phí và thời gian giao dịch so với việc giao dịch bằng tiền mặt;
việc chuyển đổi bút tệ sang tiền mặt được thực hiện một cách nhanh
chóng, dễ dàng. Bên cạnh những ưu thế trên, bút tệ cũng có những hạn
chế nhất định. Khi sử dụng bút tệ trong thanh toán thì người sử dụng phải
chịu phí giao dịch, mức phí này do các tổ chức tín dụng ấn định, thường
là ở một mức tối thiểu và một tỉ lệ % so với tổng số tiền giao dịch. Chính
vì thế, khi giao dịch bút tệ với quy mô nhỏ lẻ thì người sử dụng có thể
phải gánh chịu cho phí giao dịch cao. Ngoài ra, muốn sử dụng được loại
tiền này, đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải được đầu tư đầy đủ về mặt cơ
sở vật chất kỹ thuật và phải tuân thủ những quy trình thủ tục nhất định.

40
- Tiền điện tử (electronic money)
Tiền điện tử là hình thức phát triển cao của tiền ghi sổ (bút tệ) được
sử dụng qua hệ thống thanh toán tự động hay còn gọi là máy trả tiền tự
động - ATM (Automated teller machine). Đây là một hệ thống máy tính
điện tử nối mạng với hệ thống ngân hàng trung gian và kho chứa tiền mặt
cũng như hệ thống thanh toán phục vụ cho việc thanh toán, chi trả của
các chủ thể trong xã hội. Tiền điện tử tồn tại và được sử dụng thông qua
các công cụ là các loại thẻ thanh toán như: thẻ tín dụng (Credit cards),
thẻ ghi nợ (Debit cards),…
Tóm lại: Lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ luôn mang dấu ấn
của nền văn minh nhân loại. Điều này đã được minh chứng qua quá trình
phát triển các hình thức tiền tệ, từ hình thức sơ khai ban đầu là hoá tệ
không kim loại cho đến tiền điện tử ngày nay. Ngoài ra, tiến trình phát
triển này còn biểu hiện cho sự chuyển biến sâu sắc về quan niệm tiền tệ
của những người sở hữu nó, đó là từ quan niệm tiền tệ không chỉ là
phương tiện trao đổi mà còn phải được thừa nhận là biểu trưng của cải xã
hội (hoá tệ, kim tệ) đến phi vật chất hoá tiền tệ (bút tệ, tiền giấy, tiền điện
tử) đã ngày càng được xem là nét đặc trưng cơ bản của quan niệm tiền tệ
hiện tại.

2.2. CHøC N¡NG Vµ VAI TRß CñA TIÒN TÖ


2.2.1. Chức năng của tiền tệ
Nếu trong thời kỳ sơ khai của nền kinh tế hàng hoá người ta chỉ sử
dụng tiền tệ như một công cụ trao đổi thì cùng với sự phát triển của sản
xuất và lưu thông hàng hoá tiền tệ đã thể hiện ngày càng đa dạng hơn các
chức năng vốn có của mình.
Trong học thuyết của K.Marx, ông cho rằng vàng trong vai trò là vật
ngang giá chung có thể thực hiện 5 chức năng:
 Chức năng thước đo giá trị
 Chức năng phương tiện lưu thông
 Chức năng phương tiện thanh toán

41
 Chức năng phương tiện cất trữ giá trị
 Chức năng tiền tệ thế giới
Ngày nay, chế độ lưu thông tiền kim loại đã nhường chỗ cho chế độ
lưu thông tiền phù hiệu không chuyển đổi ra vàng đang được các nước áp
dụng. Mặc dù vàng vẫn được thừa nhận là thước đo giá trị, phương tiện
cất giữ và tiền tệ thế giới nhưng người ta đã hạn chế sử dụng vàng trực
tiếp làm phương tiện trao đổi ở phạm vi lưu thông hàng hoá trong nước
cũng như mậu dịch quốc tế. Do đó, với sự đa dạng về các hình thức tiền
tệ được sử dụng trong điều kiện kinh tế hiện nay, các nhà kinh tế đã xem
xét các chức năng của tiền tệ ở một giác độ tổng quát hơn.
* Chức năng thước đo giá trị
Tiền tệ thực hiện chức năng thước đo giá trị khi nó đo lường và biểu
hiện giá trị của các hàng hoá khác và chuyển giá trị của hàng hoá thành
giá cả hàng hoá.
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, giá trị của tiền được coi là
“chuẩn mực” để giá trị của tất cả các hàng hoá khác phải so sánh với nó.
Như vậy, thông qua quan hệ này các hàng hoá biểu hiện giá trị của mình
thành những lượng có cùng tên giống nhau về chất và có thể so sánh
được với nhau về lượng, đó là giá cả.
Thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ trở thành một “tiêu
chuẩn” để đo lường hao phí lao động xã hội kết tinh trong các hàng hoá.
Đây là chức năng cơ bản nhất của tiền tệ. Để thực hiện chức năng này,
tiền phải có những điều kiện sau:
- Tiền phải có đầy đủ giá trị. Khi tiền được sử dụng làm thước đo giá
trị của các hàng hóa khác thì bản thân đồng tiền đó phải mang giá trị đầy
đủ để có thể lấy giá trị của tiền so sánh với giá trị của các hàng hóa còn
lại. Đồng tiền vàng đủ giá hay hóa tệ kim loại là những loại tiền mang
giá trị đầy đủ nhất bởi giá trị của chúng được phản ánh bằng chính giá
trị nội tại của những đồng tiền đó. Còn đối với tiền phù hiệu, tính chất
“đầy đủ giá trị” được thể hiện thông qua giá trị của tiền được bảo trợ
bởi Nhà nước.

42
- Tiền phải có tiêu chuẩn giá cả : còn gọi là hàm kim lượng của đồng
tiền
Theo nguyên lý chung, hệ thống thước đo giá trị của mỗi quốc gia
bao gồm:
- Tiền đơn vị (gắn với tên gọi của đồng tiền)
- Tiền ước số (phần chia nhỏ hay phần thập phân của tiền đơn vị)
- Tiền bội số (bội số của tiền đơn vị)
Tất cả những điểm này đều phải được quy định bởi pháp luật của
Nhà nước.
Với chức năng này, tiền tệ đã trở thành thước đo chung để biểu thị
và so sánh giá cả của tất cả các hàng hoá , từ đó làm cho đời sống kinh tế
được đơn giản hoá rất nhiều. Bởi lẽ, trong nền kinh tế phát triển với sự
tham gia của hàng nghìn mặt hàng trên thị trường nếu không có một đơn
vị thanh toán chung người ta sẽ tốn nhiều thời gian để xác định những
quan hệ tỷ lệ giữa các hàng hoá với nhau khi muốn thực hiện trao đổi.
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị không nhất thiết phải xuất
hiện một lượng tiền thực chất, bởi vì việc đo lường giá trị hàng hoá chỉ
thực hiện trong tư duy, trong ý niệm. Trong lịch sử lưu thông tiền tệ, tiền
vàng là thước đo chuẩn mực nhất thông qua sự so sánh trực tiếp giữa giá
trị hàng hoá và vàng. Như vậy, “phép đo” giá trị vẫn được thực hiện mà
không cần sự hiện diện của thước đo. Đó là cơ sở dẫn đến hiện tượng
“phi vật chất” của chức năng thước đo giá trị. Về điểm này K.Mark viết:
“Giá cả , hay hình thái tiền của các hàng hoá, cũng như hình thái giá trị
của chúng nói chung, là một cái gì khác với hình thái vật chất có thể cảm
nhận bằng các giác quan. Do đó chỉ là một hình thái trên ý niệm, chỉ tồn
tại trong quan niệm mà thôi”7
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã chuyển giá trị
hàng hoá thành giá cả hàng hoá, cho thấy mối tương quan giữa giá trị
tiền tệ, giữa giá trị hàng hoá và giá cả hàng hoá. Thực chất giá cả hàng

7
C.Mác. Tư bản, Quyển 1, Tập 1, NXB Sự thật Hà Nội, 1962, Tr 142

43
hoá là tỷ lệ so sánh giữa giá trị của nó với giá trị của tiền tệ. Chính vì thế
mà giá cả của hàng hoá tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hoá và tỷ lệ
nghịch với giá trị tiền tệ. Mặt khác cho thấy tác dụng to lớn của tiền tệ
trong chức năng thước đo giá trị đối với nền sản xuất hàng hoá, biểu hiện
việc thực hiện quy luật giá trị - quy luật phổ biến của nền sản xuất hàng
hoá. Việc chuyển giá trị hàng hoá thành giá cả là điều kiện vô cùng quan
trọng và tiên quyết để đưa hàng hoá vào quá trình lưu thông.
Trong nền kinh tế thị trường vận dụng chức năng này của tiền tệ đã
giúp cho các doanh nghiệp có thể hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất,
tính giá thành sản phẩm và qua đó đánh giá hiệu quả kinh doanh để chọn
hướng đầu tư thích hợp. Hơn nữa, ở tầm vĩ mô trong hệ thống kế toán
quốc gia, đồng tiền với chức năng thước đo giá trị đã được vận dụng để
tính toán tổng mức GDP, GNP trong từng thời kỳ. Từ đó, ngoài việc
phục vụ cho quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân, tiền còn giúp
chúng ta đánh giá hiệu quả nền kinh tế để có biện pháp tận dụng những
nguồn tài nguyên quốc gia phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Mỗi quốc gia có thước đo giá trị riêng. Cơ sở để xác lập thước đo giá
trị ở mỗi quốc gia là năng suất lao động và trình độ phát triển của nền
kinh tế ở quốc gia đó.
* Chức năng phương tiện trao đổi và thanh toán
Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi và thanh toán khi
nó xuất hiện trong lưu thông với tư cách làm môi giới trung gian cho quá
trình trao đổi hàng hoá và là phương tiện để thực hiện quan hệ thanh toán
các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính.
Sự tham gia của tiền tệ vào quá trình trao đổi hàng hoá đã cho phép
thay thế phương thức trao đổi hiện vật trực tiếp (H-H’) bằng phương thức
trao đổi gián tiếp thông qua tiền (H-T-H’). Khi tiền thực hiện chức năng
này, quá trình trao đổi hàng hoá được tách thành hai giai đoạn riêng biệt
là bán và mua. Hai giai đoạn này có thể được thực hiện hoàn toàn độc lập
nhau, tách rời nhau về không gian và thời gian. Trên thực tế, việc trao đổi
hàng hóa không nhất thiết phải có sự xuất hiện của tiền tệ. Ban đầu, việc
trao đổi hàng hóa thường phải có sự xuất hiện của tiền tệ, khi đó tiền tệ

44
khi thực hiện chức năng phương tiện trao đổi hay đóng vai trò là vật môi
giới cho quá trình trao đổi hàng hóa. Lúc này, tiền tệ luôn vận động song
hành với hàng hóa. Tuy nhiên, khi nền kinh tế - xã hội càng phát triển,
nhu cầu trao đổi hàng hóa ngày càng mở rộng, nhưng không phải lúc nào
các chủ thể tham gia vào quan hệ trao đổi cũng có đủ lượng tiền cần
thiết. Chính vì vậy, đã nẩy sinh hiện tượng mua bán chịu hàng hóa, từ đó,
để thực hiện việc trả nợ, người ta đã sử dụng tiền làm phương tiện thanh
toán. Nói cách khác, tiền tệ đã thực hiện chức năng phương tiện thanh
toán, lúc này, người ta nói tiền tệ vận động độc lập tương đối về mặt giá
trị so với hàng hóa. Bên cạnh đó, tiền tệ còn được sử dụng làm phương
tiện chi trả và thanh toán các nghĩa vụ tài chính như là trả lương, trả
thưởng cho người lao động và nộp thuế vào NSNN, nộp bảo hiểm,…
Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông và thanh toán, tiền
tệ phải có đủ những điều kiện sau đây:
- Phải có sức mua ổn định hoặc không suy giảm quá nhiều trong 1
khoảng thời gian nhất định
- Số lượng tiền tệ phải được cung ứng đầy đủ cho nhu cầu lưu thông
hàng hóa trong nền kinh tế.
Chức năng phương tiện lưu thông và thanh toán mang ý nghĩa vô
cùng lớn đối với sự phát triển nền kinh tế - xã hội:
- Thúc đẩy hiệu quả của nền kinh tế qua việc giảm bớt thời gian và
chi phí phải gánh chịu khi trao đổi hàng hóa dịch vụ và thúc đẩy quá
trình chuyên môn hóa.
- Tiết kiệm chi phí lưu thông xã hội.
- Tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng và các phương tiện thanh
toán không dùng tiền mặt phát triển.
Chức năng phương tiện lưu thông và thanh toán có tác dụng to lớn
và rõ rệt không chỉ đối với quá trình trao đổi thanh toán hàng hoá dịch vụ
và các nghĩa vụ tài chính nói riêng mà còn đối với nền kinh tế hàng hoá
nói chung, nhưng nó cũng có thể tạo nên mầm mống của những cuộc
khủng hoảng kinh tế.

45
* Chức năng phương tiện cất trữ/ tích lũy giá trị
Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện cất trữ giá trị khi nó tạm
thời rút khỏi lưu thông tồn tại dưới dạng giá trị dự trữ để đáp ứng cho
nhu cầu mua sắm chi trả trong tương lai.
Dự trữ giá trị là tích luỹ một lượng giá trị nào đó bằng những
phương tiện chuyển tải giá trị được xã hội thừa nhận, với mục đích để
chuyển hoá thành hàng hoá hoặc dịch vụ trong tương lai. Sở dĩ tiền thực
hiện được chức năng phương tiện cất trữ giá trị bởi vì nó là hiện thân của
của cải xã hội và nó có thể trực tiếp chuyển hoá thành hàng hoá. Để thực
hiện chức năng phương tiện cất trữ, tiền tệ phải thỏa mãn các điều kiện
sau đây:
- Tiền phải có giá trị nội tại (tiền đủ giá) hoặc phải có sức mua ổn
định, lâu dài.
- Giá trị dự trữ phải được thể hiện bằng những phương tiện hiện thực
và được xã hội thừa nhận. Hay nói cách khác, phải thể hiện bằng tiền mặt
hoặc các phương tiện chuyển tải giá trị khác.
Khi thực hiện chức năng phương tiện cất trữ, tiền ở trạng thái không
vận động, không phục vụ cho quá trình lưu thông hàng hoá, như vậy đối
lập với tính chất của tiền trong chức năng phương tiện lưu thông. Trong
điều kiện lưu thông tiền vàng hay bản vị vàng, việc thực hiện chức năng
cất trữ của tiền đã có tác dụng điều hoà khối lượng tiền trong nền kinh tế,
đáp ứng nhu cầu của lưu thông hàng hoá.
Chức năng phương tiện cất trữ của tiền đã cho phép người sở hữu nó
dự trữ một sức mua cho các giao dịch trong tương lai. Trong điều kiện
nền kinh tế phát triển, khi các doanh nghiệp muốn đầu tư mở rộng sản
xuất, khi các tầng lớp dân cư có nhu cầu mua sắm những vật phẩm có giá
trị cao để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, người ta thường cất trữ dưới dạng
tiền giấy hoặc số dư tiền gửi trên tài khoản ký thác tại ngân hàng.
Ngày nay, khi nền kinh tế phải đối diện với tình trạng lạm phát người
ta tích luỹ tiền vàng như một hình thức bảo tồn tài sản của mình. Bên cạnh
đó, các tài sản có xu hướng gia tăng giá trị như bất động sản, chứng khoán,

46
tài sản tài chính,... cũng được sử dụng làm phương tiện cất trữ giá trị, tuy
nhiên điểm khác biệt là tiền dự trữ thì có khả năng được sử dụng ngay khi
cần còn các dạng dự trữ tài sản khác đòi hỏi thời gian và chi phí giao dịch
khi cần chuyển sang tiền để sử dụng.
2.2.2. Vai trò của tiền tệ
Lịch sử phát sinh và phát triển của tiền tệ đã chứng minh rằng: tiền
tệ không phải đơn thuần chỉ là một vật trung gian trong trao đổi hàng
hoá, biểu thị quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa mà nó
còn biểu hiện những quan hệ xã hội khác. Ngày nay những quan điểm và
định nghĩa về tiền đã được mở rộng và có sự thay đổi so với trước đây.
Tuy vậy, tiền tệ vẫn khẳng định vai trò của mình đặc biệt trong điều kiện
kinh tế thị trường. Vai trò đó được thể hiện ở các mặt sau:
2.1.2.1. Tiền tệ là phương tiện để mở rộng và phát triển sản xuất và
trao đổi hàng hoá
Khi nghiên cứu quá trình ra đời của tiền tệ, chúng ta đã khẳng định
tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất và trao đổi hàng hóa. Song
rõ ràng, khi tiền tệ ra đời, tiền tệ lại trở thành một tác nhân tích cực đối
với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Tiền tệ là công cụ
thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hoá (trong nước và ngoài nước) phát
triển lên ở mức cao hơn vì những lí do sau:
- Nhờ có chức năng thước đo giá trị, giá trị của hàng hoá được biểu
hiện một cách đơn giản. Nghĩa là, giá trị của các hàng hoá đều được biểu
hiện bằng tiền, do đó chúng có thể so sánh dễ dàng với nhau. Trên cơ sở
này, người lao động có thể so sánh được với nhau về mức độ và trình độ
lao động mình đã bỏ ra cho xã hội trong một đơn vị thời gian.
- Nhờ chức năng phương tiện thanh toán, đã làm cho sự trao đổi
hàng hoá không bị ràng buộc về không gian và thời gian, làm cho hàng
hoá đi từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng một cách trôi chảy hơn.
- Nhờ chức năng phương tiện cất trữ của tiền tệ, việc hạch toán và
tính toán hiệu quả kinh doanh trở nên thuận tiện và đầy đủ; quá trình tích
luỹ tiền tệ được thực hiện để mở rộng qui mô sản xuất và kinh doanh.

47
2.1.2.2. Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ
hợp tác quốc tế
Trong điều kiện nền KTTT, tiền tệ không chỉ là phương tiện để mở
rộng và phát triển quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa ở trong và
ngoài nước mà nó còn là phương tiện quan trọng để thực hiện và mở
rộng các quan hệ hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác như chính trị,
văn hóa, xã hội,… Nhờ có tiền, mối quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia
trên thế giới sẽ được hình thành và phát triển, làm cho xu thế hòa nhập
trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ ngân hàng, hợp tác
khoa học kỹ thuật,… giữa các nước ngày càng sâu rộng.
2.1.2.3. Tiền tệ là phương tiện phục vụ mục đích của người sở hữu
chúng
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hầu như mọi quan hệ kinh tế - xã
hội đều bị tiền tệ hoá, mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan… đều không thể
thoát ly khỏi các quan hệ tiền tệ. Trong điều kiện đó, tiền tệ trở thành
công cụ để xử lí mọi ràng buộc phát sinh trong nền kinh tế - xã hội (trong
và ngoài nước), đồng thời tất cả các hành vi kinh tế trong nền kinh tế
hiện nay đều hướng đến 1 mục đích duy nhất , đó chính là lợi nhuận (là
tiền). Bên cạnh đó, thực tế đã chứng minh, tiền tệ là công cụ hữu hiệu
giúp các chủ thể trong nền kinh tế - xã hội đạt được các mục đích khác
nhau. Từ các cá nhân, đến các tổ chức, để tồn tại, hoạt động và phát triển,
đều cần có nguồn lực vật chất thể hiện dưới nhiều hình thái khác nhau,
và tất cả các mục đích đó đều có thể được thỏa mãn thông qua việc dùng
tiền để mua sắm. Thậm chí, ngay cả Chính phủ, để thực hiện được các
chức năng và nhiệm vụ của mình, để khuếch trương quyền lực chính trị
của mình và tạo uy tín trong lòng dân chúng, Chính phủ cũng luôn cần
đến tiền như là một phương tiện hữu ích nhất, và có thể giúp người sử
dụng tiền thỏa mãn đa dạng các mục đích nhất.

2.3. C¸C CHÕ §é L¦U TH¤NG TIÒN TÖ


2.3.1. Khái niệm và các yếu tố cơ bản cấu thành chế độ lưu
thông tiền tệ
Chế độ lưu thông tiền tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của 1
quốc gia hay nhóm quốc gia được quy định thành luật pháp, trong đó

48
các yếu tố hợp thành của lưu thông tiền tệ được kết hợp thành 1 hệ thống
thống nhất.
Hiểu theo cách khác, chế độ lưu thông tiền tệ là tập hợp có hệ thống
các đạo luật, quy định và những văn bản của quốc gia hay tổ chức quốc
tế về quản lý và lưu thông tiền trong phạm vi không gian và thời gian
nhất định.
Tiền là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa, còn chế độ lưu
thông là sản phẩm của pháp quyền. Tuy nhiên, chế độ lưu thông tiền tệ ra
đời không đơn thuần do các yếu tố luật pháp, hay xuất phát từ ý thức chủ
quan của cơ quan nhà nước mà phải bắt nguồn từ sự tồn tại của các quan
hệ kinh tế.
Sự phát triển của chế độ lưu thông tiền tệ không chỉ phụ thuộc vào
mức độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà còn bị chi phối bởi trình
độ tổ chức quản lý của Nhà nước. Chế độ lưu thông tiền của mỗi quốc
gia sẽ được hoàn thiện dần để phù hợp với sự phát triển kinh tế trong
nước và giao lưu quốc tế. Bất kỳ đồng tiền của một quốc gia hay của liên
minh một số quốc gia và tất cả đồng tiền xuất hiện dưới dạng tiền mặt
hay bút tệ đều được điều chỉnh bởi chế độ lưu thông tiền tệ.
Khi xây dựng chế độ lưu thông tiền tệ, cần phải chú ý các yếu tố cấu
thành cơ bản là bản vị tiền, đơn vị tiền và các chế độ về đúc tiền và lưu
thông tiền.
- Bản vị tiền: Là cơ sở để xác định giá trị của đồng tiền. Căn cứ vào
nguồn gốc phát sinh và phát triển của tiền, bản vị tiền là kim loại được sử
dụng làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông thống nhất của quốc
gia. Dưới chế độ nô lệ và phong kiến bản vị tiền là kẽm và đồng. Dưới
thời Chủ nghĩa Tư bản, bản vị tiền là bạc sau đó là vàng. Tuy nhiên, do
sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của tiền phù hiệu và các quốc gia không
thể duy trì được chế độ kim bản vị nên ngày nay các nước đã không còn
sử dụng vàng làm bản vị tiền, trong lưu thông, người ta đánh giá giá trị
của tiền qua lượng hàng hóa mà đồng tiền đó mua được, gọi là sức mua
của đồng tiền. Cơ sở xác định và đảm bảo giá trị của đồng tiền trong
trường hợp này được gọi là bản vị hàng hóa.

49
- Đơn vị tiền tệ: Bao gồm tên gọi của đồng tiền và qui định tiêu
chuẩn giá cả của đồng tiền. Đồng tiền của mỗi quốc gia sẽ có tên gọi
khác nhau. Còn tiêu chuẩn giá cả là trọng lượng kim loại được qui định
cho mỗi đơn vị tiền tệ (tiêu chuẩn này sẽ thay đổi tuỳ vào điều kiện kinh
tế khách quan trong từng thời kỳ của từng nước). Ví dụ: Đồng USD:
Trước năm 1930, tiêu chuẩn giá cả 1 USD = 1,540 gr vàng. Sau 1945,
tiêu chuẩn này là 0,888671 gr vàng.
Nếu nhân tố bản vị tiền tệ được qui định tương đối thống nhất giữa
các quốc gia thì nhân tố đơn vị tiền tệ lại tuỳ thuộc đặc điểm riêng biệt ở
mỗi quốc gia. Ngày nay, hầu hết các nước đều lưu hành tiền giấy nên
việc quy định tiêu chuẩn giá cả của đồng tiền không còn ý nghĩa. Trong
lưu thông, người ta không quan tâm đến tiêu chuẩn giá cả của đồng tiền
mà họ chỉ quan tâm đến sức mua của đồng tiền.
- Qui định chế độ đúc tiền và lưu thông tiền đúc: Mỗi nước có luật
đúc tiền riêng liên quan đến các vấn đề về: khuôn mẫu, hình dáng của
đồng tiền, cách thức phát hành. Yếu tố này là hết sức quan trọng đối với
các nước đang trong giai đoạn còn áp dụng chế độ lưu thông tiền kim loại.
- Qui định chế độ lưu thông các dấu hiệu giá trị: Khi Chủ nghĩa Tư
bản ra đời, nhịp độ phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá đã làm tăng
nhu cầu về phương tiện thanh toán, trong khi đó tốc độ khai thác kim loại
quí không đủ khả năng đáp ứng. Do đó, trong giao dịch, bên cạnh tiền
kim loại, người ta còn sử dụng các loại dấu hiệu giá trị như tiền giấy, kỳ
phiếu thương mại, kỳ phiếu ngân hàng, séc,… Tuỳ theo pháp luật mỗi
nước mà việc phát hành các loại dấu hiệu giá trị trên sẽ có qui định riêng
về cơ sở đảm bảo nhằm mục đích kiểm soát khối lượng phát hành và đảm
bảo lưu thông tiền tệ không bị rối loạn.

2.3.2. Các chế độ lưu thông tiền tệ


Trải qua thời gian dài tồn tại và phát triển, có hai chế độ lưu thông
tiền tệ cùng với các mức độ phát triển khác nhau của tiền tệ trong hai chế
độ đó.

50
a. Chế độ lưu thông tiền kim loại
Chế độ lưu thông tiền kim loại bao gồm các hình thức sau:
* Lưu thông tiền kém giá: Là chế độ lưu thông tiền mà ở đó các kim
loại kém giá giữ vị trí chủ yếu trong quá trình lưu thông tiền tệ. Tiền đúc
từ kim loại đồng và kẽm được sử dụng phổ biến trong chế độ chiếm hữu
nô lệ và chế độ phong kiến. Việc đúc tiền do người đứng đầu Nhà nước
độc quyền thực hiện song vẫn có hiện tượng phân tán quyền đúc tiền bởi
tính cát cứ địa phương. Điều này đã dẫn đến hiện tượng có nhiều loại tiền
cùng xuất hiện trong một quốc gia.
* Lưu thông tiền đủ giá: Là chế độ lưu thông tiền mà giá trị nội tại
của đồng tiền phù hợp với giá trị danh nghĩa. Chế độ lưu thông tiền tệ
này xuất hiện và tồn tại trong giai đoạn đầu của kinh tế thị trường phát
triển. Gồm các thời kỳ:
- Chế độ bản vị bạc: Là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó bạc được
sử dụng làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông. Nửa cuối thế kỷ
XIX, ở các nước Nga, Ấn độ, Hà Lan, Nhật Bản, … bạc đã được sử dụng
phổ biến như là tiền trong lưu thông. Đến cuối thế kỷ này, hàng loạt mỏ
bạc được phát hiện ở Mexico đã làm cho giá trị của bạc giảm xuống đáng
kể nên ở một số quốc gia, bạc đã không còn thích hợp với vai trò là tiền
tệ nữa.
- Chế độ song bản vị: Trong chế độ này, bạc và vàng đều được sử
dụng làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông. Trong lưu thông tiền
tệ, hai thứ kim loại này có quyền lực ngang nhau và đều được thanh toán
không hạn chế theo giá trị của chúng. Thực chất, đây là chế độ lưu thông
tiền chuyển tiếp từ bản vị bạc sang bản vị vàng.
Do bạc khai thác được nhiều nên giá trị của nó ngày càng giảm, còn
giá trị của vàng ngày càng tăng do số lượng của nó không thay đổi hoặc
thay đổi rất ít. Lúc này, vàng là thước đo giá trị của bạc, còn bạc là thước
đo giá trị của các hàng hoá khác, đây là chế độ song bản vị thả nổi. Để
đảm bảo quá trình lưu thông tiền tệ, Nhà nước phải qui định chế độ tỷ giá.
Từ đó, có hiện tượng đổi từ bạc sang vàng theo tỷ giá qui định dẫn đến
hiện tượng đồng tiền xấu đuổi đồng tiền tốt ra khỏi lưu thông, nói cách
khác dân chúng có xu hướng mua vàng cất trữ vì nó có giá trị hơn bạc.

51
- Chế độ bản vị vàng: Là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó vàng
được sử dụng làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông. Chế độ này
có các đặc điểm sau:
+ Được tự do đúc tiền vàng: Nhà nước chỉ qui định hàm lượng, tiêu
chuẩn, còn việc đúc từ vàng thoi, vàng khối thành tiền hoặc ngược lại thì
Nhà nước không quy định. Mọi người dân nếu có vàng thoi, vàng khối
đều có thể đúc thành tiền vàng phục vụ tiêu dùng và cất trữ.
+ Tự do lưu thông tiền vàng: Tiền vàng được sử dụng thanh toán
không hạn chế. Tiền vàng bị hao mòn trong lưu thông, tiền kim loại kém
giá và giấy bạc ngân hàng đều có thể tự do được đổi lấy tiền vàng mới
theo giá trị danh nghĩa của chúng.
+ Vàng được tự do luân chuyển giữa các quốc gia: Vàng được sử
dụng thanh toán không hạn chế đối với hoạt động xuất nhập khẩu giữa
các quốc gia, đồng thời không bị cản trở bởi quy định của Nhà nước.
+ Lưu thông tiền vàng dưới chế độ này là lưu thông tiền đủ giá nên
không bị lạm phát.
Tuy nhiên, chế độ lưu thông vàng cũng bộc lộ những nhược điểm là:
+ Gây ra sự lãng phí của cải của xã hội: Trong lưu thông, kim loại
vàng dễ bị hao mòn bởi nhiều yếu tố, dẫn đến lãng phí của cải xã hội.
+ Không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán: Do vàng là kim loại quý
hiếm, có trữ lượng hạn chế nên khi sản xuất và trao đổi hàng hóa càng
phát triển, nhu cầu sử dụng tiền ngày càng nhiều, nền kinh tế sẽ không đủ
phương tiện lưu thông và thanh toán.
b. Chế độ lưu thông tiền phù hiệu (dấu hiệu) giá trị
Khi nghiên cứu chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện
thanh toán của tiền tệ, người ta thấy rằng tiền tệ chỉ là vật trung gian chốc
lát trong trao đổi hàng hoá chứ không thể hiện một cách độc lập giá trị
của hàng hoá, vì vậy giá trị nội tại của tiền tệ có hay không cũng không
có ý nghĩa quan trọng. Thực tế cho thấy, trong lưu thông, tiền đúc bằng
kim loại dần dần bị hao mòn đi một phần, mặc dù vậy nó vẫn thực hiện
được chức năng phương tiện lưu thông. Đây là bước đầu tiên để dẫn đến

52
việc thay thế tiền có giá hoàn toàn bằng các dấu hiệu của giá trị. Bên
cạnh đó, việc Nhà nước phát hành vào lưu thông những đồng tiền không
đủ giá thực chất là làm giảm bớt trọng lượng của đồng tiền. Từ đó, người
ta phát hành tiền giấy thay thế cho tiền đủ giá để làm chức năng phương
tiện lưu thông và phương tiện thanh toán.
- Bản chất của tiền giấy:
Tiền giấy là một dạng tiền dấu hiệu được phát hành vào lưu thông
để thay thế cho tiền đủ giá trị ở những chức năng không đòi hỏi phải sử
dụng tiền đủ giá. Vì thế, tiền giấy chỉ mang giá trị danh nghĩa. Giá trị
nội tại của tiền giấy thường không đáng kể so với mệnh giá của nó. Cần
lưu ý rằng nếu như vàng được sử dụng trong lưu thông vì nó có giá trị
thì tiền giấy không phải do có giá trị mới lưu thông mà chính nhờ lưu
thông mà nó có giá trị. Giá trị của tiền giấy không phải là giá trị bản
thân nó mà chính là phản ánh giá trị của tiền đủ giá đáng lẽ phải có mặt
trong lưu thông.
- Giá trị tiền giấy và quy luật lưu thông tiền giấy:
Xuất phát từ bản chất của tiền giấy chỉ là tiền dấu hiệu nên nói đến
giá trị tiền giấy nghĩa là chúng ta muốn nói đến giá trị danh nghĩa của nó.
Giá trị đại diện danh nghĩa của một đơn vị tiền giấy là con số được ghi
trên tờ giấy bạc hay còn gọi là mệnh giá của đồng tiền.
Khi nghiên cứu các vấn đề về tiền tệ, K. Mark đã đưa ra qui luật lưu
thông tiền giấy. Nội dung của qui luật là: “Việc phát hành tiền giấy phải
được giới hạn trong số lượng vàng (hay bạc) do tiền đó đại diện, mà
lượng vàng (hay bạc) đó lẽ ra phải lưu thông thực sự”.
Từ qui luật này có thể rút ra:
Giá trị đại diện thực tế Số lượng vàng (bạc) cần thiết cho lưu thông
(= 1 đơn vị tiền giấy) =
Số lượng tiền giấy thực tế trong lưu thông

Như vậy:
Nếu số lượng tiền giấy phát hành vào lưu thông cân đối với số tiền
đủ giá cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định thì giá trị đại
diện cho một đơn vị tiền giấy phù hợp với giá trị danh nghĩa của nó.

53
Nếu số lượng tiền giấy phát hành vượt quá lượng tiền đủ giá cần
thiết cho lưu thông thì giá trị đại diện thực tế của nó sẽ bị giảm sút, nói
cách khác tiền giấy bị mất giá và sức mua của nó bị giảm.
Qua đó ta thấy, nếu số lượng tiền cần thiết cho lưu thông do giá cả
hàng hoá quyết định thì trái lại giá trị của tiền giấy lại do số lượng của
chính nó quyết định.

C¢U HáI ¤N TËP CH¦¥NG 2

1. Trình bày quá trình ra đời và phát triển của tiền tệ?
2. Tiền tệ là gì? Phân tích tính chất đặc biệt của “Vàng – tiền tệ” so với
các loại hàng hóa khác?
3. Trình bày các hình thái tiền tệ?
4. Phân tích các chức năng của tiền? Trong các chức năng đó, chức năng
nào là quan trọng nhất?
5. Phân tích vai trò của tiền?
6. Chế độ lưu thông tiền tệ là gì? Trình bày các chế độ lưu thông của
tiền tệ?

54
Chương 3
NG¢N S¸CH NHµ N¦íC

Ngân sách Nhà nước (NSNN) được xem là khâu chủ đạo của hệ
thống tài chính thể hiện những quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các
chủ thể trong xã hội và gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước. Sự hình thành và sử dụng các nguồn tài chính thuộc
NSNN có tác động quan trọng và chi phối đến sự vận hành của toàn bộ
hệ thống tài chính.
Với mục đích giúp cho người học có thể nắm được các kiến thức cơ
bản về NSNN, nội dung của chương sẽ đề cập đến các mảng vấn đề về
khái niệm, đặc điểm và vai trò của NSNN. Trên cơ sở đó, phần tiếp theo
của chương sẽ giới thiệu và nghiên cứu hai mặt hoạt động cơ bản của
NSNN là thu và chi NSNN. Ngoài ra, chương này còn đề cập đến một số
nội dung quan trọng trong quá trình quản lý và điều hành NSNN đó là
bội chi NSNN và tổ chức hệ thống NSNN.

3.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ NG¢N S¸CH NHµ N¦íC


3.1.1. Khái niệm
Ngân sách Nhà nước là một phạm trù kinh tế - lịch sử xuất hiện và
tồn tại gắn liền với sự ra đời, tồn tại, phát triển của nền kinh tế hàng hóa -
tiền tệ và sự xuất hiện của Nhà nước. Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy,
khi Nhà nước hình thành, để có được các phương tiện vật chất cần thiết
đảm bảo sự tồn tại và thực hiện các chức năng của mình, Nhà nước đã sử
dụng quyền lực kinh tế chính trị để buộc các thành viên trong xã hội phải
đóng góp hình thành nguồn quỹ cho Nhà nước. Trong điều kiện nền kinh
tế hàng hóa - tiền tệ, Nhà nước đã sử dụng hình thức đóng góp và chi tiêu
bằng tiền tệ để tạo sự thuận tiện, linh hoạt cho cả người dân và Nhà
nước, khi đó, thuật ngữ tài chính Nhà nước hình thành. Tuy nhiên, cho
đến khi giai cấp tư sản xuất hiện, để có được không gian kinh tế tài chính

55
thông thoáng và hợp lý hơn, giai cấp tư sản đã đấu tranh chống lại chế độ
thuế khóa vô lý, tùy tiện, chế độ chi tiêu thiếu rõ ràng, thiếu sự tách bạch
giữa chi tiêu của Nhà nước với chi tiêu của gia đình quan lại, vua chúa
phong kiến. Kết quả của cuộc đấu tranh này trên lĩnh vực thuế khóa và
chi tiêu của Nhà nước đã đưa đến sự thay đổi lớn trong quản lý tài chính
Nhà nước. Từ đó, thuật ngữ “Ngân sách Nhà nước” được hình thành.
Thuật ngữ này được sử dụng để chỉ các khoản thu chi của Nhà nước
được thể chế hóa bằng pháp luật.
Thuật ngữ “Ngân sách Nhà nước” đã xuất hiện và được sử dụng từ
rất lâu trong lịch sử phát triển kinh tế - xã hội. Ngày nay, ở các nước,
Quốc hội thực hiện quyền lập pháp về NSNN, Chính phủ đảm nhận
quyền hành pháp về NSNN và ở đâu có Nhà nước thì ở đó có hoạt động
NSNN. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, vẫn tồn tại những quan niệm khác
nhau về NSNN, trong đó phổ biến là ba quan điểm: quan niệm thứ nhất
cho rằng, NSNN là bản dự toán thu chi tài chính của Nhà nước trong một
khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Quan niệm thứ hai cho
rằng, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Quan điểm thứ ba cho
rằng, NSNN là những quan hệ kinh tế phát sinh giữa Nhà nước với xã
hội trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính
khác nhau.
Các quan niệm kể trên về NSNN đã cố gắng mô tả hình thức tồn tại
và những khía cạnh vật chất của NSNN song chưa đầy đủ, chưa thể hiện
được những nội dung kinh tế - xã hội hàm chứa trong nó. Trong thực tế,
nếu nhìn về qui trình hình thành Ngân sách thì NSNN là một bản dự toán
thu chi tài chính của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định do
Chính phủ lập ra, đệ trình Quốc hội phê chuẩn và giao lại cho Chính phủ
tổ chức thực hiện. Nếu xét về hình thức hoạt động thì NSNN là những
hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước được tiến hành trên phạm vi cả
nước. Các nguồn thu và khoản chi của NSNN luôn được dự kiến trước để
đảm bảo tính chủ động trong hoạt động, đồng thời đảm bảo tính cân đối
giữa thu và chi. Xét về nội dung quan hệ kinh tế chứa đựng trong hoạt
động NSNN, các hoạt động thu chi của NSNN phản ánh quan hệ kinh tế

56
- chính trị - xã hội giữa Nhà nước với các tổ chức và cá nhân trong xã hội
trong quá trình Nhà nước tạo lập và sử dụng quỹ NSNN nhằm thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của mình. Bản thân Nhà nước không phải là
chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và tạo ra của cải xã hội,
song Nhà nước lại tham gia và chi phối đến quá trình phân phối của cải
xã hội dưới hình thái giá trị dựa trên quyền lực của mình để hình thành
và sử dụng quỹ NSNN. Chính vì vậy, hoạt động NSNN thực chất là một
hình thức phân phối nguồn tài chính trong nền kinh tế dựa trên quyền lực
Nhà nước nên nó có tác động và chi phối đến mọi chủ thể kinh tế - xã
hội. Ngân sách Nhà nước không chỉ biểu hiện các quan hệ kinh tế nhất
định, mà còn có sự thể hiện vật chất hoá. Sự vật chất hoá các quan hệ
Ngân sách được biểu hiện ở quỹ tiền tệ của Nhà nước. Như vậy, đằng sau
các con số phản ánh khối lượng thu chi của Ngân sách là quá trình phân
phối hiện thực. Đó chính là tính hai mặt của một phạm trù kinh tế - mặt
chất lượng và mặt số lượng.
Từ sự phân tích những đặc điểm trên, có thể khái quát thành khái
niệm Ngân sách Nhà nước như sau: Ngân sách Nhà nước là hệ thống các
quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị phát sinh gắn liền với quá trình tạo
lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà
nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm đảm bảo
cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
3.1.2. Đặc điểm
Ngân sách Nhà nước là khâu chủ đạo của hệ thống tài chính quốc
gia, phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình Nhà nước huy
động và sử dụng nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các
chức năng của Nhà nước. Các quan hệ tài chính thuộc NSNN có phạm vi
rộng lớn, bao gồm:
- Quan hệ tài chính giữa Nhà nước với dân cư, được biểu hiện trong
các hình thức hoạt động như dân cư nộp thuế, phí cho Nhà nước; Nhà
nước trợ cấp cho dân cư thuộc các đối tượng chính sách xã hội;...
- Quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế, được
biểu hiện trong các hình thức hoạt động như các tổ chức kinh tế nộp

57
thuế, phí cho Nhà nước; Nhà nước đầu tư vốn, nắm giữ cổ phần của các
doanh nghiệp;...
- Quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội, được biểu
hiện thông qua các hoạt động như Nhà nước cấp kinh phí cho các đơn vị
hành chính, sự nghiệp công lập; các đơn vị này nộp các khoản thu sự
nghiệp cho NSNN;...
Mặc dù phạm vi của quan hệ tài chính thuộc NSNN rất rộng lớn và
có liên quan đến mọi chủ thể trong xã hội, song chúng đều có những đặc
điểm chung là:
- Việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn chặt với quyền lực
kinh tế chính trị của Nhà nước, liên quan đến việc thực hiện các chức
năng của Nhà nước và được Nhà nước tiến hành trên những cơ sở pháp
lý nhất định.
- Các hoạt động thu chi của NSNN gắn chặt với sở hữu Nhà nước,
chứa đựng nội dung kinh tế - xã hội nhất định, chứa đựng những quan hệ
lợi ích nhất định và được biểu hiện khi Nhà nước tham gia phân phối các
nguồn tài chính quốc gia. Trong các quan hệ lợi ích đó, thì lợi ích quốc
gia, lợi ích tổng thể luôn được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi
ích khác.
- Quỹ tiền tệ thuộc Ngân sách Nhà nước cũng có những đặc trưng
chung như các quỹ tiền tệ khác, đó là được tạo lập trên cơ sở các quan hệ
tài chính. Song đặc trưng riêng biệt của Ngân sách Nhà nước với tư cách
một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước là nó được chia thành nhiều quỹ
nhỏ có tác dụng riêng rồi mới được chi dùng cho những mục đích đã xác
định trước.
- Hoạt động thu chi của NSNN được thực hiện theo nguyên tắc
không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Nguyên tắc này được thể chế hóa
thành những quy định pháp lý cụ thể gắn với từng khoản thu chi nhất
định. Điều này vừa tạo sự ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể liên
quan vừa tạo tính chủ động trong quản lý và sử dụng các khoản thu
chi NSNN.

58
3.1.3. Vai trò của Ngân sách Nhà nước
NSNN gắn chặt với quyền lực của Nhà nước, là một trong những
công cụ quan trọng để Nhà nước thực thi các chức năng và nhiệm vụ của
mình. Do đó, vai trò của NSNN được xác lập trên cơ sở chức năng và
nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Trong điều
kiện nền kinh tế thị trường, có thể xem xét vai trò của NSNN trên các
mặt chủ yếu sau:
3.1.3.1. Ngân sách Nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính
để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu và thực hiện sự cân đối thu chi tài
chính của Nhà nước
Thông thường, Nhà nước không tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất của cải xã hội, do đó, để có nguồn tài chính đáp ứng các nhu cầu chi
tiêu của mình, Nhà nước phải sử dụng NSNN làm công cụ để tạo ra
nguồn thu cần thiết. Đây là vai trò truyền thống của Ngân sách Nhà nước
trong mọi thời đại, mọi chế độ xã hội kể từ khi Nhà nước ra đời. Vai trò
này xuất phát từ sự cần thiết khách quan của sự ra đời và tồn tại Nhà
nước, nó gắn chặt với các chi phí của Nhà nước trong quá trình tồn tại và
thực hiện nhiệm vụ của mình, nó quyết định đến sức mạnh của Nhà nước
trong từng giai đoạn lịch sử. Điều này đã được C.Mác khẳng định "Sức
mạnh chuyên chính của Nhà nước được quyết định bởi Ngân sách và
ngược lại".
3.1.3.2. NSNN là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội
Kinh tế thị trường đã đem lại những thành công to lớn cho các quốc
gia song nó cũng có những mặt hạn chế hay những khuyết tật vốn có của
nó đòi hỏi cần có sự can thiệp của Nhà nước nhằm tạo ra sự phát triển
cân đối, hợp lý và bền vững hơn. Điều này đã đòi hỏi Nhà nước phải sử
dụng NSNN làm một trong những công cụ quan trọng để can thiệp, điều
tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Vai trò này được thể hiện trên các khía
cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, NSNN là công cụ định hướng phát triển kinh tế, hình
thành cơ cấu kinh tế mới và kích thích tăng trưởng kinh tế.

59
Để khắc phục những hạn chế, khuyết tật của kinh tế thị trường, Nhà
nước sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô trong đó NSNN là một công
cụ chủ yếu để tác động và hướng các hoạt động của các chủ thể trong
nền kinh tế theo quỹ đạo mà Nhà nước đã hoạch định, từ đó góp phần
hình thành nên cơ cấu kinh tế mới, đồng thời góp phần thực hiện các
mục tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững. Việc thực hiện vai trò
này của NSNN được biểu hiện thông qua công cụ và hoạt động cụ thể
của NSNN:
- Với mục đích tạo điều kiện cần thiết và kích thích kinh tế - xã hội
phát triển, Nhà nước sử dụng vốn NSNN để đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng của nền kinh tế như xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng giao thông, hệ
thống truyền tải điện, nước, hệ thống cơ sở hạ tầng liên lạc viễn
thông,... Đây chính là lĩnh vực có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển
kinh tế - xã hội song tư nhân thường không muốn làm hoặc không đủ
khả năng đầu tư do nhu cầu vốn lớn, thời gian hoàn vốn chậm và tỷ suất
lợi nhuận thấp.
- Để góp phần hình thành cơ cấu kinh tế mới theo hướng đã định,
một mặt Nhà nước ưu tiên đầu tư vốn NSNN vào những ngành kinh tế,
những vùng miền cần thiết, mặt khác Nhà nước thực hiện những ưu đãi
đầu tư dưới các hình thức khác nhau như ưu đãi tín dụng, ưu đãi thuế
suất,... nhằm khuyến khích phát triển những ngành nghề hay vùng miền
cần phát triển. Thông thường, những ngành vùng được Nhà nước dành
những ưu đãi phát triển là những ngành kinh tế mới (công nghệ sinh học,
công nghệ xử lý môi trường,...), ngành kinh tế trọng điểm (sản xuất hàng
xuất khẩu) và các vùng miền còn có nhiều khó khăn như vùng sâu, vùng
xa, miền núi, hải đảo.
- Thực hiện mục tiêu định hướng sản xuất và tiêu dùng, Nhà nước
ban hành chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất cao kết hợp với
chính sách hạn chế đầu tư vốn NSNN vào các lĩnh vực sản xuất, cung
ứng hàng hóa và dịch vụ xa xỉ, hàng hóa không có lợi cho toàn xã hội.
- Khi nền kinh tế trì trệ hay suy thoái, Nhà nước thường tăng chi tiêu
Ngân sách cho đầu tư phát triển, điều chỉnh giảm thuế để kích cầu, thực

60
hiện các ưu đãi đầu tư nhằm hỗ trợ và kích thích nền kinh tế phục hồi và
phát triển
Thứ hai, NSNN là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và
kiềm chế lạm phát.
Trong nền kinh tế thị trường, những biến động về giá cả, cung cầu
trên thị trường có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến người sản
xuất và người tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của
các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Chẳng hạn, sự giảm sút quá mức
về giá cả tiêu thụ của một số sản phẩm nông nghiệp có thể tác động làm
người sản xuất thu hẹp quá mức quy mô sản xuất hay chuyển đổi ngành
sản xuất ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai phát triển của ngành nông
nghiệp. Hay sự gia tăng giá cả quá mức của những vật tư, nguyên liệu,
hàng hóa thiết yếu cho sản xuất và đời sống có thể đưa đến tác động dây
truyền làm tăng giá của nhiều hàng hóa, dịch vụ gây ra hiện tượng lạm
phát ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế. Do đó, Nhà nước phải can
thiệp để đảm bảo sự phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh tế.
Về nguyên lý, mọi sự biến động giá cả đều có nguyên nhân từ sự mất cân
đối cung cầu. Bằng việc sử dụng các công cụ thuế và chi tiêu Ngân sách
Nhà nước, Nhà nước có thể tác động vào tổng cung hoặc tổng cầu để
điều tiết thị trường và bình ổn giá cả. Vai trò này của NSNN được biểu
hiện thông qua những can thiệp cụ thể của Nhà nước trên thị trường.
Đối với thị trường hàng hóa thông thường, các biện pháp điều tiết
của Nhà nước được thực hiện chủ yếu thông qua việc sử dụng quỹ
NSNN để hình thành và sử dụng các quỹ dự trữ cần thiết bằng tiền tệ, vật
tư, hàng hóa thiết yếu,... Khi giá cả của mặt hàng nào đó tăng cao quá
mức có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến sản xuất và tiêu dùng, Nhà nước sẽ
đưa hàng hóa dự trữ đó ra thị trường để tăng cung, trên cơ sở đó góp
phần bình ổn giá và ngăn chặn nguy cơ tác động dây truyền gây ra tình
trạng lạm phát cho nền kinh tế. Ngược lại, khi giá cả của mặt hàng nào
đó giảm xuống quá mức, có khả năng gây thiệt hại lớn cho người sản
xuất và ảnh hưởng đến tương lai phát triển của ngành đó thì Nhà nước sẽ
bỏ tiền ra mua các hàng hóa đó theo mức giá nhất định đảm bảo lợi ích

61
cho người sản xuất, từ đó có tác dụng bình ổn thị trường và bảo vệ nền
sản suất.
Đối với các thị trường khác như thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị
trường sức lao động,... các biện pháp điều tiết của Nhà nước trên các thị
trường này thường được thực hiện một cách kết hợp và đồng bộ giữa các
công cụ tài chính, tiền tệ, giá cả, lãi suất,... trong đó việc sử dụng công
cụ cụ thể của NSNN như phát hành trái phiếu, công trái, chi trả nợ, trả
lương từ NSNN,... cũng được Nhà nước chú trọng nhằm tạo sự phát triển
ổn định và bền vững của các loại thị trường này.
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế tiền tệ có thể gây ra những hậu
quả nặng nề cho nền kinh tế - xã hội. Để kiềm chế và kiểm soát lạm phát,
Nhà nước phải sử dụng các công cụ khác nhau trong đó việc điều chỉnh
chính sách thuế và chi tiêu NSNN được xem là một trong những biện
pháp cốt yếu. Khi sử dụng biện pháp điều chỉnh chính sách thuế và chi
tiêu Ngân sách, Nhà nước thường thực hiện theo hướng tăng thuế tiêu
dùng, giảm thuế đối với các hoạt động đầu tư và thắt chặt chi tiêu của
Chính phủ nhằm kích cung, giảm cầu và giảm lượng cung tiền, từ đó sẽ
có tác dụng kiềm chế lạm phát.
Thứ ba, NSNN là công cụ điều tiết thu nhập và góp phần giải quyết
các vấn đề xã hội.
Ngày nay, xã hội loài người luôn đặt ra những vấn đề cần giải quyết
như đảm bảo công bằng xã hội, hạn chế và giải quyết sự đói nghèo, lạc
hậu, điều kiện sống khó khăn của một số bộ phận dân cư,... Để thực hiện
các mục tiêu này, Nhà nước phải sử dụng các chính sách và biện pháp
khác nhau trong đó chính sách thuế và chi tiêu NSNN được xem là
những công cụ quan trọng và cần thiết.
Thông qua chính sách thu Ngân sách, dưới hình thức kết hợp thuế
gián thu (thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng) và
thuế trực thu (thuế thu nhập cá nhân), Nhà nước thực hiện việc điều tiết
bớt một phần thu nhập của tầng lớp có thu nhập cao trong xã hội, góp
phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và tiền lương, giảm bớt khoảng
cách giàu nghèo trong xã hội. Tuy nhiên, khi sử dụng chính sách thuế để

62
điều tiết thu nhập, Nhà nước cần có những những tính toán cụ thể những
tác động trên thực tế đến các bộ phận dân cư khác nhau. Chẳng hạn, đối
với hàng hóa tiêu dùng thiết yếu mà cả người giàu và người nghèo đều
phải tiêu dùng, song do tỷ trọng người nghèo cao hơn người giàu thì việc
giảm thuế suất sẽ có lợi cho người nghèo hơn và sự chênh lệch về thu
nhập cũng được giảm bớt. Ngược lại, đối với các hàng hóa dịch vụ xa xỉ,
việc tăng thuế suất sẽ làm tăng giá bán và sẽ góp phần điều tiết bớt một
phần thu nhập của người giàu trong xã hội.
Đề góp phần giải quyết những vấn đề xã hội, ngoài việc sử dụng
công cụ thuế trong điều tiết thu nhập, Nhà nước còn sử dụng các chính
sách chi Ngân sách để thực hiện các chương trình dân số, kế hoạch hóa
gia đình, đảm bảo công ăn việc làm, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho các
bộ phận dân cư gặp khó khăn do ảnh hưởng của thiên tai, tai nạn, bảo trợ
xã hội, trợ cấp cho các đối tượng thuộc diện chính sách như thương bệnh
binh, gia đình liệt sĩ, trẻ em mồ côi, người già yếu tàn tật không nơi
nương tựa,... nhằm thực hiện các mục tiêu đảm bảo đời sống, an toàn và
phúc lợi xã hội, hỗ trợ các điều kiện cần thiết cho tầng lớp người nghèo
trong xã hội.
3.1.3.3. NSNN là công cụ kiểm tra giám sát các hoạt động kinh tế -
xã hội
Là một phạm trù tài chính, NSNN cũng có chức năng giám đốc tài
chính. Vận dụng chức năng này, Nhà nước sử dụng NSNN làm công cụ
để kiểm tra, giám sát quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ
NSNN theo những mục đích đã định. Nội dung kiểm tra, giám sát không
chỉ là việc chấp hành các quy định về nghĩa vụ của các chủ thể liên quan
trong việc nộp thuế, phí lệ phí,... đối với NSNN mà còn là những nội
dung kiểm tra, giám sát về việc sử dụng các nguồn tài chính, tài sản Nhà
nước theo mục tiêu đặt ra cũng như việc chấp hành các quy định pháp lý
về NSNN. Với đặc trưng của NSNN là gắn chặt với quyền lực của Nhà
nước, cho nên, việc kiểm tra giám sát của NSNN luôn dựa trên quyền lực
Nhà nước và mang tính đơn phương theo phân cấp của hệ thống bộ máy
hành chính Nhà nước.

63
3.2. THU NG¢N S¸CH NHµ N¦íC
3.2.1. Khái niệm, đặc điểm thu Ngân sách Nhà nước
Từ đòi hỏi của xã hội về việc đảm bảo ổn định xã hội và giải quyết
những mâu thuẫn, xung đột giai cấp, tầng lớp, Nhà nước đã hình thành
với vai trò là cơ quan quản lý xã hội. Để có được những phương tiện vật
chất cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động của mình, Nhà nước đã đặt ra
các hình thức thu khác nhau trong đó chủ yếu là thuế để bắt buộc dân cư
phải đóng góp hình thành quỹ tiền tệ của Nhà nước. Ban đầu, Nhà nước
sử dụng quỹ tiền tệ này chủ yếu để đảm bảo sự tồn tại của bộ máy Nhà
nước, sau đó phạm vi sử dụng được mở rộng dần theo sự mở rộng và
phát triển các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Chính vì vậy, thu
NSNN ngày càng được mở rộng để áp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng
lớn của NSNN.
Qua sự hình thành các khoản thu NSNN, có thể hiểu thu NSNN là
việc Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để huy động, tập trung một
phần nguồn tài chính quốc gia để hình thành quỹ tiền tệ cần thiết nhằm
đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Thu Ngân sách là một trong hai mặt hoạt động cơ bản của Ngân sách
Nhà nước. Về mặt bản chất kinh tế, thu Ngân sách Nhà nước là hệ thống
các quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị nảy sinh trong quá trình Nhà
nước dùng quyền lực chính trị của mình để tập trung một phần nguồn tài
chính trong xã hội hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước.
Thu NSNN có hai đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, thu Ngân sách Nhà nước là một hình thức phân phối
nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội dựa
trên quyền lực của Nhà nước nhằm giải quyết hài hoà các mối quan hệ về
lợi ích kinh tế. Sự phân phối này là một tất yếu khách quan xuất phát từ
yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu thực
hiện các chức năng của Nhà nước.

64
Thứ hai, thu Ngân sách Nhà nước gắn chặt với thực trạng kinh tế và
sự vận động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, thu nhập, lãi suất,...
trong đó, chỉ tiêu quan trọng biểu hiện thực trạng của nền kinh tế có ảnh
hưởng đến quy mô và mức độ động viên của thu Ngân sách Nhà nước là
tổng sản phẩm quốc nội. Sự vận động của các phạm trù giá trị này vừa
tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng
điều tiết của các công cụ thu Ngân sách Nhà nước.
Trên phương diện pháp lý, thu Ngân sách Nhà nước bao gồm những
khoản tiền Nhà nước huy động vào Ngân sách để thoả mãn nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước. Tuy nhiên, về thực chất thu Ngân sách Nhà nước chỉ
bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào Ngân sách mà không
bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp. Như
vậy, thu Ngân sách Nhà nước về thực chất sẽ không bao gồm các khoản
vay của Nhà nước. Việc loại các khoản vay ra khỏi nội dung thu Ngân
sách có ý nghĩa kinh tế quan trọng, nó phản ánh đúng số thực thu của
Nhà nước, thể hiện chính xác số bội chi và tỷ lệ bội chi, tránh được sự
nhầm lẫn giữa thực tế thu của Nhà nước và số Nhà nước phải đi vay để
chi. Sở dĩ về phương diện pháp lý người ta đưa khoản vay vào thu Ngân
sách Nhà nước là để tiện lợi về mặt hạch toán và đảm bảo quản lý chặt
chẽ nguồn tài chính của Nhà nước, còn khi phân tích nguồn hình thành
quỹ Ngân sách Nhà nước và xác định bội chi Ngân sách thì phải tách
khoản vay ra khỏi thu Ngân sách Nhà nước.
3.2.2. Phân loại thu Ngân sách Nhà nước
Phân loại thu NSNN được hiểu là việc sắp xếp các nguồn thu, khoản
thu thành những nhóm, loại nhất định theo những tiêu thức phù hợp
nhằm đáp ứng các yêu cầu về nghiên cứu và quản lý. Có thể phân loại
thu NSNN theo các tiêu thức cơ bản sau:
3.2.2.1. Theo nội dung kinh tế của các khoản thu
Theo tiêu thức này, thu NSNN bao gồm:
a. Thuế
Khái niệm: Thuế là một hình thức đóng góp của các tổ chức và cá
nhân cho Nhà nước mang tính nghĩa vụ theo luật định nhằm đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước.

65
Là một hình thức phân phối thu nhập giữa Nhà nước và các chủ thể
trong xã hội, thuế có các đặc trưng cơ bản như sau:
- Thuế là một hình thức động viên mang tính bắt buộc và không
hoàn trả trực tiếp. Nhà nước sử dụng quyền lực chính trị của mình để
thiết lập tính bắt buộc của thuế và thể chế hoá bằng các quy định pháp lý,
cho nên mọi tổ chức và cá nhân liên quan đều phải tuân thủ, nếu không
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước tức là vi phạm pháp luật
và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tính bắt buộc của thuế được
giải thích bởi mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân,
mọi tổ chức đối với Nhà nước. Thuế là khoản đóng góp mà người sử
dụng là Nhà nước không có trách nhiệm hoàn trả trực tiếp ngang giá cho
người nộp thuế. Việc nộp thuế là hình thức vận động tài chính một chiều,
không có đối phần và cũng không phải là khoản thù lao mà người nộp
thuế trả cho Nhà nước do được hưởng những dịch vụ mà Nhà nước cung
cấp. Tuy vậy, một phần số thuế đã nộp cho Ngân sách Nhà nước được
hoàn trả một cách gián tiếp cho người nộp thuế dưới hình thức hưởng thụ
các dịch vụ công về giáo dục, y tế, phúc lợi công cộng, an ninh quốc
phòng,... Về nguyên tắc, mọi công dân đều được hưởng các dịch vụ công
cộng đó như nhau cho dù nghĩa vụ đóng góp có thể khác nhau.
- Thuế được thiết lập dựa trên nguyên tắc luật định. Nguyên tắc này
bắt buộc mọi sự thiết lập các sắc thuế hay sửa đổi bổ sung các điều khoản
thuế đều phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định xây dựng pháp luật, tức là
mọi sự thay đổi dù là rất nhỏ cũng phải được đưa ra bàn bạc tại cơ quan
lập pháp và phải được chính cơ quan này phê chuẩn thì mới có hiệu lực và
chính thức áp dụng.
- Thuế làm chuyển đổi quyền sở hữu nguồn tài chính từ sở hữu tập
thể và cá thể thành sở hữu Nhà nước. Việc chuyển quyền sở hữu này
được quyết định bởi chức năng quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân của
Nhà nước và biểu hiện sự thống nhất về lợi ích giữa Nhà nước với các
chủ thể trong xã hội.
- Trong nền kinh tế thị trường, thuế được Nhà nước sử dụng làm
công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thuế không những là

66
nguồn thu quan trọng và chủ yếu của Ngân sách Nhà nước mà còn có
những tác động to lớn đến các yếu tố kinh tế vĩ mô như tổng cầu của xã
hội, thu nhập, đầu tư, tiêu dùng,.. Thuế góp phần điều chỉnh nền kinh tế,
kích thích tích luỹ vốn, định hướng sản xuất và tiêu dùng. Chính sách
thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả, quan hệ cung cầu, cơ cấu đầu tư
và sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế. Như vậy, thông qua thuế
Nhà nước có thể chủ động điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy hoặc
hạn chế tích luỹ, đầu tư, tiêu dùng,... Bên cạnh đó, thuế còn là công cụ
phân phối lại thu nhập, làm gia tăng tiết kiệm trong khu vực tư nhân và
đảm bảo công bằng xã hội.
Các yếu tố cấu thành của sắc thuế: Một sắc thuế thông thường
được cấu thành bởi các yếu tố cơ bản sau:
- Tên gọi: Mỗi sắc thuế có một tên gọi riêng để nói lên đối tượng
tính thuế hoặc nội dung chủ yếu của sắc thuế đó.
- Người nộp thuế (Đối tượng nộp thuế): Là chủ thể có nghĩa vụ phải
thanh toán tiền thuế với cơ quan quản lý Ngân sách Nhà nước. Tùy theo
từng sắc thuế quy định người nộp thuế là những chủ thể nào, song việc
xác định đúng đắn đối tượng nộp thuế sẽ cho phép Nhà nước có thể quản
lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện nghĩa vụ của các chủ thể này trước
pháp luật.
- Người chịu thuế: Là chủ thể phải dành một phần thu nhập của mình
để gánh chịu khoản thuế của Nhà nước. Nói cách khác, đây là những chủ
thể mà thu nhập hay tài sản của họ chịu sự điều tiết, chi phối của thuế.
Trong các luật thuế thường không quy định yếu tố này, song khi nghiên
cứu và ban hành luật thuế, cơ quan có trách nhiệm luôn phải tính đến chủ
thể này để biết được những tác động của thuế như thế nào đến các chủ
thể trong xã hội.
- Đối tượng đánh thuế: Là các khách thể của thuế, là các khoản thu
hoặc thu nhập hay tài sản được coi là mục tiêu động viên của thuế, chịu
sự tác động, điều tiết của thuế. Nói cách khác, thuế được huy động từ
nguồn nào, dựa trên yếu tố gì để tạo ra nguồn thu, đó chính là đối tượng
đánh thuế. Đối tượng đánh thuế có thể là lợi nhuận thu được, thu nhập

67
thu được, giá trị của tài sản đem giao dịch,... Dựa vào đối tượng này
cho phép xác định các hình thức thu thuế và các biện pháp động viên
thích hợp nhằm đáp ứng những yêu cầu về tập trung nguồn thu cho
Ngân sách Nhà nước và tạo điều kiện để quản lý chặt chẽ các hoạt động
kinh tế - xã hội.
- Căn cứ tính thuế: Là những yếu tố mà dựa vào đó để tính ra số thuế
phải nộp. Đối với mỗi loại thuế khác nhau thì căn cứ tính thuế khác nhau.
Chẳng hạn, thuế nhập khẩu có căn cứ tính thuế là số lượng hàng hóa
nhập khẩu, giá tính thuế đơn vị, tỷ giá tính thuế và thuế suất; căn cứ tính
thuế giá trị gia tăng là giá tính thuế và thuế suất; căn cứ tính thuế thu
nhập doanh nghiệp là thu nhập tính thuế và thuế suất.
- Thuế suất: Là số thuế phải nộp tính trên mỗi đơn vị đo lường của
đối tượng đánh thuế. Hay nói cách khác, thuế suất là số thuế được ấn
định trên mỗi đơn vị đối tượng đánh thuế bằng những phương pháp biểu
thị phù hợp. Có nhiều cách quy định và biểu thị các loại thuế suất khác
nhau, bao gồm:
+ Thuế suất tuyệt đối: Là thuế suất được ấn định bằng số tuyệt đối,
thường được sử dụng trong trường hợp khó đánh giá và đo lường đối
tượng đánh thuế, chẳng hạn thuế môn bài, thuế xuất khẩu, nhập khẩu áp
dụng cho một số trường hợp đặc biệt được quy định bằng số tuyệt đối.
+ Thuế suất tương đối (thuế suất tỷ lệ): Là thuế suất được ấn định
bằng số tương đối hay bằng tỷ lệ % trên đối tượng đánh thuế.
+ Thuế suất luỹ tiến: Là một hình thức quy định về thuế suất tỷ lệ,
nó có đặc điểm là khi quy mô của đối tượng đánh thuế càng lớn thì thuế
suất áp dụng để tính thuế càng cao. Có hai phương pháp tính thuế theo
thuế suất luỹ tiến là luỹ tiến toàn phần và luỹ tiến từng phần. Theo
phương pháp tính luỹ tiến toàn phần, thuế suất được áp dụng tính chung
trên toàn bộ đối tượng đánh thuế nằm trong bậc thuế với thuế suất tương
ứng. Ngược lại, theo phương pháp tính luỹ tiến từng phần, thuế suất và
quy mô của đối tượng đánh thuế được chia thành các thang bậc nhất định
và thuế suất được tính theo từng phần của đối tượng tính thuế tăng thêm
nằm trong từng thang bậc thuế với thuế suất tương ứng.

68
- Đơn vị tính thuế: Là đơn vị được sử dụng làm phương tiện tính
toán, đo lường đối tượng đánh thuế. Chẳng hạn, đơn vị tính thuế của thuế
giá trị gia tăng là đồng tiền Việt Nam (VND), đơn vị tính thuế của thuế
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở là mét vuông.
- Giá tính thuế: Là giá cả của hàng hóa, dịch vụ, tài sản,... được sử
dụng để tính thuế. Tùy theo quy định cụ thể, giá tính thuế có thể là giá thị
trường hoặc là giá do cơ quan thuế ấn định.
- Khởi điểm đánh thuế: Trong một số sắc thuế có quy định khởi điểm
đánh thuế, đây là mức thu nhập hay quy mô tài sản bắt đầu chịu sự chi
phối của thuế. Quy mô thu nhập hay tài sản dưới mức này thì không phải
nộp thuế.
- Miễn giảm thuế: Là số thuế theo quy định cho phép người nộp thuế
không phải nộp trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm tạo điều
kiện thuận lợi hay giúp đỡ những chủ thể khắc phục khó khăn, ổn định
sản xuất kinh doanh và đời sống.
- Thủ tục thuế: Bao gồm những quy định về trách nhiệm và cách
thức nộp thuế vào Ngân sách của đối tượng nộp thuế trước cơ quan thuế
và cơ quan hữu quan như quy định về giấy tờ, trình tự kê khai tính thuế,
hình thức nộp thuế, thời hạn nộp thuế, quyền hạn, trách nhiệm của các
bên liên quan trong quan hệ thu nộp, chế độ trách nhiệm vật chất của
người nộp trước cơ quan Nhà nước. Thủ tục thuế được coi như một căn
cứ pháp lý cần thiết để người nộp thuế có thể triển khai nộp thuế kịp thời,
đầy đủ và đúng quy định.
Trong các yếu tố cấu thành một sắc thuế, thuế suất được xem là
“linh hồn” của sắc thuế. Nó phản ánh mức nộp thuế cao hay thấp, nặng
hay nhẹ đối với đối tượng nộp thuế và từ đó có ảnh hưởng đến số thuế
mà Nhà nước có thể thu được cũng như mức độ tác dụng của thuế đối với
việc khuyến khích sản xuất, điều tiết thu nhập,...
Phân loại thuế:
Hệ thống thuế của mỗi nước thường bao gồm nhiều loại thuế khác
nhau, song có thể phân loại thuế theo các tiêu thức cơ bản sau:

69
- Căn cứ vào tính chất điều tiết và chuyển giao của thuế, hệ thống
thuế được chia thành hai loại:
+ Thuế trực thu: Là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của người
chịu thuế. Trong sắc thuế này người nộp thuế cũng đồng thời là người
chịu thuế. Ví dụ như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.
Ở đây, không có hiện tượng chuyển giao số tiền thuế cho người khác
chịu
+ Thuế gián thu: Là loại thuế đánh vào người tiêu dùng thông qua
giá cả hàng hoá và dịch vụ. Đối với thuế gián thu người nộp thuế và
người chịu thuế là hai chủ thể khác nhau. Đặc điểm cơ bản của thuế gián
thu là nó thường là bộ phận cấu thành hay gắn liền với giá cả hàng hóa
dịch vụ bán ra, cho nên số thuế mà người bán nộp cho Nhà nước được
chuyển giao sang người mua hay người tiêu dùng phải chịu thông qua cơ
chế giá cả. Ví dụ như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,...
- Căn cứ vào đối tượng đánh thuế, các loại thuế bao gồm:
+ Thuế tiêu dùng là loại thuế đánh vào hàng hóa, dịch vụ lưu thông
trên thị trường như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia
tăng,...
+ Thuế thu nhập là thuế đánh vào thu nhập của các chủ thể như thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.
+ Thuế tài sản là thuế đánh vào việc khai thác, sử dụng hay chuyển
nhượng tài sản như thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế
chuyển giao quyền sử dụng đất,...
b. Lệ phí
Lệ phí là khoản thu của NSNN vừa mang tính chất bù đắp chi phí
cho việc thực hiện một số thủ tục hành chính của Nhà nước, vừa mang
tính chất động viên đóng góp cho NSNN. Lệ phí cũng là khoản thu mang
tính bắt buộc và chỉ những người được hưởng những lợi ích từ hoạt động
quản lý hành chính của Nhà nước thì mới phải nộp lệ phí. Hiện nay, do
các thủ tục hành chính Nhà nước khá đa dạng nên các loại lệ phí phát
sinh cũng rất nhiều loại như lệ phí đăng ký kinh doanh, lệ phí trước bạ, lệ
phí chứng thư, công chứng, lệ phí cấp hạn ngạch,...

70
Lệ phí là những khoản thu của NSNN mang tính bắt buộc, cơ quan
ban hành văn bản quy định lệ phí là cơ quan hành pháp, trình tự ban hành
không chặt chẽ như ban hành luật thuế; lệ phí là khoản thu có tính chất
đối giá, nghĩa là lệ phí thực chất là khoản tiền mà dân chúng trả cho Nhà
nước khi họ được hưởng những dịch vụ hay những lợi ích do Nhà nước
cung cấp mặc dù sự đối giá ở đây không phải là ngang giá. Lệ phí mang
tính chất hoàn trả trực tiếp bởi lẽ những thủ tục hành chính mà Nhà nước
thực hiện cho người dân thực chất là một hình thức phục vụ và chỉ những
tổ chức và cá nhân được hưởng những lợi ích từ những hoạt động này
mới phải đóng góp.
c. Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước
Trong quá trình thực hiện các chức năng của mình, Nhà nước cũng
tiến hành các hoạt động kinh tế dưới các hình thức khác nhau như đầu tư
vốn thành lập doanh nghiệp Nhà nước để kinh doanh, góp vốn vào các
doanh nghiệp, mua cổ phần, cho vay,... Chính vì vậy sẽ phát sinh các
khoản thu Ngân sách từ các hoạt động kinh tế của Nhà nước, các khoản
thu này thường bao gồm:
- Thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế: đây là
các khoản thu nhập từ đầu tư vốn của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế
như cổ tức được chia từ công ty cổ phần, lãi được chia từ doanh nghiệp
liên doanh,...
- Tiền thu hồi vốn của Nhà nước từ các cơ sở kinh tế: khi Nhà nước
thu hồi vốn, rút vốn đầu tư từ các cơ sở kinh doanh sẽ nảy sinh khoản thu
này, chẳng hạn tiền thu từ bán đấu giá cổ phần khi cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước, tiền thu từ bán doanh nghiệp Nhà nước,...
- Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước: khi Nhà nước tiến hành hoạt
động cung cấp tín dụng theo các chương trình khác nhau như tín dụng hỗ
trợ phát triển, cho vay ưu đãi đối với các đối tượng chính sách xã hội,...
khoản thu hồi vốn và lãi phát sinh cũng là những khoản thu của NSNN.
- Thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản, tài nguyên của quốc gia: Thực
chất khoản thu này mang tính chất thu hồi vốn và có một phần mang tính

71
chất phân phối lại. Khoản thu này vừa có tác dụng tăng nguồn thu cho
Ngân sách Nhà nước, vừa có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản
quốc gia. Khoản thu này bao gồm: thu về bán hoặc cho thuê tài nguyên
thiên nhiên như cho thuê đất chuyên dùng, đất rừng; cho thuê mặt nước,
vùng trời, mặt biển; bán tài nguyên, khoáng sản; bán vật tư hàng hóa từ
quỹ dự trữ của Nhà nước;...
d. Các khoản thu từ hoạt động sự nghiệp
Trong quá trình triển khai các hoạt động sự nghiệp, Nhà nước thành
lập, đầu tư cơ sở vật chất và cấp kinh phí cho các tổ chức sự nghiệp công
lập trong các lĩnh vực cần thiết của xã hội như giáo dục, đào tạo, y tế,
chăm sóc sức khỏe cộng đồng, thể thao, văn hóa,... Để bù đắp một phần
chi phí cho các hoạt động này, các tổ chức sự nghiệp công lập tiến hành
thu một số khoản phí như học phí, việc phí, thủy lợi phí,... Đây là những
khoản thu của NSNN vừa mang tính chất phục vụ cho người dân được
thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động sự nghiệp công lập, vừa mang tính
chất động viên đóng góp cho NSNN.
Các dịch vụ công gắn với hoạt động sự nghiệp như giáo dục, đào
tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, vệ sinh đô thị, bảo vệ môi
trường,... rất cần thiết cho người dân, song một bộ phận dân cư không có
khả năng mua và sử dụng nếu Nhà nước không hỗ trợ một phần chi phí.
Chính vì vậy, Nhà nước thu phí để bù đắp một phần chi phí trong quá
trình thực hiện các hoạt động này nhằm đem lại lợi ích chung cho xã hội.
e. Thu từ vay nợ
Để bù đắp thiếu hụt NSNN và đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát
triển, Nhà nước tiến hành huy động các nguồn tiền trong xã hội dưới các
hình thức khác nhau trong đó phải kể đến các khoản vay nợ trong nước
và nước ngoài. Chính phủ và các chính quyền địa phương đều có thể thực
hiện các hình thức vay nợ khác nhau để bù đắp bội chi Ngân sách và huy
động vốn thực hiện các chương trình, các dự án trọng điểm của quốc gia
và địa phương. Khi vay nợ trong nước, Nhà nước có trực tiếp vay tiền từ
ngân hàng trung ương hay phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, trong điều
kiện nền kinh tế thị trường, Nhà nước thường sử dụng hình thức phát

72
hành các loại trái phiếu Nhà nước như trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho
bạc, trái phiếu đầu tư,... để huy động vốn rộng rãi từ công chúng. Khi vay
nợ nước ngoài, Nhà nước có thể thực hiện dưới hình thức ký hiệp định
vay nợ với Chính phủ nước cung cấp tín dụng hoặc ký hiệp định vay nợ
với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng thế giới, Ngân
hàng phát triển châu Á,.. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể phát hành trái
phiếu Chính phủ trên thị trường tài chính quốc tế để huy động vốn từ
nước ngoài.
f. Thu khác
Ngoài các khoản thu kể trên, thu NSNN còn bao gồm các khoản tiền
khác mà Nhà nước thu được như các khoản viện trợ không hoàn lại; các
khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
như đóng góp cho quỹ an ninh, quỹ phòng chống thiên tai, ủng hộ quỹ vì
người nghèo; thu từ hợp tác với nước ngoài; thu tiền phạt, tịch thu, tịch
biên tài sản, kết dư Ngân sách,...
3.2.2.2. Theo tính chất phát sinh của các khoản thu
Theo tiêu thức này, thu NSNN bao gồm:
- Thu thường xuyên: Là những khoản thu của NSNN phát sinh có
tính chất thường xuyên trong đó chủ yếu nhất là các khoản thu thuế và lệ
phí. Ngoài ra, thu thường xuyên của NSNN còn bao gồm các khoản thu
từ hoạt động sự nghiệp, một số khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà
nước như tiền cho thuê tài sản, thu lãi cho vay, thu tiền phạt, tịch biên,...
- Thu không thường xuyên: Là những khoản thu phát sinh có tính
chất không thường xuyên hay bất thường như tiền bán nhà thuộc sở hữu
Nhà nước, bán cổ phần thuộc sở hữu Nhà nước, thu viện trợ, vay nợ,...
3.2.2.3. Theo tính chất cân đối của Ngân sách Nhà nước
Theo tiêu thức này, thu NSNN bao gồm:
- Thu trong cân đối: Là các khoản thu được xác định và thực hiện
trong mối quan hệ cân đối với chi Ngân sách Nhà nước. Thuộc khoản thu
này bao gồm các khoản thu thường xuyên và thu không thường xuyên.

73
- Thu ngoài cân đối (còn gọi là thu bù đắp thiếu hụt NSNN): khi lập
dự toán NSNN, nếu số thu NSNN không đủ đáp ứng nhu cầu chi NSNN
trong một năm nào đó thì Nhà nước phải huy động thêm các nguồn khác
mà chủ yếu là đi vay.
3.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu Ngân sách Nhà nước
Thu NSNN thực chất là một hình thức phân phối thu nhập giữa Nhà
nước và xã hội dựa trên quyền lực của Nhà nước. Do đó, cần phải xác
định đúng đắn và hợp lý mức độ động viên, tỷ lệ động viên vào NSNN,
bởi lẽ điều này không chỉ ảnh hưởng đến số thu Ngân sách để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước mà còn có những ảnh hưởng tích cực đến
sự phát triển kinh tế - xã hội. Mức độ động viên, lĩnh vực động viên vào
Ngân sách chịu tác động của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội của
quốc gia. Trong thực tế, mức động viên và tỷ lệ động viên vào NSNN ở
mỗi nước có sự khác nhau song đều bắt nguồn từ các yếu tố ảnh hưởng
cơ bản sau đây:
- GDP bình quân đầu người: Tổng GDP phản ánh quy mô của nền
kinh tế, từ đó quyết định đến tổng thu NSNN, còn GDP bình quân đầu
người là một chỉ tiêu phản ánh trình độ tăng trưởng và phát triển của nền
kinh tế, phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước.
GDP bình quân đầu người là một yếu tố khách quan quyết định mức
động viên của Ngân sách Nhà nước. Do đó, khi xác định mức độ động
viên thu nhập vào NSNN mà thoát ly chỉ tiêu này thì sẽ có những ảnh
hưởng tiêu cực đến các vấn đề tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của nền
kinh tế.
- Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế: Đây là chỉ tiêu phản
ánh hiệu quả của đầu tư phát triển nền kinh tế nói chung và hiệu quả của
các doanh nghiệp nói riêng. Tỷ suất lợi nhuận bình quân càng lớn sẽ
phản ánh khả năng tái tạo và mở rộng của các nguồn thu nhập trong nền
kinh tế càng lớn, từ đó đưa tới khả năng nâng cao khả năng huy động cho
NSNN. Đây là yếu tố quyết định đến việc nâng cao tỷ suất thu cho
NSNN. Do vậy, khi xác định tỷ suất thu Ngân sách cần căn cứ vào tỷ
suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế để đảm bảo việc huy động của

74
Ngân sách Nhà nước không gây khó khăn về mặt tài chính cho các hoạt
động kinh tế.
Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, tỷ suất lợi nhuận bình quân trong
nền kinh tế suy giảm, Nhà nước thường giảm thuế suất để khuyến khích
đầu tư và phát triển kinh tế. Ở những nước chậm phát triển và đang phát
triển, tỷ suất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế còn thấp, khi đó Nhà
nước cũng không thể ấn định tỷ suất thu NSNN ở mức cao nhằm kích
thích các hoạt động kinh tế và nuôi dưỡng nguồn thu.
- Khả năng khai thác và xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên
(dầu mỏ và khoáng sản): Đối với các nước có nguồn tài nguyên thiên
nhiên dồi dào phong phú thì việc khai thác và xuất khẩu tài nguyên sẽ
đem lại nguồn thu to lớn cho Ngân sách Nhà nước. Kinh nghiệm của các
nước cho thấy, nếu tỷ trọng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm trên
20% tổng kim ngạch xuất khẩu thì tỷ suất thu Ngân sách sẽ cao và có khả
năng tăng nhanh. Với cùng một điều kiện phát triển kinh tế, quốc gia nào
có tỷ trọng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản lớn thì tỷ lệ động viên vào
NSNN cũng lớn hơn. Ở các nước trong khối OPEC, tỷ trọng này khá cao
nên tỷ lệ động viên vào NSNN cũng khá lớn. Chẳng hạn, tỷ suất thuế của
Venezuela là 20%, Liberia là 22,6%, Tunisia là 29,8%. Ở Việt Nam, tỷ
trọng kim ngạch xuất khẩu dầu mỏ không cao như nhiều nước, song tỷ lệ
động viên vào NSNN cũng đạt trên 20% và góp phần đáng kể vào việc
tăng tỷ lệ động viên vào NSNN.
- Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước: Mức độ trang
trải các khoản chi phí của Nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy
mô tổ chức của bộ máy Nhà nước và hiệu quả hoạt động của bộ máy đó,
những nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng giai
đoạn lịch sử, chính sách sử dụng kinh phí của Nhà nước. Khi các nguồn
tài trợ khác cho chi phí hoạt động của Nhà nước không có khả năng tăng
lên, việc tăng mức độ chi phí của Nhà nước sẽ đòi hỏi tỷ suất thu của
Ngân sách cũng tăng lên. Các nước đang phát triển thường rơi vào tình
trạng nhu cầu chi tiêu của NSNN vượt quá khả năng thu, nên các Chính
phủ thường phải vay nợ để bù đắp bội chi.

75
- Tổ chức bộ máy thu nộp: Tổ chức bộ máy thu nộp có ảnh hưởng
đến chi phí và hiệu quả hoạt động của bộ máy này. Nếu tổ chức hệ thống
cơ quan thuế, hải quan, kho bạc Nhà nước gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao,
chống được thất thu do trốn, lậu thuế thì đây sẽ là yếu tố tích cực làm
giảm tỷ suất thu Ngân sách Nhà nước mà vẫn thỏa mãn được các nhu cầu
chi tiêu của Ngân sách Nhà nước.
Như vậy, để có một mức thu đúng đắn có tác dụng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế cần phải có sự phân tích, đánh giá cụ thể, đầy đủ những
yếu tố tác động đến nó trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi
quốc gia trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, tỷ suất thu NSNN được xem là
hạt nhân cơ bản của chính sách thu Ngân sách nên cần phải được xem xét
trên tất cả các khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội nhằm đảm bảo chính
sách thu có thể đi vào cuộc sống và thực hiện được các mục tiêu mà Nhà
nước đặt ra.
3.2.4. Các nguyên tắc thiết lập hệ thống thu Ngân sách Nhà nước
Việc xây dựng một hệ thống thu Ngân sách không chỉ nhằm mục
đích là đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước mà còn phải chứa
đựng các mục tiêu kinh tế - xã hội khác. Do đó, việc thiết lập một hệ
thống thu Ngân sách Nhà nước phải dựa trên những nguyên tắc định
hướng nhất định. Tuỳ theo những điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi
nước, trong những giai đoạn lịch sử nhất định mà có những nguyên tắc
thiết lập hệ thống thu phù hợp.
Trong lịch sử, việc thiết lập hệ thống thu NSNN thường tuân thủ hai
nguyên tắc chỉ đạo sau:
- Nguyên tắc thu theo lợi ích: Theo nguyên tắc này, việc thiết lập hệ
thống thu NSNN phải căn cứ vào lợi ích mà người đóng góp có thể nhận
được từ những hàng hóa và dịch vụ công cộng mà Nhà nước cung cấp.
Trên thực tế, đây là nguyên tắc có tính chất lý tưởng, bởi lẽ khó có thể
xác định chính xác mức độ lợi ích mà từng người đóng góp có thể nhận
được từ việc Nhà nước cung cấp hàng hóa, dịch vụ công. Mặt khác, việc
thu NSNN mà chủ yếu là thu thuế không chỉ nhằm mục đích trang trải
các chi phí cho Nhà nước trong việc sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch

76
vụ công mà còn nhằm thực hiện nhiều mục đích kinh tế - xã hội khác như
trợ cấp xã hội, cứu tế xã hội,... Do đó, nếu vận dụng nguyên tắc này trong
thiết lập hệ thống thuế thì sẽ thu hẹp các chức năng xã hội của Nhà nước
- Nguyên tắc thu theo khả năng: Theo nguyên tắc này, việc thiết lập
các mức thu phải dựa vào khả năng thu nhập của người nộp. Người có
thu nhập cao thì phải đóng thuế ở mức cao và ngược lại. Đây cũng là một
nguyên tắc lý tưởng bởi lẽ việc thi hành nó sẽ gặp phải một số trở ngại:
khó xác định chính xác và đầy đủ khả năng thu nhập của người nộp và sẽ
tạo ra nhiều mức thuế mới có thể đáp ứng đúng yêu cầu của nguyên tắc
này.
Từ những khó khăn, trở ngại trong việc vận dụng hai nguyên tắc
trên, cho nên trong thực tế, người ta xem hai nguyên tắc trên như là
những định hướng cho việc thiết lập hệ thống thu NSNN.
Ở Việt Nam, trong quá trình cải cách và hoàn thiện hệ thống thu
Ngân sách Nhà nước, đặc biệt là đối với hệ thống thuế, cần tôn trọng và
chấp hành các nguyên tắc căn bản như sau:
- Nguyên tắc ổn định và lâu dài: Nguyên tắc này vừa tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá Ngân sách, vừa kích thích người nộp
thuế cải tiến đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguyên tắc này
đòi hỏi trong những điều kiện hoạt động kinh tế bình thường thì phải ổn
định mức thu, ổn định các sắc thuế, không được gây xáo trộn lớn trong
hệ thống thuế; đồng thời tỷ lệ động viên của Ngân sách Nhà nước phải
thích hợp, đảm bảo kích thích nền kinh tế tăng trưởng, nuôi dưỡng và
phát triển nguồn thu. Thực hiện nguyên tắc này cần phải lựa chọn đối
tượng tính thuế sao cho đối tượng đó ít có sự biến động. Kinh nghiệm
cho thấy thuế đánh trên hàng bán (thuế đánh trên chi phí) có khuynh
hướng ổn định hơn thuế đánh trên thu nhập. Bởi vì, khi nền kinh tế suy
thoái, thu nhập giảm đi làm giảm nguồn thu của Ngân sách Nhà nước từ
thuế thu nhập, nhưng người ta vẫn phải mua sắm, chi tiêu cho những nhu
cầu thiết yếu cho nên nguồn thu từ thuế đánh trên tiêu dùng vẫn không
giảm hoặc biến động không lớn.

77
- Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng: Nguyên tắc này đòi hỏi việc
thiết lập hệ thống thuế phải có quan điểm công bằng đối với mọi người
chịu thuế, không phân biệt địa vị xã hội, thành phần kinh tế. Việc thiết kế
hệ thống thuế chủ yếu dựa trên khả năng thu nhập của người chịu thuế.
Để đảm bảo được nguyên tắc công bằng trong xây dựng hệ thống thuế thì
cần phải kết hợp giữa các sắc thuế trực thu với các sắc thuế gián thu.
- Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn: Nguyên tắc này đòi hỏi trong thiết
lập hệ thống thuế, các điều khoản quy định của các sắc thuế phải rõ ràng,
cụ thể ở từng mức thuế, cơ sở đánh thuế,... để tránh tình trạng lách luật,
trốn thuế. Hơn nữa, việc sửa đổi bổ sung các điều khoản trong các sắc
thuế không phải lúc nào cũng thực hiện được, cho nên các điều khoản
trong luật phải bao quát và phù hợp với hoạt động của nền kinh tế - xã hội.
- Nguyên tắc đơn giản: Nguyên tắc này đòi hỏi trong mỗi sắc thuế
cần hạn chế số lượng thuế suất, xác định rõ mục tiêu chính, không đề ra
quá nhiều mục tiêu trong một sắc thuế. Có như vậy mới tạo điều kiện
thuận lợi cho việc triển khai luật thuế vào thực tiễn, tạo thuận lợi cho cả
người nộp thuế và cơ quan thu thuế, tránh được những hiện tượng tiêu
cực như trốn, lậu thuế, hối lộ,...

3.3. CHI NG¢N S¸CH NHµ N¦íC


3.3.1. Khái niệm, đặc điểm của chi Ngân sách Nhà nước
Chi Ngân sách Nhà nước là quá trình phân phối và sử dụng quỹ
Ngân sách Nhà nước nhằm trang trải các chi phí cho bộ máy Nhà nước
và thực hiện các chức năng của Nhà nước về mọi mặt.
Chi Ngân sách Nhà nước là sự phối hợp giữa hai quá trình phân phối
và sử dụng quỹ Ngân sách Nhà nước. Quá trình phân phối là quá trình
cấp phát tiền từ NSNN để hình thành các loại quỹ gắn với các mục đích
cụ thể trước khi đưa vào sử dụng. Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp
chi dùng khoản tiền cấp phát từ Ngân sách không trải qua việc hình thành
các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Chẳng hạn, việc chi dùng quỹ
Ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản, hoặc các chương trình
kinh tế mục tiêu cụ thể.

78
Việc phân biệt hai quá trình này trong chi tiêu Ngân sách Nhà nước
có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong nghiên cứu theo dõi sự vận động
đặc thù của quỹ NSNN mà còn có ý nghĩa quan trọng trong quản lý Ngân
sách Nhà nước.
Trong mỗi chế độ xã hội, mỗi giai đoạn lịch sử, chi Ngân sách Nhà
nước mang những nội dung kinh tế và cơ cấu khác nhau, song chúng đều
có những đặc điểm chung như sau:
- Chi Ngân sách Nhà nước gắn với bộ máy Nhà nước và những
nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước phải đảm đương trong
thời kỳ. Nhà nước với bộ máy càng lớn, đảm đương nhiều nhiệm vụ thì
mức độ và phạm vi chi của Ngân sách Nhà nước càng lớn. Tuy nhiên,
nguồn thu NSNN có thể huy động được trong từng thời kỳ là có hạn,
điều này buộc Nhà nước phải lựa chọn để xác định rõ phạm vi chi
NSNN. Nhà nước không thể bao cấp tràn lan mà phải tập trung nguồn tài
chính vào những phạm vi nhất định và thực hiện những nhiệm vụ cụ thể
của Nhà nước trong từng thời kỳ.
- Chi NSNN gắn liền với quyền lực của Nhà nước. Quốc hội là cơ
quan quyền lực cao nhất của Nhà nước và là chủ thể duy nhất quyết định
nội dung, cơ cấu và mức độ các khoản chi của Ngân sách Nhà nước trong
từng thời kỳ. Bởi vì cơ quan đó quyết định các nhiệm vụ kinh tế, chính
trị, xã hội của quốc gia, cơ quan đó thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn
dân tộc. Chính phủ là cơ quan hành pháp, có nhiệm vụ tổ chức, quản lý,
điều hành các khoản thu chi NSNN đã được Quốc hội phê chuẩn.
- Hiệu quả chi của Ngân sách Nhà nước được xem xét trên tầm vĩ
mô. Điều đó có nghĩa là hiệu quả các khoản chi của Ngân sách Nhà
nước phải được xem xét một cách toàn diện dựa trên cơ sở của việc
hoàn thành các mục tiêu kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng,... mà Nhà
nước đã đề ra.
- Các khoản chi của Ngân sách Nhà nước mang tính chất không
hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Tính không hoàn trả trực tiếp được thể hiện
ở chỗ là các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân nhận được vốn, kinh
phí, khoản hỗ trợ,... từ Ngân sách Nhà nước cấp thì không phải ghi nợ và

79
không phải hoàn trả lại một cách trực tiếp cho Ngân sách. Mặt khác,
không phải mọi khoản thu với mức độ, số lượng của những địa chỉ cụ thể
đều được hoàn lại dưới các khoản chi của Ngân sách Nhà nước. Đây là
điểm khác biệt của chi NSNN với các việc cấp tín dụng, đóng bảo
hiểm,... Tuy vậy, Nhà nước cũng có những khoản chi mang tính chất
hoàn trả như việc cho vay ưu đãi có hoàn trả gốc và lãi để giải quyết
công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo,...
- Các khoản chi của Ngân sách Nhà nước là một bộ phận cấu thành
luồng vận động tiền tệ trong nền kinh tế nên nó thường có những tác
động đến sự vận động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, tiền
lương, lãi suất, tỷ giá hối đoái,... Do đó, việc nhận thức rõ mối quan hệ
này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc kết hợp chặt chẽ giữa chính sách
Ngân sách với chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách lãi
suất,... để thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô (như tăng trưởng
kinh tế, kiềm chế lạm phát, tạo công ăn việc làm, ổn định giá cả, cân
bằng cán cân thanh toán,...).
3.3.2. Phân loại chi Ngân sách Nhà nước
Phân loại chi NSNN được hiểu là việc sắp xếp các khoản chi NSNN
thành các nhóm, loại nhất định theo những tiêu thức phù hợp nhằm phục
vụ cho các mục đích quản lý. Có thể phân loại chi NSNN theo các tiêu
thức chủ yếu sau.
3.3.2.1. Theo nội dung của các khoản chi
Theo tiêu thức này, các khoản chi NSNN bao gồm:
- Chi đầu tư phát triển kinh tế: Đây là khoản chi quan trọng và
thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi của Ngân sách Nhà nước.
Khoản chi này có tác dụng tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế,
tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, làm tăng tổng sản phẩm quốc
nội và tạo tiền đề để tái tạo và tăng nguồn thu NSNN. Mặt khác, khoản
chi này biểu hiện rõ vai trò của Nhà nước trong quản lý và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế. Khoản chi này được thực hiện dưới hình thức NSNN cấp
vốn cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, dự án Nhà nước, chi cho các

80
chương trình phát triển kinh tế mục tiêu, chi đầu tư vốn cho các doanh
nghiệp Nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế,
chi góp vốn vào các công ty, chi bổ sung quỹ dự trữ Nhà nước về vật tư,
hàng hóa thiết yếu, tiền tệ,...
- Chi phát triển sự nghiệp: Đây là khoản chi của NSNN nhằm phát
triển các lĩnh vực sự nghiệp trong xã hội. Khoản chi này thuộc lĩnh vực
phi sản xuất vật chất, song nó đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển toàn diện của nền kinh tế - xã hội. Bởi vì việc phát triển các sự
nghiệp thực chất là phát triển về trí tuệ, thể chất, tinh thần, chăm sóc sức
khỏe cho con người,... Điều này sẽ có tác dụng to lớn trong phát triển
kinh tế và góp phần quan trọng tạo ra sự toàn diện và bền vững của xã
hội. Do vậy, các khoản chi này gián tiếp tác động đến quá trình tái sản
xuất xã hội trong tương lai. Xu hướng chung là khi nền kinh tế càng phát
triển, xã hội càng văn minh thì tỷ trọng của khoản chi này sẽ ngày càng
gia tăng trong cơ cấu chi của Ngân sách Nhà nước. Các khoản chi NSNN
cho phát triển sự nghiệp bao gồm chi cho sự nghiệp kinh tế; chi cho y tế,
chăm sóc sức khỏe cộng đồng; chi cho giáo dục, đào tạo, nghiên cứu
khoa học; chi phát triển văn hóa, thể dục, thể thao. Các khoản chi này
thường được thực hiện dưới hình thức NSNN cấp kinh phí đầu tư xây
dựng cơ bản, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và cấp phát kinh phí hoạt
động hàng năm cho các tổ chức sự nghiệp công lập.
- Chi cho quản lý Nhà nước: Đây là khoản chi nhằm đảm bảo duy trì
và cải tiến sự hoạt động của của bộ máy Nhà nước. Khoản chi này được
thực hiện dưới hình thức NSNN cấp kinh phí đầu tư cơ sở vật chất (xây
dựng trụ sở, văn phòng làm việc,...), trang bị phương tiện kỹ thuật (máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải, phần mềm máy tính,...) và cấp kinh phí
hoạt động hàng năm (chi lương cho cán bộ quản lý hành chính Nhà nước,
chi hàng hóa thường xuyên của cơ quan quản lý Nhà nước,...) cho các cơ
quan quản lý Nhà nước ở tất cả các cấp, các ngành, các khu vực. Quy mô
khoản chi này phụ thuộc vào quy mô bộ máy Nhà nước và những nhiệm
vụ bộ máy đảm nhận trong từng thời kỳ. Nhìn chung, khi xã hội càng
phát triển, quy mô bộ máy Nhà nước sẽ càng gọn nhẹ thì tỷ trọng khoản
chi này trong cơ cấu chi NSNN sẽ càng giảm.

81
- Chi cho an ninh, quốc phòng: Là khoản chi cho xây dựng, duy trì
và cải tiến sự hoạt động của các lực lượng an ninh, quốc phòng nhằm
đảm bảo sức mạnh chuyên chính của Nhà nước, bảo vệ tổ quốc và duy trì
trật tự trị an cho xã hội. Khoản chi này được thực hiện dưới hình thức
NSNN cấp phát kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ
thuật và cấp kinh phí hoạt động hàng năm cho các đơn vị lực lượng cảnh
sát, quân đội, trật tự an toàn xã hội. Mức độ khoản chi này phụ thuộc vào
tình hình chính trị, xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
- Chi bảo đảm và phúc lợi xã hội: Là khoản chi nhằm đảm bảo và
nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần cho dân cư, đặc biệt là tầng
lớp người nghèo trong xã hội. Khoản chi này được thực hiện dưới hình
thức NSNN chi cho bảo hiểm xã hội (khi quỹ bảo hiểm xã hội bị mất cân
đối), chi bảo đảm xã hội (trợ cấp NSNN cho các đối tượng chính sách xã
hội như trợ cấp cho người già yếu, tàn tật, trẻ em mồ côi, thương bệnh
binh,...) và chi cho cứu tế xã hội (trợ cấp NSNN cho người dân bị thiệt
hại do hỏa hoạn, động đất, bão lụt,...). Chi NSNN cho phúc lợi và bảo
đảm xã hội phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của từng nước và
bản chất của chế độ xã hội. Xu hướng chung là nền kinh tế càng phát
triển, xã hội càng văn minh thì tỷ trọng khoản chi này ngày càng tăng.
3.3.2.2. Theo mục đích chi
Theo tiêu thức trên, các khoản chi NSNN bao gồm:
- Chi cho tích lũy: Đây là các khoản chi NSNN nhằm mục đích làm
tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế, góp phần tăng trưởng
kinh tế. Thuộc loại hình chi tiêu này bao gồm các khoản chi NSNN cho
đầu tư phát triển và một số khoản chi tích lũy khác.
- Chi cho tiêu dùng: Là các khoản chi NSNN không nhằm mục đích
trực tiếp tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai mà chỉ là
tiêu dùng ở hiện tại. Khoản chi này thường bao gồm chi cho hoạt động sự
nghiệp, chi quản lý hành chính Nhà nước, chi quốc phòng, an ninh và
một số khoản chi cho tiêu dùng khác.

82
3.3.2.3. Theo thời hạn tác động của các khoản chi và phương thức
quản lý:
Theo tiêu thức trên, chi NSNN bao gồm:
- Chi thường xuyên: Bao gồm các khoản chi nhằm duy trì hoạt động
thường xuyên của Nhà nước, khoản chi này thường mang tính chất chi
cho tiêu dùng. Về nguyên tắc, Nhà nước không được sử dụng toàn bộ số
thu từ thuế, phí và lệ phí để chi thường xuyên, bởi lẽ NSNN phải dành
một phần nguồn thu chủ yếu này cho đầu tư phát triển. Các khoản chi
thường xuyên của NSNN thông thường là chi tiền lương, tiền công cho
cán bộ công chức Nhà nước, chi mua sắm hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho
hoạt động của Nhà nước, chi chuyển giao thường xuyên.
- Chi đầu tư phát triển: Bao gồm các khoản chi có tác dụng làm tăng
cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước và góp phần tăng trưởng kinh tế.
Các khoản chi thường là chi cho đầu tư cơ sở hạ tầng, chi đầu tư vốn và
hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp Nhà nước và chi NSNN cho các dự án,
chương trình quốc gia.
- Chi trả nợ và viện trợ: Chi trả nợ là các khoản chi nhằm thực hiện
nghĩa vụ của Nhà nước trong việc trả nợ các khoản đã vay trong nước và
nước ngoài dưới các hình thức khác nhau như phát hành công trái, trái
phiếu Nhà nước, vay theo các hiệp định ký kết với nước ngoài,... Chi
viện trợ là khoản chi của NSNN để viện trợ cho nước ngoài nhằm thực
hiện nghĩa vụ quốc tế của Nhà nước.
- Chi dự trữ: Là những khoản chi NSNN để hình thành và bổ sung
các quỹ dự trữ vật tư, hàng hóa thiết yếu, ngoại tệ,...
3.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi Ngân sách Nhà nước
Để đánh giá sự tích cực, tiến bộ Ngân sách của một quốc gia, người
ta thường xem xét cơ cấu và nội dung thu chi của nó. Nội dung, cơ cấu
các khoản chi NSNN là sự phản ánh những nhiệm vụ kinh tế, chính trị,
xã hội mà Nhà nước đảm đương trong từng giai đoạn lịch sử.
Cơ cấu chi Ngân sách Nhà nước được hiểu là hệ thống các khoản chi
Ngân sách bao gồm các khoản chi và tỷ trọng của nó. Hệ thống này rất

83
đa dạng phong phú và luôn biến động theo tình hình kinh tế, xã hội,
chính trị. Nội dung, cơ cấu chi Ngân sách Nhà nước trong từng thời kỳ
chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm:
- Bản chất chế độ xã hội: Chế độ xã hội quyết định đến bản chất,
định hướng phát triển kinh tế - xã hội cũng như những nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, xã hội của Nhà nước, cho nên lẽ đương nhiên nội dung, cơ cấu
chi Ngân sách Nhà nước chịu sự ràng buộc của chế độ xã hội. Các quốc
gia có chế độ xã hội khác nhau thì nội dung, cơ cấu chi Ngân sách Nhà
nước cũng khác nhau. Ở các nước phát triển, xã hội văn minh thì tỷ trọng
chi Ngân sách cho các mục tiêu phúc lợi xã hội như giáo dục, đào tạo, y
tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, phúc lợi xã hội cao hơn các nước khác.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, cơ cấu chi Ngân sách Nhà nước
Việt Nam trong những năm gần đây có sự chuyển biến theo xu hướng
chung trên thế giới, tỷ trọng chi cho giáo dục và y tế ngày càng được
nâng cao.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất phát triển
sẽ kéo theo đó là nhu cầu vốn để phát triển kinh tế tăng lên, khi đó, Nhà
nước với vai trò là cơ quan quản lý vĩ mô nền kinh tế phải có trách nhiệm
đáp ứng nhu cầu này, từ đó ảnh hưởng đến nội dung và cơ cấu chi
NSNN. Lực lượng sản xuất phát triển sẽ tác động làm tăng thu cho Ngân
sách Nhà nước, tạo khả năng và điều kiện cho việc hình thành nội dung,
cơ cấu chi phù hợp với nhu cầu phát triển. Bên cạnh đó, sự phát triển của
lực lượng sản xuất xã hội cũng đặt ra những yêu cầu thay đổi nội dung,
cơ cấu chi NSNN trong từng thời kỳ.
- Khả năng tích luỹ của nền kinh tế: Thu nhập của các tổ chức và cá
nhân trong xã hội thường được phân chia và sử dụng vào các mục đích
tích lũy và tiêu dùng. Khi khả năng tích luỹ trong nền kinh tế càng lớn thì
khả năng chi đầu tư phát triển kinh tế càng cao. Tuy nhiên, tỷ trọng đầu
tư của Ngân sách Nhà nước cho phát triển kinh tế còn tuỳ thuộc ở khả
năng tập trung nguồn tích luỹ vào Ngân sách Nhà nước và chính sách chi
NSNN trong từng thời kỳ nhất định.

84
- Mô hình tổ chức bộ máy của Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ:
Với mỗi mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước khác nhau thì nhu cầu
chi tiêu nhằm duy trì quyền lực chính trị của bộ máy đó cũng khác nhau.
Nhìn chung, bộ máy quản lý Nhà nước càng gọn nhẹ thì càng tiết kiệm
được các khoản chi NSNN nhằm duy trì bộ máy đó.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, gắn với những nhiệm vụ cụ
thể của Nhà nước về phát triển kinh tế, ổn định chính trị, giải quyết các
vấn đề xã hội mà Nhà nước quyết định nội dung và cơ cấu chi cho phù
hợp. Nói cách khác, những nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước trong mỗi thời
kỳ sẽ quyết định đến nội dung chi và định hướng phân bổ chi tiêu NSNN
Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nội dung, cơ cấu chi
Ngân sách Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc bố trí các khoản
chi của Ngân sách Nhà nước một cách khách quan, phù hợp với tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước.
3.3.4. Các nguyên tắc tổ chức chi Ngân sách Nhà nước
Chi Ngân sách Nhà nước là một mặt hoạt động cơ bản của NSNN,
nó có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia. Trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, nếu bố trí các khoản chi
Ngân sách một cách tuỳ tiện, ngẫu hứng, thiếu sự phân tích hoàn cảnh cụ
thể sẽ có những ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Do đó, việc tổ chức chi Ngân sách Nhà nước phải tuân thủ
những nguyên tắc nhất định, đó là:
Thứ nhất, dựa trên khả năng các nguồn thu có thể huy động được để
bố trí các khoản chi: nguyên tắc này đòi hỏi việc quyết định các khoản
chi NSNN phải trên cơ sở gắn chặt với nguồn thu thực tế có thể huy
động được trong nền kinh tế. Nói cách khác, mức độ chi và cơ cấu các
khoản chi Ngân sách phải được hoạch định dựa trên cơ sở các nguồn
thu Ngân sách và khả năng tăng trưởng GDP của quốc gia. Nếu vi phạm
nguyên tắc này thì sẽ dẫn đến tình trạng bội chi Ngân sách quá lớn và
để bù đắp bội chi, Nhà nước có thể phải gia tăng nợ Chính phủ hoặc

85
phải tăng chỉ số phát hành tiền, từ đó ảnh hưởng xấu đến hệ số an toàn
tài chính quốc gia hoặc đưa đến khả năng bùng nổ lạm phát, gây mất ổn
định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả: các khoản chi
NSNN thường mang tính bao cấp với khối lượng chi khá lớn nên dễ dẫn
đến tình trạng buông lỏng quản lý, lãng phí, kém hiệu quả. Do vậy,
nguyên tắc này đòi hỏi các tổ chức, các đơn vị sử dụng nguồn kinh phí
hay nguồn vốn của Ngân sách cấp phát cần phải nâng cao tinh thần
trách nhiệm và đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả. Để quán triệt
nguyên tắc này trong việc sắp xếp, bố trí các khoản chi của Ngân sách
Nhà nước thì cần phải xây dựng và hoàn thiện các định mức chi, tiêu
chuẩn chi có căn cứ khoa học và thực tiễn, tổ chức các khoản chi theo
các chương trình có mục tiêu. Khi phê duyệt các khoản chi NSNN, cần
phải xem xét kỹ chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, đơn vị sử dụng
vốn và kinh phí NSNN.
Thứ ba, đảm bảo yêu cầu tập trung có trọng điểm: nguyên tắc này
đòi hỏi việc phân bố các khoản chi Ngân sách phải căn cứ vào và ưu tiên
cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trọng điểm của Nhà nước,
tránh tình trạng đầu tư tràn lan, dàn trải, thiếu hiệu quả. Điều này sẽ góp
phần quan trọng để thực hiện thành công các chương trình, dự án lớn,
trọng tâm của quốc gia, từ đó có tác động dây chuyền, thúc đẩy các
ngành, các lĩnh vực phát triển. Mặt khác, việc thực hiện đúng nguyên tắc
này còn đảm bảo tính mục đích và khả năng tiết kiệm các khoản chi của
Ngân sách.
Thứ tư, đảm bảo yêu cầu Nhà nước và nhân dân cùng làm trong việc
bố trí các khoản chi của Ngân sách Nhà nước, đặc biệt là các khoản chi
mang tính chất phúc lợi xã hội: nguyên tắc này đòi hỏi khi quyết định
các khoản chi Ngân sách cho một lĩnh vực nhất định cần phải cân nhắc
khả năng huy động các nguồn lực khác để giảm nhẹ gánh nặng cho Ngân
sách Nhà nước. Quán triệt nguyên tắc này không những giảm nhẹ các
khoản chi tiêu của NSNN mà còn nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi
công dân trong xã hội, tăng cường sự giám sát của dân chúng đối với chi
tiêu của NSNN.

86
Thứ năm, phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các
cấp chính quyền theo qui định của pháp luật để bố trí các khoản chi cho
thích hợp: nguyên tắc này đòi hỏi phải căn cứ vào những nhiệm vụ cụ thể
của các cấp chính quyền theo luật định để phân giao nhiệm vụ chi NSNN
nhằm tránh việc bố trí các khoản chi chồng chéo, khó kiểm tra giám sát,
đồng thời nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các cấp.
Thứ sáu, kết hợp chặt chẽ các khoản chi Ngân sách Nhà nước với
việc điều hành khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái để tạo nên
công cụ tổng hợp cùng tác động, thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô:
chi NSNN thường được thực hiện với khối lượng lớn nên có tác động
mạnh mẽ đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Do vậy, khi bố trí các
khoản chi NSNN, cần phải phân tích những tác động của nó đến khối
lượng tiền tệ trong nền kinh tế, cũng như những ảnh hưởng đến diễn biến
lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái,... từ đó tạo nên công cụ tổng hợp nhằm
điều tiết nền kinh tế và thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế vĩ mô.

3.4. BéI CHI Vµ C¢N §èI NG¢N S¸CH NHµ N¦íC


3.4.1. Khái niệm và các loại bội chi Ngân sách Nhà nước
Khi lập dự toán NSNN cho một năm tài khóa, có thể xảy ra các trạng
thái thể hiện mối quan hệ giữa thu và chi NSNN:
- NSNN cân bằng: Là trạng thái NSNN xuất hiện khi các nguồn thu
có thể huy động vừa đủ để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của NSNN
- NSNN bội thu (thặng dư): Là trạng thái NSNN xuất hiện khi tổng
số thu NSNN lớn hơn tổng nhu cầu chi tiêu của NSNN. Tình trạng này
có thể bắt nguồn từ các lý do sau: Nhà nước đã huy động các nguồn tài
chính quá mức cần thiết; hoặc các chương trình chi tiêu NSNN không
tương ứng với khả năng tạo nguồn thu; hoặc nền kinh tế tăng trưởng tốt
đã tái tạo nguồn thu dồi dào và Nhà nước chủ động sắp xếp trạng thái
thặng dư Ngân sách cho những năm tài khóa tiếp theo
- NSNN bội chi (thâm hụt): Là trạng thái NSNN xuất hiện khi tổng
nhu cầu chi tiêu lớn hơn tổng số thu NSNN.

87
Như vậy, bội chi Ngân sách Nhà nước được hiểu là tình trạng mất
cân đối của Ngân sách Nhà nước khi thu không đủ chi.
Căn cứ vào nguyên nhân gây ra, người ta chia bội chi Ngân sách
Nhà nước ra làm 2 loại: bội chi cơ cấu và bội chi chu kỳ.
Bội chi cơ cấu xảy ra do sự thay đổi chính sách thu chi của Nhà
nước, Nhà nước chủ động phát hành thêm tiền vào lưu thông để chi tiêu
nhằm kích thích kinh tế phát triển. Khi bội chi cơ cấu tăng lên người ta
thường nói Chính phủ đang dùng chính sách tài khóa để kích thích nền
kinh tế phát triển
Bội chi chu kỳ xảy ra do sự thay đổi của chu kỳ kinh tế và thường
loại bội chi này xuất hiện vào giai đoạn suy thoái của nền kinh tế.
Có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến bội chi NSNN song
dù là nguyên nhân nào thì nó vẫn là một hiện tượng Ngân sách có thể gây
tác hại đến sự phát triển kinh tế nếu biện pháp xử lý bội chi không hợp
lý. Một nguyên nhân mang tính phổ biến tồn tại ở mọi quốc gia trên thế
giới, từ nước chưa phát triển đến nước có nền kinh tế phát triển, đó là
nhu cầu và thực tế chi của Nhà nước không thể cắt giảm mà ngày càng
tăng lên, trong khi đó việc tăng thu Ngân sách bằng công cụ thuế sẽ dẫn
đến sự phản đối từ phía dân chúng, tạo sự kìm hãm tốc độ tăng trưởng
kinh tế, hạn chế tiêu dùng dẫn đến khả năng suy thoái nền kinh tế. Còn
đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước nghèo, thì bội chi
Ngân sách là không thể tránh khỏi. Bởi tình trạng thu nhập bình quân đầu
người quá thấp không cho phép Chính phủ tăng tỷ lệ động viên từ GDP
vào Ngân sách Nhà nước, trong khi đó nhu cầu chi tiêu theo chức năng
của Chính phủ lại tăng lên nhất là khi Nhà nước thực hiện chương trình
đầu tư nhằm cải tạo cơ sở hạ tầng, điều chỉnh cơ cấu kinh tế,...
Thực tế cho thấy, bội chi Ngân sách mà không có nguồn bù đắp
hợp lý sẽ dẫn tới lạm phát, gây tác hại xấu đối với nền kinh tế cũng như
đời sống xã hội. Nếu bội chi Ngân sách được bù đắp bằng phát hành
thêm tiền vào lưu thông thì sẽ dẫn đến bùng nổ lạm phát. Chẳng hạn, ở
Việt Nam từ năm 1990 trở về trước bội chi Ngân sách được Nhà nước
bù đắp chủ yếu bằng cách phát hành thêm tiền vào lưu thông nên đã dẫn

88
đến tỷ lệ lạm phát giai đoạn này rất cao, từ 1988 đến 1990, tỷ lệ lạm
phát mỗi năm lần lượt là 774,7%; 223,1% ; là 393,8%; nhưng từ năm
1991 mặc dù bội chi Ngân sách còn ở mức độ lớn, nhưng do bù đắp
bằng các biện pháp tích cực khác nên lạm phát đã giảm và không còn ở
mức cao như trước
Bội chi Ngân sách không phải là hoàn toàn tiêu cực. Nếu bội chi ở
một mức độ hợp lý (thông thường dưới 5% GDP) thì lại có tác dụng kích
thích kinh tế phát triển. Vì thế ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển
ở trình độ cao, Nhà nước vẫn chỉ cố gắng thu hẹp bội chi Ngân sách chứ
không loại trừ nó hoàn toàn. Nhưng cho dù bội chi Ngân sách ở mức độ
nào thì mọi Chính phủ đều phải có biện pháp để kiểm soát và kiềm chế
bội chi Ngân sách Nhà nước.
3.4.2. Giải quyết bội chi và cân đối Ngân sách Nhà nước
Bội thu hay bội chi NSNN thường phản ánh tình trạng của nền kinh
tế và định hướng điều hành chính sách NSNN. Tuy nhiên, sự mất cân
bằng Ngân sách không phải lúc nào cũng là biểu hiện của tình trạng tốt
xấu của nền kinh tế và cũng không hẳn là biểu hiện của sự điều hành
NSNN hợp lý hay chưa hợp lý. Bội chi NSNN phản ánh sự thiếu hụt của
nguồn lực so với nhu cầu sử dụng và thường có những tác động mạnh mẽ
đến các chỉ số kinh tế vĩ mô. Chẳng hạn, chính sách bội chi chủ động
trong phạm vi kiểm soát được có thể đưa nền kinh tế thoát khỏi giai đoạn
suy thoái, song nếu tình trạng bội chi kéo dài sẽ làm cho công nợ gia
tăng, gây áp lực tăng lạm phát,...
Khi xảy ra tình trạng bội chi NSNN, Nhà nước phải tìm kiếm các
nguồn tài chính để bù đắp thiếu hụt Ngân sách, đồng thời còn phải áp
dụng các giải pháp kiểm soát, khống chế bội chi. Thông thường, Nhà
nước sử dụng các nhóm giải pháp cơ bản sau để bù đắp thiếu hụt, đảm
bảo cân đối Ngân sách:
- Tăng thu, giảm chi NSNN
Về mặt nguyên lý, giải pháp chủ yếu nhất để cân đối Ngân sách
nhằm ổn định tình hình tài chính vĩ mô là tăng thu và giảm chi Ngân

89
sách. Tăng thu và giảm chi là biện pháp truyền thống nhưng không phải
bao giờ cũng thực hiện thành công được, bởi vì ở đây xảy ra hai nghịch
lý khó giải quyết. Một là, trong bối cảnh tỷ lệ tăng trưởng GDP chưa lớn
nếu phần GDP tập trung vào Ngân sách Nhà nước quá lớn sẽ làm hạn chế
đến khả năng tích lũy, đầu tư và tiêu dùng ở khu vực tư nhân, từ đó làm
giảm động lực phát triển kinh tế. Hai là, khả năng giảm chi Ngân sách
cũng có giới hạn nhất định, nếu giảm chi vượt quá một giới hạn nào đó
thì cũng ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội và
việc thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo an ninh quốc phòng.
Thông thường, khi thực hiện biện pháp tăng thu và giảm chi Ngân
sách, Nhà nước phải rà soát và tổ chức lại hệ thống thu Ngân sách, đảm
bảo thu đúng thu đủ, hạn chế tình trạng thất thu Ngân sách Nhà nước,
đồng thời tìm kiếm nguồn thu mới có khả năng huy động được. Bên cạnh
đó, Nhà nước phải rà soát lại quá trình chi tiêu Ngân sách, triệt để thực
hiện các nguyên tắc chi của Ngân sách Nhà nước, hạn chế tình trạng thất
thoát, lãng phí, tiêu cực trong quá trình sử dụng quỹ Ngân sách.
- Vay nợ để bù đắp bội chi
Hiện nay, để cân đối thu chi Ngân sách, bên cạnh các biện pháp tăng
thu giảm chi hợp lý, hầu hết các nước đều áp dụng biện pháp vay nợ
trong và ngoài nước để bù đắp thiếu hụt Ngân sách. Đây là biện pháp
giúp Nhà nước có thể bù đắp thiếu hụt Ngân sách mà không phải phát
hành tiền nên không gây ra hiện tượng lạm phát. Tuy vậy, biện pháp này
có thể tạo ra gánh nặng công nợ cho Nhà nước nếu Nhà nước sử dụng
các khoản vay không hiệu quả, không có đủ nguồn tài chính để trả nợ và
từ đó có thể tạo ra nguy cơ khủng hoảng tài chính. Do đó, khi vay nợ để
bù đắp thiếu hụt Ngân sách thì Nhà nước cần phải tính đến mức độ vay
nợ, tỷ lệ nợ an toàn của quốc gia trên tổng GDP, lãi suất tiền vay, thời
hạn vay, hiệu quả sử dụng tiền vay, hình thức vay, khả năng tái tạo
nguồn thu để đảm bảo trả nợ,... cũng như việc cải thiện môi trường kinh
tế, chính trị của đất nước, tạo thế ổn định để đảm bảo huy động được các
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nước và nước ngoài bù đắp cho sự
thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước.

90
- Phát hành tiền để bù đắp bội chi
Phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt Ngân sách được xem là một biện
pháp có thể thực hiện dễ dàng và Nhà nước không bị ràng buộc về trách
nhiệm tài chính. Tuy nhiên, biện pháp này sẽ làm tăng khối lượng tiền
trong lưu thông và gây ra hiện tượng lạm phát. Chính vì vậy, trong điều
kiện nền kinh tế thị trường, Nhà nước phải ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm
chế và kiểm soát lạm phát thì biện pháp phát hành tiền thường không
được lựa chọn để bù đắp thiếu hụt Ngân sách. Ở Việt Nam, từ nhiều
năm nay, Nhà nước đã không sử dụng biện pháp này để bù đắp thiếu
hụt Ngân sách.
Trong những tình huống nhất định, bằng các quan hệ ngoại giao tích
cực, các nước chậm phát triển và đang phát triển có thể sử dụng các biện
pháp khác để huy động bổ sung nguồn tài chính bù đắp thiếu hụt Ngân
sách như kêu gọi viện trợ, ủng hộ của nước ngoài,...

3.5. HÖ THèNG NG¢N S¸CH Vµ PH¢N CÊP QU¶N Lý NG¢N


S¸CH NHµ N¦íC
3.5.1. Hệ thống ngân sách nhà nước
Hệ thống ngân sách là tổng thể các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ
với nhau trong quá trình tổ chức huy động, quản lý các khoản thu và
thực hiện nhiệm vụ chi của mỗi cấp ngân sách tương ứng với cấp
chính quyền.
Ở hầu hết các Quốc gia trên thế giới, hệ thống ngân sách Nhà nước
đều được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức bộ máy quản lý hành
chính Nhà nước. Cụ thể, hệ thống ngân sách Nhà nước được tổ chức theo
một trong hai mô hình sau:
- Mô hình hệ thống Nhà nước được tổ chức theo thể chế liên bang
như Mỹ, Canada, Đức,…, hệ thống NSNN bao gồm:
+ Ngân sách liên bang.
+ Ngân sách các bang.
+ Ngân sách địa phương trực thuộc các bang.

91
- Mô hình hệ thống Nhà nước được tổ chức thống nhất như Trung
Quốc, Pháp, Việt Nam,…, hệ thống NSNN bao gồm:
+ Ngân sách Trung ương (NSTW).
+ Ngân sách Địa phương (NSĐP).
Hệ thống NSNN được tổ chức tương ứng với hệ thống chính quyền,
do vậy các cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền. Ví
dụ: ở cấp chính quyền trung ương có Ngân sách trung ương, cấp chính
quyền tỉnh thì có Ngân sách tỉnh…Tuy nhiên, để cấp ngân sách được
hình thành trên cơ sở cấp chính quyền phải đảm bảo 2 điều kiện:
- Khả năng nguồn thu trên vùng lãnh thổ mà cấp chính quyền đó cai
quản có thể đáp ứng phần lớn nhu cầu chi tiêu của chính quyền.
- Nhiệm vụ của cấp chính quyền được giao phó tương đối toàn diện,
nghĩa là chính quyền đó không chỉ có nhiệm vụ phát triển hành chính xã
hội mà còn có nhiệm vụ tổ chức quản lý và phát triển kinh tế trên vùng
lãnh thổ mà chính quyền đó cai quản.
Như vậy, để có một cấp ngân sách trước hết phải có một cấp chính
quyền với những nhiệm vụ phát triển toàn diện, đồng thời phải có những
khả năng nhất định về nguồn thu trên vùng lãnh thổ đó.
Ở Việt Nam, từ năm 1977 trở về trước, hệ thống NSNN được tổ
chức thành 2 cấp: Ngân sách Trung ương và Ngân sách tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương. Điều đó phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế và
nhiệm vụ mà mỗi cấp chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
đảm nhận thời kỳ đó.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 4, vai trò kinh tế - xã hội của
chính quyền cấp huyện được đề cao. Chính vì thế, bên cạnh ngân sách
Trung ương và ngân sách cấp Tỉnh thì ngân sách cấp Huyện (Quận),
ngân sách xã (phường) được hình thành và nằm trong hệ thống NSNN.
Hiện nay, xuất phát trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Bộ máy quản lý
hành chính Nhà nước ở Việt Nam được tổ chức theo cấp chính quyền
trung ương và cấp chính quyền địa phương.

92
Cấp chính quyền địa phương bao gồm:
 Chính quyền Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương;
 Chính quyền Quận, Huyện, Thị xã, Thành phố trực thuộc Tỉnh;
 Chính Quyền xã, phường, thị trấn trực thuộc Huyện.
Mỗi cấp chính quyền địa phương đều có Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân. Căn cứ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ
chức bộ máy chính quyền Nhà nước, thì các Bộ có chức năng quản lý
nhà nước về ngành, chính quyền Nhà nước các cấp có nhiệm vụ quản lý
các mặt kinh tế, xã hội trên địa bàn. Vì vậy, các cấp chính quyền Nhà
nước đều phải có ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ được giao theo
luật định và phù hợp với khả năng quản lý của các cấp chính quyền. Dựa
vào cơ sở này, Luật NSNN năm 2002 khẳng định hệ thống NSNN gồm
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương
bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính có cấp Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân. Cụ thể, cơ cấu hệ thống NSNN Việt Nam hiện nay
được mô tả theo sơ đồ sau đây:

Ngân sách Nhà nước

Ngân sách Trung Ương Ngân sách Tỉnh

Ngân sách cấp Tỉnh Ngân sách huyện

Ngân sách
Ngân sách xã
cấp huyện

Sơ đồ 3.1: Hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam

93
NSTW bao gồm các đơn vị dự toán của cấp này. Mỗi bộ, mỗi cơ
quan trung ương là một đơn vị dự toán của NSTW.
NSĐP là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các cấp chính
quyền bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các cấp. NS xã, phường,
thị trấn vừa là một cấp ngân sách, vừa là một bộ phận cấu thành của ngân
sách huyện và quận… Ngân sách huyện, quận vừa là một cấp ngân sách,
vừa là một bộ phận cấu thành của ngân sách tỉnh.
Giữa các cấp ngân sách có sự tương tác lẫn nhau trong quá trình thu,
chi ngân sách nhà nước. Sự tương tác này được hình thành trên cơ sở có
sự thống nhất về thể chế chính trị, thống nhất về cơ sở kinh tế, và sự ràng
buộc bởi các nguyên tắc tổ chức hệ thống chính quyền. Hệ thống NSNN
được điều hành tốt vừa là kết quả vừa là nguyên nhân của một nền kinh
tế - xã hội ổn định. Một cấp ngân sách được điều hành tốt không chỉ liên
quan đến việc ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi
của cấp chính quyền tương ứng quản lý mà còn góp phần vào việc điều
hành ngân sách cấp khác, địa phương khác thuận lợi hơn và ngược lại.
Ngân sách trung ương phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành và giữ
vai trò chủ đạo trong hệ thống NSNN. Nó bắt nguồn từ vị trí, vai trò của
chính quyền trung ương được hiến pháp quy định đối với việc thực hiện
các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. NSTƯ cấp phát kinh
phí cho yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trung ương
(sự nghiệp văn hoá, sự nghiệp an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội,
đầu tư phát triển…). Nó còn là trung tâm điều hoà hoạt động ngân sách
của địa phương. Trên thực tế, NSTƯ là ngân sách của cả nước, tập trung
đại bộ phận nguồn tài chính quốc gia và đảm bảo các nhiệm vụ chi tiêu
có tính chất huyết mạch của cả nước.
Ngân sách địa phương là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các
cấp chính quyền bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các cấp.
Ngoài ngân sách xã chưa có đơn vị dự toán, các cấp ngân sách khác đều
bao gồm một số đơn vị dự toán của cấp ấy hợp thành.

94
3.5.2. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
3.5.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Khi đã hình thành hệ thống ngân sách nhà nước thì việc phân cấp
quản lý ngân sách là một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ bắt
nguồn từ cơ chế kinh tế, mà còn từ cơ chế phân cấp quản lý về hành
chính và yêu cầu hiệu quả trong quản lý NSNN. Mỗi cấp chính quyền
đều có nhiệm vụ cần đảm bảo bằng những nguồn tài chính nhất định mà
các nhiệm vụ đó mỗi cấp trực tiếp đề xuất và bố trí chi tiêu sẽ hiệu quả
cao hơn là sự áp đặt từ trên xuống. Mặt khác xét về yếu tố lịch sử và điều
kiện thực tế hiện nay, trong khi chống tư tưởng địa phương cục bộ vẫn
cần chính sách biện pháp nhằm khuyến khích chính quyền các địa
phương phát huy độc lập, tự chủ, tính chủ động sáng tạo của địa phương
mình trong phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước được hiểu như sau:
Phân cấp quản lý NSNN là sự phân chia quyền hạn, trách nhiệm
của chính quyền Nhà nước các cấp trong việc quản lý, điều hành nhiệm
vụ thu chi của mỗi cấp ngân sách.
Về mặt bản chất, việc phân chia về quyền hạn và trách nhiệm không
phải là sự phân chia quyền lực một cách đơn thuần, không phải là sự cắt
khúc ngân sách thành những quỹ tiền tệ độc lập trực thuộc trung ương
và trực thuộc địa phương mà sự phân chia quyền hạn và trách nhiệm ở
đây để giải quyết các mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước trung
ương với các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề
của hoạt động ngân sách nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của toàn hệ thống.
3.5.2.2. Nội dung của phân cấp quản lý NSNN
- Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong
việc ban hành các văn bản, chế độ thu chi, quản lý NS.
Đây là một trong những nội dung tất yếu của phân cấp NSNN. Qua
phân cấp ngân sách phải xác định rõ quyền hạn ban hành các chế độ,
chính sách, tiêu chuẩn định mức, phạm vi mức độ quyền hạn của mỗi cấp

95
trong việc ban hành chính sách, chế độ NSNN. Có như vậy việc quản lý
và điều hành ngân sách nhà nước mới đảm bảo tính ổn định, tính pháp lý,
tránh tư tưởng cục bộ địa phương. Ví dụ: Luật thuế phải do Quốc hội ban
hành; Một số loại phí quan trọng ảnh hưởng đến phạm vi toàn quốc gia
do Bộ Tài chính ban hành như phí cầu đường, bến bãi,…; Một số loại phí
mang tính địa phương do UBND tỉnh ban hành như phí thăm quan các
thắng cảnh, di tích lịch sử của địa phương,…
- Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm
vụ chi, nguồn thu và cân đối NSNN.
Trong phân cấp quản lý ngân sách, việc giải quyết mối quan hệ vật
chất giữa các cấp chính quyền thường phức tạp nhất, vì mối quan hệ này
là mối quan hệ về lợi ích. Để giải quyết mối quan hệ này trong phân cấp
ngân sách phải phân định rõ nhiệm vụ kinh tế, chính trị của mỗi cấp
chính quyền, khả năng tạo nguồn thu trên từng địa bàn mà chính quyền
đó quản lý, đồng thời nghiên cứu, sử dụng các biện pháp điều hòa thích
hợp. Trong chế độ phân cấp quản lý NSNN, quy định chi tiết các nguồn
thu và các khoản chi cho từng cấp ngân sách.
- Giải quyết mối quan hệ trong việc thực hiện chu trình ngân sách
Chu trình ngân sách bao gồm 3 khâu: Lập dự toán ngân sách, chấp
hành ngân sách, và quyết toán ngân sách.
Để giải quyết mối quan hệ này đòi hỏi phải có sự phối hợp từ cấp cơ
sở đến cấp trên trong toàn bộ hệ thống NSNN: từ thời hạn lập, xét duyệt,
báo cáo NSNN ra Hội đồng nhân dân và gửi lên cấp trên phải được đảm
bảo đúng thời gian và trình tự đảm bảo cho chu trình NSNN thực hiện
trôi chảy nhanh chóng. Vì vậy phân cấp ngân sách là phải xác định rõ
trách nhiệm và quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc lập chấp
hành, và quyết toán ngân sách, mức vay nợ trong dân, các khoản phụ thu
bổ sung cho ngân sách cấp dưới, thời hạn lập, xét duyệt báo cáo NSNN
ra Hội đồng nhân dân và gửi lên cấp trên sao cho vừa nâng cao tính trách
nhiệm của chính quyền trung ương, vừa phát huy tính năng động, sáng
tạo của chính quyền cơ sở.

96
3.5.2.3. Nguyên tắc phân cấp NSNN
Nhằm giải quyết các mối quan hệ trên, trong phân cấp Ngân sách
cần phải quán triệt các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, phân cấp ngân sách phải được tiến hành đồng thời với
việc phân cấp kinh tế và tổ chức bộ máy hành chính.
Tuân thủ nguyên tắc này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải
quyết mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền, xác định rõ nguồn
thu trên địa bàn và qui định được nhiệm vụ chi của các cấp chính quyền
một cách chính xác. Trong phân cấp NSNN thì phân cấp kinh tế là tiền
đề và điều kiện thuận lợi để thực hiện phân cấp. Còn tổ chức bộ máy
hành chính là cơ sở để xác định phạm vi, mức độ thu chi NS của mỗi cấp
chính quyền
Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết mối quan hệ
vật chất giữa các cấp chính quyền qua việc xác định rõ nguồn thu, nhiệm
vụ chi của các cấp. Thực chất của nguyên tắc này là giải quyết mối quan
hệ giữa nhiệm vụ và quyền lợi, quyền lợi phải tương xứng với nhiệm vụ
được giao. Mặt khác, nguyên tắc này còn đảm bảo tính độc lập tương đối
trong phân cấp quản lý NSNN ở nước ta.
Thứ hai, phải đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và
tính độc lập chủ động của ngân sách địa phương.
Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của nhà nước
trung ương trong quản lý kinh tế, xã hội của cả nước mà hiến pháp đã
quy định và từ tính chất xã hội hoá của nguồn tài chính quốc gia.
- Vai trò chủ đạo của NSTW được thể hiện ở chỗ:
+ Đảm nhận việc cấp phát kinh phí để thực hiện chức năng của Nhà
nước (an ninh, quốc phòng, ngoại giao, đầu tư phát triển)
+ Trung tâm điều hoà hoạt động NS của các địa phương.
- Vị trí độc lập của NSĐP được thể hiện trên 2 khía cạnh:
+ Các cấp chính quyền có quyền lập, chấp hành và quyết toán NS
của cấp mình trên cơ sở chính sách, chế độ đã ban hành.

97
+ Các cấp chính quyền phải chủ động sáng tạo trong việc động viên
khai thác các thế mạnh của địa phương để tăng thu, bảo đảm chi, thực
hiện cân đối NS của cấp mình.
-Thứ ba, phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ
lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp
trên cho ngân sách cấp dưới được cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, chỉ
xem xét điều chỉnh số bổ sung một phần khi có trượt giá và một phần
theo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chế độ phân cấp xác định rõ khoản ngân
sách nào do địa phương thu, khoản ngân sách nào phải do địa
phương chi. Không để tồn tại tình trạng nhập nhằng dẫn đến tư tưởng
trông chờ, ỷ lại hoặc lạm thu giữa NSTƯ và NSĐP. Có như vậy mới tạo
điều kiện nâng cao tính chủ động cho các địa phương trong bố trí kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ
trách nhiệm của địa phương và trung ương trong quản lý NSNN, tránh co
kéo trong xây dựng kế hoạch như trước đây.
- Thứ tư, đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp ngân sách.
Phân cấp ngân sách phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả
nước, cố gắng hạn chế thấp nhất sự chênh lệch về văn hoá, kinh tế, xã hội
giữa các vùng lãnh thổ. Có đảm bảo được công bằng thì mới bền vững
được.
Phân cấp quản lý NSNN là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của
NSNN với các hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực sự nhằm
tập trung đầy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính
quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có
hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội
của đất nước. Phân cấp quản lý NSNN đúng đắn và hợp lý không chỉ
đảm bảo phương tiện tài chính cho việc duy trì và phát triển hoạt động
của các cấp chính quyền ngân sách từ trung ương đến địa phương mà
còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng,
từng địa phương trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá
NSNN được tốt hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền

98
cũng như quan hệ giữa các cấp ngân sách được tốt hơn để phát huy vai
trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của NSNN. Đồng thời, phân cấp quản lý
NSNN còn có tác động thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế, xã hội ngày
càng hoàn thiện hơn.

C¢U HáI ¤N TËP CH¦¥NG 3

1. Phân tích các đặc điểm và vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị
trường?
2. Trình bày nội dung các nguồn thu chủ yếu của NSNN theo từng
tiêu thức phân loại cụ thể?
3. Phân tích sự ảnh hưởng của các yếu tố đến nguồn thu của NSNN?
4. Phân tích nội dung các nguyên tắc chủ yếu trong thiết lập hệ
thống thu NSNN?
5. Trình bày nội dung các khoản chi chủ yếu của NSNN theo từng
tiêu thức phân loại cụ thể?
6. Phân tích sự ảnh hưởng của các yếu tố đến chi NSNN?
7. Phân tích nội dung các nguyên tắc tổ chức chi NSNN?
8. Bội chi NSNN là gì? Các biện pháp chủ yếu để cân đối NSNN?
9. Hệ thống NSNN là gì? Các nội dung và nguyên tắc phân cấp quản
lý NSNN?

99
Chương 4
TµI CHÝNH DOANH NGHIÖP

Tài chính doanh nghiệp là một khâu trọng yếu của hệ thống tài chính
trong nền kinh tế, là nơi trực tiếp tạo ra và cung cấp các nguồn tài chính
cho toàn bộ hệ thống tài chính, đồng thời là một mắt xích quan trọng
quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Với mục đích giúp cho
người học có thể nắm được các kiến thức cơ bản về tài chính doanh
nghiệp, nội dung của chương sẽ đề cập đến khái niệm, đặc điểm và vai
trò của tài chính doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, phần tiếp theo của chương
sẽ giới thiệu và luận giải những nội dung cơ bản về tài chính của các
doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo các mảng vấn
đề về vốn kinh doanh, nguồn vốn kinh doanh, chi phí, doanh thu và lợi
nhuận của doanh nghiệp.

4.1. KH¸I NIÖM, §ÆC §IÓM Vµ VAI TRß CñA TµI CHÝNH
DOANH NGHIÖP
4.1.1. Khái niệm
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh8.
Trong nền kinh tế thị trường, các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp rất phong phú, phương thức tạo vốn và sử dụng vốn
của các doanh nghiệp cũng rất đa dạng và ngày càng phát triển, do đó tồn
tại nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau. Luật doanh nghiệp hiện hành
ở Việt Nam đã thừa nhận 5 loại hình doanh nghiệp chủ yếu: công ty
TNHH một thành viên, công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên, công
ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.

8
Luật doanh nghiệp 2005.

100
Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp, song nếu xét trên góc độ
cung ứng vốn cho nền kinh tế thì tổng thể các doanh nghiệp có thể được
phân chia thành hai loại: Doanh nghiệp tài chính và doanh nghiệp phi tài
chính. Doanh nghiệp tài chính là doanh nghiệp mà hoạt động chính là
cung ứng vốn cho nền kinh tế, giữ vai trò trung gian kết nối giữa cung
vốn và cầu vốn. Các doanh nghiệp tài chính thường bao gồm các ngân
hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty chứng
khoán và các tổ chức tài chính trung gian khác. Hoạt động kinh doanh
chính của các doanh nghiệp này không phải là kinh doanh hàng hoá, dịch
vụ thông thường mà là kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đặc biệt như huy
động tiền gửi, cho vay, cung ứng dịch vụ thanh toán, kinh doanh chứng
khoán và dịch vụ chứng khoán,... Ngược lại, các doanh nghiệp phi tài
chính lấy kinh doanh hàng hoá dịch vụ thông thường làm hoạt động kinh
doanh chính. Mặc dù có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau nhưng
tất cả đều có hoạt động tài chính doanh nghiệp, đều coi tài chính doanh
nghiệp là một công cụ quan trọng để đạt được các mục tiêu trong kinh
doanh. Do có đặc thù về kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp tài
chính, cho nên trong phạm vi chương này chúng tôi chỉ đề cập đến tài
chính của các doanh nghiệp phi tài chính.
Để tiến hành các hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp phải hội tụ
đủ các yếu tố cơ bản bao gồm tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức
lao động. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các yếu tố này được trao
đổi, mua bán trên thị trường, được biểu thị và đo lường giá trị bằng thước
đo tiền tệ. Để có được các yếu tố đó, các doanh nghiệp phải có một lượng
tiền tệ ứng trước nhất định để đầu tư mua sắm, lượng tiền tệ ứng trước
này được gọi là vốn ứng trước cho kinh doanh. Khi đó cảm nhận trực
quan ban đầu về phạm trù tài chính doanh nghiệp được quan niệm tương
đồng với các quĩ tiền tệ của doanh nghiệp. Song các quĩ tiền tệ chỉ là
khởi nguồn hay là kết quả của những dòng chuyển dịch và chuyển hoá
của các nguồn lực tài chính. Trong quá trình kinh doanh, số vốn tiền tệ
ứng trước sẽ vận động chuyển hoá hình thái biểu hiện. Sự vận động này
diễn ra rất đa dạng, có thể là sự dịch chuyển giá trị từ chủ thể này sang
chủ thể khác dưới hình thức chuyển quyền sở hữu tài sản, hoặc là sự dịch

101
chuyển giá trị trong cùng một chủ thể, hay là sự thay đổi hình thái biểu
hiện của vốn tiền tệ trong một quá trình kinh doanh. Trong quá trình đầu
tư và kinh doanh của doanh nghiệp, các quỹ tiền tệ được hình thành,
phân phối và sử dụng, thể hiện bằng các dòng tiền tệ vào và ra khỏi
doanh nghiệp tạo thành sự luân chuyển tuần hoàn của các dòng tài chính
doanh nghiệp. Quá trình vận động và chuyển hoá của các nguồn lực tài
chính này lại là kết quả của việc thực hiện hàng loạt các quan hệ tài chính
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà
nước, các quan hệ tài chính doanh nghiệp thường bao gồm:
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Là các quan hệ
tài chính nảy sinh khi Nhà nước đầu tư và thu hồi vốn đối với các doanh
nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với
Nhà nước như nộp các khoản thuế, lệ phí,...
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác: Bao
gồm các quan hệ tài chính phát sinh giữa doanh nghiệp với các chủ thể
khác trong quá trình thành lập và hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các
quan hệ thanh toán trong mua bán hàng hoá dịch vụ, quan hệ cung ứng
vốn giữa các doanh nghiệp, quan hệ đầu tư vốn của doanh nghiệp,...
- Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: Là các quan hệ tài
chính phát sinh trong quá trình điều hoà vốn, tài sản, phân phối thu nhập
và kết quả kinh doanh trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp,... Chẳng hạn
như quan hệ điều chuyển vốn giữa các bộ phận, chi nhánh của cùng một
doanh nghiệp, quan hệ tài chính trong quá trình trích lập quỹ dự phòng
tài chính, quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, phúc lợi.
Như vậy, các quan hệ tài chính doanh nghiệp rất đa dạng và phức
tạp, chúng diễn ra trên các phạm vi khác nhau liên quan đến các chủ thể
khác nhau. Tuy nhiên, các quan hệ tài chính doanh nghiệp đều chứa đựng
những nội dung kinh tế nhất định, đều phản ánh những luồng dịch
chuyển giá trị hay phản ánh sự vận động và chuyển hoá của các nguồn
lực tài chính trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời các
quan hệ tài chính doanh nghiệp còn phản ánh mục tiêu và phương hướng
kinh doanh của doanh nghiệp.

102
Từ những vấn đề trên, chúng ta có thể rút ra kết luận:
- Tài chính doanh nghiệp được đặc trưng bởi quá trình hình thành,
phân phối và sử dụng vốn tiền tệ trong quá trình hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của doanh
nghiệp.
- Các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình
hình thành, phân phối và sử dụng các quĩ tiền tệ của doanh nghiệp được
gọi là các quan hệ tài chính của các doanh nghiệp.
Tóm lại, tài chính doanh nghiệp là hệ thống những quan hệ kinh
tế dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình hình thành, phân
phối và sử dụng các quĩ tiền tệ của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho
các hoạt động của doanh nghiệp và góp phần đạt được các mục tiêu
của doanh nghiệp.
4.1.2. Đặc điểm
Tài chính doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế khách quan, tương
tự như các phạm trù tài chính khác, nó mang những đặc tính thuộc bản
chất của một phạm trù tài chính nói chung và có hai chức năng cơ bản
là chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Tuy nhiên, xét trong
tổng thể các dòng tài chính vận động trong nền kinh tế, tài chính doanh
nghiệp là một khâu tài chính của hệ thống tài chính nên nó có những
đặc thù khác biệt so với các khâu tài chính khác, thể hiện ở các đặc điểm
cơ bản sau:
Một là, tài chính doanh nghiệp gắn liền và phục vụ cho các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Muốn tiến hành các hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp nào
cũng cần phải có vốn, vốn là điều kiện tiền đề vật chất có tính quyết định
để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Do vậy, doanh nghiệp phải tạo
lập, huy động vốn để tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của mình.
Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn duy trì một
lượng vốn nhất định, đồng thời phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và
hiệu quả để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình. Như vậy, khi tiến

103
hành các hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải giải quyết
vấn đề đảm bảo vốn tài trợ cho kinh doanh, phải sử dụng vốn sao cho có
hiệu quả, phải thực thi và kiểm soát hàng loạt các quan hệ tài chính nhằm
tránh tình trạng thất thoát, lãng phí vốn và đảm bảo thực hiện thành công
các mục tiêu của doanh nghiệp.
Hai là, tài chính doanh nghiệp chịu sự chi phối bởi hình thức pháp
lý của doanh nghiệp.
Hiện nay, pháp luật thừa nhận nhiều loại hình doanh nghiệp khác
nhau tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế. Điều này dẫn đến sự khác
biệt nhất định trong các quan hệ tài chính khi thành lập và tổ chức vận
hành doanh nghiệp. Hình thức pháp lý của doanh nghiệp sẽ quy định
và ràng buộc phương thức đầu tư vốn khi thành lập doanh nghiệp, giới
hạn phương thức và khả năng tăng vốn trong quá trình hoạt động, đồng
thời chi phối đến việc phân phối thu nhập sau thuế của doanh nghiệp.
Sau đây là những đặc điểm cơ bản về tài chính của một số loại hình
doanh nghiệp:
- Công ty TNHH: Là loại hình doanh nghiệp có một thành viên
(công ty TNHH một thành viên) hoặc từ hai thành viên trở lên (công ty
TNHH hai thành viên trở lên) góp vốn để thành lập. Trong quá trình hoạt
động, công ty có thể tăng vốn bằng cách kết nạp thêm thành viên mới và
nhận vốn đầu tư bổ sung từ các thành viên. Bên cạnh đó, công ty TNHH
có thể huy động thêm vốn dưới các hình thức khác như vay vốn, nhận
góp liên doanh, chiếm dụng vốn trong thanh toán,... nhưng không được
phép phát hành cổ phiếu. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế do hội đồng
thành viên của công ty quyết định và việc chia lợi nhuận cho các thành
viên phải căn cứ vào tỷ lệ vốn mà thành viên đã góp.
- Công ty cổ phần: Là loại hình doanh nghiệp trong đó có ít nhất 3
thành viên cùng góp vốn dưới hình thức cổ phần, vốn điều lệ được chia
thành các phần bằng nhau được gọi là cổ phần. Người nắm giữ cổ phần
được gọi là cổ đông và là người sở hữu công ty theo tỉ lệ % cổ phần nắm
giữ. Đại hội cổ đông là cơ quan cao nhất thông qua điều lệ hoạt động và
các vấn đề lớn của công ty như việc chia tách, sáp nhập, tăng vốn điều

104
lệ,... Quyết định phân phối lợi nhuận sau thuế do đại hội cổ đông thông
qua theo phương án đề xuất của hội đồng quản trị.
- Công ty hợp danh: Là loại hình doanh nghiệp có ít nhất 2 thành
viên hợp danh đứng ra thành lập, bên cạnh đó còn có thể có thành viên
góp vốn. Các thành viên hợp danh chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa
vụ khác của công ty bằng toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình. Trong
quá trình hoạt động, công ty có thể huy động thêm vốn dưới nhiều hình
thức nhưng không được phép phát hành chứng khoán. Quyết định phân
phối lợi nhuận sau thuế do hội đồng thành viên quyết định.
- Doanh nghiệp tư nhân: Là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân
làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các hoạt
động của doanh nghiệp. Ngoài số vốn do chủ doanh nghiệp đầu tư, doanh
nghiệp tư nhân cũng có thể huy động thêm vốn dưới các hình thức khác
nhưng không được phép phát hành chứng khoán. Phần thu nhập sau thuế
của doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp.
Ba là, tài chính doanh nghiệp luôn gắn với tính tự chủ và mục tiêu
kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà
nước, các doanh nghiệp phải tự chủ về kinh doanh và tài chính. Với yêu
cầu tự chủ tài chính cùng với mục tiêu hoạt động là thu lợi nhuận, các
doanh nghiệp phải tự tổ chức quá trình huy động vốn, phải tự mình ra các
quyết định đầu tư kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về các kết quả hoạt
động. Để thực hiện được yêu cầu đó, việc huy động sử dụng vốn, phân
phối thu nhập và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đều hướng vào
mục tiêu an toàn và hiệu quả, đó chính là mục tiêu bao trùm và thường
trực trong toàn bộ hoạt động tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường. Bên cạnh đó, với chức năng giám đốc của một phạm trù tài
chính, tài chính doanh nghiệp còn được sử dụng với khả năng giám sát
và dự báo hiệu quả của quá trình phân phối tài chính, phát hiện những
khuyết tật trong quá trình phân phối làm cơ sở để đề ra các biện pháp
điều chỉnh quá trình huy động, sử dụng vốn cũng như quá trình phân
phối thu nhập hướng theo mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.

105
Bốn là, tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở của hệ thống tài chính
trong nền kinh tế, bởi vì:
- Hoạt động sản xuất ra của cải vật chất được xem là hoạt động cơ
bản của xã hội, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Các doanh
nghiệp là những đơn vị kinh tế chủ yếu tiến hành các hoạt động sản xuất
ra của cải vật chất và thực hiện các dịch vụ. Tài chính doanh nghiệp gắn
liền và phục vụ cho các hoạt động của doanh nghiệp - nơi trực tiếp sáng
tạo ra sản phẩm vật chất và cung ứng dịch vụ cho xã hội. Do đó, tài chính
doanh nghiệp là nơi trực tiếp tạo ra và cung ứng nguồn lực tài chính chủ
yếu cho nền kinh tế, cho hệ thống tài chính.
- Thông qua hoạt động tài chính doanh nghiệp mà các khâu khác
trong hệ thống tài chính mới có được nguồn thu nhập cơ bản để tồn tại và
hoạt động. Thật vậy, thông qua hoạt động tài chính doanh nghiệp, ngân
sách Nhà nước mới có nguồn thu cơ bản dưới hình thức thu thuế, phí và
lệ phí. Các khoản thu từ kinh doanh của các doanh nghiệp luôn là
nguồn thu cơ bản và quan trọng nhất của ngân sách nhà nước. Nếu thiếu
vắng nguồn thu này thì ngân sách Nhà nước sẽ rơi vào tình trạng khủng
hoảng. Tương tự như vậy, thông qua hoạt động tài chính doanh nghiệp
thì các khâu tài chính khác như các tổ chức tài chính trung gian (ngân
hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm,...), các hộ gia
đình và các tổ chức xã hội mới có được nguồn tiền cơ bản để tồn tại và
hoạt động9.
4.1.3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Là một phạm trù tài chính, tài chính doanh nghiệp tồn tại khách quan
trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nó vận động theo những qui
luật kinh tế khách quan, song cũng giống như các phạm trù kinh tế khác,
tài chính doanh nghiệp chỉ có thể phát huy được vai trò và tác dụng của
mình thông qua hoạt động của con người. Nói cách khác, vai trò của tài
chính doanh nghiệp phụ thuộc vào sự nhận thức và vận dụng của các chủ
thể kinh doanh, phụ thuộc vào khả năng và trình độ của nhà quản trị tài

9
Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ, NXB Thống kê, 2004, trang 90,91

106
chính doanh nghiệp. Hơn nữa vai trò của tài chính doanh nghiệp còn phụ
thuộc vào môi trường kinh doanh, cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước.
Trong điều kiện phải tự chủ về tài chính và theo đuổi mục tiêu lợi nhuận
thì vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng được đề cao và chỉ trong
điều kiện kinh tế thị trường thì tài chính doanh nghiệp mới thực sự phát
huy được đầy đủ chức năng và vai trò vốn có của mình đối với quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp có những vai
trò cơ bản sau đây:
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ khai thác thu hút các nguồn tài
chính nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh doanh của doanh nghiệp.
Điều kiện tiền đề vật chất không thể thiếu được để tiến hành mọi
hoạt động kinh doanh là phải có vốn. Do đó, để tiến hành kinh doanh,
các doanh nghiệp phải tổ chức huy động vốn. Khi đó, vai trò của tài
chính doanh nghiệp được thể hiện ở việc xác định nhu cầu vốn và đề ra
các quyết định nguồn vốn thích hợp. Từ vị trí quan trọng của các quyết
định nguồn vốn mà vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc đảm
bảo vốn cho kinh doanh ngày càng được đặt ra như một vấn đề có tính
sống còn đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc phát huy vai trò này
khi đó còn tuỳ thuộc vào khả năng và trình độ của người quản lý. Nhà
quản lý phải xác định được chính xác nhu cầu vốn, cân nhắc và lựa
chọn các phương án kết hợp huy động các nguồn vốn bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp một cách hợp lý, sử dụng các đòn bẩy tài chính
thích hợp để có thể khuếch đại hiệu quả, đồng thời đảm bảo sự an toàn
tài chính bền vững cho doanh nghiệp,... Có như vậy mới có thể phát
huy được vai trò tích cực của tài chính doanh nghiệp trong việc huy
động, khai thác các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ giúp doanh nghiệp có thể sử
dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.
Việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả được coi là
điều kiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế

107
thị trường, các doanh nghiệp phải tự chủ về tài chính và phải tự chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình nên họ không thể huy động
vốn với bất cứ chi phí như thế nào và cũng không thể sử dụng vốn mà bất
chấp kết quả ra sao. Việc huy động vốn phải trên cơ sở đáp ứng kịp thời
nhu cầu vốn của doanh nghiệp nhưng phải tối thiểu hóa chi phí huy động
và đảm bảo tính an toàn tài chính. Việc đầu tư sử dụng vốn một mặt phải
thu hồi và bảo toàn được vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp để
tăng nhanh vòng quay vốn và nâng cao khả năng sinh lời của vốn. Để
phát huy vai trò tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả, tài chính
tham gia và giữ vị trí quan trọng trong công tác xây dựng, thẩm định và
đánh giá các dự án đầu tư, phương án kinh doanh. Bố trí cơ cấu vốn và tổ
chức huy động vốn kịp thời, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng
quay vốn, tiết kiệm chi phí nhằm tối đa hóa hiệu quả kinh doanh.
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ kích thích và điều tiết kinh doanh.
Vai trò này được biểu hiện khi vận dụng hài hoà các chức năng của
tài chính doanh nghiệp trong việc giải quyết và đảm bảo lợi ích kinh tế
của các chủ thể liên quan trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc phát huy vai trò này của tài chính doanh nghiệp tuỳ thuộc vào trình
độ, khả năng vận dụng của người làm công tác tài chính cũng như môi
trường kinh doanh và cơ chế quản lý của nhà nước. Nếu người quản lý
nhận thức và vận dụng hợp lý sáng tạo các chức năng của tài chính doanh
nghiệp bằng việc tạo lập được cơ chế khai thác, huy động vốn, hình thức
đầu tư sử dụng vốn, cơ chế phân phối thu nhập và kết quả kinh doanh
phù hợp với môi trường, điều kiện kinh doanh và sự quản lý của Nhà
nước thì sẽ làm cho tài chính doanh nghiệp trở thành đòn bẩy kinh tế tích
cực tác động làm tăng năng suất lao động, tăng vòng quay vốn và hiệu
quả sử dụng vốn. Trái lại, nếu nhà quản lý tài chính phạm phải những sai
lầm trong sử dụng các chức năng của tài chính doanh nghiệp tạo nên sự
yếu kém của tài chính doanh nghiệp, khi đó tài chính doanh nghiệp lại
trở thành yếu tố vật cản kìm hãm quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra, giám sát
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

108
Khi vận dụng chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp vào
quá trình kinh doanh của doanh nghiệp chính là phát huy vai trò kiểm tra
giám sát của tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp thực hiện
vai trò kiểm tra giám sát bằng đồng tiền đối với các hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp chủ yếu thông qua việc xây dựng, phân tích,
đánh giá hệ thống các chỉ số tài chính. Thông qua các chỉ số tài chính
như hệ số nợ, cơ cấu vốn, khả năng thanh toán, khả năng hoạt động, hiệu
quả sử dụng vốn,... có thể nhận biết được thực trạng tốt, xấu ở các khâu
của quá trình kinh doanh, có thể phát hiện những tồn tại bất hợp lí trong
quá trình huy động, sử dụng vốn, phân phối thu nhập và kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Đây chính là căn cứ quan trọng để doanh
nghiệp có thể đưa ra các biện pháp giám sát và điều chỉnh kịp thời góp
phần lành mạnh và tối ưu hoá các hoạt động kinh doanh và tài chính của
doanh nghiệp.

4.2. C¸C NéI DUNG C¥ B¶N CñA TµI CHÝNH DOANH NGHIÖP
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ tài chính doanh nghiệp có
phạm vi rất rộng lớn, có hình thức biểu hiện đa dạng, có sự vận động của
các nguồn lực tài chính phức tạp và xuyên suốt quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với sự
tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp, nó là một trong những mắt xích
trọng yếu quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ có những nội dung hoạt
động tài chính khác nhau. Tuy nhiên, hoạt động tài chính của các doanh
nghiệp phi tài chính thường bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
4.2.1. Vốn kinh doanh
4.2.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh
Để tiến hành bất kì hoạt động kinh doanh nào, các doanh nghiệp
phải có được các yếu tố cần thiết nhất định, các yếu tố này thông thường
là văn phòng làm việc, nhà xưởng, kho tàng, phương tiện vận tải, máy
móc thiết bị, vật tư, tiền mặt,... được gọi là các tài sản. Trong điều kiện
nền kinh tế thị trường, muốn có được các tài sản đó, các doanh nghiệp

109
cần phải có một lượng tiền tệ nhất định để đầu tư, mua sắm, thuê mướn.
Do vậy, để thực hiện hoạt động kinh doanh thì điều kiện vật chất tiên
quyết là phải có lượng giá trị ứng trước nhất định. Hơn nữa, trong quá
trình hoạt động, để duy trì mở rộng kinh doanh, các doanh nghiệp cần
phải duy trì và gia tăng lượng tài sản cần thiết cho kinh doanh của doanh
nghiệp, điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải duy trì và mở
rộng lượng giá trị cần thiết. Như vậy, nếu xuất phát từ vai trò của vốn đối
với quá trình kinh doanh, chúng ta có thể hiểu: vốn kinh doanh là toàn bộ
lượng giá trị cần thiết nhất định để bắt đầu và duy trì sự hoạt động kinh
doanh liên tục của các chủ thể kinh doanh.
Nếu hiểu vốn kinh doanh theo cách trên thì vốn kinh doanh phải có
trước khi diễn ra các hoạt động kinh doanh. Các chủ thể kinh doanh sẽ
dùng số vốn này để mua sắm, thuê mướn các yếu tố cần thiết cho kinh
doanh gồm các tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Kết
quả của quá trình sử dụng các yếu tố này sẽ tạo ra sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ cung ứng trên thị trường. Số tiền thu được từ cung ứng hàng hóa,
dịch vụ phải đảm bảo bù đắp được toàn bộ lượng giá trị đã hao phí trong
quá trình kinh doanh, đồng thời đảm bảo một mức lãi nhất định. Như
vậy, toàn bộ lượng giá trị ứng ra ban đầu cho quá trình kinh doanh phải
được bảo toàn, được bù đắp lại khi sản phẩm, dịch vụ được tiêu thụ. Nói
cách khác, lượng giá trị ứng ra ban đầu hay vốn kinh doanh của doanh
nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Các quĩ tiền tệ khác có thể bị mất đi
sau quá trình sử dụng, tiêu dùng. Trái lại, vốn kinh doanh phải được thu
hồi lại để đầu tư ứng tiếp cho các quá trình kinh doanh tiếp theo. Nếu
vốn kinh doanh bị giảm hoặc bị mất thì qui mô kinh doanh sẽ bị thu hẹp,
hoạt động kinh doanh bị ảnh hưởng xấu, thậm chí doanh nghiệp có thể
lâm vào tình trạng bị phá sản.
Cũng có thể hiểu vốn kinh doanh theo cách khác. Toàn bộ lượng tiền
ứng ra ban đầu cho kinh doanh sẽ vận động và chuyển hoá hình thái biểu
hiện trong quá trình kinh doanh. Hình thái tiền tệ ban đầu của vốn kinh
doanh sẽ bị thay đổi khi đầu tư sử dụng dưới hình thức hình thành nên
các tài sản phi tiền tệ như nhà xưởng, văn phòng, máy móc thiết bị, vật

110
tư, hàng hóa,... Do đó, nếu xét tại một thời điểm nào đó trong quá trình
hoạt động kinh doanh thì vốn kinh doanh không chỉ tồn tại dưới hình
thái tiền tệ mà còn được tồn tại dưới hình thái tài sản phi tiền tệ. Như
vậy, có thể hiểu vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng
tiền của toàn bộ tài sản hiện có và đang phục vụ cho kinh doanh của
doanh nghiệp.
Như vậy, hình thái biểu hiện của vốn kinh doanh có thể là tiền hoặc
tài sản phi tiền tệ. Tuy nhiên, một số tiền hay giá trị của tài sản nào đó
không phải lúc nào cũng được xem là vốn kinh doanh. Nó chỉ được coi là
vốn kinh doanh khi thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:
- Phải được biểu hiện bằng một lượng tài sản cụ thể có thực. Nếu
không phải là tài sản có thực thì không thể sử dụng cho kinh doanh.
- Lượng giá trị của số tài sản này phải đủ lớn để có thể sử dụng cho
một hình thức kinh doanh cụ thể. Người ta sẽ không thể kinh doanh khi
lượng giá trị sử dụng không đủ để có được các yếu tố cần thiết cho hoạt
động kinh doanh.
- Lượng giá trị của số tài sản này phải được vận động, quay vòng
dưới một hình thức cụ thể để sinh lời.
4.2.1.2. Phân loại vốn kinh doanh
Phân loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp là việc phân chia, sắp
xếp tổng thể vốn kinh doanh của doanh nghiệp thành những nhóm loại
nhất định theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những mục
đích nghiên cứu và quản lý nhất định.
Có nhiều cách khác nhau để phân loại vốn kinh doanh của doanh
nghiệp. Sau đây là một số cách phân loại thông dụng:
- Phân loại vốn kinh doanh theo hình thái biểu hiện: căn cứ vào tiêu
thức này, toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể được chia
thành hai loại là vốn tiền tệ và vốn phi tiền tệ. Vốn tiền tệ là bộ phận vốn
kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, chẳng hạn như tiền mặt
tại quỹ của doanh nghiệp, tiền gửi của doanh nghiệp ở các tổ chức tín
dụng, tiền đang chuyển. Vốn phi tiền tệ là bộ phận vốn kinh doanh tồn tại

111
dưới hình thái là các tài sản phi tiền tệ như vật tư, hàng hóa, công cụ
dụng cụ, chứng khoán, máy móc thiết bị, nhà xưởng,...
- Phân loại vốn kinh doanh theo thời hạn và đặc điểm luân chuyển:
theo tiêu thức này, toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia
thành hai loại: vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định của doanh nghiệp có thể được hiểu là bộ phận vốn kinh
doanh có thời gian thu hồi và luân chuyển giá trị trên một năm hay qua
nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là bộ phận vốn kinh
doanh được đầu tư sử dụng để hình thành tài sản dài hạn của doanh
nghiệp. Nói cách khác, vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng
tiền của toàn bộ tài sản dài hạn thuộc quyền sở hữu và quản lý của doanh
nghiệp như tài sản cố định, đầu tư tài chính dài hạn, các khoản phải thu
dài hạn,...
Vốn lưu động của doanh nghiệp được hiểu là bộ phận vốn kinh
doanh có thời gian thu hồi và luân chuyển giá trị trong vòng một năm
hay một chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là bộ phận vốn kinh
doanh được đầu tư sử dụng hình thành tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp. Nói cách khác, vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
tài sản ngắn hạn thuộc quyền sở hữu và quản lý của doanh nghiệp như
vật tư, hàng hoá, tiền tệ,...
4.2.1.3. Đầu tư sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh
Đầu tư sử dụng vốn
Đầu tư sử dụng vốn là việc bỏ vốn hay sử dụng vốn dưới những hình
thức cụ thể nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong đó mục tiêu
bao trùm và xuyên suốt của quá trình đầu tư sử dụng vốn là thu lợi
nhuận. Như vậy, đầu tư sử dụng vốn là hoạt động chủ quan của chủ đầu
tư khi bỏ vốn vào một lĩnh vực nhất định, hình thành nên những yếu tố
tài sản cụ thể, khai thác các lợi ích mà khoản đầu tư hay tài sản này mang
lại nhằm đạt được các mục tiêu đầu tư đặt ra.
Có thể mô phỏng quá trình vận động và chuyển hóa của vốn đầu tư
theo các phương thức đầu tư sử dụng vốn khác nhau như sau:

112
- Khi tiến hành hoạt động sản xuất: T - H...SX...H’ - T’
- Khi tiến hành hoạt động thương mại: T - H - T’
- Khi tiến hành hoạt động đầu tư tài chính: T - T’
Trên thực tế, một doanh nghiệp có thể tiến hành một hay một số
hoặc đồng thời cả ba phương thức đầu tư sử dụng vốn kể trên. Các
phương thức đầu tư sử dụng vốn này lại được biểu thị thành các hình
thức đầu tư sử dụng vốn cụ thể khác nhau. Do khả năng mang lại lợi
nhuận và mức độ rủi ro của các hình thức đầu tư thường có mối quan hệ
tỷ lệ thuận với nhau, cho nên, nhà đầu tư phải cân nhắc, tính toán, lựa
chọn hình thức đầu tư, cơ cấu đầu tư cho phù hợp.
Có nhiều hình thức đầu tư sử dụng vốn khác nhau, tùy theo tiêu thức
xem xét. Nếu căn cứ vào phạm vi đầu tư, các hình thức đầu tư sử dụng
vốn của doanh nghiệp bao gồm hai loại là đầu tư sử dụng vốn bên trong
doanh nghiệp và đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp.
Đầu tư sử dụng vốn bên trong doanh nghiệp là những hình thức đầu
tư sử dụng vốn mà doanh nghiệp có quyền trực tiếp kiểm soát và điều
hành đối tượng tài sản hình thành từ đầu tư. Thuộc loại hình đầu tư vốn
bên trong doanh nghiệp là đầu tư vốn hình thành vật tư hàng hóa, máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, văn phòng làm việc,...
thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp trực tiếp quản lý, kiểm
soát và điều hành những đối tượng tài sản này.
Đầu tư vốn ra bên ngoài doanh nghiệp là những hình thức đầu tư sử
dụng vốn mà doanh nghiệp không có quyền trực tiếp kiểm soát, quản lý
và điều hành đối tượng tài sản hình thành từ đầu tư. Thuộc loại hình
đầu tư này là các hình thức góp vốn kinh doanh, đầu tư chứng khoán,
cho vay vốn,... Với sự hiện diện và phát triển của thị trường tài chính
thì hình thức đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp sẽ trở nên phổ biến,
giúp doanh nghiệp có thể bảo toàn vốn, phòng ngừa rủi ro và tối đa hóa
kết quả hoạt động.
Theo mục tiêu đầu tư sử dụng vốn, các hình thức đầu tư sử dụng vốn
của doanh nghiệp bao gồm đầu tư vốn thành lập doanh nghiệp; đầu tư

113
vốn để tăng năng lực kinh doanh của doanh nghiệp; đầu tư vốn cho đổi
mới máy móc thiết bị, công nghệ; đầu tư chế tạo sản phẩm mới; đầu tư
để mở rộng khả năng tiêu thụ và tăng năng lực cạnh tranh; đầu tư tài
chính ra ngoài doanh nghiệp.
Theo thời hạn đầu tư sử dụng vốn, các hình thức đầu tư sử dụng vốn
của doanh nghiệp bao gồm đầu tư hình thành tài sản dài hạn và đầu tư
hình thành tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp.
Việc nhìn nhận các hình thức đầu tư sử dụng vốn của doanh nghiệp
theo các tiêu thức khác nhau sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể tìm ra
phương thức thích hợp để quản lý, kiểm soát và nâng cao hiệu quả của
các hình thức đầu tư vốn. Trên giác độ quản lý tài chính doanh nghiệp,
việc xem xét các hình thức đầu tư sử dụng vốn theo thời hạn đầu tư và
hình thái biểu hiện được coi là nội dung quan trọng bởi lẽ nó giúp cho
nhà quản trị tài chính doanh nghiệp có thể nhìn nhận rõ các đặc điểm, cơ
cấu đầu tư và hình thức luân chuyển giá trị. Sau đây là những nhìn nhận
cụ thể hơn về những hình thức đầu tư sử dụng vốn theo thời hạn.
Tài sản dài hạn - vốn cố định
Tài sản dài hạn biểu thị hình thức đầu tư sử dụng vốn với thời hạn
thu hồi vốn trên một năm hay qua nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp. Nói cách khác, lượng giá trị của tài sản dài hạn chính là vốn cố
định của doanh nghiệp.
Một cách khái quát, tài sản dài hạn là những tài sản có thời gian sử
dụng, thu hồi và luân chuyển giá trị trên một năm hoặc qua nhiều chu kỳ
kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản dài hạn của doanh nghiệp có thể
bao gồm nhiều loại: tài sản cố định; đầu tư tài chính dài hạn; chi phí xây
dựng cơ bản dở dang; các khoản phải thu dài hạn; bất động sản đầu tư và
tài sản dài hạn khác. Một doanh nghiệp có thể có một hay một số loại tài
sản dài hạn như đã nêu, trong đó, bộ phận tài sản dài hạn quan trọng nhất
và không thể thiếu được là tài sản cố định.
Tài sản cố định là tài sản chủ yếu, có giá trị lớn, tham gia vào nhiều
chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp với tư cách là tư liệu lao động.

114
Thông thường các tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm nhà xưởng,
văn phòng làm việc, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị,... Những tài
sản này có giá trị lớn và tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, nếu những tài sản đó được doanh nghiệp mua về để
bán ra hoặc đầu tư xây dựng cho khách hàng thì không được gọi là tài
sản cố định, vì khi đó chúng thuộc đối tượng lao động mặc dù giá trị có
thể rất lớn. Một tài sản được coi là tài sản cố định khi chúng thoả mãn
đồng thời 3 điều kiện sau:
Thứ nhất, giữ vai trò là tư liệu lao động trong quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp.
Thứ hai, có giá trị đủ lớn. Mức giá trị tối thiểu được coi là tài sản cố
định sẽ tuỳ thuộc vào qui định của từng quốc gia trong từng thời kỳ.
Thứ ba, có thời gian sử dụng dài. Thông thường, thời gian sử dụng
này được qui định tối thiểu là một năm.
Như vậy, những tài sản của doanh nghiệp không thoả mãn đồng thời
ba điều kiện trên hoặc là tư liệu lao động hoặc là đối tượng lao động
nhưng đều không phải là tài sản cố định của doanh nghiệp.
Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại khác nhau, nếu
dựa vào hình thái hiện vật để xem xét, toàn bộ tài sản cố định của doanh
nghiệp được chia thành hai loại: Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố
định vô hình.
Tài sản cố định hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật
chất cụ thể, chẳng hạn như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị,...
Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái
vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, có liên quan
trực tiếp tới nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như
giá trị quyền sử dụng đất, chi phí về lợi thế kinh doanh, chi phí về bằng
phát minh sáng chế,...
Mỗi loại hình tài sản cố định sẽ có những đặc điểm nhất định về hình
thái tồn tại và sự vận động về mặt vật chất và giá trị. Tuy nhiên, chúng đều
có những đặc điểm cơ bản giống nhau như sau:

115
- Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kì kinh doanh của doanh
nghiệp với tư cách là tư liệu lao động.
- Tài sản cố định có thể tồn tại dưới hình thái vật chất hoặc không có
hình thái vật chất cụ thể.
- Trong quá trình sử dụng, hình thái vật chất của tài sản cố định hầu
như không thay đổi, song giá trị và giá trị sử dụng của chúng bị giảm đi
do có hao mòn, bộ phận giá trị bị giảm đi sẽ dịch chuyển vào chi phí kinh
doanh và giá trị sản phẩm dịch vụ được tạo ra. Bộ phận giá trị giảm đi
này là một yếu tố cấu thành chi phí kinh doanh của doanh nghiệp và sẽ
được bù đắp lại mỗi khi hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ được tiêu thụ.
Những đặc điểm vận động về hình thái hiện vật và giá trị của tài sản
cố định kể trên sẽ ảnh hưởng đến sự tồn tại và vận động của vốn cố định.
Do đó, có thể khái quát đặc điểm tồn tại và vận động của vốn cố định
như sau:
- Vốn cố định vận động, luân chuyển qua nhiều chu kỳ kinh doanh
của doanh nghiệp do tài sản dài hạn tham gia vào nhiều chu kì kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Khi tham gia vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, bộ phận
vốn cố định đầu tư vào tài sản cố định được phân tách ra làm hai phần.
Một bộ phận vốn cố định tương ứng với phần giá trị hao mòn của tài sản
cố định được dịch chuyển vào chi phí kinh doanh hay giá thành sản phẩm
dịch vụ được sản xuất ra, bộ phận giá trị này sẽ được bù đắp và tích luỹ
lại mỗi khi hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ được tiêu thụ. Bộ phận còn lại
của vốn cố định còn nằm ở tài sản cố định dưới hình thức giá trị còn lại
của tài sản cố định. Quá trình đó cứ tiếp diễn như thế trong các chu kì
kinh doanh tiếp sau. Bộ phận thứ nhất của vốn cố định được dịch chuyển
vào chi phí kinh doanh hay giá trị sản phẩm dịch vụ thông qua công tác
khấu hao và được thu hồi lại dưới hình thức khấu hao, tiền khấu hao này
sẽ lớn dần lên. Trong khi đó, bộ phận thứ hai của vốn cố định là giá trị
còn lại của tài sản cố định lại bị giảm dần, đến một lúc nào đó toàn bộ giá
trị còn lại của tài sản cố định sẽ được chuyển hoá hết thành tiền khấu hao
(khi tài sản cố định được khấu hao hết nguyên giá ). Khi đó vốn cố định

116
đầu tư ban đầu vào tài sản cố định được chuyển hoá hết thành hình thái
tiền tệ - quĩ khấu hao, đồng thời cũng là lúc bộ phận vốn cố định này
hoàn thành một vòng tuần hoàn hay luân chuyển.
Những đặc điểm tồn tại vận động của tài sản cố định và vốn cố định
được đề cập ở trên sẽ là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp đưa ra các
biện pháp quản lý, bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Tài sản ngắn hạn - vốn lưu động
Tài sản ngắn hạn biểu thị hình thức đầu tư sử dụng vốn với thời hạn
thu hồi vốn trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp. Nói cách khác, lượng giá trị của tài sản ngắn hạn chính là vốn
lưu động của doanh nghiệp.
Tài sản ngắn hạn là những tài sản có thời gian sử dụng, thu hồi và
luân chuyển giá trị trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh của
doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp có thể bao gồm nhiều
loại như: vốn bằng tiền; đầu tư tài chính ngắn hạn; phải thu ngắn hạn;
hàng tồn kho; tài sản ngắn hạn khác.
Trong quá trình kinh doanh, khác với tài sản dài hạn, tài sản ngắn
hạn có thể thay đổi hình thái biểu hiện, giá trị của nó được dịch chuyển
toàn bộ một lần vào chi phí kinh doanh hay giá trị sản phẩm được tạo ra
trong kỳ. Toàn bộ phần giá trị dịch chuyển này sẽ được thu hồi lại dưới
hình thái tiền tệ khi hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ được tiêu thụ. Đặc điểm
vận động này của tài sản ngắn hạn sẽ ảnh hưởng có tính chất quyết định
sự vận động của vốn lưu động.
Quá trình vận động của vốn lưu động có thể được mô phỏng như
sau:
- Vốn lưu động thường được ứng ra ban đầu dưới hình thái tiền tệ.
Khởi đầu chu kì vận động, vốn lưu động được sử dụng để mua sắm, hình
thành đối tượng lao động như nguyên vật liệu, hàng hoá,... Một phần vốn
lưu động có thể được sử dụng để hình thành các tư liệu lao động có giá
trị nhỏ và thời gian sử dụng ngắn cần thiết cho quá trình kinh doanh như
công cụ dụng cụ, văn phòng phẩm. Đến thời điểm này, vốn lưu động đã
thay đổi hình thái biểu hiện từ tiền tệ sang hiện vật.

117
- Đối với hoạt động sản xuất, dịch vụ thì giai đoạn tiếp theo là giai
đoạn sản xuất chế biến sản phẩm hay cung ứng dịch vụ. Ở giai đoạn này,
vật tư dự trữ được đưa vào quá trình sản xuất chế biến để tạo ra sản
phẩm, hay được tiêu dùng và mất đi trong quá trình cung ứng dịch vụ.
- Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn khi hàng hoá, sản
phẩm, dịch vụ được tiêu thụ và thu được bằng tiền. Hình thái hiện vật
của vốn lưu động lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu.
Trong thực tế kinh doanh, sự vận động của vốn lưu động không diễn
ra một cách tuần tự trải qua đủ ba giai đoạn như mô phỏng kể trên. Sự
vận động của vốn lưu động có thể chỉ trải qua một số khâu hay một số
giai đoạn nhất định để quay về hình thái tiền tệ ban đầu, điều đó còn tuỳ
thuộc vào vốn lưu động tham gia vào loại hình kinh doanh nào. Các giai
đoạn vận động của vốn lưu động trong thực tế thường diễn ra xen kẽ lẫn
nhau. Trong khi một bộ phận của vốn lưu động được chuyển hoá thành
vật tư, hàng hoá dự trữ thì một bộ phận khác của vốn lưu động lại được
chuyển hoá từ sản phẩm, hàng hoá thành vốn tiền tệ. Cứ như vậy, vốn
lưu động sẽ liên tục vận động và quay vòng tuần hoàn.
Việc nghiên cứu những đặc điểm về hình thái tồn tại và phương thức
vận động của vốn lưu động sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
trong việc đưa ra các hình thức và biện pháp thích hợp để quản lý và sử
dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả.
Tổ chức chu chuyển vốn kinh doanh
Khi vốn kinh doanh của doanh nghiệp được đầu tư sử dụng vào các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì nó sẽ vận động và chu
chuyển. Chu chuyển vốn là quá trình vận động và chuyển hoá của vốn
mang tính tuần hoàn từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật và lại
quay trở lại hình thái tiền tệ ban đầu. Tổ chức chu chuyển vốn được
hiểu là quá trình theo dõi, kiểm soát và thực hiện các biện pháp tác
động vào quá trình vận động, quay vòng của vốn kinh doanh nhằm
hướng sự vận động của vốn kinh doanh theo mục tiêu đặt ra. Như vậy,
kết quả của quá trình đầu tư sử dụng vốn phụ thuộc rất nhiều vào việc
tổ chức chu chuyển vốn.

118
Quá trình chu chuyển vốn kinh doanh chịu tác động bởi các nhân tố
cơ bản sau:
- Đặc điểm của ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh.
Nhân tố này quyết định đến qui mô, thành phần cơ cấu vốn kinh
doanh, đồng thời ảnh hưởng có tính chất quyết định đến tốc độ chu
chuyển vốn của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực sản xuất, xây dựng thì qui mô vốn thường lớn, cơ cấu thường phức
tạp và vốn được vận động qua nhiều giai đoạn mới hoàn thành một vòng
chu chuyển. Trong khi đó đối với hoạt động thương mại thì cơ cấu vốn
thường nghiêng về vốn lưu động và vốn lưu động thường được quay
vòng nhanh hơn, qua ít khâu, ít giai đoạn hơn.
- Đặc điểm vận động về hình thái hiện vật và giá trị của từng loại
vốn sử dụng trong kinh doanh. Nhân tố này sẽ ảnh hưởng đến phương
thức và tốc độ chu chuyển vốn. Hình thái hiện vật của vốn cố định là tài
sản cố định. Đặc điểm vận động về hiện vật và giá trị của tài sản cố định
sẽ qui định phương thức và tốc độ chu chuyển của vốn cố định. Vốn cố
định được chu chuyển dần dần từng bộ phận và nó chỉ hoàn thành một
vòng chu chuyển khi tài sản cố định được khấu hao hết nguyên giá.
Trong khi đó, hình thái hiện vật của vốn lưu động là tài sản lưu động, sự
vận động của tài sản lưu động quyết định phương thức và tốc độ chu
chuyển của vốn lưu động. Vốn lưu động được dịch chuyển toàn bộ một
lần vào chi phí kinh doanh hay giá trị sản phẩm dịch vụ và nó được thu
hồi lại toàn bộ khi hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ được tiêu thụ.
Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng ở trên sẽ là những căn cứ
quan trọng để doanh nghiệp có thể tổ chức tốt quá trình chu chuyển vốn
của doanh nghiệp.
Bảo toàn vốn kinh doanh
Mục tiêu hàng đầu trong chu chuyển vốn là phải bảo toàn và làm
tăng giá trị của đồng vốn, đồng thời phải làm tăng tốc độ chu chuyển
vốn. Để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp cần phải đề ra và thực hiện
các biện pháp phù hợp theo định hướng như sau:

119
Thứ nhất, để bảo toàn, làm tăng giá trị của vốn và đẩy nhanh tốc độ
chu chuyển vốn cố định, doanh nghiệp cần phải:
- Đánh giá và đánh giá lại tài sản dài hạn (đặc biệt là đối với tài sản
cố định). Việc này giúp cho doanh nghiệp nắm được giá trị thực của tài
sản dài hạn làm căn cứ để xác định định hướng quản lý và thu hồi vốn
đầu tư. Đây cũng là căn cứ quan trọng để xác định mức khấu hao hợp lý
cũng như để thực thi các biện pháp xử lý cần thiết khác nhằm thu hồi vốn
kịp thời và tránh sự thất thoát vốn do tài sản bị mất giá.
- Lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp để đảm bảo tốc độ thu
hồi vốn hợp lý và ngăn ngừa hao mòn vô hình.
- Sử dụng các biện pháp nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng tài
sản cố định như tận dụng tối đa công suất, công dụng của tài sản cố định,
bảo đảm chế độ bảo quản, bảo dưỡng và sửa chữa tài sản cố định, sử
dụng linh hoạt tài sản cố định,...
-Tăng cường kiểm soát tình trạng của các khoản đầu tư tài chính dài
hạn, quản lý tốt quá trình đầu tư xây dựng cơ bản, áp dụng các biện pháp
phù hợp đảm bảo thu hồi đầy đủ các khoản phải thu dài hạn góp phần
bảo toàn và phát triển vốn cố định.
Thứ hai, để bảo toàn, phát triển và làm tăng tốc độ chu chuyển vốn
lưu động, doanh nghiệp cần phải:
- Xác định nhu cầu vốn lưu động trong mỗi kỳ kinh doanh một cách
chính xác. Từ đó sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động trong việc
tìm kiếm nguồn tài trợ thích hợp và tránh tình trạng thiếu vốn cũng như
thừa vốn gây lãng phí trong kinh doanh.
- Tổ chức khai thác và tìm kiếm nguồn tài trợ vốn lưu động một cách
phù hợp và có hiệu quả nhất. Việc này sẽ giúp doanh nghiệp đảm bảo
vốn cho kinh doanh và đảm bảo khả năng thanh toán cho doanh nghiệp.
- Thực hiện các biện pháp bảo toàn và phát triển vốn lưu động phù
hợp như lập các khoản dự phòng, mua bảo hiểm,...
- Thường xuyên phân tích, đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động
để nắm được thực trạng về sử dụng vốn lưu động. Từ đó có thể đưa ra các
biện pháp tác động kịp thời để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.

120
4.2.2. Nguồn vốn kinh doanh
4.2.2.1. Khái niệm và phân loại nguồn vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các
nguồn tài chính mà doanh nghiệp có thể khai thác, huy động được để tạo
nên vốn kinh doanh của mình. Nó cho biết phương thức khai thác, tạo
vốn tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời
còn cho biết trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với mỗi loại
nguồn vốn.
Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại khác
nhau tuỳ theo từng cách thức xem xét. Nếu căn cứ vào thời hạn sử dụng
thì toàn bộ nguồn vốn của doanh nghiệp được cấu thành bởi hai loại:
nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
Nguồn vốn ngắn hạn là những nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể
khai thác và sử dụng trong vòng một năm, chẳng hạn như nguồn vốn vay
ngắn hạn, nguồn vốn chiếm dụng trong thanh toán. Nguồn vốn dài hạn là
những nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể khai thác và sử dụng với thời
hạn trên một năm, chẳng hạn như nguồn vốn vay dài hạn, nguồn vốn phát
hành cổ phiếu, trái phiếu,...
Việc xem xét nguồn vốn của doanh nghiệp theo thời hạn sử dụng sẽ
giúp cho doanh nghiệp có thể lựa chọn và sử dụng nguồn vốn thích hợp
để tài trợ cho các hoạt động kinh doanh. Một nguyên tắc quan trọng
trong quản lý tài chính là nguồn vốn ngắn hạn phải được sử dụng để tài
trợ cho tài sản ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn sử dụng để tài trợ cho tài
sản dài hạn để đảm bảo khả năng thanh toán an toàn của doanh nghiệp.
Nếu vi phạm nguyên tắc này có thể dẫn đến hậu quả là khả năng thanh
toán của doanh nghiệp trở nên yếu kém, thậm chí doanh nghiệp có thể
lâm vào tình trạng phá sản.
Nếu căn cứ vào trách nhiệm pháp lý và tính chất sở hữu, toàn bộ
nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành hai loại cơ bản: nguồn vốn
chủ sở hữu và nợ phải trả.

121
Nguồn vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của
doanh nghiệp. Một phần cơ bản của số vốn này là do các chủ sở hữu
doanh nghiệp đầu tư khi thành lập doanh nghiệp và đầu tư bổ sung trong
quá trình hoạt động, phần còn lại được tích luỹ và bổ sung từ lợi nhuận
sau thuế của doanh nghiệp. Xét về trách nhiệm pháp lý, doanh nghiệp
không phải cam kết hoàn trả số vốn này cho chủ đầu tư trong suốt thời
gian tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp ngoại trừ một số trường hợp
đặc biệt.
Thông thường, nguồn vốn chủ sở hữu doanh nghiệp được cấu thành
bởi các bộ phận cơ bản sau:
- Vốn đầu tư của chủ sở hữu doanh nghiệp: để hình thành doanh
nghiệp các bên tham gia thành lập doanh nghiệp phải góp vốn, tổng số
vốn họ góp khi đó được ghi vào trong điều lệ của doanh nghiệp được gọi
là vốn điều lệ. Nếu luật pháp có qui định về vốn pháp định (số vốn tối
thiểu cần thiết bắt buộc phải có khi thành lập doanh nghiệp theo qui định
của pháp luật) thì vốn điều lệ của doanh nghiệp không được thấp hơn vốn
pháp định. Như vậy, vốn đầu tư của các chủ sở hữu ban đầu sẽ tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp ra đời và có thể hoạt động được. Ai đầu tư
vốn chủ sở hữu vào doanh nghiệp và đầu tư bằng phương thức nào ?
Điều đó còn tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp tồn tại. Đối với doanh
nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, số vốn chủ sở hữu ban đầu là do nhà
nước đầu tư. Đối với doanh nghiệp liên doanh, số vốn ban đầu là do các
đối tác trong liên doanh đóng góp. Đối với công ty TNHH, số vốn ban
đầu là do các thành viên tham gia thành lập công ty đóng góp. Đối với
công ty cổ phần, vốn điều lệ của công ty là do các cổ đông đóng góp
dưới hình thức mua cổ phiếu. Đối với công ty hợp danh, vốn điều lệ là do
các thành viên hợp danh và thành viên góp vốn đóng góp. Đối với doanh
nghiệp tư nhân, vốn điều lệ của doanh nghiệp là do chủ doanh nghiệp bỏ
ra. Trong quá trình hoạt động các chủ doanh nghiệp có thể tăng vốn điều
lệ dưới hình thức các chủ sở hữu góp vốn bổ sung.
- Vốn thặng dư: đối với các công ty cổ phần có phát hành thêm cổ
phiếu sau khi thành lập, phần chênh lệch giữa số tiền thu được với mệnh

122
giá cổ phần trong các đợt phát hành bổ sung cổ phiếu sẽ được ghi nhận là
vốn thặng dư. Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
và doanh nghiệp không có trách nhiệm hoàn trả lại cho nhà đầu tư đã
mua cổ phiếu của doanh nghiệp, đồng thời doanh nghiệp cũng không có
trách nhiệm phải trả tiền lãi hay cổ tức cho phần vốn này. Do đó, vốn
thặng dư được xem là nguồn vốn có chi phí sử dụng rất thấp song không
phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể huy động được.
- Lợi nhuận để lại và các quĩ doanh nghiệp: sau mỗi kì kinh doanh,
nếu kết quả kinh doanh là có lãi, doanh nghiệp sẽ tiến hành phân phối số
lợi nhuận này theo đúng qui định hiện hành của nhà nước và những đòi
hỏi hiện tại của doanh nghiệp. Thông thường, một phần lợi nhuận được
giữ lại để bổ sung vốn kinh doanh của doanh nghiệp, một phần khác
được sử dụng để hình thành nên các quĩ của doanh nghiệp. Đây là hai bộ
phận cấu thành nên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Đương nhiên nếu
doanh nghiệp không có lợi nhuận và không còn số dư các quĩ thì đồng
nghĩa với việc doanh nghiệp không có bộ phận vốn chủ sở hữu này.
- Nguồn vốn khác: Là các nguồn vốn được coi như thuộc sở hữu của
doanh nghiệp, chẳng hạn như nguồn vốn liên doanh, liên kết: đây là
nguồn vốn do các đối tác đóng góp để tiến hành các hoạt động liên doanh
liên kết. Doanh nghiệp là bên tổ chức hoạt động liên doanh nhận vốn góp
của các đối tác và không hình thành pháp nhân mới. Trong những trường
hợp nhất định thì việc khai thác và sử dụng nguồn vốn này tỏ ra phù hợp
và có hiệu quả bởi vì doanh nghiệp sẽ tận dụng được những lợi thế hiện
hành của các đối tác, đồng thời phân tán được rủi ro trong hoạt động liên
doanh. Trong quá trình quản lý, tuỳ theo cơ chế tài chính doanh nghiệp ở
mỗi quốc gia mà nguồn vốn này có thể được coi là một loại hình nguồn
vốn huy động hoặc một loại hình nguồn vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, xuất
phát từ bản chất của nó là một loại hình vốn góp, cho nên cơ chế tài
chính ở nước ta coi đây là một bộ phận nguồn vốn chủ sở hữu.
Nợ phải trả: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp khai thác, huy động
ngoài nguồn vốn chủ sở hữu nhưng phải hoàn trả trong một thời hạn nhất
định. Đối với nguồn vốn này, doanh nghiệp chỉ được sử dụng có thời hạn

123
và phải hoàn trả theo những ràng buộc nhất định. Do đó, nguồn vốn huy
động còn được gọi là các khoản nợ phải trả. Nguồn vốn này được cấu
thành bởi các bộ phận cơ bản sau:
- Nguồn vốn vay: Là nguồn vốn mà các doanh nghiệp huy động dưới
hình thức vay vốn từ các tổ chức và cá nhân để đáp ứng nhu cầu vốn cho
kinh doanh. Các doanh nghiệp có thể vay vốn từ các ngân hàng thương
mại, các công ty tài chính, các quỹ tín dụng và các đối tượng khác. Trong
điều kiện hiện nay, nguồn vốn tín dụng được coi là nguồn vốn dễ dàng
khai thác và có thể đáp ứng nhanh chóng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng thường đặt ra các ràng buộc chặt chẽ như
phải có tài sản thế chấp. Hơn nữa, chi phí sử dụng nguồn vốn này cũng
còn khá cao.
- Nguồn vốn trong thanh toán: Trong quá trình hoạt động, các doanh
nghiệp có thể chiếm dụng vốn của các chủ thể khác dưới các hình thức
khác nhau. Chẳng hạn doanh nghiệp mua chịu và chậm trả tiền mua hàng
hoá dịch vụ, chiếm dụng các khoản nợ bảo hiểm, các khoản nợ cán bộ
công nhân viên của doanh nghiệp,... Thông thường chi phí sử dụng
nguồn vốn này tương đối thấp, do đó các doanh nghiệp thường tìm cách
chiếm dụng vốn của các chủ thể liên quan, kể cả khi không thiếu vốn.
Tuy nhiên, việc chiếm dụng vốn có thể dẫn đến hậu quả xấu là làm cho
khả năng thanh toán của doanh nghiệp xấu đi, thậm chí có thể xảy ra
khủng hoảng nợ dây chuyền.
- Nguồn vốn phát hành trái phiếu: Đối với các doanh nghiệp được
quyền phát hành trái phiếu thì đây là một nguồn vốn khá hữu ích, nó giúp
doanh nghiệp có thể huy động được vốn từ công chúng với chi phí sử
dụng hợp lý so với nguồn vốn vay. Tuy nhiên trong thực tế, do mức độ
tín nhiệm của doanh nghiệp còn thấp nên trái phiếu không được ưa
chuộng rộng rãi như cổ phiếu và trái phiếu Chính phủ.
4.2.2.2. Huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động chủ quan có cân nhắc, tính toán của nhà
quản trị tài chính doanh nghiệp nhằm khai thác các nguồn vốn tài trợ cho
các hoạt động, các dự án của doanh nghiệp. Nói cách khác, huy động vốn

124
là hoạt động khai thác, thu hút các nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
của doanh nghiệp.
Việc huy động vốn được thực hiện ở cả giai đoạn thành lập doanh
nghiệp và giai đoạn sau thành lập. Hoạt động huy động vốn ở giai đoạn
thành lập doanh nghiệp chủ yếu để đáp ứng các điều kiện tài chính cần
thiết cho việc ra đời của doanh nghiệp. Còn việc huy động vốn ở giai
đoạn sau thành lập nhằm mục đích bổ sung vốn đáp ứng các nhu cầu vốn
cho kinh doanh của doanh nghiệp.
Các quyết định về huy động vốn của doanh nghiệp sẽ phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến các yếu tố cơ bản sau:
- Loại hình doanh nghiệp: mỗi loại hình doanh nghiệp chỉ có thể huy
động vốn bằng một số nguồn vốn nhất định. Đối với công ty TNHH và
công ty hợp danh, ngoài nguồn vốn chủ sở hữu thì họ có thể vay vốn từ
các chủ thể khác nhau, khai thác nguồn vốn trong thanh toán, nhận vốn
góp vốn kinh doanh, phát hành trái phiếu nhưng không được phát hành
cổ phiếu. Trong khi đó, đối với công ty cổ phần, ngoài các hình thức huy
động vốn kể trên, họ còn có thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
Song đối với doanh nghiệp tư nhân lại không được phát hành bất kỳ loại
chứng khoán nào để huy động vốn.
- Diễn biến thị trường tài chính: các diễn biến về cung cầu vốn, lãi
suất và tính chất cạnh tranh của các hình thức huy động vốn trên thị
trường tín dụng và thị trường chứng khoán sẽ là căn cứ quan trọng để
doanh nghiệp chọn lựa phương thức, cơ cấu và qui mô huy động vốn cho
doanh nghiệp. Thông thường, khi lãi suất tín dụng giảm đi, các doanh
nghiệp có xu hướng chọn lựa hình thức vay vốn tín dụng của các ngân
hàng để tài trợ kinh doanh và khi lãi suất gia tăng thì họ lại có xu hướng
tìm đến các nguồn tài trợ khác có chi phí sử dụng rẻ hơn.
- Hiện trạng tài chính và các mục tiêu của doanh nghiệp: tình hình
tài chính của doanh nghiệp phản ánh qua các hệ số tài chính như hệ số
nợ, khả năng thanh toán,... sẽ là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp chọn
lựa và quyết định hình thức, cơ cấu và qui mô huy động vốn. Bên cạnh
đó, các mục tiêu tài chính mà doanh nghiệp đặt ra như mức độ an toàn tài

125
chính, khả năng khuếch đại lợi nhuận thông qua đòn bẩy tài chính,...
cũng là những yếu tố chi phối đến quá trình đề ra các quyết định huy
động vốn.
- Các yếu tố khác: ngoài các yếu tố kể trên, việc đề ra quyết định huy
động vốn của doanh nghiệp còn chịu tác động các yếu tố khác như quan hệ
truyền thống giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp vốn, chính sách tài chính,
tín dụng, tiền tệ của nhà nước, tâm lý của nhà quản trị tài chính,...
Khi huy động vốn, doanh nghiệp thường khai thác tối đa các nguồn
vốn bên trong doanh nghiệp như lợi nhuận giữ lại, quỹ đầu tư phát triển,
quỹ dự phòng tài chính,... Chỉ khi nguồn vốn bên trong không đủ đáp
ứng nhu cầu vốn thì doanh nghiệp mới huy động vốn từ bên ngoài. Tuy
nhiên, các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp hiện đại thường có xu
hướng kết hợp giữa nguồn vốn bên trong và bên ngoài để đạt được cơ
cấu nguồn vốn tối ưu cho doanh nghiệp.
Tóm lại, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác
nhau. Mỗi nguồn vốn có những ưu nhược điểm nhất định về điều kiện
khai thác sử dụng, về chi phí sử dụng và thời hạn sử dụng. Để nâng cao
hiệu quả huy động và sử dụng vốn, doanh nghiệp cần phải cân nhắc và
lựa chọn được nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn thích hợp nhất.
4.2.3. Chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm
4.2.3.1. Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là quá trình kết
hợp và tác động qua lại của các yếu tố cơ bản, đó là tư liệu lao động, đối
tượng lao động và sức lao động. Quá trình này sẽ phát sinh những phí tổn
nhất định về hiện vật và giá trị, được biểu hiện dưới hình thức vật tư, tiền
vốn bị tiêu hao, máy móc thiết bị hao mòn, bị giảm giá trị và giá trị sử
dụng, người lao động phải hao phí sức lao động,... Những hao phí này
được dịch chuyển và kết tinh vào trong sản phẩm, dịch vụ sản xuất ra, giá
trị của chúng sẽ được bù đắp bằng nguồn tiền nhận được từ tiêu thụ sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Trong thực tế, lượng hao phí về các yếu
tố sử dụng trong quá trình kinh doanh có thể được biểu thị và đo lường

126
bằng các đơn vị khác nhau như hao phí về nguyên vật liệu có thể được đo
lường bằng đơn vị khối lượng, trọng lượng, hao phí về máy móc thiết bị
có thể được đo lường bằng số giờ vận hành, hao phí về sức lao động có
thể được đo lường bằng ngày công lao động,... Tuy nhiên, khi những hao
phí kể trên được tính toán, đo lường, biểu thị bằng một thước đo thống
nhất là tiền tệ thì người ta gọi đó là chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
Do đó, chi phí kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của
những hao phí về các yếu tố có liên quan và phục vụ cho kinh doanh của
doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nói cách khác, chi phí kinh
doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của những hao phí về lao
động vật hoá, lao động sống và những phí tổn khác phục vụ cho quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định.
Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại khác nhau.
Nếu căn cứ vào cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp hiện hành, toàn bộ
chi phí của doanh nghiệp trong kỳ được cấu thành bởi hai bộ phận: chi
phí hoạt động kinh doanh và chi phí khác.
a. Chi phí hoạt động kinh doanh
Chi phí hoạt động kinh doanh là các khoản chi phí có liên quan và
phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định, chẳng hạn như chi phí vật tư, chi phí
khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính
chất lương, các khoản trích nộp theo qui định của nhà nước, chi phí dịch
vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác.
Chi phí hoạt động kinh doanh bao gồm chi phí kinh doanh hàng hóa dịch
vụ và chi phí tài chính.
Chi phí kinh doanh hàng hóa dịch vụ có thể được chia ra thành 2
loại: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp là các khoản
chi phí phát sinh và phục vụ trực tiếp cho các đối tượng kinh doanh của
doanh nghiệp như chi phí vật tư, chi phí khấu hao nhà xưởng, kho tàng,
máy móc thiết bị, chi phí tiền lương cho lao động trực tiếp,... Các chi phí
này có đặc điểm là phục vụ trực tiếp cho các đối tượng kinh doanh của
doanh nghiệp cho nên, một mặt nó thường được tập hợp trực tiếp theo

127
đối tượng hoặc nhóm đối tượng kinh doanh để tính giá thành, mặt khác
nó phản ánh khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được tạo ra hoặc
tiêu thụ trong kỳ. Ngược lại chi phí gián tiếp là các khoản chi phí phát
sinh và phục vụ gián tiếp cho các đối tượng kinh doanh của doanh nghiệp
như chi phí khấu hao văn phòng, thiết bị dụng cụ quản lý doanh nghiệp,
chi phí tiền lương cho cán bộ nhân viên quản lý doanh nghiệp,... Các chi
phí này thường không phản ánh qui mô sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ
được tạo ra trong kỳ và thường không được tập hợp trực tiếp theo đối
tượng kinh doanh mà được theo dõi và phân bố để tính tổng chi phí giá
thành theo đối tượng hay nhóm đối tượng kinh doanh.
Chi phí kinh doanh hàng hóa dịch vụ có đặc điểm là sự phát sinh của
chúng có liên quan và phục vụ cho hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch
vụ của doanh nghiệp. Do đó, tính chất phát sinh và qui mô của các khoản
chi phí này phụ thuộc vào đặc điểm và qui mô của hoạt động kinh doanh
hàng hóa dịch vụ mà doanh nghiệp tiến hành. Như vậy, sự gia tăng của
chi phí hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch vụ đồng nghĩa với việc số
lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và cung ứng nhiều
hơn. Tuy nhiên, điều đó có thể không xảy ra nếu chỉ có sự gia tăng về
chi phí gián tiếp như chi phí quản lý doanh nghiệp.
Chi phí tài chính là các khoản chi phí có liên quan và phục vụ cho
các hoạt động huy động vốn cho kinh doanh và đầu tư tài chính ra ngoài
doanh nghiệp nhằm mục tiêu sử dụng hợp lí các nguồn vốn, tăng thêm
thu nhập và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Chi phí tài
chính của doanh nghiệp thường bao gồm: lãi tiền vay phải trả, chi phí
hoạt động liên doanh liên kết, chi phí cho thuê tài sản, chi phí mua bán
chứng khoán, chênh lệch tỉ giá, chiết khấu thanh toán cho người mua và
các chi phí khác phục vụ cho hoạt động đầu tư tài chính ra ngoài doanh
nghiệp. Chi phí tài chính gắn liền và phát sinh từ hoạt động huy động
vốn, thúc đẩy thu hồi vốn và đầu tư tài chính của doanh nghiệp. Do đó,
tính chất phát sinh và qui mô của các khoản chi phí này phụ thuộc vào
đặc điểm và qui mô hoạt động huy động vốn và đầu tư tài chính của
doanh nghiệp.

128
Để đáp ứng mục tiêu hiệu quả trong quản lí tài chính thì toàn bộ chi
phí hoạt động kinh doanh phải được bù đắp bằng doanh thu hoạt động
kinh doanh trong cùng kỳ. Doanh thu hoạt động kinh doanh sẽ là nguồn
tài chính cơ bản và quan trọng nhất để bù đắp các khoản chi phí hoạt
động kinh doanh phát sinh trong kỳ. Về nguyên tắc doanh thu hoạt động
kinh doanh phải lớn hơn hoặc tối thiểu là bằng chi phí hoạt động kinh
doanh trong kỳ, nếu yêu cầu này không được đáp ứng thì hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp bị thua lỗ, vốn kinh doanh của doanh nghiệp
không được bảo toàn và phát triển.
b. Chi phí khác
Là các khoản chi phí của doanh nghiệp phát sinh ngoài chi phí hoạt
động kinh doanh. Chi phí khác thường là các chi phí phát sinh một cách
bất thường và không liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Chi phí khác thường bao gồm: chi phí nhượng bán, thanh
lý tài sản, chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ khó đòi đã xoá sổ kế
toán, chi phí về tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, chi phí để thu tiền
phạt và các chi phí bất thường khác. Với tính chất phát sinh không
thường xuyên, doanh nghiệp không thể dự đoán và kế hoạch hoá được
các chi phí này. Nguồn tài chính cơ bản để bù đắp và trang trải các khoản
chi phí này là doanh thu khác hay thu nhập bất thường của doanh nghiệp.
Việc nghiên cứu các khoản chi phí của doanh nghiệp theo tiêu
thức kể trên sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể theo dõi, tập hợp và quản
lý các chi phí theo từng loại hình hoạt động của doanh nghiệp. Trên cơ
sở đó, doanh nghiệp có thể xác định chính xác kết quả kinh doanh theo
từng loại hoạt động đồng thời cũng là căn cứ quan trọng để đề ra các
biện pháp tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
4.2.3.2. Giá thành sản phẩm
Trong quá trình kinh doanh, các chủ thể kinh doanh không chỉ quan
tâm đến giá trị của những hao phí về các yếu tố phục vụ cho kinh doanh
trong một thời kì nhất định, mà họ còn phải tính toán và cần biết được
những giá trị hao phí ấy là bao nhiêu khi sản xuất và tiêu thụ một đơn vị

129
sản phẩm hay một khối lượng sản phẩm nhất định, bởi lẽ đây chính là
căn cứ quan trọng để định ra giá bán sản phẩm và tính toán kết quả hoạt
động. Để đáp ứng đòi hỏi khách quan đó, người ta đã sử dụng thuật ngữ
giá thành.
Giá thành là chi phí phát sinh khi sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản
phẩm hay một khối lượng sản phẩm nhất định. Nói cách khác, giá thành
là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động sống, lao động vật
hoá và các phí tổn cần thiết khác kết tinh trong một đơn vị sản phẩm hay
một khối lượng sản phẩm được tạo ra và tiêu thụ. Trên góc độ này thì giá
thành sản phẩm mang tính khách quan, phản ánh sự di chuyển và kết tinh
hao phí của tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động vào
trong một đơn vị sản phẩm hay một khối lượng sản phẩm sản xuất ra, còn
việc tính toán giá thành lại mang tính chủ quan phản ánh nhận thức của
con người đối với quá trình di chuyển và kết tinh đó.
Giữa chi phí và giá thành có những điểm tương đồng và khác biệt
nhất định. Đây chính là căn cứ để chúng ta phân biệt và nhận thức đúng
về hai phạm trù này.
Chi phí và giá thành đều phản ánh giá trị của những hao phí về các
yếu tố có liên quan và phục vụ cho kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, giữa hai phạm trù này có hai điểm khác nhau cơ bản như sau:
- Chi phí là khái niệm dùng để chỉ giá trị của những hao phí về các
yếu tố trong một thời kì nhất định, nó liên quan chặt chẽ đến yếu tố thời
gian. Do đó, sẽ có thể tồn tại chi phí phát sinh ở kỳ trước nhưng được phân
bổ và gánh chịu ở kỳ này và chi phí phát sinh ở kỳ này nhưng lại được
phân bổ và gánh chịu ở kỳ sau. Nhìn vào chi phí chúng ta không thể biết
được số lượng chi phí này phục vụ cho sản phẩm nào bởi vì có thể còn có
chi phí kinh doanh dở dang. Ngược lại, giá thành là khái niệm dùng để chỉ
các chi phí có liên quan và phục vụ cho việc sản xuất và tiêu thụ một đơn
vị sản phẩm hay một khối lượng sản phẩm nhất định. Như vậy, giá thành
không liên quan đến yếu tố thời gian, không bao gồm các chi phí kinh
doanh dở dang, mà chỉ bao gồm các chi phí có liên quan đến số lượng,
khối lượng sản phẩm đã hoàn thành quá trình sản xuất và tiêu thụ.

130
- Chi phí là căn cứ để tính giá thành của sản phẩm dịch vụ đã hoàn
thành, sự tiết kiệm hay lãng phí về chi phí có ảnh hưởng trực tiếp đến
giá thành và việc quản lí giá thành gắn liền với quản lí chi phí của
doanh nghiệp.
Có thể xem xét giá thành sản phẩm dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nếu căn cứ vào mức độ hay phạm vi tập hợp chi phí, người ta đề cập đến
hai loại giá thành:
- Giá thành sản xuất sản phẩm: là giá thành bao gồm các chi phí có
liên quan và phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất ra một đơn vị sản phẩm
hay một khối lượng sản phẩm. Giá thành sản xuất bao gồm chi phí vật tư
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Đây cũng
chính là căn cứ để doanh nghiệp tính giá vốn hàng bán khi sản phẩm dịch
vụ được tiêu thụ và là cơ sở để doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp
phấn đấu hạ thấp giá thành sản xuất.
- Giá thành toàn bộ của sản phẩm: là giá thành bao gồm các chi phí
có liên quan và phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị
sản phẩm hay một khối lượng sản phẩm nhất định. Cấu thành nên giá
thành toàn bộ gồm ba bộ phận: giá thành sản xuất của sản phẩm, chi phí
bán hàng và chi phí quản lí doanh nghiệp phân bổ cho sản phẩm. Giá
thành toàn bộ của sản phẩm là cơ sở để doanh nghiệp định ra giá bán đơn
vị sản phẩm, đồng thời là căn cứ để tính toán kết quả kinh doanh và là cơ
sở quan trọng để doanh nghiệp đưa ra các biện pháp hạ thấp giá thành,
nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nếu căn cứ vào nguồn số liệu sử dụng để tính toán giá thành, người
ta đề cập đến ba loại giá thành:
- Giá thành dự toán: Là giá thành được tính toán dựa trên các số liệu
dự toán về các yếu tố cấu thành nên nó. Giá thành dự toán được tính toán
và xác định trước khi tiến hành quá trình sản xuất sản phẩm, nó là một
công cụ quản lý tài chính của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp chủ động
các phương án huy động vốn, đảm bảo dự trữ vật tư, tài sản cần thiết cho
kinh doanh, đồng thời là cơ sở để thực hiện các biện pháp quản lý giám
sát chi phí một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả.

131
- Giá thành kế hoạch: Là giá thành được hình thành trong kế hoạch
giá thành, nó được tính toán dựa trên các số liệu kế hoạch về chi phí và
sản lượng. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là
căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện giá thành và kế
hoạch giá thành của doanh nghiệp.
- Giá thành thực tế: Là giá thành được tính toán dựa trên số liệu
thực tế về chi phí và sản lượng kinh doanh. Nó chỉ có thể được tính
toán và xác định sau khi đã sản xuất ra một số lượng sản phẩm nhất
định và tập hợp được đầy đủ các chi phí thực tế có liên quan. Giá thành
thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của
doanh nghiệp trong việc vận dụng các giải pháp tổ chức, kinh tế, kĩ
thuật để hoàn thành quá trình kinh doanh và là cơ sở để xác định kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong quản lý tài chính doanh nghiệp, việc tính toán, xác định và
phân tích giá thành sẽ đem lại những ý nghĩa rất quan trọng đối với
doanh nghiệp, đó là:
- Giá thành sản phẩm là thước đo chi phí phải bỏ ra và gánh chịu để
sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm dịch vụ. Giá thành phản ánh chi
phí cá biệt của doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nó là căn
cứ rất quan trọng để doanh nghiệp xác lập giá bán đơn vị sản phẩm. Khi
định ra giá bán, một mặt doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình thị
trường về cung, cầu, giá cả cạnh tranh,... mặt khác, doanh nghiệp phải
căn cứ vào giá thành để biết được mức bù đắp chi phí tương ứng với mỗi
mức giá. Việc định ra giá bán còn phải căn cứ vào chiến lược kinh doanh
và chiến lược marketing của doanh nghiệp. Do đó, trong một giai đoạn
nhất định, doanh nghiệp có thể định ra giá bán bằng hoặc thấp hơn giá
thành, khi đó doanh nghiệp chỉ hoà vốn hoặc bị lỗ nhưng sẽ đạt được các
mục tiêu khác như chiếm lĩnh thị trường, tăng sức cạnh tranh,... Tuy
nhiên, việc định giá như thế chỉ mang tính chất ngắn hạn, còn về lâu dài
giá bán phải lớn hơn giá thành để doanh nghiệp không những bù đắp đủ
các chi phí bỏ ra mà còn có lãi.

132
- Giá thành sản phẩm, dịch vụ là cơ sở để doanh nghiệp xác định kết
quả kinh doanh và là căn cứ để đề ra các biện pháp phấn đấu hạ giá
thành. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp chỉ có thể được xác định
một cách chính xác khi chúng ta có số liệu chính xác về doanh thu, chi
phí, giá thành trong kỳ.
Giá thành sản phẩm chịu tác động bởi nhiều yếu tố như trình độ kĩ
thuật công nghệ kinh doanh, trình độ tổ chức quản lý sử dụng lao động,
trình độ quản lý kinh doanh và tài chính, sự thay đổi chính sách của nhà
nước,... Việc phân tích, đánh giá cơ cấu của giá thành và các nhân tố ảnh
hưởng đến nó sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể đưa ra hệ thống các giải
pháp kinh tế - kĩ thuật - tổ chức nhằm hạ thấp giá thành và nâng cao hiệu
quả kinh doanh.
4.2.4. Doanh thu, thu nhập khác và lợi nhuận
4.2.4.1. Doanh thu và thu nhập khác của doanh nghiệp
a. Doanh thu của doanh nghiệp
Trong quá trình kinh doanh, các nguồn tài chính được tạo ra từ tiêu
thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và từ các hình thức kinh doanh khác
trong một thời kỳ nhất định được gọi là doanh thu của doanh nghiệp. Nói
cách khác, doanh thu là kết quả tổng hợp biểu hiện nguồn tài chính được
sản sinh ra từ các hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kì nhất
định. Nguồn tài chính này là cơ sở quan trọng để bù đắp các chi phí của
doanh nghiệp trong kỳ và đảm bảo cho doanh nghiệp có lãi.
Theo cách tiếp cận của chuẩn mực kế toán Việt Nam, có thể hiểu
doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong
kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường
của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu10
Doanh thu của doanh nghiệp thường được cấu thành bởi hai bộ
phận: doanh thu bán hàng hóa dịch vụ và doanh thu tài chính.
Doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ: Sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ
sau khi được tiêu thụ đã chuyển hoá và tạo ra một nguồn tài chính cho
10
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14, ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC

133
doanh nghiệp dưới hình thức doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
(bao gồm cả số đã thu được bằng tiền và chưa thu được bằng tiền). Nói
cách khác, doanh thu bán hàng hóa dịch vụ là toàn bộ giá trị tính theo giá
bán của số lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đã được
xác định là tiêu thụ, không phân biệt là đã thu được tiền hay chưa thu
được tiền. Doanh thu bán hàng hóa dịch vụ là bộ phận quan trọng nhất
cấu thành nên tổng doanh thu của doanh nghiệp, là nguồn tài chính cơ
bản để bù đắp các chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ và là
căn cứ để tính toán kết quả hoạt động kinh doanh. Xét dưới góc độ chu
chuyển vốn, doanh thu bán hàng hóa dịch vụ là nguồn tài chính để tái tạo
lại số vốn đã bỏ ra và sử dụng trong kinh doanh. Do đó, về nguyên lý thì
doanh thu bán hàng hóa dịch vụ phải lớn hơn số vốn đã chuyển hoá vào
chi phí và giá vốn của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ.
Đây cũng là yêu cầu quan trọng cần đáp ứng để bảo toàn và phát triển
vốn trong kinh doanh.
Doanh thu tài chính: Ngoài hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp
còn có thể tiến hành hoạt động đầu tư tài chính dưới hình thức góp vốn
kinh doanh, cho vay, mua chứng khoán,... nhằm tạo ra sự linh hoạt trong
sử dụng vốn và góp phần tạo thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp. Các hoạt
động đó cũng đem lại các nguồn tài chính nhất định cho doanh nghiệp và
được gọi là doanh thu tài chính. Doanh thu tài chính là các nguồn tài
chính được tạo ra từ hoạt động đầu tư tài chính và từ các nỗ lực tài chính
khác của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Doanh thu tài chính
có thể bao gồm: lãi liên doanh liên kết, lãi cổ phần, lãi tiền gửi, lãi cho
vay, lãi bán hàng trả chậm, lãi mua bán chứng khoán, mua bán ngoại tệ,
tiền thu về cho thuê tài sản, chiết khấu thanh toán được hưởng trong khâu
mua,... Doanh thu tài chính là nguồn tài chính quan trọng để bù đắp các
chi phí tài chính và là căn cứ để tính toán kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp trong kỳ.
Trong quản lý tài chính doanh nghiệp, một mặt doanh nghiệp cần
phải ghi nhận doanh thu một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ và phân
phối sử dụng một cách hợp lý. Mặt khác, doanh nghiệp còn phải luôn tìm
kiếm và áp dụng các biện pháp làm tăng doanh thu của doanh nghiệp, bởi

134
vì việc tăng doanh thu sẽ giúp cho doanh nghiệp không ngừng lớn mạnh
về nhiều mặt như mở rộng thị phần, tăng trưởng vốn, tăng trưởng lợi
nhuận,... Trong điều kiện môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt thì
việc tăng doanh thu lại là vấn đề đặc biệt quan trọng, bởi vì nó gắn liền
với sự sống còn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể
mở rộng qui mô tiêu thụ với bất cứ giá nào mà còn phải cân nhắc các yếu
tố khác có liên quan như khả năng tài chính, khả năng nguồn hàng, mục
tiêu ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp,... Nói cách khác, việc đề ra
và áp dụng các biện pháp làm tăng trưởng doanh thu phải gắn liền và
xuất phát từ chiến lược kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp.
b. Thu nhập khác
Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, có thể phát sinh các
nguồn tài chính khác từ các hoạt động không phải là hoạt động tạo ra
doanh thu, được gọi là thu nhập khác. Nói cách khác, thu nhập khác của
doanh nghiệp là các khoản thu nhập của doanh nghiệp phát sinh không
thường xuyên và không thuộc hai bộ phận doanh thu kể trên.
Theo cách tiếp cận của chuẩn mực kế toán Việt Nam, thu nhập khác
được hiểu là khoản thu góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu từ hoạt động
ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu11
Thu nhập khác của doanh nghiệp có thể bao gồm nhiều khoản khác
nhau, chẳng hạn như: các khoản thu từ nhượng bán, thanh lí tài sản cố
định, thu từ nhượng bán vật tư, hàng hoá, tài sản dôi thừa; thu từ bán
công cụ dụng cụ đã hư hỏng hoặc không cần dùng; thu từ các khoản nợ
khó đòi đã xử lý; thu về tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế;... Thu nhập
khác không phải là nguồn thu nhập cơ bản và thường xuyên của doanh
nghiệp nhưng nó góp phần bổ sung cho tổng thu nhập của doanh nghiệp.
Do tính chất phát sinh bất thường cho nên doanh nghiệp không thể dự
tính và kế hoạch hoá được nguồn thu nhập này. Chính vì thế, trong quản
lý tài chính doanh nghiệp, các nhà quản trị tài chính luôn bóc tách và
xem xét riêng biệt các khoản thu nhập và chi phí khác.

11
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14, ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC

135
4.2.4.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ được xác định bằng
cách lấy tổng doanh thu và thu nhập khác đạt được trong kì trừ đi tổng
chi phí phải gánh chịu trong cùng kỳ. Nếu kết quả đó là số dương, người
ta gọi đó là lợi nhuận hay lãi của doanh nghiệp, nếu kết quả đó là số 0 thì
doanh nghiệp đó sẽ hoà vốn và nếu kết quả đó là số âm thì đó là số lỗ mà
doanh nghiệp phải chịu. Như vậy, lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa
tổng doanh thu và thu nhập khác với tổng chi phí phải gánh chịu trong
một kỳ nhất định.
Lợi nhuận của doanh nghiệp thường được cấu thành bởi hai bộ phận
là lợi nhuận hoạt động kinh doanh và lợi nhuận khác. Lợi nhuận hoạt
động kinh doanh là bộ phận lợi nhuận được tạo ra từ hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, được tính bằng chênh lệch giữa doanh thu trong
kỳ với chi phí phải gánh chịu trong cùng kỳ. Đây là bộ phận lợi nhuận
quan trọng và thường chiếm tỷ trọng chủ yếu, bởi lẽ nó biểu hiện kết quả
sau cùng của hoạt động kinh doanh - hoạt động cơ bản nhất của doanh
nghiệp. Lợi nhuận khác là bộ phận lợi nhuận phát sinh từ hoạt động
ngoài các hoạt động kinh doanh, được tính bằng chênh lệch giữa thu
nhập khác với chi phí khác trong một thời kỳ nhất định. Đây là bộ phận
lợi nhuận thứ yếu và thường chiếm tỷ trọng không đáng kể và thậm chí
có thể không tồn tại bộ phận lợi nhuận này.
Lợi nhuận được xem là mục tiêu theo đuổi của doanh nghiệp, là chỉ
tiêu tài chính tổng hợp phản ánh kết quả và hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định. Lợi nhuận còn là
nguồn tài chính cơ bản để doanh nghiệp tích luỹ và bổ sung vốn cho sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là cơ sở để đảm bảo cho các phân
phối tài chính cần thiết trong doanh nghiệp như bù lỗ kỳ trước, chi trả cổ
tức, trích lập các quĩ doanh nghiệp,.... Bên cạnh đó, lợi nhuận còn là một
căn cứ tài chính quan trọng để đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài
của doanh nghiệp. Chính vì vậy, lợi nhuận luôn được xem là mục tiêu chi
phối trong mọi quyết định kinh doanh của doanh nghiệp và việc phấn đấu
tăng lợi nhuận trở thành nhiệm vụ thường trực đối với mọi thành viên,
mọi bộ phận của doanh nghiệp.

136
Để có thể đánh giá chính xác kết quả và hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp, một mặt người ta xác định lợi nhuận theo từng loại hình
hoạt động. Mặt khác, người ta còn xây dựng các chỉ tiêu tài chính thể
hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận với các yếu tố khác như doanh thu, chi
phí, vốn đầu tư,... (được gọi là các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận) làm căn cứ
để phân tích, đánh giá.

C¢U HáI ¤N TËP CH¦¥NG 4

1. Phân tích các đặc điểm và vai trò của tài chính doanh nghiệp?
2. Trình bày khái niệm, đặc điểm và phân loại vốn kinh doanh của
doanh nghiệp?
3. Tài sản dài hạn là gì? Trình bày kết cấu tài sản dài hạn của doanh
nghiệp?
4. Tài sản ngắn hạn là gì? Trình bày kết cấu tài sản ngắn hạn của
doanh nghiệp?
5. Vốn cố định của doanh nghiệp là gì? Trình bày đặc điểm vốn cố
định của doanh nghiệp?
6. Vốn lưu động của doanh nghiệp là gì? Trình bày đặc điểm vốn lưu
động của doanh nghiệp?
7. Nguồn vốn là gì? Trình bày kết cấu nguồn vốn của doanh nghiệp?
8. Chi phí của doanh nghiệp là gì? Trình bày kết cấu chi phí của
doanh nghiệp?
9. Doanh thu của doanh nghiệp là gì? Trình bày kết cấu doanh thu
của doanh nghiệp?
10. Lợi nhuận của doanh nghiệp là gì? Trình bày kết cấu lợi nhuận
của doanh nghiệp?

137
Chương 5
B¶O HIÓM

Ngày nay nhu cầu được đảm bảo an toàn càng trở nên quan trọng đối
với mọi chủ thể trong xã hội. Do đó, hoạt động bảo hiểm đã thu hút được
sự quan tâm và tham gia của nhiều tổ chức và cá nhân trong xã hội. Với
mục đích giúp cho người học có được cái nhìn tổng quát về hoạt động
bảo hiểm, nội dung của chương sẽ đề cập đến các vấn đề cơ bản về bảo
hiểm như sự cần thiết khách quan, đặc điểm và vai trò của bảo hiểm.
Trên cơ sở đó, phần tiếp theo của chương sẽ nghiên cứu về hai loại hình
bảo hiểm là bảo hiểm kinh doanh và bảo hiểm xã hội.

5.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ B¶O HIÓM


5.1.1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm trong nền kinh tế
Trong đời sống xã hội, các chủ thể thường xuyên có mối quan hệ tác
động qua lại với tự nhiên và xã hội để tạo ra những sản phẩm, những giá
trị cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình. Trong quá trình đó,
những biến cố bất lợi xảy ra gây tổn thất, thiệt hại cho quá trình sản xuất
kinh doanh và đời sống con người được gọi là những rủi ro.
Các rủi ro có thể xảy ra đối với các chủ thể trong nền kinh tế bao
gồm:
- Đối với đời sống dân cư
Trong cuộc sống, con người vẫn phải phụ thuộc vào thiên nhiên. Sự
biến đổi của tự nhiên thường làm cho con người gặp phải những rủi ro
khó lường trước như bão lụt, hạn hán, động đất, hỏa hoạn, sóng thần...
Mặc dù họ đã thực hiện các biện pháp phòng chống, bảo vệ bằng cách
đắp đê chống lụt, xây dựng hệ thống thủy nông, dự báo thời tiết… nhưng
các biến cố bất lợi đó vẫn có thể xảy ra và gây tổn thất thiệt hại. Khi xảy
ra các thiệt hại, họ phải tìm cách khắc phục thiệt hại, ổn định đời sống

138
bằng các biện pháp khác nhau như đi vay, xin cứu trợ,… nhưng các biện
pháp này có nhiều hạn chế và mang tính tạm thời. Vì vậy, song song với
các biện pháp phòng tránh rủi ro, một biện pháp hữu hiệu là con người
dành một phần thu nhập từ lao động của mình tích lũy, đóng góp hình
thành quỹ tiền tệ đủ lớn để có thể bù đắp kịp thời những thiệt hại khi rủi
ro xảy ra nhằm ổn định cuộc sống.
Ngoài ra, trong quá trình lao động sản xuất, con người có thể gặp
phải những rủi ro khách quan mang tính chất xã hội như: ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... làm cho họ mất khả năng lao
động tạm thời hoặc vĩnh viễn, làm giảm hoặc mất đi thu nhập của họ.
Khi đó, họ cần có nguồn tài chính để bù đắp phần thu nhập bị giảm và
trang trải các chi phí phát sinh nhằm ổn định cuộc sống bản thân, gia
đình người lao động. Nhận thức được vấn đề này, từng cá nhân đã dành
một phần thu nhập của mình để lập nên quỹ dự trữ bảo hiểm.
- Đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh:
Các hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trong nền
kinh tế cũng luôn tiềm ẩn các rủi ro khó lường. Sự biến đổi bất lợi của tự
nhiên như bão lụt, động đất, sóng thần… có thể làm cho sản xuất ngưng
trệ, gây tổn thất thiệt hại đến tài sản của các chủ thể kinh doanh. Mặt
khác, các hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể còn chịu tác
động của các rủi ro khác như mất trộm, mất cắp, tai nạn lao động, tai nạn
giao thông,… khi đó, cũng đòi hỏi phải có biện pháp tài chính để phòng
ngừa và bù đắp những tổn thất thiệt hại để ổn định sản xuất kinh doanh.
Ngoài các rủi ro mang tính chất tự nhiên và xã hội, các chủ thể kinh
doanh còn chịu tác động bởi các quy luật kinh tế khách quan trong nền
kinh tế thị trường như: Quy luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh. Các quy luật này có thể mang đến những cơ hội kinh doanh nhưng
cũng có thể tiềm ẩn các rủi ro. Do đó cần thiết phải thực hiện các biện
pháp phòng ngừa tài chính dưới các hình thức lập quỹ dự phòng, tham
gia các hình thức bảo hiểm.

139
- Đối với Nhà nước:
Để thực hiện chức năng của Nhà nước là phát triển kinh tế và ổn
định xã hội thì nhà nước phải có quỹ dự trữ để đảm bảo vai trò điều tiết
vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước sẽ dùng quỹ này để can thiệp vào nền kinh
tế mỗi khi có sự biến động bất lợi cho nền kinh tế vĩ mô. Như vậy, sự tồn
tại của bảo hiểm là một tất yếu khách quan đối với vai trò quản lý vĩ mô
của nhà nước.
Như vậy, việc tạo lập và sử dụng quĩ dự trữ bảo hiểm là một nhu cầu
tất yếu, nhằm phòng ngừa tạo nguồn bù đắp tổn thất và đảm bảo cho nền
kinh tế - xã hội phát triển bình thường trong điều kiện có những biến cố
bất lợi xảy ra. Người ta thường ví cuộc sống không có bảo hiểm giống
như "cầu thang không có tay vịn". Bảo hiểm đã thực sự đi vào từng lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội với các sản phẩm hết sức phong phú, đa
dạng. Ban đầu, các hoạt động bảo hiểm ra đời chủ yếu là do nhu cầu ổn
định sản xuất kinh doanh và đời sống con người, với chức năng chủ yếu
là phòng ngừa, tạo nguồn tài chính để khắc phục những rủi ro hoặc tai
nạn bất ngờ. Ngày nay, các tổ chức bảo hiểm còn hoạt động với vai trò
như một tổ chức tài chính trung gian, thực hiện chức năng thu hút các
nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn của nền
kinh tế.
Bảo hiểm được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
- Bảo hiểm là phương thức xử lý rủi ro thông qua việc dự trữ đề
phòng rủi ro, chuyển giao, phân tán rủi ro nhằm đảm bảo cho quá trình
tái sản xuất và đời sống của con người trong xã hội được diễn ra bình
thường.
- Bảo hiểm là một phạm trù tài chính gắn liền với các quan hệ kinh
tế phát sinh trong quá trình hình thành phân phối và sử dụng quỹ bảo
hiểm. Các quan hệ phân phối này dựa trên cơ sở ngang bằng giữa trách
nhiệm và quyền lợi, nhân đạo, vì lợi ích cuộc sống và hoạt động kinh tế -
xã hội của con người, góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống
xã hội.

140
- Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn với quá trình hình thành,
phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm xử lý các rủi ro, các biến cố
bảo hiểm, bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội diễn
ra bình thường12
Như vậy: Bảo hiểm là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thái
giá trị phát sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ
bảo hiểm nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất và đời sống của con
người trong xã hội được ổn định và phát triển bình thường trong điều
kiện có những biến cố bất lợi xẩy ra.
5.1.2. Các hình thức bảo hiểm
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động bảo hiểm ngày
càng đa dạng, phong phú. Dựa trên các tiêu thức phân loại khác nhau, có
nhiều hình thức bảo hiểm khác nhau:
a. Căn cứ vào phương thức xử lý rủi ro
Theo tiêu thức này, hoạt động bảo hiểm được chia thành các hoạt
động tự bảo hiểm và bảo hiểm thông qua các tổ chức bảo hiểm.
- Tự bảo hiểm: Là hình thức bảo hiểm mà các tổ chức, cá nhân thành
lập các quỹ riêng để bù đắp các tổn thất có thể xảy ra đối với quá trình
sản xuất và đời sống của mình. Việc tự bảo hiểm cho mình thường được
thực hiện khi họ có đủ khả năng tài chính.
Trong thực tế, hình thức tự bảo hiểm được biểu hiện thông qua việc tạo
lập và sử dụng quỹ dự trữ tập trung của nhà nước, quỹ dự phòng của các
doanh nghiệp, quỹ dự trữ của các hộ gia đình…
- Bảo hiểm thông qua các tổ chức bảo hiểm: Là hình thức bảo hiểm
mà người tham gia bảo hiểm sẽ chuyển giao, phân tán rủi ro cho các tổ
chức bảo hiểm mà bản thân họ không muốn hoặc không đủ khả năng để
gánh chịu rủi ro đó thông qua việc trích nộp một phần thu nhập của mình
cho các tổ chức bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Các tổ chức bảo hiểm
hoạt động chuyên nghiệp trong phân tích rủi ro, ước lượng mức độ rủi ro

12
PGS.TS Dương Đăng Chinh, Giáo trình lý thuyết tài chính, Nhà xuất bản tài chính, 2005

141
và phân tán rủi ro, đồng thời họ còn có trách nhiệm trong việc bảo toàn
và tăng trưởng quỹ để sử dụng chúng cho các mục tiêu dự phòng tài
chính và khắc phục hậu quả của rủi ro, cho nên hình thức bảo hiểm này
được xem là hình thức bảo hiểm hoạt động có hiệu quả trên mọi phương
diện của nền kinh tế.
Trong thực tế, hình thức bảo hiểm này được biểu hiện thông qua các
tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp như các công ty bảo hiểm, tập đoàn bảo
hiểm và tổ chức bảo hiểm xã hội.
b. Căn cứ vào mục đích hoạt động
Theo tiêu thức này, hoạt động bảo hiểm được chia thành bảo hiểm
có mục đích kinh doanh và bảo hiểm không có mục đích kinh doanh.
- Bảo hiểm có mục đích kinh doanh: Là hình thức bảo hiểm do các
chủ thể tiến hành nhằm mục tiêu lợi nhuận. Chính vì mục đích hoạt động
của loại hình bảo hiểm này mà nó có các tên gọi khác nhau như: bảo
hiểm kinh doanh, bảo hiểm thương mại hay bảo hiểm rủi ro. Người bảo
hiểm tìm kiếm lợi ích kinh tế trên cơ sở thu phí bảo hiểm và cam kết thực
hiện bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm thông qua một hợp đồng bảo hiểm.
Các tổ chức thực hiện hoạt động bảo hiểm với mục đích kinh doanh
thường là các công ty bảo hiểm cung ứng các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm
trên thị trường để tìm kiếm lợi nhuận và phát triển. Hoạt động của các tổ
chức này bị chi phối bởi quy luật cạnh tranh của thị trường, vì vậy họ
không những phải chú ý đến chất lượng dịch vụ, thị hiếu, nhu cầu của
khách hàng mà còn phải chú ý tới giá cả của sản phẩm dịch vụ cung cấp.
- Bảo hiểm không vì mục đích kinh doanh là hình thức bảo hiểm do
các chủ thể tiến hành không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Mục đích chủ yếu
của loại hình bảo hiểm này là nhằm tương hỗ giữa các thành viên tham
gia. Với tư cách là tổ chức quản lý quỹ xã hội, quỹ tài chính tập trung,
bảo hiểm xã hội hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, mà phục vụ cho
chính sách xã hội, vì mục đích và quyền lợi của người lao động có tham
gia bảo hiểm xã hội. Cũng dựa trên nguyên tắc đó, việc hình thành và sử

142
dụng quỹ dự trữ tập trung của Nhà nước, các quỹ tương hỗ, quỹ dự trữ
trong các doanh nghiệp, các gia đình phục vụ cho mục tiêu an toàn, ổn
định sự phát triển của nền kinh tế, của từng doanh nghiệp, từng hộ gia
đình hay cá nhân cũng là những hình thức bảo hiểm không vì mục đích
kinh doanh.
5.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm
- Bảo hiểm là một hình thức dự trữ tài chính nhằm bù đắp và khắc
phục những tổn thất thiệt hại đối với sản xuất kinh doanh và đời sống
con người khi những biến cố bất lợi xảy ra.
Cũng như các quỹ tiền tệ khác, quỹ bảo hiểm được tạo lập thông qua
quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thái giá trị, việc tạo lập quỹ
có thể dưới nhiều hình thức khác nhau như bắt buộc hay tự nguyện, tự bảo
hiểm hay bảo hiểm thông qua một tổ chức bảo hiểm,... nhưng tất cả đều
xuất phát từ nhu cầu cần được đảm bảo an toàn trong quá trình sản xuất
kinh doanh và đời sống của con người trước những tác động của rủi ro.
Chính vì vậy, để thỏa mãn nhu cầu của người tham gia bảo hiểm, việc
phân phối sử dụng quỹ bảo hiểm phải đảm bảo chi trả, bồi thường tổn thất
thiệt hại khi có những biến cố bất lợi xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, bảo hiểm đã trở thành
một loại hình dịch vụ tài chính đặc biệt. Sản phẩm bảo hiểm là sự đảm
bảo về mặt tài chính trước rủi ro cho người được bảo hiểm. Để bảo vệ
mình, người tham gia bảo hiểm nộp phí cho người bảo hiểm để đổi lấy lời
hứa hay cam kết của người bảo hiểm là sẽ trả tiền bảo hiểm khi rủi ro xảy
ra. Trong hoạt động bảo hiểm, các tổ chức bảo hiểm nhận phí bảo hiểm
của người tham gia bảo hiểm đóng góp và sau đó mới thực hiện nghĩa vụ
với bên được bảo hiểm khi sự cố bảo hiểm xảy ra. Như vậy, với dịch vụ
này sản phẩm được bán ra trước, sau đó mới phát sinh chi phí bồi thường,
chi trả bảo hiểm.
- Bảo hiểm vừa mang tính chất bồi hoàn vừa mang tính chất không
bồi hoàn
Trong thời gian được bảo hiểm, nếu rủi ro không xảy ra hoặc có xảy
ra nhưng không gây thiệt hại ảnh hưởng đến đối tượng bảo hiểm thì

143
người bảo hiểm không phải bồi thường hay trả tiền cho bên mua bảo
hiểm. Ngược lại, nếu xảy ra sự cố, đối tượng bảo hiểm bị thiệt hại hoặc
bị ảnh hưởng thì bên mua bảo hiểm sẽ được chi trả, bồi thường. Như vậy,
quan hệ giữa tổ chức bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm trên thị
trường vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn.
Đặc điểm này đã tạo ra tính nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm, nguồn tài chính
này thường được các công ty bảo hiểm sử dụng để đầu tư nhằm bảo toàn
và phát triển quỹ bảo hiểm.
Tính bồi hoàn của bảo hiểm có tính chất bất ngờ cả về không gian,
thời gian và quy mô. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động, các tổ chức
bảo hiểm phải xây dựng các quỹ dự phòng để đảm bảo trong mọi tình
huống đều có thể thực hiện được các cam kết của mình trước những
người tham gia bảo hiểm khi các sự cố bảo hiểm xảy ra.
Việc nghiên cứu đặc điểm của bảo hiểm có ý nghĩa thiết thực trong
việc quản lý, tổ chức triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm. Bên cạnh đó,
điều này còn có ý nghĩa quan trọng trong việc chọn lựa và kiểm soát
phương thức tạo lập và phân phối sử dụng quỹ bảo hiểm.
5.1.4. Vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế
- Bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống
con người
Trong bảo hiểm kinh doanh, khi các tổ chức bảo hiểm gặp phải
những rủi ro, trách nhiệm chi trả, bồi thường cho người được bảo hiểm là
yêu cầu bắt buộc đối với người bảo hiểm. Nhờ vào những khoản chi trả,
bồi thường này mà các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể xây dựng lại cơ
sở vật chất, mua lại các máy móc thiết bị đã bị hư hỏng, mất mát,... để có
thể tiếp tục hoạt động. Trong bảo hiểm xã hội, nhờ vào các khoản trợ
cấp, bồi thường trong trường hợp ốm đau, tai nạn, không còn khả năng
lao động hay mất việc làm... mà người lao động có thể khắc phục khó
khăn, ổn định đời sống, đồng thời góp phần giảm bớt gánh nặng về mặt
tài chính cho tổ chức sử dụng lao động. Trong trường hợp người lao
động bị chết, thân nhân của họ sẽ nhận được một khoản tiền hỗ trợ từ tổ
chức bảo hiểm xã hội. Khi về hưu tổ chức bảo hiểm xã hội sẽ chi trả

144
lương hưu và hỗ trợ các chi phí y tế, chăm sóc sức khỏe,... Trong mọi
hoạt động bảo hiểm người tham gia bảo hiểm có thể khắc phục kịp thời
những tổn thất vật chất do rủi ro tai nạn gây ra một các nhanh chóng
nhất, sớm hồi phục sức khỏe, ổn định đời sống để tiếp tục quá trình học
tập, lao động, sinh hoạt bình thường. Như vậy, thông qua việc sử dụng
quỹ bảo hiểm đã được tạo lập để bồi thường, chi trả kịp thời, chính xác
những tổn thất vật chất cho người tham gia bảo hiểm. Do vậy, bảo hiểm
đã góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống của người
tham gia bảo hiểm.
- Bảo hiểm góp phần phòng tránh, hạn chế rủi ro tổn thất
Đứng trên giác độ lợi ích của các tổ chức bảo hiểm, việc tổ chức tốt
các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả sẽ giảm được khoản
chi phí bồi thường, trả tiền bảo hiểm, đảm bảo an toàn cho phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Để tổ chức tốt các biện pháp đề phòng, hạn chế
rủi ro tổn thất, các tổ chức bảo hiểm đã theo dõi, thống kê tình hình tai
nạn, tổn thất, xác định những nguyên nhân chủ yếu gây ra tai nạn. Trên
cơ sở đó, tổ chức bảo hiểm phối hợp với các cơ quan hữu quan để đề
xuất, hỗ trợ về tài chính và tổ chức thực hiện các biện pháp đề phòng có
hiệu quả nhất, nhằm giảm thấp nhất mức tổn thất có thể xảy ra.
Đứng trên giác độ người tham gia bảo hiểm, ngoài trách nhiệm phải
đóng góp đầy đủ phí bảo hiểm, họ còn phải thực hiện tốt trách nhiệm đề
phòng hạn chế tổn thất, thông báo tình hình và diễn biến tai nạn, tổn thất
để có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nếu không, để xảy ra tổn thất trầm
trọng thì có thể bị giảm mức bồi thường hoặc thậm chí tổ chức bảo hiểm
có quyền từ chối nghĩa vụ bồi thường nếu rủi ro xảy ra không thuộc
phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
Đối với bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, các tổ chức quản lý phải
thường xuyên kiểm tra an toàn trong các doanh nghiệp nhằm phòng tránh
tai nạn xảy ra. Trong trường hợp các đơn vị này thực hiện không tốt các
biện pháp đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh dịch tễ thì có thể áp dụng
các biện pháp xử phạt và truy tố trước pháp luật. Tổ chức bảo hiểm xã
hội còn hỗ trợ các đơn vị sử dụng lao động thực hiện các biện pháp an

145
toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, xây dựng các trại điều dưỡng nghỉ
ngơi để cải thiện, nâng cao sức khỏe cho người lao động.
Về phía Nhà nước, đảm bảo ổn định phát triển kinh tế - xã hội, ổn
định đời sống nhân dân là nhiệm vụ của bất cứ Nhà nước nào, vì vậy,
việc hình thành và phát triển các hình thức bảo hiểm là những giải pháp
tích cực giúp cho Nhà nước giảm được nguồn kinh phí dành để đầu tư
cho các mục tiêu khác, đồng thời vẫn đảm bảo được mục tiêu về phát
triển kinh tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
- Bảo hiểm góp phần cung ứng vốn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, bảo hiểm không chỉ là tấm lá chắn kinh
tế cho quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống của con người trước
những rủi ro, mà nó còn hoạt động với tư cách là các tổ chức tài chính
trung gian để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Các tổ chức bảo hiểm
thường sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi hình thành từ thu phí
bảo hiểm của mình để đầu tư, chính vì vậy mà các tổ chức bảo hiểm
được coi là một định chế tài chính trung gian, bên cạnh các ngân hàng
thương mại, các công ty tài chính, ...
Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cũng góp phần tạo ra một nguồn
vốn quan trọng thông qua việc thu phí bảo hiểm từ người lao động và
người sử dụng lao động. Khi chưa sử dụng đến, phần quỹ này sẽ được
đầu tư trên thị trường tài chính, nhằm bảo toàn và phát triển quỹ. Quỹ
bảo hiểm xã hội còn là một nguồn tiết kiệm quan trọng, tiết kiệm từ bảo
hiểm xã hội là chênh lệch giữa thu và chi bảo hiểm xã hội, góp phần
quan trọng vào tiết kiệm của mỗi quốc gia.

5.2. B¶O HIÓM TH¦¥NG M¹I


5.2.1. Khái niệm
Bảo hiểm thương mại (hay còn gọi là bảo hiểm kinh doanh hoặc bảo
hiểm rủi ro), thường do các tổ chức hình thành, quản lý và sử dụng quỹ,
về thực chất đây là một biện pháp kinh tế nhằm tạo lập nguồn tài chính
cho mục đích bù đắp những tổn thất vật chất và trả tiền bảo hiểm cho
người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro bất ngờ. Nguồn tài chính để tạo

146
lập quỹ bảo hiểm thương mại là do những người tham gia bảo hiểm đóng
góp dưới hình thức phí bảo hiểm. Mục đích sử dụng quỹ trước hết là bù
đắp, bồi thường những tổn thất cho các đối tượng bảo hiểm khi xảy ra rủi
ro bất ngờ đối với người tham gia bảo hiểm. Từ đó có thể hiểu:
Bảo hiểm thương mại (BHTM) là hình thức bảo hiểm do các tổ chức
kinh doanh bảo hiểm tiến hành trên cơ sở huy động sự đóng góp của các
chủ thể để tạo lập quỹ bảo hiểm, phân phối và sử dụng chúng để trả tiền
bảo hiểm, bồi thường những tổn thất cho các đối tượng được bảo hiểm
khi các rủi ro được bảo hiểm xảy ra.
5.2.2. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại
Hoạt động của bảo hiểm thương mại do các tổ chức tiến hành nhằm
mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt
nên ngoài những nguyên tắc chung áp dụng cho doanh nghiệp, tổ chức
kinh doanh bảo hiểm cần phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc sàng lọc rủi ro
Đối với tổ chức bảo hiểm không phải bất cứ rủi ro nào cũng có thể
chấp nhận bảo hiểm, bởi vì những rủi ro này sẽ liên quan đến số tiền mà
tổ chức bảo hiểm có thể phải chi trả trong tương lai. Do đó, tổ chức bảo
hiểm cố gắng sàng lọc những rủi ro nghiêm trọng, từ đó có những
phương thức tập hợp thông tin có hiệu quả có tác dụng rất quan trọng đối
với người bảo hiểm.
Thông thường, các tổ chức bảo hiểm tiến hành xác định những rủi ro
nào cần phải loại trừ ra khỏi phạm vi bảo hiểm, những rủi ro nào có thể
chấp nhận bảo hiểm. Trong các trường hợp chấp nhận đó cũng phải có sự
phân nhóm để thực hiện các hình thức bảo hiểm phù hợp, trên cơ sở đó
mới có thể xác định phí bảo hiểm và trả tiền bảo hiểm một cách hợp lý.
- Nguyên tắc định phí bảo hiểm phải trên cơ sở “giá” của các rủi ro
Các rủi ro rất đa dạng, những tác hại của nó đối với quá trình sản
xuất kinh doanh và đời sống con người cũng rất khác nhau. Vì vậy, các
tổ chức bảo hiểm phải trên cơ sở giá các rủi ro để định phí mới đảm bảo
sự công bằng đối với người tham gia bảo hiểm. Trên cơ sở của khoa học

147
thống kê số lớn, nếu một rủi ro có xác suất xảy ra lớn, thiệt hại nhiều thì
người nào muốn tham gia bảo hiểm cho những rủi ro đó sẽ phải trả phí
cao và ngược lại những rủi ro có xác suất xảy ra thấp, thiệt hại ít thì
người tham gia bảo hiểm sẽ phải nộp phí thấp.
- Nguyên tắc đảm bảo an toàn
Trong hoạt động bảo hiểm thương mại, tổ chức bảo hiểm luôn là con
nợ đối với những người tham gia bảo hiểm, cho nên vấn đề an toàn tài
chính của tổ chức bảo hiểm luôn được đặt lên hàng đầu. Do đó, trong
quản lý bảo hiểm người bảo hiểm phải thận trọng ngay từ khi ký kết hợp
đồng bảo hiểm, như đánh giá rủi ro bảo hiểm, các điều kiện chấp nhận
bảo hiểm... để tránh các trường hợp gian lận, cũng như bất cẩn của người
tham gia bảo hiểm.
Mặt khác, trong hoạt động đầu tư, nguyên tắc đảm bảo an toàn cũng
được các tổ chức bảo hiểm quan tâm thực hiện nhằm bảo toàn và phát
triển quỹ bảo hiểm đảm bảo khả năng chi trả trong tương lai.
- Nguyên tắc lấy số đông bù số ít
Đây cũng là một nguyên tắc rất quan trọng, vì nếu chỉ có số ít người
tham gia bảo hiểm thì không thể tổ chức hoạt động bảo hiểm được. Phải
huy động sự tham gia của nhiều người, họ cùng đóng phí, với những mức
đóng góp có thể chấp nhận được để bù đắp tổn thất của một số ít người
gặp rủi ro. Những người này sẽ nhận được những khoản tiền bồi thường
khá lớn so với khoản phí bảo hiểm đã đóng. Đây cũng là sự hấp dẫn đối
với người tham gia bảo hiểm, bên cạnh lý do về sự đe dọa của những rủi
ro đối với cuộc sống của họ khiến họ đến với tổ chức bảo hiểm. Vì rằng
với số phí thấp nộp cho tổ chức bảo hiểm, họ sẽ là chủ nợ đối với tổ chức
bảo hiểm với cam kết sẽ hoàn trả một số tiền bồi thường rất lớn khi rủi ro
tổn thất xảy ra.
5.2.3. Các yếu tố cơ bản của hợp đồng bảo hiểm thương mại
- Các bên liên quan trong hợp đồng bảo hiểm
+ Người bảo hiểm: Là tổ chức hay pháp nhân đứng ra tạo lập và
điều khiển quá trình huy động và sử dụng quĩ bảo hiểm được pháp luật
công nhận.

148
Thông thường, người bảo hiểm chính là công ty bảo hiểm như: Bảo
Việt, Bảo Minh,…
+ Người tham gia bảo hiểm: Là các tổ chức hay pháp nhân tham gia
đóng phí bảo hiểm. Khi xảy ra những sự cố hay tai nạn bảo hiểm theo qui
định của pháp luật hoặc theo hợp đồng bảo hiểm đã kí kết thì người tham
gia bảo hiểm sẽ được quyền nhận tiền bồi thường tổn thất.
+ Người được bảo hiểm: Là người mà vì sức khỏe, khả năng lao
động, tính mạng của người đó khiến người tham gia bảo hiểm ký kết hợp
đồng bảo hiểm với người bảo hiểm.
+ Người được chỉ định hưởng bồi thường bảo hiểm: là người được
người tham gia bảo hiểm chỉ định bằng văn bản sẽ được hưởng bồi
thường bảo hiểm khi xảy ra rủi ro hoặc được hưởng bồi thường bảo hiểm
khi người tham gia bảo hiểm bị chết theo quy định của pháp luật.
- Đối tượng bảo hiểm: Là những đối tượng mà người tham gia bảo
hiểm yêu cầu bảo hiểm hoặc do pháp luật qui định bắt buộc phải bảo
hiểm. Đối tượng bảo hiểm có thể là sức khỏe, tính mạng con người, giá
trị tài sản và trách nhiệm dân sự.
- Rủi ro bảo hiểm và tai nạn bảo hiểm
+ Rủi ro bảo hiểm: Là mức độ hay khả năng xảy ra sự cố bảo hiểm,
tức là một hoặc nhiều sự cố dự tính trong các điều kiện bảo hiểm mà khi
những sự cố này xảy ra thì người bảo hiểm bắt buộc phải trả tiền bồi
thường tổn thất cho người tham gia bảo hiểm.
+ Tai nạn bảo hiểm: Là sự cố bảo hiểm đã xảy ra kéo theo trách
nhiệm của người bảo hiểm phải bồi thường tổn thất cho người tham gia
bảo hiểm.
- Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
+ Giá trị bảo hiểm: Là giá trị tài sản được bảo hiểm tại thời điểm kí
hợp đồng bảo hiểm.
+ Số tiền bảo hiểm: Là số tiền tính cho từng đối tượng bảo hiểm mà
trong giới hạn đó người bảo hiểm phải tiến hành trả tiền bồi thường tổn

149
thất khi tai nạn bảo hiểm xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm (Số tiền
bảo hiểm là số tiền tối đa người tham gia bảo hiểm được nhận khi xảy ra
sự cố bảo hiểm. Tuỳ vào mức độ tổn thất thực tế mà người ta bồi thường
theo một tỷ lệ phù hợp trong số tiền bảo hiểm tối đa). Mức độ tổn thất
bảo hiểm sẽ được xác định theo giá trị bảo hiểm.
- Phí bảo hiểm: Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm phải đóng
góp cho người bảo hiểm về các đối tượng được bảo hiểm.
5.2.4. Phân loại bảo hiểm thương mại
a. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm
- Bảo hiểm tài sản: Là hình thức bảo hiểm có lịch sử phát triển lâu
đời. Đây là loại hình bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là giá trị của cải
vật chất thuộc mọi hình thức sở hữu. Mục đích của loại bảo hiểm này là
nhằm thỏa mãn nhu cầu bồi thường, chi trả vật chất cho người tham gia
bảo hiểm khi xảy ra các sự cố bất ngờ như: thiên tai, hỏa hoạn, trộm cắp
làm cho tài sản của họ bị hư hỏng, mất mát hoặc bị tiêu hủy toàn bộ.
Mức tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm cao hay thấp tùy
thuộc vào tính chất của từng loại tài sản được bảo hiểm, phương thức bảo
hiểm và mức độ thiệt hại thực tế. Bảo hiểm tài sản thường được triển
khai thành các nghiệp vụ: Bảo hiểm ô tô, xe máy (thân xe), bảo hiểm
máy bay (thân và tài sản trên máy bay), bảo hiểm tàu thuỷ (thân và tài
sản trên tàu), bảo hiểm vận chuyển hàng hóa nội địa và xuất nhập khẩu,
bảo hiểm tài sản cá nhân và doanh nghiệp, …
- Bảo hiểm con người (còn gọi là bảo hiểm thân thể): Đây là hình
thức bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là sức khỏe, khả năng lao động và
tính mạng của con người. Mục đích của loại hình bảo hiểm này là nhằm
thỏa mãn nhu cầu chi trả về vật chất cho người tham gia bảo hiểm khi
gặp phải những sự cố bất ngờ làm mất khả năng lao động, thiệt hại về
mặt sức khỏe, hay bị chết,... Bảo hiểm con người không chỉ có tác dụng
phòng ngừa, hạn chế và khắc phục kịp thời hậu quả nặng nề do hiểm họa
bất ngờ gây ra cho bản thân con người, đảm bảo cho đời sống con người
ổn định, mà còn thể hiện tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng trong phòng
ngừa khắc phục rủi ro. Đây được xem là một trong những tiêu chí đạo

150
đức đáng quý của con người. Bảo hiểm con người có thể được triển khai
dưới các hình thức: bảo hiểm tai nạn học sinh, sinh viên, bảo hiểm tai
nạn hành khách, bảo hiểm tai nạn lao động,…
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Là hình thức bảo hiểm mà đối
tượng bảo hiểm là phần nghĩa vụ hay trách nhiệm dân sự của người tham
gia bảo hiểm. Đây là loại hình bảo hiểm được ra đời trên cơ sở sự tiến bộ
của văn hóa, khoa học kỹ thuật và sự phát triển trong công nghệ quản lý.
Mục đích của bảo hiểm trách nhiệm dân sự là nhằm giải phóng người
tham gia bảo hiểm thoát khỏi yêu cầu phải bồi thường tổn thất cho người
khác do hành vi hoạt động của người tham gia bảo hiểm gây ra. Hiện nay
loại hình bảo hiểm này được triển khai dưới các hình thức: bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của lái xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ hãng hàng không, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ doanh
nghiệp.
b. Căn cứ vào tính chất hoạt động
- Bảo hiểm bắt buộc: Là hình thức bảo hiểm được pháp luật Nhà
nước qui định bắt buộc đối với cả người bảo hiểm và người tham gia
bảo hiểm. Tính chất bắt buộc xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích của cộng
đồng xã hội trong đó có lợi ích của người tham gia bảo hiểm. Mục đích
của bảo hiểm bắt buộc là nhằm hạn chế, phòng ngừa những rủi ro làm
tổn hại đến tài sản và đời sống của người tham gia bảo hiểm và của cả
cộng đồng.
Hình thức bảo hiểm này được tiến hành theo qui định của pháp luật,
các sản phẩm bảo hiểm thuộc hình thức này đều có trong quy định bắt
buộc phải bảo hiểm. Thông thường các sản phẩm bảo hiểm này được
thiết lập trên nguyên tắc trách nhiệm tự động như khi hành khách mua vé
tàu, vé xe, vé máy bay thì trong giá vé đã có cả phí bảo hiểm. Hành
khách không được quyền lựa chọn có tham gia bảo hiểm hay không.
Ngoài ra, loại hình bảo hiểm này còn gắn với vai trò quản lí Nhà nước vì
nó liên quan đến lợi ích và an toàn chung của cả xã hội.
- Bảo hiểm tự nguyện: Là loại hình bảo hiểm dựa trên nguyên tắc
thoả thuận giữa người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm.

151
Khác với hình thức bảo hiểm bắt buộc, hình thức bảo hiểm tự
nguyện do người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm tự lựa chọn và đi
đến ký kết hợp đồng bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm có tham gia bảo
hiểm hay không phụ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính của mình.
Tổ chức bảo hiểm có nhận bảo hiểm hay không tuỳ thuộc vào khả năng
bảo hiểm có hiệu quả hay không. Hình thức bảo hiểm này chỉ có hiệu lực
khi hợp đồng bảo hiểm đã được kí kết và người tham gia bảo hiểm đóng
phí bảo hiểm.
5.2.5. Hoạt động bảo hiểm thương mại ở Việt Nam
Bảo hiểm thương mại ở Việt Nam ra đời khá muộn so với sự phát
triển chung của ngành bảo hiểm thế giới. Tuy nhiên, hiện nay, ngành bảo
hiểm ở Việt Nam đang dần dần bắt kịp xu thế phát triển chung của bảo
hiểm trong khu vực và quốc tế và ngày càng chứng tỏ vai trò không thể
thiếu được của mình đối với nền kinh tế.
Ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm thương mại chỉ thực sự bắt đầu khi
có sự ra đời của Bảo Việt, để đáp ứng nhu cầu về bảo hiểm trong hoạt
động ngoại thương, ngày 17/12/1964, thủ tướng Chính phủ đã ra quyết
định thành lập công ty Bảo hiểm Việt Nam, gọi tắt là Bảo Việt. Đến ngày
15/01/1965. Bảo Việt chính thức đi vào hoạt động, đây cũng là công ty
bảo hiểm nhà nước duy nhất đại diện cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Bảo
Việt độc quyền kinh doanh bảo hiểm nên các sản phẩm của Bảo Việt
chưa đa dạng, chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ
với khoảng 20 sản phẩm bảo hiểm. Có thể nói, thời gian này, hoạt động
bảo hiểm ở nước ta vẫn chưa phát triển.
Ngày 18/12/1993, nghị định 100/1993/NĐ-CP của Chính phủ về
hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được Chính phủ ban hành, mở ra
bước phát triển mới cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Mặc dù vậy, phải từ
sau năm 1995, một loạt các công ty kinh doanh bảo hiểm mới ra đời: Bảo
Minh, VINARE, PVI, PJICO… và các công ty liên doanh bảo hiểm như:
UJC, VIA,… Tính đến cuối năm 2010, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã
có trên 30 công ty bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ trong
nước và nước ngoài hoạt động. Việc mở cửa thị trường bảo hiểm cũng

152
như sự xuất hiện của các công ty mới đã tạo điều kiện cho bảo hiểm
thương mại của Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong một môi trường cạnh
tranh ngày càng quyết liệt. Các công ty liên tục hoàn thiện những sản
phẩm, đồng thời nghiên cứu và giới thiệu những loại hình nghiệp vụ bảo
hiểm mới đa dạng và hấp dẫn. Trong tương lai, nhu cầu bảo hiểm sẽ ngày
càng đa dạng hơn về số lượng, chủng loại sản phẩm. Bảo hiểm Việt Nam
được đánh giá là một thị trường vẫn đang rất giàu tiềm năng phát triển.

5.3. B¶O HIÓM X· HéI


5.3.1. Khái niệm
Trong cuộc sống, không ai có thể lường hết được những bất trắc có
thể xảy ra với họ, vì vậy an toàn luôn là nhu cầu thiết yếu đối với mỗi
con người. Nhu cầu này rất lớn và đa dạng như: nhu cầu an toàn về sinh
mạng, muốn có cuộc sống yên ổn, thanh bình không có chiến tranh, an
toàn về đời sống kinh tế, muốn có được thu nhập ổn định trong những
trường hợp không may bị ốm đau, tai nạn lao động, thất nghiệp, hoặc khi
tuổi già... Đây chính là các nhu cầu mà bảo hiểm xã hội đã phần nào đáp
ứng được.
Trong mỗi quốc gia, đảm bảo an toàn và ổn định đời sống của người
dân là một mục tiêu lớn trong chính sách xã hội, thể hiện vai trò của Nhà
nước trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội nhằm khắc phục, hạn
chế những khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Bảo hiểm xã hội chính là
một chính sách xã hội của Chính phủ các nước nhằm thực hiện mục tiêu
công bằng xã hội trong phân phối và đảm bảo sự ổn định trong xã hội.
Bảo hiểm xã hội đã có quá trình phát triển lâu dài và được triển khai
ở hầu hết các nước trên thế giới với các hình thức khác nhau.
Có thể hiểu khái quát về bảo hiểm xã hội như sau:
Bảo hiểm xã hội là hình thức bảo hiểm do tổ chức bảo hiểm xã hội
tiến hành dựa trên cơ sở huy động sự đóng góp của các chủ thể liên quan
để tạo lập quỹ BHXH, phân phối và sử dụng chúng để bù đắp một phần
thu nhập cho người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro làm
giảm hoặc mất thu nhập từ lao động.

153
Quỹ BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nó là một quỹ
tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng mang tính chất xã hội cao. Sự
tồn tại của quỹ BHXH không những là điều kiện, cơ sở vật chất quan
trọng đảm bảo cho hoạt động của chính sách xã hội của Nhà nước có
hiệu quả mà còn làm cho chính sách đó tồn tại, phát triển với mục tiêu vì
con người.
5.3.2. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là một công cụ thực hiện chính sách xã hội của Nhà
nước, hoạt động của bảo hiểm xã hội không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì
quyền lợi, lợi ích của người lao động và sự an toàn chung của cả cộng
đồng. Để đảm bảo mục tiêu đó và có sự công bằng trong xã hội, hoạt
động của BHXH được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
- Hoạt động của BHXH trước hết phải vì quyền lợi của người lao
động và của cả cộng đồng. Do đó, việc thực hiện các nội dung bảo hiểm
xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ
quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội.
- Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ độc lập, trong quá trình hoạt động tổ
chức BHXH phải có trách nhiệm đảm bảo sự cân đối thu chi, bảo toàn và
phát triển quỹ. Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ,
công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc
lập theo các quỹ thành phần của bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã
hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
- Việc hình thành và sử dụng quỹ phải đáp ứng các yêu cầu sau:
+ Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo
hiểm xã hội.
+ Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được tính trên cơ sở tiền
lương, tiền công của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự
nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn
nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung.

154
+ Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc
vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu
trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
5.3.3. Đối tượng và các chế độ bảo hiểm xã hội
Ở hầu hết các nước, BHXH thường mang tính bắt buộc đối với các
đối tượng có thu nhập ổn định để giải quyết được một số rủi ro chung.
Phạm vi đối tượng BHXH chung nhất là thu nhập của những người làm
công ăn lương trong toàn xã hội. Tuy nhiên, phạm vi đối tượng BHXH
tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Một số
quốc gia ban hành chế độ BHXH chung cho tất cả các đối tượng lao động
trong xã hội. Các nước đang phát triển thường có đối tượng BHXH hẹp
hơn, tập trung chủ yếu vào những người hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước và những người làm công ăn lương ở khu vực thành thị. Giới hạn
mức lương được bảo hiểm tối thiểu là mức lương tối thiểu ở quốc gia,
còn mức lương tối đa là mức lương trung bình của quốc gia đó.
Điều kiện để hưởng BHXH là phải tham gia đóng góp vào quỹ
BHXH. Tùy theo từng quốc gia mà quy định về mức đóng và các chế độ
trợ cấp của bảo hiểm xã hội của mỗi quốc gia sẽ có sự khác nhau.
Theo công ước số 102 của tổ chức lao động thế giới, BHXH bao
gồm nhiều chế độ, căn cứ vào chức năng của BHXH và chỉ quy định
những điều kiện tối thiểu để cho mọi nước có thể áp dụng vào thời điểm
thích hợp. Có 9 chế độ hưởng bảo hiểm xã hội bao gồm:
1. Chăm sóc y tế
2. Phụ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp mất người nuôi dưỡng

155
Tổ chức lao động quốc tế khuyến khích mỗi nước thành viên thực
hiện ít nhất 3 chế độ, đặc biệt lưu ý chế độ 3, 4, 5, 8, 9.
Trong thực tế, chỉ có các nước công nghiệp phát triển và nhóm đầu
các nước phát triển thực hiện đủ 9 chế độ. Các nước còn lại thực hiện một
số chế độ phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của nước mình. Mức
hưởng trợ cấp BHXH nói chung đều thấp hơn mức lương khi đang làm
việc.
Thực chất, BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp nhất
là những nước có nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế kinh tế thị trường.
Đồng thời, nó cũng mang lại ý nghĩa thực tiễn trong việc lựa chọn hình
thức, cơ chế và mức độ thỏa mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập
quán, khả năng thu nhập và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của
mỗi nước.
5.3.4. Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội
a. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội
Để có thu nhập trang trải cho những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi
gặp biến cố bất lợi làm giảm hoặc mất khả năng thu nhập từ lao động,
người ta đã lựa chọn phương pháp dàn trải rủi ro theo thời gian và theo
không gian để hình thành một quỹ tiền tệ tập trung dựa trên cơ sở tính
toán xác suất những biến cố có thể xảy ra đối với một tập hợp người lao
động xác định. Số người tham gia càng đông, quy mô quỹ càng lớn thì
tính chắc chắn và hiệu quả hoạt động càng cao, vì thế thiệt hại mà mỗi
người phải gánh chịu sẽ ít nhất nhưng lại tạo ra khả năng giải quyết hậu
quả rủi ro lớn nhất của tất cả những người tham gia BHXH. Đây là cách
làm riêng có và đặc trưng của quỹ BHXH trong nền kinh tế thị trường.
Đồng thời nó cũng thể hiện tính xã hội rất cao của bảo hiểm xã hội. Quỹ
BHXH được hình thành từ sự đóng góp của các bên: người sử dụng lao
động, người lao động và các nguồn tài trợ khác (ngân sách Nhà nước hỗ
trợ, các tổ chức và cá nhân ủng hộ...), trong đó, chủ yếu từ người sử dụng
lao động và người lao động.

156
* Người sử dụng lao động đóng góp
Khi sử dụng lao động cho hoạt động của mình các tổ chức sử dụng
lao động phải có trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động theo quy
định của pháp luật. Khi người lao động ốm đau hay hết tuổi lao động
được BHXH trợ cấp, chi trả do đó người sử dụng lao động không phải trả
tiền lương. Như vậy người sử dụng lao động đóng góp một phần để bảo
hiểm xã hội cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế lớn hơn do
phải chi một khoản tiền lớn một lúc khi rủi ro xảy ra đối với người lao
động mà mình sử dụng.
* Người lao động đóng góp
Người lao động phải có trách nhiệm đóng góp một phần thu nhập
của mình để đối phó với những khó khăn về kinh tế do những rủi ro
trong cuộc sống gây nên.
* Ngân sách Nhà nước hỗ trợ
Quỹ BHXH được hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước là trách nhiệm của
Nhà nước vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, BHXH là công cụ quan trọng trong tay Nhà nước nhằm
thực hiện chính sách phân phối lại thu nhập trong xã hội, góp phần ổn
định xã hội, đảm bảo an toàn xã hội.
Thứ hai, các luật lệ về BHXH của Nhà nước sẽ là những chuẩn mực
về pháp lý mà cả giới chủ và giới thợ phải tuân theo, những tranh chấp
chủ thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết.
Ngoài nguồn thu cơ bản nêu trên, quỹ bảo hiểm xã hội còn có các
nguồn thu khác:
- Tiền sinh lời từ các phương án bảo toàn và phát triển quỹ BHXH
- Tiền phạt do đóng BHXH chậm
- Thu từ ủng hộ của các tổ chức và cá nhân...
b. Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội
Chi thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội cho những người tham gia
bảo hiểm xã hội theo các chế độ đã quy định trong luật bảo hiểm là nội

157
dung chi chủ yếu của bảo hiểm xã hội. Quỹ BHXH thực hiện chi trả các
khoản trợ cấp và chi phí cho người tham gia BHXH trong những trường
hợp sau:
- Đối tượng tham gia BHXH gặp phải các biến cố đã quy định trong
chế độ BHXH.
- Đối tượng tham gia BHXH phải đóng BHXH liên tục trong thời
gian làm việc.
Tổ chức chi trả các chế độ BHXH trong quá trình làm việc của người
lao động phải thực hiện quản lý chặt chẽ điều kiện hưởng các chế độ
BHXH, quản lý thời gian làm việc và đóng bảo hiểm.
Đối với các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp: quỹ BHXH hoạt động theo nguyên tắc tương trợ cộng đồng
các thành viên tham gia BHXH.
Ví dụ: Lao động nam và nữ đóng BHXH với tỷ lệ như nhau nhưng
chỉ có nữ khi sinh con mới được hưởng chế độ nghỉ đẻ có hưởng BHXH;
hoặc ai cũng đóng BHXH với tỷ lệ như nhau nhưng chỉ có những người
gặp rủi ro như ốm đau, tai nạn,... thì mới được hưởng chế độ BHXH.
Đối với chế độ hưu trí: Nguyên tắc hoạt động của BHXH là hưởng
theo mức đóng góp. Đóng góp càng nhiều với thời gian càng dài thì mức
hưởng trợ cấp càng cao. Trợ cấp hưu trí thực chất được coi như một
khoản hoàn trả thu nhập mà người tham gia bảo hiểm đã đóng góp. Điều
kiện để một người được nhận trợ cấp hưu trí là người đó phải có thời
gian tham gia BHXH tối thiểu. Tuy nhiên, BHXH các nước đều quy định
mức chi trả đối với người muốn hưởng tiền hưu trí trước tuổi quy định
khi họ giảm hoặc mất khả năng lao động.
Ngoài các khoản chi trợ cấp, chi trả các chế độ BHXH theo quy
định, quỹ BHXH còn được sử dụng để chi khác như: chi quản lý hoạt
động, nộp bảo hiểm y tế theo quy định tại luật BHXH, chi hoa hồng đại
lý, trả lệ phí thu, chi BHXH, chi thực hiện các phương án bảo toàn và
phát triển quỹ BHXH và các khoản chi khác.

158
5.3.5. Hoạt động của BHXH ở Việt Nam
5.3.5.1. Đối tượng tham gia của BHXH
* Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân
Việt Nam, bao gồm:
- Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn,
hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;
- Cán bộ, công chức, viên chức;
- Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ
sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân
dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân
dân, công an nhân dân;
- Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công
an nhân dân phục vụ có thời hạn;
- Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo
hiểm xã hội bắt buộc.
* Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam
trong độ tuổi lao động, không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm bắt buộc.
5.3.5.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội
* Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm các chế độ sau: Ốm đau; Thai
sản; Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Hưu trí; Tử tuất.
* Bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm các chế độ sau: Hưu trí; Tử tuất.
* Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm các chế độ sau: Trợ cấp thất
nghiệp; Hỗ trợ học nghề; Hỗ trợ tìm việc làm.
5.3.5.3. Quản lý quỹ bảo hiểm xã hội
a. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc
* Quĩ BHXH bắt buộc được hình thành từ các nguồn sau:
1. Từ người lao động: Hằng tháng, người lao động đóng 5% mức
tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ
hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%.

159
2. Từ người sử dụng lao động: Hằng tháng, người sử dụng lao động
đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của người lao
động như sau:
- 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sử dụng lao động
giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ
quy định và thực hiện quyết toán hằng quý với tổ chức bảo hiểm xã hội;
- 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một
lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%.
3. Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ.
4. Hỗ trợ của Nhà nước.
5. Các nguồn thu khác
* Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc được sử dụng cho các mục đích sau:
1. Trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định
2. Đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ
việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng.
3. Chi phí quản lý.
4. Chi khen thưởng theo quy định
5. Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định
b. Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện
* Nguồn hình thành quỹ
1. Người lao động đóng, mức đóng hằng tháng bằng 16% mức thu
nhập người lao động lựa chọn đóng bảo hiểm xã hội; từ năm 2010 trở đi,
cứ hai năm một lần đóng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%.
Người lao động có thể lựa chọn đóng bảo hiểm xã hội theo tháng, theo
quý hoặc theo sáu tháng.
Mức thu nhập làm cơ sở để tính đóng bảo hiểm xã hội được thay đổi
tuỳ theo khả năng của người lao động ở từng thời kỳ, nhưng thấp nhất
bằng mức lương tối thiểu chung và cao nhất bằng hai mươi tháng lương
tối thiểu chung.

160
2. Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ.
3. Hỗ trợ của Nhà nước.
4. Các nguồn thu hợp pháp khác.
* Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện
1. Trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định.
2. Đóng bảo hiểm y tế cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
đang hưởng lương hưu.
3. Chi phí quản lý.
4. Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định.
c. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
* Nguồn hình thành quỹ
1. Người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng
bảo hiểm thất nghiệp.
2. Người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công
tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia bảo
hiểm thất nghiệp.
3. Hằng tháng, Nhà nước hỗ trợ từ ngân sách bằng 1% quỹ tiền
lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao
động tham gia bảo hiểm thất nghiệp và mỗi năm chuyển một lần.
4. Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ.
5. Các nguồn thu khác.
* Sử dụng quỹ
1. Trả trợ cấp thất nghiệp.
2. Hỗ trợ học nghề.
3. Hỗ trợ tìm việc làm.
4. Đóng bảo hiểm y tế cho người hưởng trợ cấp thất nghiệp.
5. Chi phí quản lý.
6. Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định.

161
5.3.5.4. Hoạt động đầu tư của bảo hiểm xã hội
Để bảo toàn và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội, tổ chức bảo hiểm xã
hội có thể thực hiện hoạt động đầu tư với nguyên tắc hoạt động đầu tư từ
quỹ bảo hiểm xã hội phải bảo đảm an toàn, hiệu quả và thu hồi được khi
cần thiết.
Các hình thức đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội bao gồm:
- Mua trái phiếu, tín phiếu, công trái của Nhà nước, của ngân hàng
thương mại của Nhà nước.
- Cho ngân hàng thương mại của Nhà nước vay.
- Đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia.
- Các hình thức đầu tư khác do Chính phủ quy định.

C¢U HáI ¤N TËP CH¦¥NG 5

1. Bảo hiểm là gì ? Chứng minh sự tồn tại của bảo hiểm trong nền
kinh tế là sự cần thiết khách quan.
2. Hãy phân tích vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường?
Vai trò đó được thể hiện như thế nào trong nền kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay?
3. So sánh sự khác nhau cơ bản giữa BHRR với BHXH?
4. Các loại quỹ bảo hiểm xã hội? Nguồn hình thành và mục đích sử
dụng của các quỹ đó?
5. Các yếu tố cơ bản của hợp đồng bảo hiểm thương mại?
6. Trình bày các cách phân loại bảo hiểm thương mại? Ý nghĩa của
việc nghiên cứu?

162
Chương 6
TÝN DôNG

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, quan hệ tín dụng
ngày càng đa dạng và phong phú, được con người vận dụng nó phục vụ
cho các hoạt động trong đời sống kinh tế xã hội. Khâu tín dụng ngày
càng giữ vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính, dựa trên cơ sở lợi
ích kinh tế để thúc đẩy nhanh quá trình phân phối của tài chính đạt hiệu
quả. Chương này đề cập đến các vấn đề cơ bản là: Khái niệm, đặc điểm,
phân loại, vai trò của tín dụng, lãi suất tín dụng và các hình thức tín dụng
chủ yếu trong nền kinh tế thị trường. Đây cũng chính là nền tảng lý luận
để nghiên cứu các chương như: Các định chế tài chính trung gian; hệ
thống ngân hàng,…

6.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ TÝN DôNG


6.1.1. Sự ra đời và phát triển của tín dụng
* Quá trình ra đời của quan hệ tín dụng
Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của tín dụng, người ta thấy rằng
phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của quan hệ sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất là cơ sở ra đời quan hệ tín dụng.
Vào thời kỳ hậu công xã nguyên thủy, xã hội có những chuyển biến
sâu sắc. Những thay đổi trong các quan hệ kinh tế xã hội do kết quả của
sự phát triển loài người qua lao động đã dẫn đến sự ra đời của chế độ tư
hữu. Các quan hệ kinh tế của nền sản xuất tự nhiên được hình thành từ
trước đó bị phá vỡ. Nếu như trước đó mọi người đều tham gia lao động
và cùng hưởng những thành quả do mình tạo ra thì trong điều kiện mới
họ độc lập trong các hoạt động kinh tế và tự quyết định về những thành
quả lao động đạt được. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình
thành nên quá trình phân hóa xã hội. Của cải xã hội có xu hướng tập
trung vào một nhóm người, những người này trở nên giàu có và chiếm

163
giữ những đặc quyền, đặc lợi trong xã hội. Trong khi đó, đa số những
người còn lại trực tiếp lao động nhưng lại nhận được rất ít của cải, với
thu nhập thấp hoặc thu nhập không đủ đáp ứng được nhu cầu tối thiểu
của cuộc sống. Trong giai đoạn này, sản xuất chủ yếu lệ thuộc vào thiên
nhiên nên dễ gặp rủi ro, thất bại. Trong điều kiện như vậy, để duy trì
cuộc sống và hoạt động sản xuất đòi hỏi tất yếu sự ra đời của quan hệ tín
dụng để giải quyết các nhu cầu thực tế phát sinh của xã hội.
* Quá trình phát triển của tín dụng
Quan hệ tín dụng sơ khai nhất phát sinh ngay từ khi chế độ cộng sản
nguyên thủy tan rã là tín dụng nặng lãi. Khi đó, xã hội bắt đầu phân chia
giai cấp, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, qua đó làm phân hóa
giàu nghèo. Những người đứng đầu các thị tộc, bộ lạc chiếm được nhiều
tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng. Trong khi đó, đại bộ phận các gia
đình nông nô không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Để duy trì cuộc
sống bình thường trong xã hội, tất yếu diễn ra quá trình điều hoà sản
phẩm từ nơi thừa đến nơi thiếu. Quá trình này được thực hiện dưới hình
thức vay mượn. Do sản phẩm dư thừa dùng để cho vay ít, mà số người
cần vay thì nhiều, hơn nữa nhu cầu của người đi vay là rất cấp thiết - vay
để tiêu dùng, cho nên người cho vay thu lãi rất cao. Vì vậy, quan hệ tín
dụng này được gọi là “tín dụng nặng lãi”.
Tín dụng nặng lãi phát triển và trở thành một hình thức cho vay phổ
biến trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Với hàng nghìn năm
lịch sử, nền sản xuất nhỏ của hai chế độ xã hội này là “mảnh đất” tốt để
tín dụng nặng lãi tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, do trong chế độ nô lệ
và phong kiến vẫn tồn tại tình trạng cát cứ địa phương nên sự tồn tại của
tín dụng nặng lãi có sự không thống nhất trên phạm vi cả nước.
Trong thời gian đầu, tín dụng nặng lãi được thực hiện chủ yếu bằng
hiện vật - hàng hóa. Về sau, theo quá trình phát triển của nền kinh tế, đối
tượng cho vay của tín dụng nặng lãi vừa bằng hàng hóa, vừa bằng tiền tệ.
Do lãi suất quá cao, mặt khác chủ yếu là vay để tiêu dùng cho nên
phần lớn những người đi vay rơi vào tình trạng phá sản. Vì vậy, tín dụng
nặng lãi đã trở thành một nhân tố làm suy giảm sức sản xuất xã hội. Song

164
nó cũng có tác dụng tích cực là góp phần quan trọng vào quá trình làm
tan rã “kinh tế tự nhiên”, mở rộng quan hệ hàng hóa - tiền tệ và tạo tiền
đề vật chất cho chủ nghĩa tư bản ra đời.
Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành thì nền sản
xuất hàng hóa tiền tệ cũng được mở rộng và phát triển. Lúc này tín dụng
nặng lãi không còn thích hợp với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp tư sản đã tự tạo lập cho mình một hình thức tín dụng mới - tín
dụng thị trường.
Tín dụng thị trường được ra đời và phát triển từng bước để đáp ứng
nhu cầu về vốn cho các nhà tư sản, chủ thể kinh tế, Nhà nước,... Tín dụng
thị trường biểu hiện sự phân chia quyền lợi kinh tế một cách bình đẳng
giữa các bên tham gia quan hệ tín dụng. Cho nên, tín dụng thị trường
không những mang tính chất sản xuất, phục vụ cho sản xuất mà còn là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Khác với tín dụng nặng lãi, tín dụng thị trường được thực hiện dưới
hình thái giá trị. Mặt khác, trong chế độ tư bản chủ nghĩa, Nhà nước ra
đời và tồn tại là cơ quan quyền lực cao nhất, nên quan hệ tín dụng trong
nền kinh tế thị trường được tồn tại thống nhất trong phạm vi cả nước.
Như vậy, cùng với sự ra đời của nền kinh tế thị trường, hình thức
tín dụng nặng lãi đã bị thay thế bằng hình thức tín dụng thị trường hiện
đại (là hình thức tín dụng có mức lãi suất hợp lý và trong quan hệ tín
dụng này, quyền lợi kinh tế của các bên tham gia được phân chia bình
đẳng hơn).
Ngày nay, sự phát triển của nền kinh tế đã đòi hỏi các quan hệ và
các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường cũng phải phát triển
đa dạng và phong phú, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế quốc dân và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Lịch sử phát triển đã cho thấy tín dụng là một phạm trù kinh tế và là
sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Nhưng chính nó là động lực quan
trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển.

165
6.1.2. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng
a. Khái niệm
Tín dụng xuất phát từ chữ Latinh Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín
nhiệm. Tiếng Anh gọi là Credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam là sự
vay mượn.
Khái niệm tín dụng có thể được xem xét trên 2 góc độ:
Theo nghĩa hẹp, tín dụng là quan hệ vay mượn giữa người đi vay và
người cho vay về một lượng giá trị nhất định dưới hình thái tiền tệ hay
hiện vật.
Theo nghĩa rộng, tín dụng là hệ thống các quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình chuyển quyền sử dụng một lượng giá trị nhất
định từ chủ thể này sang chủ thể khác dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Quá trình vận động của tín dụng được thể hiện theo sơ đồ sau:

(1) Cho vay


Người cho vay Người đi vay
(Người sở hữu vốn) (Người sử dụng vốn)

(2) Trả nợ

Định nghĩa tín dụng thể hiện ở ba nội dung cơ bản:


- Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này
sang người khác.
- Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời. Đó là thời gian sử
dụng vốn. Nó là kết quả của sự thỏa thuận giữa các đối tác tham gia quá
trình chuyển nhượng để đảm bảo sự phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi và
thời gian cần sử dụng lượng vốn đó.
- Người đi vay phải hoàn trả đúng hạn cho người cho vay cả vốn,
gốc và lãi.

166
b. Đặc điểm
Trong thực tế, tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng
dù ở bất kì dạng nào thì hoạt động tín dụng cũng có những đặc điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, tín dụng mang tính hoàn trả.
Sau khi kết thúc một chu kì vận động của vốn tín dụng, người đi vay
phải hoàn trả đúng hạn cả về thời gian và giá trị cho người cho vay, bao
gồm cả gốc và lãi. Đây là một đặc trưng thuộc về bản chất vận động của
tín dụng, là dấu hiệu phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù kinh
tế khác.
Tính hoàn trả không tự nó xuất hiện mà dựa vào quá trình vận động
và sự kết thúc tuần hoàn vốn. Quá trình vận động tín dụng được thể hiện
qua các giai đoạn sau:
- Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay: Giai đoạn này vốn vay
(hàng hóa hoặc tiền tệ) chuyển từ người cho vay sang người đi vay kèm
theo quyền sử dụng vốn vay.
- Sử dụng tín dụng (Sử dụng vốn vay): Sau khi nhận được vốn vay,
người đi vay được quyền sử dụng vốn vay theo mục đích nhất định để
sản xuất hoặc tiêu dùng.
- Hoàn trả tín dụng là người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay số
vốn vay ban đầu. Đây là giai đoạn kết thúc vòng tuần hoàn của tín dụng.
Thời hạn hoàn trả tín dụng (chu kỳ luân chuyển tín dụng) phụ thuộc vào
mục đích và đặc điểm tuần hoàn vốn vay. Nếu vốn vay được sử dụng vào
đầu tư dài hạn (dự án, cơ sở hạ tầng....) thì thời gian hoàn trả tín dụng
thường là dài hạn và ngược lại.
Thứ hai, trong quan hệ tín dụng, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn
tách rời nhau.
Hoạt động tín dụng nảy sinh làm xuất hiện sự vận động độc lập
tương đối giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn vay. Nói cách khác,
quan hệ tín dụng không bao hàm sự vận động quyền sở hữu vốn vay,
điều này quyết định tính hoàn trả của quan hệ tín dụng. Khi thực hiện

167
quan hệ tín dụng, người cho vay chỉ cho người đi vay mượn quyền sử
dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định, còn quyền sở hữu vốn
vẫn thuộc về phía người cho vay.
Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho số vốn của mình, người cho vay
phải ràng buộc người đi vay bằng những cơ chế hết sức nghiêm ngặt.
Ngược lại, để được sử dụng vốn vay đó, người đi vay phải hoàn trả 1 số
tiền nhất định - gọi là lợi tức tín dụng.
Thứ ba, lợi tức tín dụng là một loại giá cả đặc biệt.
Vốn là một loại hàng hóa có giá trị và giá trị sử dụng, được mua bán
trên thị trường vốn. Như vậy, lợi tức tín dụng chính là giá cả của vốn
vay. Nhưng với hàng hóa thông thường, giá cả phản ánh và xoay xung
quanh giá trị của hàng hóa. Còn giá cả vốn vay không phản ánh được giá
trị của vốn vay mà nó chỉ là một phần rất nhỏ so với giá trị của vốn vay.
Mặt khác, giá cả của vốn vay chỉ phản ánh giá trị sử dụng vốn vay trong
một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, giá cả của vốn vay được coi là
một loại giá cả đặc biệt.
6.1.3. Phân loại tín dụng
Khi xem xét các hình thức tín dụng trong nền kinh tế không nên chỉ
tiến hành liệt kê một cách đơn thuần, bởi lẽ cách làm đó có thể dẫn tới
trùng lắp hoặc bỏ sót. Do vậy, người ta thường dựa vào các tiêu chí dưới
đây để phân loại các hình thức tín dụng.
* Căn cứ vào đối tượng cấp tín dụng, có các hình thức tín
dụng sau:
- Tín dụng hàng hoá: Là hình thức tín dụng mà đối tượng cấp tín
dụng được thể hiện dưới các hình thức hiện vật như: Vật tư, hàng hoá,
máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ,... Loại hình tín dụng này
thường được thực hiện dưới hình thức bán chịu hàng hóa hay tín dụng
thuê mua.
- Tín dụng tiền tệ: Là hình thức tín dụng mà đối tượng cấp tín dụng
được thể hiện dưới hình thái tiền tệ (nội tệ hoặc ngoại tệ). Loại hình tín
dụng này được thực hiện chủ yếu bởi các ngân hàng thương mại, các tổ

168
chức tài chính trung gian khác. Ngoài ra, nó còn được biểu hiện trong
trường hợp người mua ứng trước tiền hàng cho người bán. Trên thực tế,
việc cấp tín dụng bằng loại tiền nào phụ thuộc vào nhu cầu của người vay
và khả năng đáp ứng của người cho vay. Tuy nhiên, do lãi suất tín dụng
đối với mỗi loại tiền khác nhau và sức mua của các đồng tiền biến đổi
theo thời gian nên người vay thường phải tính toán, lựa chọn loại tiền
vay để có thể giảm thiểu chi phí sử dụng vốn vay.
* Căn cứ vào chủ thể cấp tín dụng, có các hình thức tín dụng sau:
- Tín dụng thương mại: Là hình thức tín dụng do các cơ sở kinh
doanh cung cấp, được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá
hoặc ứng tiền trước khi nhận hàng hóa.
- Tín dụng ngân hàng: Là hình thức tín dụng do các ngân hàng và
các tổ chức tín dụng phi ngân hàng cung cấp cho các tổ chức, cá nhân.
- Tín dụng Nhà nước: Là hình thức tín dụng do Nhà nước cung cấp.
Trong đó, Nhà nước thường đóng vai trò là người đi vay. Nhà nước có
thể phát hành trái phiếu, công trái để vay vốn của các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế, các tầng lớp dân cư để giải quyết các nhu cầu chi tiêu
của mình.
- Tín dụng cá nhân: Là hình thức tín dụng do các cá nhân cung cấp
cho nhau, chủ yếu phục vụ cho mục đích tiêu dùng của các cá nhân này.
Hình thức tín dụng này phát sinh mang tính chất tự phát và dựa trên mối
quan hệ quen biết, tin cậy giữa các cá nhân với nhau.
* Căn cứ vào thời hạn của tín dụng, có các hình thức tín dụng sau:
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn cho vay vốn không
quá 1 năm. Loại hình tín dụng này thường được dùng để cho vay bổ sung
vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu thanh toán cho sinh hoạt
cá nhân.
- Tín dụng trung và dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn cho vay
vốn trên 1 năm. Tín dụng dài hạn thường được sử dụng để đáp ứng nhu
cầu vốn của các dự án đầu tư xây dựng mới, đổi mới công nghệ và mở
rộng quy mô kinh doanh.

169
* Căn cứ vào phạm vi phát sinh quan hệ tín dụng, có các quan hệ
tín dụng sau:
- Tín dụng trong nước: Là loại tín dụng phát sinh giữa các chủ thể
trong phạm vi một quốc gia. Loại hình tín dụng này nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn cho các pháp nhân, thể nhân ở trong nước và được thực hiện
dưới các hình thức như: Cho vay kinh doanh nội địa, tín dụng tài trợ xuất
nhập khẩu, tài trợ dự án đầu tư, cho vay tiêu dùng,...
- Tín dụng quốc tế: Là loại tín dụng phát sinh giữa các chủ thể của
quốc gia này với các chủ thể của quốc gia khác hoặc với một tổ chức tài
chính tín dụng quốc tế. Loại hình tín dụng này có thể được thực hiện
dưới các hình thức khác nhau như: Vay vốn giữa các chính phủ, giữa các
chính phủ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, giữa các doanh nghiệp
của quốc gia này với doanh nghiệp của quốc gia khác,...
* Căn cứ vào cơ chế bảo đảm của tín dụng, có các hình thức tín
dụng sau:
- Tín dụng đảm bảo bằng tài sản: Là loại hình tín dụng được đảm
bảo dưới hình thức thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh. Loại tín dụng này
phát sinh trong những trường hợp người vay không có sự tín nhiệm, tin
tưởng đối với người cho vay. Trong điều kiện kinh tế thị trường, đây là
loại hình tín dụng phổ biến. Với loại hình tín dụng này, người cho vay
được đảm bảo chắc chắn hơn về khả năng thu hồi nợ, ngay cả trong
trường hợp người vay mất khả năng thanh toán.
- Tín dụng tín chấp (Tín dụng không được đảm bảo bằng tài sản): Là
loại hình tín dụng mà bên nhận cấp tín dụng không phải thế chấp, cầm cố tài
sản hay bảo lãnh bởi bên thứ ba, bên nhận cấp tín dụng chỉ sử dụng uy tín
của mình để vay tiền. Loại hình tín dụng này thường được các ngân hàng
cung cấp cho các khách hàng thỏa mãn điều kiện tín chấp. Ngoài ra, việc
cho vay theo chỉ định của Chính phủ cũng thuộc loại hình tín dụng này.
* Căn cứ vào lãi suất, có các hình thức tín dụng sau:
- Tín dụng ưu đãi: Là hình thức tín dụng trong đó lãi suất tín dụng
mà người đi vay phải trả thường thấp hơn lãi suất thị trường. Loại hình

170
tín dụng này thường phát sinh trong các trường hợp cho vay đối với các
đối tượng được ưu tiên, đối tượng chính sách xã hội như: Các chương
trình cho vay đối với người nghèo, học sinh, sinh viên, gia đình có công
với cách mạng,....; chương trình cho vay của các nước phát triển, các tổ
chức tiền tệ, tín dụng quốc tế,... đối với các nước chậm phát triển và đang
phát triển (ví dụ: ODA, cho vay ưu đãi, các chương trình cho vay ưu đãi
của IMF, WB, ADB, ...)
- Tín dụng thông thường (còn gọi là tín dụng thương mại): Là hình
thức tín dụng mà lãi suất tín dụng được xác định dựa vào quan hệ cung
cầu vốn trên thị trường. Đây là hình thức tín dụng phát sinh phổ biến
hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường, phân loại tín dụng theo các tiêu chí
trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi tín dụng ngày càng phát triển đa dạng
và mở rộng phạm vi hoạt động, thì cách phân loại tín dụng càng chi tiết.
Phân loại tín dụng giúp cho việc nghiên cứu sự vận động của vốn tín
dụng trong từng loại hình và là cơ sở để so sánh, đánh giá hiệu quả kinh
tế của chúng.
6.1.4. Vai trò của tín dụng
Nghiên cứu lịch sử ra đời và phát triển của tín dụng cho thấy: Tín
dụng xuất hiện ngay từ khi hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ. Cùng với
sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội và của nền kinh tế hàng
hóa, tín dụng ngày càng phát triển với nhiều hình thức đa dạng và phức
tạp hơn. Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của tín dụng đã chứng tỏ được
tính cần thiết và vai trò của nó trong nền kinh tế - xã hội. Đặc biệt trong
nền kinh tế thị trường, vai trò của tín dụng ngày càng trở nên quan trọng.
Thứ nhất, tín dụng góp phần tích tụ, tập trung vốn thúc đẩy quá
trình tái sản xuất mở rộng nền kinh tế.
Tập trung vốn phải dựa trên cơ sở tích lũy. Trong thực tế, có những
lượng vốn rất lớn được nắm giữ ở các chủ thể khác nhau trong nền kinh
tế. Nhưng có rất nhiều người có vốn không muốn cho vay trực tiếp hoặc
không muốn có cổ phần trong các dự án đầu tư vì ngoài lý do gặp khó

171
khăn nếu cần rút tiền khi có nhu cầu đột xuất thì họ còn bị hạn chế bởi
khả năng, kiến thức về tài chính và pháp lý để thực hiện trực tiếp việc
đầu tư hay cho vay. Trong khi đó, hoạt động của hệ thống tín dụng có đủ
độ tin cậy do tính chất chuyên môn cao và làm giảm bớt rủi ro cá nhân
của những người có vốn. Chính vì lý do này, tín dụng làm cho quá trình
tập trung vốn được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả, tạo khả năng
cung ứng vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng
nền kinh tế. Điều này được thể hiện:
+ Nhờ nguồn vốn tín dụng các doanh nghiệp, các hộ gia đình sản
xuất kinh doanh không những đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh
bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công
nghệ, đảm bảo sự phát triển liên tục của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
+ Trong quá trình hoạt động của các chủ thể kinh tế, tín dụng đã góp
phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, tạo điều kiện để
duy trì mối liên hệ giữa sản xuất, lưu thông hàng hóa và tiêu dùng xã hội.
Chính vì vậy, tín dụng đã làm cho lưu thông hàng hóa không những được
mở rộng ở trong nước mà còn phát triển ra thị trường quốc tế.
+ Bên cạnh những tác động trên, tín dụng quốc tế còn làm quá trình
chuyển giao công nghệ giữa các nước thực hiện nhanh hơn. Nó góp phần
làm cho các nước đang phát triển và chậm phát triển trong một thời gian
ngắn có thể có được một nền sản xuất với công nghệ cao, mà các nước
phát triển trước đây có được đã phải mất tới hàng trăm năm.
Thứ hai, tín dụng là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Vai trò này của tín dụng được thực hiện trên các phương diện sau:
+ Nhà nước thường xuyên sử dụng tín dụng làm phương tiện cân đối
thu chi Ngân sách Nhà nước và huy động vốn để thực thi các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội. Thông thường, khi thiếu hụt ngân sách,
Nhà nước phát hành tín phiếu kho bạc để bù đắp. Bên cạnh đó, trong
những tình huống nhất định, Nhà nước phát hành công trái, trái phiếu để
huy động vốn cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trọng điểm.

172
+ Thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện và lãi suất
tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi được quy mô tín dụng hoặc chuyển
hướng vận động của nguồn vốn tín dụng. Nhờ đó có thể thúc đẩy hoặc
hạn chế sự phát triển của một số ngành, phù hợp với định hướng phát
triển kinh tế của Nhà nước. Chẳng hạn, để thực hiện có kết quả
chương trình lương thực, Nhà nước thực hiện chính sách ưu đãi tín
dụng hỗ trợ lãi suất để mở rộng cho vay nông nghiệp và các ngành phục
vụ nông nghiệp.
+ Nhà nước sử dụng tín dụng để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia,
điều tiết lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự cân đối tiền hàng, ổn định giá cả
hàng hóa. Trong giai đoạn hưng thịnh của nền kinh tế, nhu cầu vốn tăng
lên, Nhà nước có thể sử dụng công cụ tín dụng để bơm thêm vốn cho nền
kinh tế thông qua việc hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng
thương mại, cắt giảm lãi suất cơ bản, hạ trần lãi suất để tăng khối lượng
tiền tệ, tín dụng cung ứng cho nền kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Thứ ba, tín dụng góp phần tiết kiệm chi phí sản xuất và lưu thông
của xã hội.
Vai trò này của tín dụng được thể hiện cụ thể như sau:
Một là, thông qua hoạt động tín dụng, vốn trong nền kinh tế được
luân chuyển nhanh, tức là làm tăng nhanh tốc độ lưu thông tiền tệ. Từ đó
giảm khối lượng tiền phát hành vào lưu thông, đồng nghĩa với việc giảm
chi phí lưu thông tiền tệ.
Hai là, vốn tín dụng được cung cấp đầy đủ, kịp thời cho các doanh
nghiệp, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành liên tục, chu kỳ
sản xuất được rút ngắn lại. Đây là một yếu tố góp phần làm giảm tổn thất
khi doanh nghiệp thiếu vốn liên quan đến cơ hội kinh doanh.
Ba là, nguyên tắc của tín dụng là bắt buộc hoàn trả (gốc và lãi). Điều
này đã thúc đẩy người vay vốn sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
Bốn là, bản thân các chủ thể trong các quan hệ tín dụng phải tính
toán cụ thể để hoạt động tín dụng mang lại lợi ích cao nhất và an toàn

173
nhất. Động lực cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường thúc đẩy họ giảm
đến mức thấp nhất chi phí kinh doanh, kể cả chi phí xử lý rủi ro.
Thứ tư, tín dụng góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Chính sách xã hội thường được thực hiện từ 2 nguồn tài trợ là: Ngân
sách nhà nước và tín dụng. Phương thức tài trợ không hoàn lại thường bị
hạn chế về qui mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục hạn chế này, Nhà
nước đã sử dụng phương thức tài trợ có hoàn lại của tín dụng. Phương
thức tài trợ của tín dụng có vai trò sau:
+ Thông qua việc cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, tổ chức kinh tế -
xã hội, làm cho họ được đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn cho sản
xuất và tiêu dùng.
+ Các hộ nông dân, cá nhân sử dụng tín dụng như là một trong các
phương tiện để cải thiện và nâng cao mức sống của mình. Thông qua
việc vay vốn để đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao lợi nhuận và phân
chia tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng hợp lý nhất hoặc thông qua việc gửi
tiền vào ngân hàng để lấy lãi.
Thứ năm, tín dụng góp phần mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế.
Hoạt động tín dụng không chỉ bó hẹp trong nền kinh tế của mỗi quốc
gia, mà còn mở rộng trong phạm vi quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế
mở, vay nợ nước ngoài ngày càng trở thành một nhu cầu khách quan đối
với tất cả các nước trên thế giới, nó lại càng tỏ ra bức thiết hơn đối với
các nước đang phát triển. Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển
khác, là nước nghèo, tích lũy trong nước còn hạn chế, trong khi cần
lượng vốn rất lớn để phát triển kinh tế. Nhờ có tín dụng, các nước có thể
mua hàng hóa, nhập khẩu máy móc thiết bị và tiếp cận với những thành
tựu khoa học kỹ thuật mới, cũng như trình độ quản lý tiên tiến trên thế
giới. Việc cấp tín dụng của các nước không chỉ mở rộng và phát triển
quan hệ ngoại thương, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế ở
các nước nhập khẩu. Tín dụng đã tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư
quốc tế trực tiếp - một hình thức hợp tác kinh tế ở mức độ cao hơn.

174
6.2. L·I SUÊT TÝN DôNG
6.2.1. Khái niệm về lãi suất tín dụng
Một đặc trưng cơ bản của tín dụng là “có vay, có trả”. Sự hoàn trả ở
đây không chỉ là số tiền vay ban đầu mà còn bao hàm một số tiền lãi nhất
định. Điều đó có nghĩa là, để nhận được quyền sử dụng vốn vay trong
một khoảng thời gian nào đó, người vay có nghĩa vụ phải trả người cho
vay một số tiền nhất định. Số tiền này gọi là lãi vay (hay lợi tức tín
dụng). Thực chất, lợi tức tín dụng chính là giá cả của việc sử dụng vốn
vay, nó lên xuống theo sự biến động của quan hệ cung - cầu vốn trên thị
trường. Đây là loại giá cả đặc biệt, được hình thành trên cơ sở giá trị sử
dụng chứ không phải trên cơ sở giá trị. Giá trị sử dụng của khoản vốn
vay là khả năng mang lại lợi nhuận cho người đi vay khi sử dụng vốn vay
trong hoạt động kinh doanh hoặc mức độ thoả mãn một hoặc một số nhu
cầu nào đó của người đi vay. Lợi tức tín dụng này thường được tính theo
tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền vay. Tỷ lệ đó được gọi là lãi suất.
Như vậy, lãi suất là tỷ lệ phần trăm (%) giữa tổng lợi tức tín dụng
với tổng số tiền vay trong một thời kỳ nhất định.
Có thể biểu thị lãi suất tín dụng thành công thức như sau:

Lãi suất Tổng lợi tức tín dụng trong kỳ


=  100%
tín dụng Tổng số vốn vay trong kỳ

Diễn biến lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày
của mỗi chủ thể kinh tế. Nó tác động đến những quyết định của cá nhân
như chi tiêu hay để dành, mua nhà hay trái phiếu hoặc gửi tiền vào một
tài khoản tiết kiệm. Lãi suất cũng tác động đến các quyết định kinh tế của
các của doanh nghiệp như: Dùng tiền để đầu tư mua thiết bị mới cho các
nhà máy hoặc bỏ vào tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Do những ảnh
hưởng đó, lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ
nhất trong nền kinh tế và diễn biến của nó được cập nhật hàng ngày trên
các phương tiện thông tin đại chúng.

175
6.2.2. Phân loại lãi suất tín dụng
Trên thị trường vốn có rất nhiều loại lãi suất khác nhau, sau đây là
một số tiêu thức phân loại phổ biến các lãi suất tín dụng.
* Căn cứ vào nghiệp vụ tín dụng, lãi suất tín dụng bao gồm:
- Lãi suất huy động vốn: Là lãi suất phát sinh trong các hình thức
huy động vốn của NHTM, các trung gian tài chính khác,... Hình thức huy
động vốn chủ yếu của các tổ chức tài chính trung gian là nhận tiền gửi.
Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau, tuỳ thuộc vào: Loại
tiền gửi là nội tệ hay ngoại tệ; loại tài khoản là tiền gửi thanh toán hay
tiền gửi tiết kiệm; loại thời hạn là không kỳ hạn, ngắn hạn hay dài hạn;
quy mô tiền gửi,…
- Lãi suất cho vay: Là loại lãi suất phát sinh trong các hình thức cho
vay của NHTM và các trung gian tài chính khác. Lãi suất cho vay được
hình thành trên cơ sở các yếu tố: Lãi suất huy động, tỷ suất chi phí kinh
doanh tiền tệ, rủi ro, tỷ suất lợi nhuận,… Lãi suất cho vay cũng có nhiều
mức tuỳ theo loại tiền, thời hạn, phương thức, mục đích của tiền vay và
theo mức độ quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
Đối với các ngân hàng thương mại, hai loại lãi suất này hình thành
nên những khoản thu nhập và chi phí chủ yếu của ngân hàng.
- Lãi suất chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay
dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác
chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần
trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân
hàng phát tiền vay cho khách hàng. Như vậy, tiền lãi từ cho vay chiết
khấu được trả trước cho ngân hàng.
- Lãi suất tái chiết khấu: Áp dụng khi NHTW cho các ngân hàng
trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc các
giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng
này. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ
có giá và cũng được khấu trừ ngay khi NHTW cấp tiền vay cho ngân
hàng trung gian.

176
Lãi suất tái chiết khấu do NHTW ấn định căn cứ vào mục tiêu, yêu
cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Vì hoạt động tái chiết khấu cung ứng nguồn vốn cho các ngân hàng
trung gian nên thông thường lãi suất tái chiết khấu nhỏ hơn lãi suất chiết
khấu. Tuy nhiên, trong trường hợp cần hạn chế khả năng mở rộng tín
dụng của hệ thống ngân hàng, nhằm kiềm chế đẩy lùi lạm phát hoặc phạt
các ngân hàng trung gian trong trường hợp vi phạm các yêu cầu về thanh
toán, NHTW có thể ấn định lãi suất tái chiết khấu bằng thậm chí cao hơn
lãi suất chiết khấu của hệ thống ngân hàng trung gian.
- Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi
cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng
được hình thành qua quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân
hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các ngân hàng trung gian vay
của NHTW. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt
động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay NHTW của các ngân
hàng trung gian.
Một số lãi suất tín dụng quốc tế thông dụng: Ở các trung tâm tài
chính quốc tế lớn, các ngân hàng thường hình thành nên các chỉ số lãi
suất trong giao dịch trên thị trường liên ngân hàng. Chẳng hạn:
+ Lãi suất LIBOR (London Interbank Offered Rate): Lãi suất của
Liên ngân hàng London công bố vào 11h trưa hàng ngày tại London. Đây
là loại lãi suất do 4 ngân hàng lớn Barclays, Lloyds, National Westminter
và Midland hình thành. Chúng kiểm soát 90% việc thanh toán bù trừ các
khoản tiền gửi ngân hàng ở Anh. Đây là lãi suất cho vay ngắn hạn (kỳ
hạn 1, 3, 6, 12 tháng) giữa các ngân hàng trên thị trường này. Lãi suất
này thường được sử dụng làm lãi suất tham khảo trong các hợp đồng tín
dụng quốc tế.
Tương tự, trên thị trường liên ngân hàng New York còn có lãi suất
NIBOR (New York Interbank Offered Rate), lãi suất TIBOR (Tokyo
Interbank Offered Rate) của thị trường Tokyo, lãi suất SIBOR (Singapore
Interbank Offered Rate) của thị trường Singapore,...

177
+ Lãi suất LIBID (London interbank bid rate): Là lãi suất bình quân
mà các ngân hàng lớn ở London huy động tiền gửi bằng EURO từ các
ngân hàng khác. Lãi suất này được tính toán trên cơ sở khảo sát của các
ngân hàng ở London để quyết định mức lãi suất cụ thể mà họ sẵn sàng
huy động tiền gửi bằng EURO.
+ Lãi suất LIMEAN: Là lãi suất bình quân của LIBOR và LIBID.
- Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở
để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cở bản được hình
thành khác nhau ở mỗi nước, nó có thể do NHTW ấn định (như ở Nhật -
là mức lãi suất cho vay thấp nhất) hoặc có thể do bản thân các ngân
hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động kinh doanh cụ thể của
ngân hàng mình (ở Mỹ, Anh, Úc - đó là mức lãi suất áp dụng cho khách
hàng có mức rủi ro thấp nhất); hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của
một số ngân hàng đứng đầu rồi ± biên độ dao động theo một tỷ lệ %
nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của mình (Malaysia); một số
quốc gia khác lại sử dụng lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất cơ bản
(Singapore, Pháp),… Mặc dù khác nhau, lãi suất cơ bản của hầu hết các
nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và có một mức lợi nhuận bình
quân cho phép.
* Căn cứ vào việc loại trừ ảnh hưởng của giá trị tiền tệ:
- Lãi suất danh nghĩa: Là loại lãi suất được xác định theo giá trị
danh nghĩa của tiền tệ hay nói cách khác là loại lãi suất loại trừ ảnh
hưởng bởi sự biến động giá trị của tiền tệ. Lãi suất danh nghĩa thường
được công bố chính thức trong các hợp đồng tín dụng và ghi rõ trên các
công cụ nợ.
- Lãi suất thực: Là loại lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của
giá trị tiền tệ, như tỷ lệ lạm phát hoặc tỷ lệ thiểu phát tiền tệ.
Quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa được phản ánh
bằng phương trình Fisher (nhà kinh tế học Irving Fisher đã tìm ra phương
trình này):

Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực ± Tỷ lệ lạm phát (thiểu phát) dự đoán

178
Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát
nên lãi suất thực phản ánh chính xác khoản thu nhập thực tế từ tiền lãi
mà người cho vay nhận được hoặc chi phí thực của việc vay tiền. Sự
phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có một ý nghĩa quan
trọng. Bởi lẽ, chính lãi suất thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa ảnh
hưởng đến đầu tư, đến việc tái phân phối thu nhập giữa những con nợ và
chủ nợ, sự lưu thông về vốn ngắn hạn giữa các nước khác nhau. Đối với
người có tiền, nhờ đoán biết được lãi suất thực mà họ quyết định có nên
gửi tiền vào ngân hàng hay mang đi kinh doanh trực tiếp. Còn đối với
người cần vốn, nếu dự đoán được tương lai có lạm phát mà trong suốt
thời gian đó lãi suất cho vay không đổi hoặc có tăng nhưng tốc độ tăng
không bằng lạm phát thì họ có thể yên tâm vay để kinh doanh mà không
sợ lỗ do có trượt giá khi trả nợ.
* Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất:
- Lãi suất cố định: Là loại lãi suất được ấn định bằng một tỷ lệ cố
định trong suốt thời gian huy động vốn hoặc cho vay.
Lãi suất này có ưu điểm là số tiền lãi được cố định và biết trước,
nhưng nhược điểm là bị ràng buộc vào một mức lãi suất nhất định trong
suốt khoảng thời gian hiệu lực của hợp đồng dù cho lãi suất trên thị
trường có sự thay đổi.
- Lãi suất thả nổi: Là loại lãi suất có thể điều chỉnh theo lãi suất thị
trường trong thời hạn tín dụng. Đây là loại lãi suất linh hoạt vì nó được
điều chỉnh theo diễn biến của thị trường. Tuy nhiên, khi lãi suất thị
trường tăng lên người đi vay bị thiệt trong khi người cho vay được lợi,
ngược lại với trường hợp lãi suất giảm xuống.
Thông thường lãi suất được quy định cố định trong từng kỳ hạn tín
dụng, khi chuyển sang kỳ hạn khác thì lại theo lãi suất thị trường tại
thời điểm bắt đầu kỳ hạn mới. Ví dụ: Lãi suất tiền gửi 1 năm là
9,9%/năm sẽ không thay đổi trong vòng 1 năm đó, nhưng nếu gửi tiếp
kỳ hạn 1 năm tiếp theo thì sẽ theo lãi suất hiện hành vào thời điểm bắt
đầu kỳ hạn mới. Tuy nhiên, với các kỳ hạn dài thì lãi suất có thể quy
định cố định trong suốt thời hạn đó, sau đó sẽ áp dụng lãi suất hiện
hành vào các năm tiếp theo.

179
* Căn cứ vào loại tiền cho vay
- Lãi suất nội tệ: Là lãi suất huy động hoặc cho vay đồng nội tệ
- Lãi suất ngoại tệ: Là lãi suất huy động hoặc cho vay đồng ngoại tệ
Mối liên hệ giữa hai lãi suất này được thể hiện bằng phương trình:
iD = iF + ΔEe
Trong đó: iD là lãi suất nội tệ, iF là lãi suất ngoại tệ, ΔEe là mức tăng
giá dự tính của đồng ngoại tệ so với nội tệ.
Phương trình này được hình thành trên cơ sở lập luận: Lợi tức dự
tính của việc nắm giữ các khoản tiền gửi bằng nội tệ phải bằng lợi tức dự
tính của việc nắm giữ các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ. Nếu tồn tại chênh
lệch về mức lợi tức dự tính, sẽ xuất hiện sự di chuyển vốn từ loại tiền này
sang loại tiền kia để được hưởng lợi tức cao hơn. Kết quả của sự di
chuyển này là lợi tức dự tính của các khoản tiền gửi được điều chỉnh lại
dưới ảnh hưởng của quan hệ cung cầu. Kết quả là sự cân bằng sẽ được
thiết lập lại. Vì mức lợi tức dự tính của việc nắm giữ các khoản tiền bằng
ngoại tệ là lãi suất ngoại tệ cộng với mức tăng giá dự tính của ngoại tệ
nên chúng ta có phương trình trên.
Tuy nhiên, phương trình này chỉ tồn tại trong điều kiện chế độ tự do
ngoại hối, tức là tự do chuyển đổi từ đồng nội tệ sang đồng ngoại tệ và
ngược lại. Nếu quản lý ngoại hối chặt chẽ thì sẽ vẫn tồn tại chênh lệch vì
vốn không được tự do chuyển đổi giữa hai loại tiền được.
Như vậy, có nhiều loại lãi suất tín dụng được hình thành trong nền
kinh tế. Đại bộ phận chúng đều do NHTW quản lý và kiểm soát. Xu
hướng chung của thế giới ngày nay là tiến tới một hệ thống lãi suất đơn
giản và được hình thành dựa vào quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
6.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng
Với vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, sự biến động của
lãi suất phụ thuộc vào các yếu tố sau đây (ảnh hưởng của từng yếu tố
đến lãi suất được xem xét trong điều kiện các yếu tố khác không đổi
hay cố định):

180
* Khả năng cung ứng và nhu cầu vốn trên thị trường
Đây là nhân tố tác động trực tiếp đến việc hình thành lãi suất trên
thị trường, cụ thể: Khi lượng vốn cung ứng trên thị trường lớn hơn nhu
cầu sẽ làm cho lãi suất giảm và ngược lại. Dựa vào quy luật này, Nhà
nước có thể khống chế lãi suất hoặc tác động vào cung hay cầu vốn trên
thị trường nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng
giai đoạn.
* Lạm phát
Lạm phát có ảnh hưởng rất lớn đến lãi suất tín dụng. Khi lạm phát
dự tính tăng, lãi suất cũng tăng theo. Điều này có một ý nghĩa quan
trọng trong việc dự đoán lãi suất khi nền kinh tế có xu hướng gia tăng
lạm phát. Qua đó có thể xây dựng một chính sách lãi suất hợp lý. Khi
lạm phát tăng, Nhà nước cần phải tăng lãi suất danh nghĩa bảo đảm lãi
suất thực dương hoặc Nhà nước phải sử dụng các biện pháp khác để
kiềm chế lạm phát. Mặt khác, khi lạm phát tăng nhanh, người có vốn
thường không dám cho vay, bởi họ sợ đồng vốn của mình bị “mất giá”.
Do đó, thay vì cho vay vốn họ chuyển sang dự trữ hàng hoá hoặc đầu tư
ra nước ngoài. Khi đó, khả năng cung ứng vốn trên thị trường giảm
xuống, điều này làm cho lãi suất tín dụng tăng lên. Trong khi đó, xét về
cầu quỹ cho vay, khi lạm phát có xu hướng tăng lên đã kích thích nhu
cầu vay vốn tăng lên vì gánh nặng công nợ sẽ giảm khi lạm phát tăng.
Như vậy, lạm phát và lãi suất luôn có mối quan hệ chặt chẽ và tác động
ảnh hưởng lẫn nhau.
* Chính sách vĩ mô của Nhà nước
- Chính sách tài khoá (thuế và chi tiêu của Chính phủ)
Bội chi ngân sách là một bộ phận trong cầu quỹ cho vay nên khi bội
chi ngân sách tăng làm cho cầu quỹ cho vay lớn lên kéo theo lãi suất có
xu hướng gia tăng.
Thông thường, để bù đắp bội chi ngân sách, Chính phủ thường phát
hành thêm trái phiếu. Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng làm cho
giá trái phiếu có xu hướng giảm, lãi suất thị trường vì vậy sẽ có xu hướng
tăng lên.

181
Tác động của thuế đến lãi suất cũng giống như tác động của thuế
tới giá cả của các hàng hoá khác. Nếu Nhà nước tăng thuế, do tính chất
chuyển giao của thuế, giá cả hàng hóa sẽ tăng lên. Khi đó, người dân
phải dành tiền nhiều hơn cho nhu cầu tiêu dùng nên phần dành cho tiết
kiệm sẽ giảm xuống, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất theo chiều hướng
tăng lên.
- Chính sách tiền tệ (dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp
vụ thị trường mở)
Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động tiền tệ,
tín dụng và các dịch vụ ngân hàng, NHTW có vai trò điều tiết hoạt động
nền kinh tế vĩ mô thông qua công cụ của chính sách tiền tệ như: Lãi suất
tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở,…
Khi lãi suất tái chiết khấu của NHTW thay đổi sẽ làm tăng hoặc
giảm chi phí huy động vốn của NHTM và do đó cản trở hoặc khuyến
khích nhu cầu vay. Vì vậy, thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết
khấu, NHTW có thể khuyến khích mở rộng hay làm giảm khối lượng tín
dụng mà NHTM cấp cho nền kinh tế, dẫn đến giảm hoặc tăng lãi suất tín
dụng trên thị trường.
Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, tức là NHTW quyết định giảm bớt
vốn khả dụng của NHTM, kéo theo những khó khăn về ngân quỹ cho các
ngân hàng, hạn chế khả năng cấp tín dụng của ngân hàng và ngược lại.
Do đó, chính sách tăng hoặc giảm dự trữ bắt buộc cũng ảnh hưởng gián
tiếp đến lãi suất thị trường.
Khi NHTW thực hiện việc mua (hoặc bán) chứng từ có giá trên thị
trường làm tăng (hoặc giảm) khối lượng tiền cung ứng vào lưu thông, vì
thế cũng làm giảm hoặc tăng lãi suất tín dụng.
* Rủi ro và kỳ hạn tín dụng
Lãi suất tín dụng phụ thuộc nhiều vào tiềm lực tài chính, uy tín của
người vay. Nếu người vay có tiềm lực tài chính vững vàng, có vị thế, có
uy tín trên thị trường có nghĩa là xác suất xảy ra rủi ro đối với người cho
vay thấp hơn thì lãi suất huy động vốn sẽ thấp hơn và ngược lại.

182
Chính vì thế, lãi suất trái phiếu Chính phủ thường thấp hơn so với
trái phiếu công ty vì rủi ro về khả năng thanh toán nợ của Chính phủ thấp
hơn. Trong khi đó, các khoản vay của công ty dành cho đầu tư có khả
năng rủi ro lớn hơn, do kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến không thể
thanh toán các khoản theo đúng thời hạn hoặc mất khả năng thanh toán.
Thông thường, thời hạn cho vay càng dài, rủi ro tiềm ẩn đối với
người cho vay (rủi ro thanh khoản, rủi ro lạm phát,…) càng lớn, vì vậy
lãi suất cho vay cũng cao hơn.
* Tỷ giá
Tỷ giá tác động đến sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu hàng hoá
của một nước. Khi ngoại tệ tăng giá sẽ làm giá hàng nhập khẩu tăng lên,
dẫn đến tăng chi phí đầu vào, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, nhu cầu
đầu tư giảm và lãi suất giảm. Ngược lại, khi ngoại tệ giảm giá làm hạn chế
xuất khẩu, kích thích nhập khẩu, cầu tiền tệ tăng dẫn đến tăng lãi suất.
* Một số nhân tố khác: Ngoài các yếu tố chính nêu trên thì mức độ
phát triển của các thể chế trung gian và mức độ cạnh tranh trong hoạt
động tín dụng và sự phát triển của thị trường tài chính trong và ngoài
nước cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin góp phần
làm giảm chi phí quản lý, giao dịch,… kéo theo lãi suất có xu hướng
giảm xuống. Hơn nữa, sự ổn định của nền kinh tế, chính sách tài khoá,
tình hình cân đối thu chi ngân sách, tình hình an ninh, chính trị, xã hội,…
cũng ảnh hưởng đến sự biến động của lãi suất tín dụng.

6.3. C¸C H×NH THøC TÝN DôNG CHñ YÕU TRONG NÒN KINH TÕ
THÞ TR¦êNG
6.3.1. Tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng được biểu hiện dưới hình
thức mua bán chịu hàng hoá.
Trong hình thức bán chịu hàng hóa, người bán chịu là người cho vay
chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng lượng giá trị hàng hóa cho người
mua chịu - người đi vay. Người mua chịu được phép sử dụng số vốn đó,
sau một thời gian mới hoàn trả cho người bán chịu.

183
Tín dụng thương mại ra đời và phát triển là yêu cầu khách quan
trong nền kinh tế hàng hóa, xuất phát từ nhu cầu cần vốn tạm thời trong
quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Phát sinh quan hệ bán chịu hàng hóa là do người bán có hàng cần
bán nhưng người mua chưa có tiền hoặc chưa đủ tiền để thanh toán cho
nên hình thành tín dụng thương mại. Thực hiện quan hệ này, người bán
chịu có lợi là đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hóa, thu được lợi tức tiền
vay (chính là phần chênh lệch giữa giá bán chịu và giá bán trả tiền ngay),
có thể chuyển nhượng thương phiếu để thu hồi vốn trước hạn. Mặt khác,
người mua chịu có được hàng hóa để đảm bảo cho quá trình sản xuất
kinh doanh tiến hành liên tục, đảm bảo nhu cầu tiêu dùng. Nội dung hoạt
động của tín dụng thương mại có các đặc điểm sau:
- Một là, đối tượng cấp tín dụng thương mại là bằng hàng hóa.
Hàng hóa cho vay là một bộ phận của vốn sản xuất chuẩn bị chuyển hóa
thành tiền.
- Hai là, người cho vay và người đi vay đều là những doanh nghiệp
trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trong
quan hệ này người cho vay là người bán chịu, còn người đi vay là người
mua chịu.
- Ba là, giá cả của tín dụng thương mại được ẩn chứa bên trong giá
bán. Trong quan hệ mua bán chịu hàng hóa, giá bán chịu thường cao hơn
giá bán trả tiền ngay, phần chênh lệch là giá cả của tín dụng thương mại.
- Bốn là, quá trình vận động và phát triển của tín dụng thương mại
gắn liền với sự vận động của quá trình tái sản xuất xã hội. Bởi lẽ, vốn
cho vay là một bộ phận vốn sản xuất kinh doanh. Cho nên trong thời kỳ
hưng thịnh của chu kỳ sản xuất, khối lượng tín dụng thương mại tăng,
còn thời kỳ khủng hoảng khối lượng tín dụng thương mại giảm.
Công cụ lưu thông của tín dụng thương mại là thương phiếu.
Thương phiếu là một loại giấy chứng nhận nợ xác định quyền đòi nợ của
người sở hữu thương phiếu và nghĩa vụ phải hoàn trả của người mua chịu
hàng hóa khi đến hạn.

184
Thương phiếu có những đặc điểm sau:
+ Trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi rõ nguyên nhân phát
sinh khoản nợ mà chỉ nêu số tiền nợ và kỳ hạn nợ.
+ Bắt buộc: Đến hạn thanh toán, người mắc nợ phải hoàn trả đầy
đủ số tiền ghi trên thương phiếu cho chủ nợ mà không được từ chối
hoặc trì hoãn với bất cứ lý do nào. Điều này được pháp luật của Nhà
nước bảo hộ.
+ Lưu thông: Trong phạm vi thời hạn hiệu lực, thương phiếu được
sử dụng là phương tiện thanh toán. Chúng được chuyển nhượng từ người
này sang người khác, giữa những người có quan hệ tín dụng thương mại
với nhau hoặc đưa lên ngân hàng chiết khấu, cầm cố để thu hồi vốn về
trước hạn.
Thương phiếu có thể do người mua chịu hoặc do người bán chịu lập
ra. Thương phiếu do người mua chịu hàng hóa lập ra gọi là kỳ phiếu
thương mại (lệnh phiếu), cam kết sau một thời gian sẽ thanh toán toàn bộ
số nợ cho người bán chịu hay người cầm nợ. Thương phiếu do người bán
chịu hàng hóa lập gọi là hối phiếu, yêu cầu người mua chịu khi đến hạn
phải thanh toán tiền ngay cho người bán chịu hay người xuất trình hối
phiếu này.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã góp phần hoàn thiện quan
hệ tín dụng thương mại về nhiều mặt. Ngược lại, tín dụng thương mại có
tác dụng tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế thị trường và các hình
thức tín dụng khác. Tác dụng của tín dụng thương mại thể hiện trên các
mặt sau:
+ Tín dụng thương mại góp phần thúc đẩy tốc độ tiêu thụ hàng hóa
của các doanh nghiệp, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được
thực hiện liên tục, chu kỳ sản xuất được rút ngắn và do đó tăng nhanh
vòng quay vốn kinh doanh của doanh nghiệp cũng như toàn xã hội.
+ Thông qua tín dụng thương mại để điều tiết vốn một cách trực tiếp
giữa các doanh nghiệp, do đó đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn kịp thời,
giảm nhẹ sự lệ thuộc về vốn của các tổ chức tín dụng.

185
+ Tín dụng thương mại làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu
thông và do đó giảm chi phí lưu thông xã hội.
+ Sự phát triển của tín dụng thương mại tạo điều kiện mở rộng hoạt
động của tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu thương
phiếu và cầm cố thương phiếu. Đồng thời thông qua nghiệp vụ tái chiết
khấu, tái cầm cố thương phiếu để Ngân hàng trung ương điều hành chính
sách tiền tệ.
Hạn chế của tín dụng thương mại xuất phát từ bản chất của hình thức
tín dụng này là quan hệ trực tiếp giữa 2 doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh và cho vay bằng hàng hóa. Những hạn chế đó là:
- Tín dụng thương mại bị giới hạn về quy mô, nghĩa là nó bị giới hạn
bởi khối lượng hàng hóa bán chịu. Khả năng cho vay của doanh nghiệp
bán chịu được thể hiện ở tổng giá trị hàng hóa sản xuất được và chờ tiêu
thụ tại một thời điểm nhất định và yêu cầu mua chịu của doanh nghiệp
đối tác cũng tại thời điểm ấy. Doanh nghiệp cho vay không thể bán chịu
khối lượng hàng hóa vượt quá số mình có. Mặt khác nhu cầu của doanh
nghiệp xin vay chỉ cần một khối lượng hàng hóa của doanh nghiệp bán
chịu. Chính vì vậy, khối lượng hàng hóa của doanh nghiệp bán chịu có
thể thừa hoặc thiếu so với nhu cầu, làm cho quan hệ tín dụng thương mại
không thể thực hiện được.
- Thời hạn của tín dụng thương mại chỉ là ngắn hạn. Bởi vì, vốn cho
vay là giá trị hàng hóa bán chịu đang chờ tiêu thụ, chưa rút khỏi chu kỳ
sản xuất để chuyển hóa thành tiền, cho nên số vốn này chưa phải là tiền
nhàn rỗi. Do đó, doanh nghiệp bán chịu chỉ có thể bán chịu trong một
thời gian ngắn, sau đó phải thu hồi vốn để tiến hành quá trình sản xuất
tiếp theo.
- Tín dụng thương mại chỉ đầu tư một chiều. Bởi lẽ, tín dụng thương
mại cho vay bằng hàng hóa mà hướng sử dụng khoản vay bị bó hẹp theo
công dụng của một loại hàng hóa nhất định: Hàng hóa của doanh nghiệp
bán chịu có thể là nguyên liệu, bán thành phẩm của doanh nghiệp mua
chịu, hoặc doanh nghiệp mua chịu tiếp tục quá trình tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp bán chịu. Chính vì vậy, tín dụng thương mại không thể
mở rộng đầu tư vào mọi ngành trong nền kinh tế quốc dân.

186
6.3.2. Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là các tổ
chức tín dụng và bên kia là các chủ thể khác trong nền kinh tế
Trong hình thức tín dụng này, Ngân hàng xuất hiện với vai trò vừa là
người cho vay và vừa là người đi vay. Tín dụng ngân hàng có những đặc
điểm sau:
- Đối tượng huy động vốn và cho vay được thực hiện chủ yếu dưới
hình thức tiền tệ.
Các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân được các
tổ chức tín dụng huy động để hình thành nguồn vốn cho vay. Trên cơ sở
nguồn vốn đã có, các tổ chức tín dụng cho vay đối với các tác nhân cần
vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Cả hai mặt hoạt động huy
động vốn và cho vay đều được thực hiện chủ yếu dưới hình thức tiền tệ.
Đây là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng nhu cầu tín dụng
cho mọi khách hàng.
- Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác đóng vai trò là tổ chức
trung gian tín dụng.
Khi huy động vốn trong nền kinh tế, ngân hàng và các tổ chức tín
dụng sử dụng nhiều hình thức thu hút tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau,
phát hành các loại giấy nhận nợ (kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ,...) ngắn
hạn cũng như trung và dài hạn, vay trên thị trường liên ngân hàng, ký các
hiệp định vay nợ,...
Khi cho vay, các tổ chức tín dụng chủ yếu sử dụng các hình thức cấp
tín dụng theo tài khoản cho vay, cho vay theo hợp đồng tín dụng,... để
đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
- Mục đích của tín dụng ngân hàng là kinh doanh tiền tệ nhằm mục
đích kiếm lời.
Khi thực hiện hoạt động tín dụng, các ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác luôn hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Họ định ra lãi suất cho vay
bao giờ cũng lớn hơn lãi suất huy động và phần chênh lệch chính là thu
nhập của các tổ chức tín dụng.

187
- Nguồn vốn cho vay của tín dụng ngân hàng là nguồn vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế.
Để thực hiện hoạt động cho vay trong quan hệ tín dụng ngân hàng,
các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác phải huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi, nhỏ lẻ trong nền kinh tế để tập hợp thành một quỹ cho vay có
quy mô lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của các chủ thể. Trong khi
đó, đối với tín dụng thương mại, nguồn vốn cho vay là nguồn vốn đang
trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
- Giá cả của tín dụng ngân hàng là một yếu tố độc lập trong hợp
đồng tín dụng.
Trong các hợp đồng tín dụng ngân hàng bao giờ cũng có điều khoản
độc lập quy định về lãi suất huy động hoặc lãi suất cho vay, đó chính là
yếu tố biểu hiện giá cả của tín dụng ngân hàng.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng phụ thuộc
vào sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội.
Vốn tín dụng ngân hàng là một bộ phận không thể thiếu được của
quá trình tái sản xuất xã hội. Khối lượng hàng hóa sản xuất và lưu thông
tăng lên thì nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng cũng tăng lên. Rõ ràng, vốn
tín dụng ngân hàng vận động phù hợp với sự vận động và phát triển của
quá trình tái sản xuất xã hội.
Huy động vốn và cho vay của tín dụng ngân hàng chủ yếu được thực
hiện bằng một số tiền nhất định. Có nghĩa là công cụ thực hiện quan hệ
tín dụng ở đây là tiền tín dụng. Tiền tín dụng có những đặc điểm là lưu
thông vô thời hạn và thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ.
Tuy sử dụng một công cụ là tiền, nhưng huy động vốn và cho vay
của ngân hàng và các tổ chức tín dụng có tính chất không giống nhau.
Trong huy động vốn, những người cho các ngân hàng và các tổ chức tín
dụng vay nhận về những giấy nhận nợ. Còn trong cho vay, giữa ngân
hàng, các tổ chức tín dụng khác với khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng
để thực hiện các khoản cho vay.

188
So với tín dụng thương mại và các hình thức tín dụng khác trong nền
kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nổi bật, đó là:
Thứ nhất, khối lượng tín dụng lớn, đáp ứng được mọi nhu cầu vay
vốn của khách hàng. Cả hai mặt huy động vốn và cho vay của tín dụng
ngân hàng đều có thể đạt được một khối lượng vốn lớn. Do đó, tín dụng
ngân hàng có thể thỏa mãn một cách tối đa nhu cầu vốn của các chủ thể
trong nền kinh tế. Khác với tín dụng thương mại, nguồn vốn cho vay
bằng hàng hóa bán chịu, chỉ bó hẹp trong số lượng hàng hóa mà doanh
nghiệp tự sản xuất ra. Do vậy, không thể thỏa mãn được nhu cầu vốn của
người xin vay.
Thứ hai, thời hạn tín dụng là đa dạng. Tín dụng ngân hàng huy động
các nguồn vốn và thực hiện các khoản cho vay có thời hạn phong phú và
đa dạng. Có nghĩa là có thể huy động các nguồn vốn và cho vay ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn. Thời hạn của một khoản tín dụng ngân hàng
tùy thuộc vào thời hạn nhàn rỗi của các nguồn vốn và nhu cầu xin vay
của khách hàng. So với tín dụng thương mại là chỉ bán chịu hàng hóa với
thời hạn ngắn.
Thứ ba, phạm vi hoạt động rộng, diễn ra ở tất cả các khâu của quá
trình tái sản xuất xã hội. Tín dụng ngân hàng huy động và cho vay vốn
đối với mọi chủ thể trong xã hội và hoạt động này có thể diễn ra ở cả 4
khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, đó là sản xuất, phân phối, trao đổi
và tiêu dùng. Còn hoạt động tín dụng thương mại có phạm vi hoạt động
hẹp hơn. Hoạt động này chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp, các tổ chức
cung ứng hàng hóa, dịch vụ và chỉ được diễn ra ở khâu trao đổi của quá
trình tái sản xuất xã hội.
Hiện nay, tín dụng ngân hàng được coi là hình thức tín dụng cơ bản
và quan trọng nhất. Bởi lẽ, tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm. Huy
động vốn và cho vay bằng tiền dưới nhiều hình thức khác nhau nên đảm
bảo tính linh hoạt. Ngân hàng có chức năng “tạo tiền” để bổ sung nguồn
vốn cho vay. Hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác có mạng

189
lưới chi nhánh rộng khắp lãnh thổ, thậm chí ngoài lãnh thổ. Tín dụng
ngân hàng còn sử dụng công cụ lãi suất trong việc điều chỉnh cung cầu
tín dụng của nền kinh tế quốc dân, nên đảm bảo kịp thời nhu cầu vốn cho
mọi khách hàng.
6.3.3. Tín dụng Nhà nước
Tín dụng Nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các
chủ thể trong và ngoài nước. Trong quan hệ này, Nhà nước là chủ thể tổ
chức thực hiện các quan hệ tín dụng để thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của mình. Nhà nước xuất hiện trong quan hệ tín dụng này với
vai trò vừa là người cho vay, vừa là người đi vay.
Tín dụng Nhà nước được thực hiện thông qua các hoạt động sau:
- Thứ nhất, Nhà nước đi vay. Đây là hoạt động truyền thống của Nhà
nước. Nhà nước đi vay bằng cách phát hành trái phiếu hoặc công trái, ký
kết các hiệp định vay nợ,... tùy thuộc vào nhu cầu thiếu hụt của ngân
sách Nhà nước và nhu cầu vốn đầu tư cho các chương trình, dự án phát
triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
- Thứ hai, Nhà nước cho vay. Hoạt động này được thực hiện chủ yếu
trong nền kinh tế hiện đại. Nhà nước cho vay ưu đãi đối với các cá nhân,
hộ gia đình, tổ chức kinh tế, xã hội ở trong nước, Chính phủ và các tổ
chức nước ngoài.
Tín dụng Nhà nước có những đặc điểm sau:
- Nhà nước huy động vốn và cho vay bằng tiền tệ. Nhà nước huy
động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế chủ yếu thông qua hình thức phát
công trái, trái phiếu chính phủ,... để hình thành nguồn vốn cho vay. Trên
cơ sở nguồn vốn đã có, Nhà nước cho vay đối với các chủ thể kinh tế cần
vốn nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong từng
thời kỳ, như đầu tư cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội
và các đối tượng chính sách. Nguồn đầu tư từ quỹ Ngân sách Nhà nước
được thực hiện qua 2 kênh: Cấp phát và cho vay. Trong đó, cho vay ngày

190
càng được chú trọng và chiếm tỷ lệ lớn. Điều đó nói lên vai trò quan
trọng của tín dụng Nhà nước.
- Tín dụng Nhà nước là loại tín dụng mang tính chất tín chấp cả về
phía đi vay cũng như cho vay. Nhà nước dùng uy tín của mình để đảm
bảo việc trả nợ đúng hạn số tiền đã vay. Tuy nhiên, Nhà nước phải tính
toán kỹ nhu cầu vay và có biện pháp sử dụng có hiệu quả vốn vay để tạo
nguồn tài chính vững chắc cho việc hoàn trả nợ.
- Phạm vi huy động vốn rộng lớn: Việc phát hành công trái, trái
phiếu của Nhà nước trong một thời kỳ nào đó để huy động vốn được thực
hiện trên phạm vi cả nước và áp dụng đối với tất cả các chủ thể trong nền
kinh tế (doanh nghiệp, cá nhân, các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức xã
hội,...). Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu vốn của mình, Nhà nước có thể ký
các hiệp định tín dụng để vay vốn nước ngoài.
- Việc huy động và sử dụng vốn có sự kết hợp giữa nguyên tắc tín
dụng và các chính sách tài chính - tiền tệ của Nhà nước (Điều tiết giữa
tích luỹ và tiêu dùng; điều tiết lưu thông tiền tệ trên thị trường; kiểm soát
qui mô đầu tư, điều tiết cơ cấu đầu tư, ...).
- Sự phát triển của tín dụng Nhà nước tạo điều kiện để phát triển tín
dụng ngân hàng, vì các giấy tờ có giá của tín dụng Nhà nước là công cụ
quan trọng để chiết khấu, cầm cố, tái chiết khấu, tái cầm cố tại ngân hàng.
Ngày nay, tín dụng Nhà nước tồn tại và quy mô ngày càng mở rộng
là hết sức cần thiết cho mọi Nhà nước trên thế giới.
6.3.4. Thuê tài chính
Thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông
qua việc cho thuê tài sản trên cơ sở hợp đồng giữa bên cho thuê và
bên đi thuê.
Hoạt động cho thuê tài chính có các đặc điểm cơ bản sau:
- Đối tượng cấp tín dụng của hoạt động cho thuê tài chính là các tài
sản như nhà ở, văn phòng, nhà kho, phương tiện vận tải, các máy móc
thiết bị,...

191
- Các Công ty cho thuê tài chính sẽ huy động vốn nhàn rỗi trung và
dài hạn trong nền kinh tế, sau đó đầu tư vào các loại tài sản theo yêu cầu
của bên thuê để cung cấp tín dụng thông qua các hợp đồng cho thuê tài
chính. Khi đó, các Công ty cho thuê tài chính là chủ thể cấp tín dụng hay
là người cho vay.
- Mục đích cho thuê tài sản của Công ty cho thuê tài chính là để
kiếm lời.
- Trong thời hạn thuê, bên thuê với tư cách là người vay có quyền sử
dụng tài sản và có nghĩa vụ thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê theo
mức đã thỏa thuận.
Theo hình thức này, người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị
theo yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho
thuê. Người thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt
thời hạn thuê đã thỏa thuận và không được hủy bỏ hợp đồng trước hạn.
Kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại
hoặc tiếp tục thuê tài sản đó.
Cho thuê tài chính giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ:
Công ty cho thuê tài chính phải xuất tiền để mua tài sản cho thuê với kỳ
vọng thu về cả gốc và lãi sau một thời hạn nhất định. Công ty cũng phải
đối mặt với rủi ro khi khách hành kinh doanh không có hiệu quả không
trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn.
Tuy nhiên, cho thuê tài chính có nhiều điểm khác biệt so với cho vay
như: Công ty cho thuê tài chính có quyền thu hồi tài sản nếu thấy người
thuê không thực hiện đúng hợp đồng; không có tài sản bảo đảm; nhiều tài
sản thuê mang tính đặc chủng, khó bán, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao,..
nên cho thuê tài chính có rủi ro rất cao.

192
C¢U HáI ¤N TËP CH¦¥NG 6

1. Tín dụng là gì? Hãy phân tích các đặc điểm của tín dụng? Ý nghĩa
của việc nghiên cứu?
2. Phân tích vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường?
3. Lãi suất tín dụng? Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín
dụng?
4. Tín dụng thương mại là gì? Phân tích các đặc điểm của tín dụng
thương mại?
5. Tín dụng ngân hàng là gì? Phân tích các đặc điểm của tín dụng
ngân hàng?
6. Tín dụng Nhà nước là gì? Phân tích các đặc điểm của tín dụng
Nhà nước?
7. Thuê tài chính là gì? Phân tích các đặc điểm của thuê tài chính?

193
Chương 7
CUNG - CÇU TIÒN TÖ Vµ L¹M PH¸T

Đối với bất kỳ nền kinh tế nào, việc điều tiết cung cầu tiền tệ và
kiểm soát lạm phát là vấn đề vô cùng quan trọng. Chương này giới thiệu
các vấn đề cơ bản về cung cầu tiền tệ và lạm phát, thiểu phát như là các
khái niệm, các lý thuyết, học thuyết về cung cầu tiền và nguyên nhân, tác
động của lạm phát, thiểu phát cũng như các biện pháp phòng chống,
kiểm soát lạm phát, thiểu phát. Qua chương học này, người học có thể
hiểu được mối quan hệ mật thiết giữa các khối tiền trong lưu thông,
cũng như hiểu được sự tác động của khối lượng tiền cung ứng cho lưu
thông, khối lượng tiền có mặt trong lưu thông và lạm phát, thiểu phát.
Từ đó, các giải pháp kiểm soát lạm phát, thiểu phát được xây dựng nhằm
rút bớt lượng tiền thừa trong lưu thông, cân đối với nhu cầu về tiền của
nền kinh tế.

7.1. CUNG - CÇU TIÒN TÖ


7.1.1. Các khối tiền trong lưu thông
7.1.1.1. Các loại tiền tệ trong nền kinh tế hiện đại
Ngày nay, cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của thị trường tài
chính, quan niệm về tiền tệ đã được mở rộng. Tiền tệ không chỉ là tiền
pháp định do NHTW phát hành mà ngay cả các tài khoản ký thác tại
ngân hàng, các chứng từ có giá có khả năng hoán chuyển trên thị trường
tài chính,… cũng được xem là tiền theo nghĩa rộng hơn. Nói cách khác,
các loại tiền trong nền kinh tế thị trường phát triển thường được xếp theo
trình tự căn cứ vào nhận dạng theo “tính lỏng trong giao dịch” - một
thuật ngữ được sử dụng khá thường xuyên ở hầu hết các sách nghiên cứu
về tiền. “Tính lỏng” biểu hiện cho khả năng dễ dàng chuyển sang tiền
mặt nhằm đáp ứng cho nhu cầu giao dịch. Theo đó, có thể thấy tiền pháp
định do nhà nước phát hành đạt “tính lỏng” cao nhất, sau đó mới đến các

194
loại tiền tài sản khác. Để cụ thể hơn, sau đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét
các loại tiền trong nền kinh tế hiện đại.
- Tiền có tính lỏng cao
Loại tiền này có tính lỏng cao nhất khi thực hiện các quan hệ trao
đổi và đây cũng là tính chất nổi bật so với các loại tiền tài sản khác. Vì
thế, tiền có tính lỏng cao được xếp vào khối tiền giao dịch trong các phép
đo tổng lượng tiền của NHTW các nước. Tiền có tính lỏng cao bao gồm:
* Tiền pháp định:
Bao gồm các loại tiền giấy, tiền kim loại do Nhà nước phát hành.
Tên gọi “tiền pháp định” đã cho thấy các loại tiền này được Nhà nước
thống nhất phát hành và cho phép lưu thông với mệnh giá được ghi trên
đồng tiền theo luật định. Đồng tiền pháp định thể hiện quyền lực của Nhà
nước trong quá trình điều tiết lưu thông tiền tệ qua hoạt động phát hành
cũng như thu hồi tiền từ lưu thông nhằm thực hiện những mục tiêu của
Chính phủ trong từng thời kỳ. Mặt khác, đồng tiền pháp định còn khẳng
định chủ quyền quốc gia, sự độc lập của hệ thống tiền tệ mỗi quốc gia đó
trên trường quốc tế. Do vậy, về hình thức, tiền pháp định luôn có dấu
quốc huy trên đồng tiền, đặc biệt đối với các loại tiền giấy, thường còn
phải có số sêri phát hành và chữ ký của một quan chức Chính phủ.
Trong lưu thông, tiền pháp định có thể được gọi bằng nhiều thuật
ngữ khác nhau như: tiền mặt, tiền NHTW, tiền của Nhà nước,… Mặc dù
là một loại tiền có tính thanh khoản cao đáp ứng ngay cho nhu cầu giao
dịch song việc nắm giữ tiền này có mức sinh lợi thấp nhất.
* Tiền gửi không kỳ hạn hay các khoản tiền gửi trên các tài khoản
thanh toán tại các ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
Là một loại tiền có tính lỏng thấp hơn so với tiền pháp định vì phải
thông qua một số thủ tục thanh toán theo quy định khi thực hiện giao
dịch. Tuy nhiên, trong điều kiện những dịch vụ thanh toán qua ngân hàng
trở nên tiện ích thì vấn đề thanh toán từ tiền gửi không kỳ hạn hay các tài
khoản thanh toán có thể phát hành séc,… sẽ góp phần giảm đáng kể
những chi phí không cần thiết trong thanh toán bằng tiền mặt. Ở Việt
Nam hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại còn thực hiện trả lãi

195
cho các khoản tiền gửi thanh toán nên so với tiền mặt, nó còn đáp ứng
phần nào mục tiêu sinh lời cho người sở hữu tiền. Điều đó giải thích tại
sao ở một số nước phát triển, bộ phận tiền này chiếm đến 75% tổng khối
tiền dùng cho giao dịch.
- Các loại tiền tài sản
Xét về thực chất, tiền tài sản không phải là tiền giao dịch vì người ta
không thể sử dụng nó như là một phương tiện trao đổi không hạn chế về
thời gian như tiền mặt cũng như không thể đáp ứng nhu cầu giao dịch
ngay lập tức như các loại tiền có tính lỏng cao nhưng chúng được xem
như là tiền vì người ta có thể dễ dàng chuyển đổi chúng ra thành tiền
thông qua hoạt động của thị trường tài chính. Mặt khác, với tên gọi “tiền
tài sản” cho thấy đây là loại tài sản được người sở hữu nắm giữ như là
một hình thức đầu tư sinh lợi song chúng lại có khả năng hoán chuyển
linh hoạt sang tiền trong thời gian ngắn. Từ đó, việc thừa nhận loại tiền
tài sản trong kết cấu khối tiền của NHTW các nước phụ thuộc rất nhiều
vào mức độ phát triển kinh tế thị trường của nước đó mà đặc biệt là thị
trường tài chính. Các loại tiền tài sản bao gồm:
* Các loại tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và tổ chức tại các ngân
hàng thương mại, các quỹ tín dụng: Loại tiền này đem lại mức sinh lợi
khá ổn định cho người sở hữu và được thực hiện với nguyên tắc thời hạn
càng dài thì lãi suất càng cao, bao gồm:
+ Tiền gửi tiết kiệm của công chúng tại các quỹ tiết kiệm, các
ngân hàng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân và doanh nghiệp tại các tổ chức
tín dụng.
Sự phân biệt này giúp cho NHTW sắp xếp vào các khối tiền tương
ứng để dễ theo dõi mức độ đầu tư và khả năng huy động nguồn tài chính
trong công chúng qua hệ thống ngân hàng.
* Các khoản tiền gửi ở thị trường tiền tệ.
Các nước có thị trường tiền tệ phát triển luôn có xu hướng huy động
rất đa dạng các nguồn tiền gửi với quy mô từ nhỏ đến lớn cũng như thời

196
gian huy động từ ngắn đến dài. Người sở hữu các khoản tiền gửi trên thị
trường tiền tệ có lợi thế vừa được hưởng lãi suất cao mà khi cần có thể
phát hành séc để thanh toán hoặc chuyển nhượng dễ dàng ngay trên thị
trường tiền tệ.
* Các chứng từ nợ ngắn hạn, trung hạn được mua bán trên thị trường
tiền tệ
Tín phiếu kho bạc, trái phiếu tiết kiệm do các ngân hàng, các cấp
chính quyền địa phương, công ty tài chính,… huy động, các hợp đồng
mua lại qua đêm, tiền gửi Euro-dollar qua đêm, tiền gửi Euro-dollar có
kỳ hạn…
* Các loại tiền tài sản khác:
Tùy theo khả năng thanh khoản nhanh hay chậm mà một số nước
công nghiệp phát triển còn xếp các chứng thư như: Trái phiếu kho bạc,
thương phiếu, hối phiếu thương mại đã được ngân hàng chấp nhận vào
loại tài sản có độ lỏng kém hơn các loại tiền đã nêu trên nên thường
được xếp vào khối tiền sau cùng trong phép đo tổng lượng tiền của NHTW
các nước.
7.1.1.2. Phép đo tổng lượng tiền trong nền kinh tế hiện đại
Trong phần trên chúng ta đã xem xét các loại tiền tệ trong nền kinh
tế hiện đại, từ đây, vấn đề đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách mà
cụ thể là NHTW mỗi nước-cơ quan chịu trách nhiệm chính trong xây
dựng và thực thi chính sách tiền tệ, là phải biết một cách chính xác các
thành phần của lượng tiền cung ứng vào lưu thông bao gồm các bộ phận
nào để có thể dự báo được những biến động kinh tế cũng như có những
biện pháp điều chỉnh hợp lý. Thông thường, NHTW các nước sẽ vừa áp
dụng phương pháp lý thuyết trên cơ sở vận dụng linh hoạt các học thuyết
kinh tế tiền tệ vừa áp dụng phương pháp kinh nghiệm trên cơ sở kiểm
nghiệm thực tiễn để xây dựng một phép đo tổng lượng tiền trong lưu
thông từ hẹp đến rộng một cách phù hợp nhất với diễn biến của môi
trường kinh tế nước mình. Trước khi tìm hiểu cụ thể về phép đo tổng
lượng tiền trong lưu thông và các thành phần của nó, cần phải biết khái

197
niệm “Khối lượng tiền tệ trong lưu thông”. Khối lượng tiền trong lưu
thông là khái niệm dùng để chỉ tất cả các phương tiện được chấp nhận
làm trung gian trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh
toán khác tại một thị trường cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định.
Để dẫn ra một mô hình của quá trình cung ứng tiền tệ, người ta phân
biệt các khối tiền trong lưu thông. Thành phần mức cung tiền tệ thay đổi
thường xuyên từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và khác nhau giữa
các nước. Thành phần mức cung tiền tệ hay phạm vi các phép đo khối
lượng tiền có thể được trình bày khái quát như sau:
- Khối tiền tệ M1 (Khối tiền tệ giao dịch): Đây là khối tiền tệ theo
nghĩa hẹp nhất về lượng tiền cung ứng, nó chỉ bao gồm những phương
tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng hoá, mà không phải qua
một bước chuyển đổi nào. Với khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng
bao gồm:
+ Tiền đang lưu hành: Gồm toàn bộ tiền mặt do ngân hàng trung
ương phát hành đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng. Xét về chủng
loại, tiền đang lưu hành bao gồm các loại tiền giấy, tiền xu,...
+ Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng thương mại: Là loại tiền gửi
mà chủ sở hữu của nó có thể rút ra hoặc phát hành séc để thanh toán tiền
mua hàng hoá hay dịch vụ vào bất kỳ lúc nào.
- Khối tiền tệ M2 (Khối tiền giao dịch mở rộng): Đây là phép đo
khối lượng tiền rộng hơn trong lưu thông. Khối tiền tệ này bao gồm:
+ Khối tiền tệ M1.
+ Tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng
thương mại.
- Khối tiền tệ M3: Khối tiền tệ này bao gồm:
+ Khối tiền tệ M2.
+ Các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác.
- Khối tiền tệ L: Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng
bao gồm:

198
+ Khối tiền tệ M3.
+ Các loại giấy tờ có giá trong thanh toán có tính lỏng cao, tức là dễ
chuyển thành tiền mặt, có thể kể đến như: Thương phiếu, tín phiếu, trái
phiếu, cổ phiếu,...
Trong các khối tiền kể trên, khối tiền tệ M1 là khối có tính lỏng cao
nhất. Khi khối tiền tệ được mở rộng theo các phép đo từ M1 đến L thì
tính lỏng của nó càng thấp.
7.1.2. Nhu cầu tiền trong nền kinh tế
Có thể hiểu cầu tiền tệ là số lượng tiền mà các chủ thể trong xã hội
cần sử dụng để thỏa mãn các nhu cầu của mình. Trong nền kinh tế tiền
tệ, có 2 nhu cầu sử dụng tiền chủ yếu chi phối đời sống kinh tế - xã hội là
nhu cầu tiền phục vụ đầu tư và nhu cầu tiền phục vụ tiêu dùng.
* Nhu cầu tiền phục vụ đầu tư:
Khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu tiền cho đầu tư của các
chủ thể càng đa dạng và phong phú. Xảy ra điều này do các DN muốn
mở rộng qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh, muốn sử dụng có hiệu
quả các nguồn vốn nhàn rỗi; các cá nhân muốn kiếm lợi nhuận từ đồng
tiền tiết kiệm của mình,...
Nhu cầu tiền cho đầu tư phụ thuộc vào các yếu tố quan trọng là mối
quan hệ giữa lãi suất tín dụng của ngân hàng với mức tỷ suất lợi nhuận
trên vốn và yếu tố thu nhập của các chủ thể. Mức lãi suất ngân hàng là
mức thu nhập mang tính bình quân của các phương án đầu tư trong nền
kinh tế. Nếu lãi suất ngân hàng lớn hơn tỷ suất lợi nhuận từ những hoạt
động đầu tư như sản xuất, kinh doanh dịch vụ hoặc đầu tư tài chính thì
nguồn tiền tiết kiệm sẽ chảy vào ngân hàng. Ngược lại, nếu lãi suất ngân
hàng nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận từ hoạt động đầu tư thì nhu cầu tiền cho
đầu tư sẽ tăng. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu đầu tư của nền kinh tế thì
phải có tích luỹ mà mức tích luỹ lại phụ thuộc vào nhân tố thu nhập. Nếu
thu nhập cao, tích luỹ sẽ càng lớn, khi đó nhu cầu tiền cho đầu tư sẽ tăng
lên trên nhiều lĩnh vực.

199
* Nhu cầu tiền phục vụ tiêu dùng:
Nhu cầu tiền trong nền kinh tế - xã hội cũng rất phong phú. Các DN,
cá nhân cần tiền để phục vụ cho các giao dịch của mình như mua sắm
hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ, nộp thuế hoặc dành một phần thu
nhập bằng tiền cho mục đích dự phòng rủi ro. Chính phủ cần tiền để tiêu
dùng, cung cấp các hàng hóa dịch vụ công.
Nhu cầu tiền cho tiêu dùng phụ thuộc vào mức thu nhập và giá cả
của các hàng hóa dịch vụ. Khi kinh tế tăng trưởng, thu nhập quốc dân
tăng lên thì mức cầu về tiêu dùng mới có cơ sở nâng cao và ngược lại.
Ngoài ra, sự biến động của giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến mức cầu tiêu dùng. Khi giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nền
kinh tế tăng lên sẽ khiến cho nhu cầu tiêu dùng của toàn nền kinh tế gia
tăng và ngược lại.
7.1.3. Cung tiền cho lưu thông
Cung tiền cho lưu thông là việc đưa vào lưu thông một khối lượng
tiền nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền của các chủ thể trong
nền kinh tế.
Các chủ thể cung ứng tiền trong nền kinh tế bao gồm:
- NHTW: Là cơ quan Nhà nước có chức năng quản lý Nhà nước đối
với hoạt động của tổ chức tín dụng và chỉ đạo thực thi chính sách tiền tệ.
Ở Mỹ, cơ quan đóng vai trò NHTW là Cục Dự trữ Liên bang, còn ở Việt
Nam là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. NHTW là cơ quan độc quyền
phát hành giấy bạc ngân hàng vào lưu thông. NHTW cung tiền thông qua
các nghiệp vụ tái chiết khấu các chứng từ có giá của các NHTM và các tổ
chức tín dụng khác. Các loại tiền NHTW cung ứng bao gồm các loại tiền
giấy, tiền xu, sec,… nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng thanh toán trong
nền kinh tế - xã hội.
- Các ngân hàng trung gian: Là các trung gian tài chính, họ nhận
tiền gửi từ các cá nhân và các tổ chức, đồng thời thực hiện cho vay. Các
ngân hàng trung gian chính là các NHTM, các công ty tiết kiệm và cho
vay, các ngân hàng tiết kiệm tương trợ và các liên hiệp tín dụng. Trên thị

200
trường tài chính, các ngân hàng trung gian có chức năng điều tiết lưu
thông tiền tệ giữa các chủ thể cung ứng vốn và chủ thể cầu vốn, đồng
thời cung ứng một số loại tiền vào lưu thông, đó là tiền ghi sổ được sử
dụng thông qua các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt (như
séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu…), các loại thẻ thanh toán và
các giấy tờ có giá như trái phiếu ngân hàng thương mại, kỳ phiếu, tín
phiếu ngân hàng…
- Các chủ thể khác: Ngoài các chủ thể đề cập ở trên, Nhà nước và
công ty cổ phần,... cũng có thể được coi là các chủ thể cung ứng tiền
trong nền kinh tế. Các chủ thể này cung ứng vào trong lưu thông các loại
chứng từ có tính thanh khoản cao như: cổ phiếu, trái phiếu, thương
phiếu,... làm cho thành phần của khối tiền thêm phong phú.
7.1.4. Một số lý thuyết về tiền tệ
7.1.4.1. Quy luật lưu thông tiền tệ của K. Mark
Theo quan điểm của K. Mark, khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu
thông sẽ bằng tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông chia cho tốc độ lưu
thông trung bình của tiền tệ.
Kc = H/V
Trong đó: Kc là khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
H là tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông
V là tốc độ lưu thông trung bình của tiền tệ.
K. Mark cho rằng:
- Khối lượng tiền tệ trong lưu thông phải bằng khối lượng tiền tệ cần
thiết cho lưu thông. Điều này giải thích cung tiền tệ đáp ứng cầu tiền tệ,
khi đó lạm phát sẽ không phát sinh.
- Nếu khối lượng tiền tệ trong lưu thông lớn hơn khối lượng tiền tệ
cần thiết cho lưu thông sẽ làm cho giá cả hàng hoá tăng lên, hay nói cách
khác là cung đã vượt quá cầu tiền tệ, nguy cơ lạm phát sẽ xuất hiện.
Trong tình huống này, biện pháp khắc phục là rút bớt lượng tiền thừa
trong lưu thông và gia tăng số sản phẩm để cân đối với lượng tiền trong
lưu thông.

201
- Nếu khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhỏ hơn khối lượng tiền tệ
cần thiết trong lưu thông sẽ làm cho giá cả hàng hoá có xu hướng giảm
xuống, thiểu phát sẽ xuất hiện. Trong trường hợp này, biện pháp khắc
phục là tăng khối lượng tiền trong lưu thông bằng các hình thức như kích
cầu, giảm thuế, tăng cường xuất khẩu,…
Tiền tệ tham gia vào lưu thông không chỉ với tư cách là phương tiện
lưu thông, mà còn cả với tư cách là phương tiện thanh toán. Do vậy, công
thức đầy đủ của qui luật có thể viết như sau:
Tổng giá cả Giá cả hàng Giá cả hàng hóa, Giá cả hàng hóa,
hàng hóa và - hóa, dịch vụ - dịch vụ bán chịu đến - dịch vụ thanh toán
Khối lượng dịch vụ bán chịu hạn thanh toán bù trừ
tiền cần thiết =
Tốc độ lưu thông bình quân của tiền trong kỳ
cho lưu thông

Trong đó:
Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ: Là một đại lượng chỉ rõ
trong một thời gian nhất định, một đơn vị tiền tệ trong lưu thông bình
quân thực hiện được bao nhiêu lần chức năng phương tiện lưu thông.
7.1.4.2. Lý thuyết về số lượng tiền tệ
* Thuyết của I. Fisher
Đầu thế kỷ 20, I. Fisher - nhà kinh tế học người Mỹ - đã đưa ra
phương trình trao đổi nổi tiếng:
M. V = P. Q
Trong đó:
M: Khối lượng tiền tệ trong lưu thông
V: Tốc độ lưu thông tiền tệ
P: Mức giá trung bình
Q: Tổng lượng hàng hoá và dịch vụ được trao đổi
Theo Fisher, M tỷ lệ thuận với P,Q (chủ yếu là P) và tỷ lệ nghịch với
V. Song các yếu tố V, Q tương đối cố định trong ngắn hạn do tính thiếu
co giãn của chúng. Bởi lẽ, trong thời gian ngắn các điều kiện sản xuất,
tiêu thụ, giao thông vận tải, tín dụng,… ít thay đổi do tập quán tiêu dùng,

202
thói quen chi trả, tần số chi trả chậm thay đổi. V, Q chỉ thay đổi trong dài
hạn. Tư tưởng chủ đạo của Fisher vẫn là M quyết định P. Từ công thức
trên ta có:
P = M.V/Q
Ở đây, P bị Q, V và M chi phối nhưng chủ yếu vẫn là M.
Trên quan điểm V là một hằng số, gọi K= 1/V là thời gian trung bình
mà người dân nắm giữ tiền mặt; P.Q: Thu nhập danh nghĩa. Từ công thức:
M= K. (P.Q)
Fisher đã đi đến kết luận:
Cầu về tiền tệ là một hàm số được xác định bởi:
- Mức thu nhập danh nghĩa (yếu tố này được biểu thị qua thành phần P.Q)
- Thói quen tiến hành các giao dịch của dân chúng và nguồn cung
ứng vào lưu thông tăng hay giảm là do chính sách phát hành của NHTM
(Yếu tố này biểu thị qua thành phần K)
* Thuyết của Milton Friedman
Theo Friedman, số cung tiền tệ hoặc được xác định bằng số lượng
tiền kim loại đưa vào lưu thông hoặc bởi số tiền do Nhà nước hay hệ
thống ngân hàng tạo ra. Nhu cầu tiền là hàm số với nhiều biến số trong
đó có thu nhập, giá cả, lãi suất, cơ cấu tài sản và sự ưu thích cá nhân,…
Luận điểm của Friedman được diễn tả bằng công thức sau:
Md = f(yn,i)
Trong đó: Md là số lượng tiền cần cung ứng cho lưu thông
yn là thu nhập danh nghĩa
i là lãi suất danh nghĩa.
Theo ông, cầu tiền tệ là nhân tố ngoại sinh nên từ công thức trên có
thể viết đơn giản là:
Md = f(yn)
Friedman cho rằng mức cầu tiền là một hàm số của thu nhập (thu
nhập thực tế, thu nhập từ chênh lệch giá, thu nhập từ đầu tư,…). Ông
cũng cho rằng mức cung tiền phụ thuộc nhiều vào quyết định chủ quan

203
của các cơ quan quản lý vĩ mô nên mang tính không ổn định. Theo ông,
việc tăng cung tiền một cách ổn định (3-4%/năm) sẽ làm cho GNP tăng
lên ổn định. Điều này cho phép hạn chế những biến động giá cả và đạt
được tốc độ tăng trưởng.
7.1.4.3. Thuyết ưa thích thanh khoản của J.M.Keynes
Keynes coi của cải dưới dạng tiền tệ là linh hoạt nhất, việc chuyển
tiền thành tư bản cho vay được ông gọi là “sở thích chi tiêu”. Khi cho
vay, người cho vay đã chấp nhận mạo hiểm nên lãi suất được gọi là phần
thưởng dành cho họ.
Lãi suất có chiều hướng biến động tỷ lệ nghịch với lượng tiền đưa
vào lưu thông nên theo ông, muốn giảm lãi suất để kích thích đầu tư thì
nhà nước nên phát hành thêm tiền vào lưu thông. Lãi suất cũng chịu ảnh
hưởng từ sự ưa thích tiền mặt mà sự ưa thích tiền mặt cũng được phát
sinh từ các yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng tiền mặt trong lưu thông.
Khi nhu cầu về tiền mặt để đáp ứng các giao dịch trong nền kinh tế tăng
lên thì khối lượng tiền nhàn rỗi để gửi tiết kiệm sẽ giảm xuống, từ đó làm
cho lãi suất tín dụng có xu hướng tăng lên. Cũng như vậy, khi nhu cầu dự
phòng bằng tiền mặt hoặc đầu cơ tiền mặt tăng lên trong nền kinh tế - xã
hội thì người dân có xu hướng giữ tiền mặt để đáp ứng các nhu cầu này
thay vì đem gửi tiết kiệm. Khi đó, do khan hiếm tiền, các ngân hàng có
xu hướng tăng lãi suất để huy động vốn. Như vậy, có ba yếu tố tác động
đến sự ưa thích tiền mặt trong xã hội, đó là động cơ giao dịch, động cơ
dự phòng và động cơ đầu cơ.
Trong ba động cơ trên, thị trường tài chính sẽ ảnh hưởng mạnh nhất
đến động cơ đầu cơ. Nếu gọi r là lãi suất, M là khối lượng tiền tệ và L là
hàm số ưa chuộng tiền mặt thì:
M = L(r)
Từ đó, ông đưa ra phương trình:
M = M1 + M2 = L1(R) + L2 (r)
Trong đó:
M là sự ưa thích tiền mặt
M1 là số tiền mặt dùng cho động cơ giao dịch và động cơ dự phòng.

204
M2 là số tiền mặt dùng cho động cơ đầu cơ.
L1(R) là hàm số tiền mặt xác định M1 tương ứng với lãi suất R.
L2(r) là hàm số tiền mặt xác định M2 tương ứng với lãi suất r.
Từ đó, Keynes đã kết luận: Sự ưa thích tiền mặt là hàm số của lãi
suất. Có thể thấy học thuyết lãi suất là một bộ phận cấu thành quan trọng
trong tư tưởng của Keynes. Theo ông, Nhà nước có thể dùng chính sách
điều chỉnh lãi suất như một chính sách vĩ mô không chỉ ảnh hưởng đến
mức cầu tiền tệ mà còn tác động vào nền kinh tế.
Những học thuyết trên cho thấy ý nghĩa của việc nghiên cứu cung
cầu tiền tệ trong điều hành chính sách tiền tệ như sau: Cung cầu tiền tệ là
một trong những quan hệ cân đối lớn của chính sách quản lý kinh tế vĩ
mô thông qua chính sách tiền tệ. Nếu cầu tiền bị chi phối bởi những quy
luật kinh tế khách quan thì cung tiền lại phụ thuộc nhiều vào ý thức chủ
quan của các cơ quan quản lý vĩ mô. Việc nghiên cứu cung cầu tiền tệ sẽ
giúp Nhà nước có chính sách, biện pháp điều tiết cung cầu tiền tệ cho
phù hợp với từng giai đoạn nhất định của nền kinh tế.

7.2. L¹M PH¸T


7.2.1. Khái niệm và các mức độ lạm phát
7.2.1.1. Khái niệm
Cho đến nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát. Xét
trên góc độ dấu hiệu biểu hiện và nguyên nhân chính của lạm phát, người
ta thường đề cập đến các quan điểm thông dụng về lạm phát như sau:
- Quan điểm đồng nhất giữa lạm phát và sự tăng giá - gọi là lạm phát
giá cả. Theo quan điểm này thì lạm phát là sự tăng giá nói chung của
hàng hoá. Khi đó, giá cả của hàng hoá không phản ánh đúng giá trị của
chúng (giá cả cao hơn giá trị thực của hàng hoá), điều đó có nghĩa sức
mua của đồng tiền bị giảm sút.
- Lạm phát lưu thông tiền tệ: Đây là quan điểm cho rằng lạm phát là
kết quả của việc gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông với một tỷ lệ
cao, ngược lại lạm phát cao kéo theo một sự tăng trưởng tiền tệ cao.

205
- Lạm phát nhu cầu: Là lạm phát do cầu quá mức - gọi là lạm phát
cầu kéo. Lạm phát này xảy ra khi các hiện tượng của nền kinh tế làm
tăng tổng cầu tiền, dẫn dến tăng tổng cung tiền, trong điều kiện tăng
trưởng kinh tế không tương xứng đã dẫn đến lạm phát. Lạm phát nhu
cầu có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là tăng cầu
tiền do thâm hụt ngân sách hay tăng cầu tiền bắt nguồn từ nhu cầu về
hàng hóa.
Khi các nhà hoạch định chính sách theo đuổi mục tiêu duy trì một tỷ
lệ thất nghiệp thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thì họ sẽ phải hoạch
định các chính sách để tăng tổng cầu (để đạt được một chỉ tiêu sản phẩm
YT lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm YN). Tác động đó đã làm
cho đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2, điểm cân bằng của
nền kinh tế dịch chuyển từ điểm 1 đến 1’. Tuy nhiên, tại điểm này, tỷ lệ
thất nghiệp là dưới mức tự nhiên nên lương sẽ tăng lên và đường tổng
cung sẽ dịch chuyển từ AS1 đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1 đến điểm
2. Nền kinh tế lui về tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở mức giá P2 cao
hơn. Nhưng đến đây tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn chỉ tiêu dự định nên các
nhà hoạch định chính sách lại sẽ di chuyển đường tổng cầu đến AD3 để
đạt được chỉ tiêu sản phẩm ở điểm 2 và quá trình sẽ tiếp tục đẩy nền kinh
tế đến điểm 3 và xa hơn nữa.

LRAS
AS4 AS3 AS2 AS1

P4 4
3’
P3 3
2’
P2 2
1’
P1 1 AD4
AD3
AD2
0 AD1
YN YT Y

206
- Lạm phát chi phí: Là lạm phát do chi phí tăng trong khi khối lượng
sản xuất không tăng hoặc tăng ít - gọi là lạm phát chi phí đẩy. Chi phí sản
xuất tăng lên khiến cho mức cung tiền vượt quá nhu cầu, đã dẫn đến lạm
phát. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát phí đẩy, như là: Tăng lương
vượt quá mức tăng năng suất lao động xã hội; đầu tư cơ bản sử dụng vốn
từ NSNN và vốn tín dụng kém hiệu quả; nguyên liệu đầu vào của một số
sản phẩm thiết yếu tăng lên; sự lãng phí quá mức trong tiêu dùng xã hội;
nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu các chứng từ có giá bị lạm dụng;…
Giả sử công nhân đòi tăng lương làm cho đường tổng cung di
chuyển từ AS1 đến AS2. Nếu chính sách tiền tệ của Chính phủ vẫn không
thay đổi thì điểm cân bằng của nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm 1 tới điểm
1’. Sản phẩm sẽ giảm xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên của nó (YN  Y’)
và giá cả sẽ tăng đến P1’.
Do sản phẩm giảm và tỷ lệ thất nghiệp tăng nên các nhà hoạch định
chính sách sẽ thực hiện chính sách làm tăng tổng cầu lên đến AD2 để
quay lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm, khi đó mức giá cả là P2.
Khi chính sách này được thực hiện, tiền lương của công nhân sẽ
được tăng lên. Kết quả là đường tổng cung sẽ di chuyển đến AS3, thất
nghiệp lại phát triển và lại có các chính sách tác động để di chuyển
đường tổng cầu đến AD3, đẩy mức giá cả lên P3. Nếu quá trình này tiếp
tục thì kết quả là việc tăng liên tục của mức giá cả, tức là một tình trạng
lạm phát chi phí đẩy.

P LRAS

AS4 AS3 AS2 AS1

P4 4
P3 3’
3
P2 2’
2
P1’ 1’
P1 1 AD4
AD3
AD2
0 AD1
Y’ YN Y

207
Tóm lại, có thể hiểu lạm phát là hiện tượng phát hành tiền vào lưu
thông quá lớn, vượt quá số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, làm cho
sức mua của đồng tiền giảm sút không phù hợp với giá trị danh nghĩa mà
nó đại diện.
7.2.1.2. Các mức độ lạm phát
Có 3 mức độ lạm phát:
- Lạm phát vừa phải: Đây là lạm phát mà tỷ lệ tăng giá của hàng hoá
trong khoảng dưới 10%/năm, còn gọi là lạm phát 1 con số. Trong điều
kiện lạm phát vừa phải xảy ra, giá cả hàng hóa tăng nhẹ nên giá trị tiền tệ
tương đối ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho các chủ thể kinh tế và
toàn bộ nền kinh tế phát triển. Tác hại của lạm phát vừa phải là không
đáng kể, thậm chí lạm phát loại này còn có tác dụng tích cực đối với sự
phát triển cho nền kinh tế - xã hội. Chính vì thế, khi xây dựng chiến lược
quản lý và phát triển nền kinh tế vĩ mô, các nhà hoạch định chính sách
thường định hướng chỉ số lạm phát nằm trong giới hạn một con số.
- Lạm phát phi mã: Là lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hoá bắt đầu
tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số (tối đa là 200%). Trong điều kiện lạm
phát phi mã, nền sản xuất sẽ không phát triển và hệ thống tài chính quốc
gia đó sẽ bị phá hoại nghiêm trọng. Các quốc gia Mỹ La tinh đã hứng
chịu mức lạm phát từ 20% đến 200% trong suốt thời kỳ từ 1980 đến
1999. Việt Nam những năm 1976 đến 1994 cũng trải qua thời kỳ lạm
phát cao, hầu hết chỉ số lạm phát các năm đều là 2 con số.
- Siêu lạm phát: Là loại lạm phát mà giá cả hàng hoá tăng với tỷ lệ
trên 200%. Siêu lạm phát phá hủy toàn bộ nền kinh tế và luôn đi kèm với
hiện tượng suy thoái nền kinh tế nghiêm trọng. Điển hình ví dụ về hiện
tượng lạm phát này là lạm phát ở Đức những năm 1922-1924; lạm phát ở
Nga sau Cách mạng tháng 10; lạm phát ở Mỹ thời kỳ nội chiến hay ở
Zinbabwe với tốc độ lạm phát tại thời điểm tháng 7/2008 là 2.200.000%.
Việt Nam cũng đã trải qua siêu lạm phát trong những năm 1986-1987-
1988 với mức độ lạm phát đỉnh điểm vào năm 1987 là 776%.

208
7.2.2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng lạm phát trong
nền kinh tế
Khi xem xét nguyên nhân dẫn đến lạm phát, người ta thường chia
thành các nhóm nguyên nhân như sau:
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến các chính sách của Nhà nước:
Lạm phát do nguyên nhân này thường xảy ra khi có những thay đổi về
chính sách tài chính - tiền tệ của Chính phủ như chính sách thu chi
NSNN, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả, chính sách tỷ giá,… làm cho
khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế biến động hay làm cho giá ngoại tệ
tăng lên. Nhìn chung, Chính phủ chỉ ra những quyết định thay đổi các
chính sách trên nhằm mục đích điều tiết vĩ mô theo hướng có lợi cho nền
kinh tế, nhưng đôi khi do không lường trước được những biến động thực
tế nên đã gây ra tình trạng lạm phát. Chẳng hạn, trong một số trường hợp
do sự thay đổi chính sách thu chi NSNN của Chính phủ đã dẫn đến tình
trạng bội chi ngân sách và buộc phải phát hành tiền để bù đắp. Do phát
hành vượt quá lượng tiền cần thiết nên lạm phát đã xảy ra; hoặc những
thay đổi trong chính sách tiền tệ tín dụng: Ngân hàng trung ương ra quyết
định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm gia tăng khối lượng tiền cung ứng
cho nền kinh tế, nếu lượng tiền gia tăng này quá lớn, vượt quá nhu cầu
của nền kinh tế sẽ dẫn đến lạm phát xảy ra.
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến các chủ thể kinh doanh: Trong
thực tế, do quản lý điều hành kinh doanh yếu kém, các cơ sở kinh doanh
có thể làm tăng giá cả các yếu tố đầu vào. Khi giá cả của các yếu tố đầu
vào của quá trình sản xuất tăng lên, đặc biệt là giá các nguyên nhiên vật
liệu cơ bản của nền sản xuất (xăng, dầu, sắt, thép, xi-măng,...) gia tăng sẽ
đội giá thành sản phẩm và làm cho giá bán sản phẩm tăng lên. Khi giá
bán của các các sản phẩm thiết yếu tăng lên, sẽ gây ra hiệu ứng tăng giá
dây chuyền trên diện rộng. Lúc này, nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm
phát. Trong trường hợp này, khi giá cả của hàng hóa tăng lên trên diện
rộng sẽ có tác động ngược trở lại đối với giá cả các yếu tố đầu vào. Quá
trình này cứ tiếp diễn sẽ gây ra vòng xoáy lạm phát. Lạm phát ở mức độ
cao đều ẩn chứa các nguyên nhân này.

209
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến điều kiện tự nhiên: Khi xảy ra
những rủi ro như dịch bệnh, hạn hán, lũ lụt, động đất, núi lửa,... trên diện
rộng thường để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế - xã hội và
để khắc phục đòi hỏi Nhà nước cần chi một lượng tiền không nhỏ vào
lưu thông. Bên cạnh đó, tình trạng khan hiếm hàng hóa cục bộ và nhất
thời cũng là một hiện tượng tất yếu của hậu thiên tai, dịch bệnh. Lúc này,
nếu Chính phủ không có những kế sách khắc phục những rủi ro này một
cách phù hợp thì chính những hiện tượng này đã đẩy khu vực đó và nền
kinh tế rơi vào lạm phát. Tuy nhiên, lạm phát bắt nguồn từ nguyên nhân
này hầu như chỉ xảy ra ở những nền kinh tế yếu kém.
Ngoài những nhóm nguyên nhân trên, lạm phát còn có thể xảy ra bởi
một số nguyên nhân khác như là: Xảy ra chiến tranh, bất ổn chính trị, xảy
ra khủng hoảng tài chính tiền tệ,…
Thông thường, một nền kinh tế xảy ra lạm phát không thể chỉ bắt
nguồn bởi một hoặc một nhóm nguyên nhân, mà sẽ là kết quả của tổng
hợp tác động của nhiều nguyên nhân nêu trên.
7.2.3. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế - xã hội
Lạm phát là một hiện tượng rất phổ biến của nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường. Tùy thuộc vào mức độ của lạm phát mà nó có
những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Nếu lạm phát ở mức độ vừa phải thì nó sẽ có tác dụng kích thích
nền kinh tế - xã hội phát triển. Thậm chí nhiều nước còn coi đây là như là
một chính sách của Nhà nước để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thông
thường, khi Chính phủ tăng cung tiền tệ ở mức hợp lý thì sẽ có tác dụng
kích thích sản xuất trong nước phát triển, giảm tình trạng thất nghiệp,….
Tuy nhiên, khi đó, giá cả có xu hướng tăng và giá trị của đồng nội tệ bị
mất giá nhẹ so với đồng ngoại tệ. Song, điều này sẽ kích thích hoạt động
xuất khẩu, hạn chế hoạt động nhập khẩu,....
- Nếu lạm phát ở mức độ cao và quá cao (lạm phát phi mã và
siêu lạm phát) thì lại có ảnh hưởng xấu đến các lĩnh vực của nền kinh
tế, cụ thể:

210
+ Đối với lĩnh vực sản xuất, lạm phát làm cho giá cả vật tư, nguyên
liệu, hàng hoá tăng nhanh, từ đó dẫn đến lợi nhuận ngày càng giảm sút,
doanh thu của ngày hôm nay chưa chắc đã bù đắp được chi phí kinh
doanh của ngày hôm sau, qui mô sản xuất ngày càng bị thu hẹp, gia tăng
tình trạng phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành sản xuất.
Tình trạng này kéo dài sẽ khiến các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn ra
khỏi quá trình sản xuất kinh doanh, chuyển hướng vào những hàng hóa
an toàn, giữ được giá trị (vàng, ngoại tệ,…) nhằm bảo toàn vốn.
+ Đối với lĩnh vực lưu thông hàng hoá: Lạm phát làm rối loạn quá
trình lưu thông hàng hoá, kích thích tâm lí đầu cơ tích trữ hàng hoá, tạo
nên nhu cầu giả tạo, làm cho sự mất cân đối giữa cung và cầu ngày càng
gia tăng. Trong bối cảnh sản xuất ngày càng thu hẹp, nhu cầu đầu cơ tăng
lên, điều này càng khiến cho giá cả hàng hóa ngày càng leo thang, tức là
lạm phát ngày càng tăng mạnh.
+ Đối với lĩnh vực tiền tệ tín dụng: Lạm phát phá vỡ các chức năng
của tiền tệ, làm cho sức mua của đồng tiền giảm sút một cách nhanh
chóng, dân chúng mất lòng tin vào đồng tiền mất giá, không muốn nắm
giữ đồng tiền đó nữa. Chính vì thế, việc dân chúng từ chối gửi nội tệ vào
ngân hàng thương mại là tất yếu. Khi xảy ra lạm phát cao, dân chúng có
xu hướng rút tiền gửi tiết kiệm để chuyển sang những hàng hóa, tài sản
an toàn giữ được giá trị như vàng, ngoại tệ,… Điều này làm hoạt động
của hệ thống các tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm
ảnh hưởng lớn đến vai trò điều hoà lưu thông tiền tệ của ngân hàng.
+ Đối với lĩnh vực tài chính Nhà nước: Lạm phát làm cho nguồn thu
NSNN ngày càng bị thu hẹp, giảm sút cả về số lượng lẫn giá trị thực tế,
trong khi chi tiêu Chính phủ ngày càng gia tăng về mặt giá trị thực tế,
điều này dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách ngày càng tăng.
+ Đối với tiêu dùng và đời sống của người lao động: Lạm phát làm
cho tiêu dùng thực tế giảm, đời sống dân cư trở nên khó khăn do tiền
lương danh nghĩa không đủ bù đắp cho nhu cầu tiêu dùng cần thiết, đồng
thời tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng.
Tóm lại, hậu quả của lạm phát cao là rất nặng nề và nghiêm trọng,
ảnh hưởng đến mọi mặt kinh tế - xã hội của đất nước.

211
7.2.4. Các biện pháp kiểm soát lạm phát
7.2.4.1. Giải pháp tình thế
Đây được coi là những giải pháp được áp dụng với mục đích giảm
tức thời "cơn sốt" lạm phát để có cơ sở áp dụng các giải pháp chiến lược
lâu dài.
- Biện pháp về tiền tệ - tín dụng: Mục đích của biện pháp này là
giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông và kiểm soát được quá trình lưu
thông tiền tệ. Vì thế, NHTW và các ngân hàng thương mại cần thực hiện
các biện pháp cụ thể sau:
+ Thắt chặt cung ứng tiền, thực hiện chính sách đóng băng tiền tệ.
Trong thời kỳ lạm phát cao xảy ra, NHTW không được phép phát hành
thêm tiền vào lưu thông dưới bất kì hình thức nào, thậm chí ngay cả đối
với những khoản tiền nhằm thực hiện các chương trình, chính sách chưa
thực sự cấp thiết của Chính phủ cũng có thể bị hoãn lại nhằm hạn chế tối
đa hiện tượng tăng tiền trong lưu thông.
+ Quản lí và hạn chế tối đa khả năng "tạo tiền" của NHTM bằng
cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng, xây dựng hạn mức tín
dụng tối đa đối với các ngân hàng thương mại… nhằm hạn chế việc các
ngân hàng thương mại cho các cá nhân và các tổ chức vay vốn không
cần thiết.
+ Nâng cao lãi suất tín dụng: NHTW có thể sử dụng lãi suất cơ bản
hoặc khung lãi suất để can thiệp vào biểu lãi suất huy động và cho vay
của các ngân hàng thương mại. Theo đó, mức lãi suất tín dụng chung trên
thị trường được điều tiết tăng lên, một mặt để hạn chế các chủ thể vay
vốn từ các tổ chức tín dụng một cách không cần thiết, mặt khác, để thu
hút dân chúng gửi tiền tiết kiệm hưởng lãi cao nhằm hút bớt lượng tiền
có xu hướng nhàn rỗi, dư thừa trong lưu thông. Để biện pháp này thật sự
có hiệu quả thì mức lãi suất phải đủ "hấp dẫn" và biến động theo tỷ lệ
lạm phát, đảm bảo lãi suất thực phải lớn hơn 0.
+ Các NHTM phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhàn rỗi
trong công chúng: Bên cạnh các hình thức nhận tiền gửi thông thường,

212
cần phát triển các hình thức hấp dẫn như là gửi tiền có thưởng, gửi tiền
nhận lãi trước, tiền gửi lãi suất bậc thang,.. hay phát hành các loại trái
phiếu, tín phiếu ngân hàng có lãi suất cao,… nhằm thu hút dân chúng gửi
tiền hoặc mua trái phiếu…
- Biện pháp về điều hành ngân sách: Mục đích là làm giảm bớt tình
trạng mất cân đối trong thu chi NS tiến tới cân bằng ngân sách.
+ Tiết kiệm chi NS bằng cách cắt giảm các khoản chi không tác
động một cách trực tiếp đến sự phát triển có hiệu quả của nền kinh tế:
Chi cho bộ máy quản lí hành chính, chi phúc lợi xã hội,…
+ Tăng cường và nâng cao hiệu quả thu của NSNN bằng cách: Cải
cách chính sách thuế theo hướng mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu
(chống thất thu thuế, thu đúng, thu đủ, công bằng để không gây ảnh
hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống).
+ Thực hiện chính sách thu bù đắp thiếu hụt ngân sách: Vay trong và
ngoài nước, kêu gọi viện trợ,…
- Các biện pháp khác:
+ Kiểm soát giá cả và có biện pháp điều tiết giá cả thị trường đối với
một số mặt hàng thiết yếu của sản xuất và đời sống, như: Trợ giá, qui
định mức giá trần, điều tiết thông qua quĩ dự trữ quốc gia,..
+ Khuyến khích tự do mậu dịch, nới lỏng thuế quan nhằm mục đích
tăng quĩ hàng hoá tiêu dùng, giảm bớt sự mất cân đối giữa tiền và hàng
trong lưu thông.
+ Ổn định giá vàng và ngoại tệ nhằm tạo tâm lí ổn định giá cả các
mặt hàng khác trong thị trường, như: tung quĩ dự trữ ngoại hối ra để điều
tiết thị trường, kiểm soát chặt chẽ ngoại hối,...
7.2.4.2. Giải pháp ổn định tiền tệ chiến lược
Đây là biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân.
- Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển sản xuất và lưu thông hàng
hoá của nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ nguyên lí "lưu thông hàng

213
hoá là tiền đề của lưu thông tiền tệ", nên nếu quĩ hàng hoá được tạo ra
với số lượng lớn, phong phú về chủng loại, giá cả ổn định,… sẽ là tiền đề
vững chắc để ổn định lưu thông tiền tệ.
- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế phát triển ngành hàng hoá "mũi nhọn"
cho xuất khẩu. Mục đích của giải pháp này là vừa đáp ứng các nhu cầu
cơ bản đời sống và việc làm của nhân dân lao động, vừa tạo nguồn thu
ngoại tệ cho quốc gia, vừa tác động đến các hoạt động của các ngành
kinh tế khác. Do đó, đây là cơ sở quan trọng để ổn định lưu thông tiền tệ
trong nước.
- Nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lí Nhà nước: Vai trò của Nhà
nước đối với quản lí kinh tế vĩ mô là rất to lớn. Nhà nước là chủ thể duy
nhất đảm bảo tính công bằng và ổn định trong kinh tế, đồng thời Nhà
nước có thể tác động để thúc đẩy hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. Để
đảm bảo thực hiện vai trò này, cần phải tinh giản biên chế, kiện toàn bộ
máy hành chính,… từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản chi
NSNN, ổn định ngân sách vững chắc và ổn định tiền tệ và góp phần ổn
định lạm phát.

7.3. THIÓU PH¸T


7.3.1. Khái niệm
Thiểu phát là hiện tượng kinh tế tiền tệ xuất hiện khi lượng cung
hàng hóa dịch vụ lớn hơn nhu cầu của nền kinh tế làm cho giá cả của các
hàng hóa, dịch vụ giảm xuống.
7.3.2. Nguyên nhân của thiểu phát
Hiện tượng thiểu phát có thể xuất phát từ các nguyên nhân cơ bản
sau đây:
- Sự tăng nhanh của tổng cung hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế.
Điều này có thể do:
+ Sự tiến bộ của KH công nghệ trong lĩnh vực sản xuất khiến hàng
hóa sản xuất ra ngày càng nhiều.
+ Sản lượng sản xuất gia tăng nhanh hơn so với khả năng tiêu thụ
của nền kinh tế.

214
+ Hàng hóa nhập khẩu với giá rẻ gia tăng.
+ Giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới giảm, từ đó làm khả năng
xuất khẩu giảm dẫn đến hàng hóa trong nước dư thừa.
- Sự suy giảm của tổng cầu trong nền kinh tế có thể do:
+ Tổng mức vốn đầu tư của XH giảm dẫn đến cầu đầu tư giảm
+ Tiền lương và thu nhập của người lao động giảm nên người tiêu
dùng cắt giảm chi tiêu.
+ Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ dẫn đến giá cả hàng
hóa trên thị trường thế giới giảm. Từ đó, làm cho xuất khẩu giảm và hậu
quả là thu nhập của người lao động và Nhà nước giảm.
+ Chính phủ thắt chặt chi tiêu làm cho tổng cầu xã hội giảm.
7.3.3. Ảnh hưởng của thiểu phát đến nền kinh tế - xã hội
Mặc dù là một hiện tượng không phổ biến như lạm phát trong nền
kinh tế, nhưng khi thiểu phát xảy ra, cũng gây ra những ảnh hưởng
nhất định.
+ Đối với lĩnh vực sản xuất, thiểu phát làm cho giá cả hàng hoá dịch
vụ giảm, dẫn đến lợi nhuận ngày càng giảm sút. Hàng hóa dịch vụ trở
nên khó tiêu thụ hơn, từ đó làm cho qui mô sản xuất ngày càng bị thu
hẹp, gia tăng tình trạng phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành
sản xuất.
+ Đối với lĩnh vực lưu thông hàng hoá, thiểu phát làm hiện tượng
hàng hóa bị ế thừa tồn đọng ngày càng tăng lên, do lượng cung hàng quá
lớn trong khi tổng cầu của xã hội giảm làm cho sự mất cân đối giữa cung
và cầu ngày càng gia tăng.
+ Đối với lĩnh vực tiền tệ tín dụng, thiểu phát rối loạn quá trình lưu
thông tiền tệ, hoạt động của hệ thống tín dụng ngân hàng rơi vào tình
trạng khủng hoảng do nhu cầu vay vốn của toàn nền kinh tế giảm, ảnh
hưởng lớn đến vai trò điều hoà lưu thông tiền tệ của ngân hàng.
+ Đối với lĩnh vực tài chính Nhà nước, thiểu phát làm cho nguồn thu
NSNN ngày càng bị thu hẹp do các nguồn thu từ thuế xuất khẩu, thuế thu

215
nhập của các DN,... giảm. Từ đó đã làm cho tình trạng bội chi NS ngày
càng tăng.
+ Đối với tiêu dùng và đời sống của người lao động, tình trạng thất
nghiệp ngày càng gia tăng do các DN phải thu hẹp sản xuất, cắt giảm
nhân công…., thu nhập cá nhân xem xét trên bình diện toàn bộ nền kinh
tế bị giảm sút, dẫn đến chi tiêu thực tế giảm sút, đời sống dân cư khó
khăn hơn.
Tóm lại, cũng giống như lạm phát ở mức độ cao, hậu quả của thiểu
phát đối với nền kinh tế - xã hội là rất nặng nề và nghiêm trọng, đặc biệt,
nếu để tình trạng thiểu phát kéo dài, thì ngay sau đó tất yếu sẽ xảy ra hiện
tượng lạm phát ở mức độ cao. Chính vì vậy, Chính phủ các quốc gia cần
phải có các giải pháp phòng chống thiểu phát nhằm ổn định nền kinh tế -
xã hội.
7.3.4. Các biện pháp ổn định tiền tệ trong điều kiện thiểu phát
Thiểu phát là một hiện tượng bất ổn của nền kinh tế, tuy không phổ
biến như lạm phát nhưng tác hại của thiểu phát nếu để lâu dài cũng
nghiêm trọng không kém gì lạm phát ở mức độ cao. Vì vậy, khi đối mặt
với thiểu phát, Chính phủ các nước cần xây dựng hệ thống các giải pháp
hợp lý để ổn định tiền tệ và lấy lại giá trị cho đồng nội tệ một cách nhanh
chóng nhất nhằm hồi phục nền kinh tế.
7.3.4.1. Các giải pháp tình thế
Nhóm giải pháp tình thế bao gồm các chính sách mang tính cấp bách
nhằm đem lại hiệu ứng tức thì đối với nền kinh tế trong cơn thiểu phát.
Nhìn chung, những chính sách này đều hướng tới một mục tiêu chung
nhất, đó là gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, đáp ứng nhu cầu
thanh toán của nền kinh tế và từ đó, thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng trong
toàn xã hội.
* Chính sách tài khóa: Nội dung của chính sách này là tăng chi tiêu
của NSNN thông qua các khoản chi đầu tư phát triển, chi giải quyết công
ăn việc làm, chi phúc lợi XH,… nhằm bơm thêm tiền vào nền kinh tế qua
lĩnh vực chi tiêu công; thực thi chính sách giảm thuế, đặc biệt là thuế trực
thu nhằm gia tăng khả năng thanh toán cho các chủ thể trong nền kinh tế.

216
* Chính sách tiền tệ: NHTW điều tiết giảm lãi suất tín dụng trên thị
trường, gia tăng hạn mức tín dụng cho người vay, nới lỏng chính sách
tiền tệ nhằm kích cầu tín dụng. Một mặt, hạn chế bớt lượng dân cư gửi
tiền tiết kiệm ở các tổ chức tín dụng bởi lãi suất tiền gửi thấp, mặt khác,
kích thích các chủ thể khác vay tiền từ tổ chức tín dụng bởi được hưởng
lãi suất vay thấp. Qua đó, khối lượng tiền phục vụ nhu cầu tiêu dùng
trong nền kinh tế sẽ tăng lên.
* Chính sách thu nhập: Tăng tiền lương cho người lao động, tăng
các khoản phúc lợi XH… nhằm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, đáp
ứng nhu cầu thanh toán trong tiêu dùng, mua sắm hàng hóa dịch vụ của
người dân.
* Các giải pháp khác:
+ Nhà nước có chính sách hỗ trợ DN trong việc tiêu thụ sản phẩm
trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
+ Hạn chế nhập khẩu (bảo hộ hàng hóa nội địa, chống buôn lậu,…),
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu (điều chỉnh tăng tỷ giá hối đoái, giảm
thuế và trợ cấp để kích thích xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu,…)
7.3.4.2. Giải pháp chiến lược
Giải pháp chiến lược nhằm đem lại hiệu quả lâu dài đối với nền kinh
tế. Nhóm giải pháp này được áp dụng ngay cả trong điều kiện nền kinh tế
không rơi vào tình trạng thiểu phát.
+ Nhà nước điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư và cơ cấu
xuất nhập khẩu để đảm bảo sự phát triển cân đối, ổn định và bền vững
của nền sản xuất, tránh tình trạng dư thừa sản lượng tiêu thụ ở một số
mặt hàng trong dài hạn, dẫn đến tác động dây chuyền (hiệu ứng đô-mi-
nô) tới hàng loạt các hàng hóa khác và là nguyên nhân gây ra thiểu phát.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước,
thường xuyên theo dõi các biến động của nền kinh tế, để từ đó có thể đưa
ra các giải pháp điều chỉnh kịp thời, ngăn chặn có hiệu quả các hiện
tượng tiêu cực của nền kinh tế ngay từ khi mới xuất hiện mầm mống.

217
C¢U HáI ¤N TËP CH¦¥NG 7

1. Trình bày nội dung của các khối tiền trong lưu thông?
2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu tiền của các chủ thể
trong nền kinh tế?
3. Lạm phát là gì? Phân tích các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lạm
phát trong nền kinh tế?
4. Phân tích ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế - xã hội?
5. Trình bày các giải pháp kiểm soát và kiềm chế lạm phát?
6. Thiểu phát là gì? Phân tích các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng
thiểu phát trong nền KT ?
7. Phân tích ảnh hưởng của thiểu phát đến nền kinh tế - xã hội?
8. Trình bày các giải pháp ổn định tiền tệ trong điều kiện nền kinh tế
bị thiểu phát?

218
Chương 8
C¸C Tæ CHøC TµI CHÝNH TRUNG GIAN

Sự hình thành và phát triển các tổ chức tài chính trung gian bắt
nguồn từ nhu cầu giao lưu vốn trong nền kinh tế. Các tổ chức tài chính
trung gian được xem là cầu nối giữa các chủ thể tạm thời thừa vốn và các
chủ thể tạm thời thiếu vốn. Mục đích của chương này là cung cấp cho
người đọc những kiến thức cơ bản về các tổ chức tài chính trung gian.
Nội dung của chương đề cập đến những vấn đề cơ bản như khái niệm,
đặc điểm, chức năng và vai trò của các tổ chức tài chính trung gian; Trên
cơ sở đó, phần tiếp theo của chương đi vào nghiên cứu đặc điểm và hoạt
động cơ bản của các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt là các tổ chức
tài chính phi ngân hàng.

8.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ Tæ CHøC TµI CHÝNH


TRUNG GIAN
8.1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tổ chức tài chính trung gian
a. Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường, khi mà số lượng và mức độ tiết kiệm
của các chủ thể ngày càng gia tăng, đồng thời quy mô sản xuất không
ngừng mở rộng vượt quá khả năng tài trợ bằng vốn tự có đã dẫn đến một
nhu cầu khách quan là phải có sự ra đời và phát triển các hình thức điều
tiết vốn giữa các chủ thể với nhau. Quá trình điều tiết vốn từ chủ thể có
vốn sang chủ thể cần vốn có thể được thực hiện thông qua hai hình thức
cơ bản:
- Điều tiết vốn gián tiếp: Vốn được chuyển từ chủ thể dư thừa vốn
sang chủ thể thiếu vốn thông qua các trung gian tài chính (Ngân hàng,
các công ty tài chính,...)
- Điều tiết vốn trực tiếp: Vốn được chuyển từ chủ thể dư thừa vốn
sang chủ thể thiếu vốn không phải thông qua các trung gian tài chính mà

219
được thực hiện trực tiếp trên thị trường tài chính thông qua việc phát
hành, mua bán các loại chứng khoán trên thị trường sơ cấp.
Sự phát triển của các hoạt động kinh tế đã làm gia tăng khả năng
tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn. Khi đó, việc mua bán
chuyển nhượng quyền sở hữu và quyền sử dụng về tài sản, tiền vốn đã
đòi hỏi cần phải có các tổ chức tài chính trung gian.
Thuật ngữ tổ chức tài chính trung gian (còn có thể gọi là tổ chức
tài chính trung gian) được sử dụng trong chương này được hiểu theo
hai góc độ:
- Tổ chức được thành lập vì mục đích đặc biệt và nó có những thể
chế hay những quy tắc được xã hội và pháp luật thừa nhận;
- Chức năng của tổ chức này là làm trung gian tài chính. Đây là chức
năng phản ánh sự điều phối nguồn vốn giữa người tiết kiệm có vốn và
người cần vốn.
Như vậy, có thể định nghĩa: “Các tổ chức tài chính trung gian là
những tổ chức thực hiện huy động nguồn tiền của những người có
vốn nhàn rỗi để cung cấp cho những người cần vốn”

Nhóm người TỔ Nhóm người cần vốn


có vốn nhàn rỗi CHỨC - Tổ chức kinh tế
- Hộ gia đình, cá nhân Vốn TÀI Vốn
- Nhà nước
CHÍNH
- Các tổ chức XH - Hộ gia đình, cá nhân
TRUNG
- Tổ chức kinh tế GIAN - Các tổ chức XH
- Nhà nước

Những người có vốn nhàn rỗi là các hộ gia đình, cá nhân, các tổ
chức kinh tế, Nhà nước và các tổ chức xã hội có nguồn tiền tạm thời
nhàn rỗi và sẵn sàng cung ứng cho các tổ chức tài chính trung gian. Trên
cơ sở số thu nhập có được, bằng việc tiết kiệm các khoản chi tiêu trong
tiêu dùng, các chủ thể này sử dụng số tiền tiết kiệm được để cung cấp

220
cho hệ thống tài chính mà chủ yếu là tổ chức tài chính trung gian để kiếm
lời. Những chủ thể cần vốn là các chủ thể có nhu cầu vốn để tài trợ cho
các hoạt động của mình, họ chính là các tổ chức kinh tế, Nhà nước, hộ
gia đình, cá nhân và các tổ chức xã hội. Những chủ thể này đang tiến
hành thực hiện các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa
cho xã hội nhưng nhu cầu vốn đầu tư vượt quá khả năng tự tài trợ nên họ
buộc phải tìm kiếm nguồn tài trợ từ người tiết kiệm cuối cùng trên thị
trường tài chính.
b. Đặc điểm
Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều tổ chức tài chính trung
gian, tuy nhiên nhìn chung các tổ chức tài chính trung gian đều có các
đặc điểm chung sau đây:
- Các tổ chức tài chính trung gian là các cơ sở kinh doanh tiền tệ và
giấy tờ có giá nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Xét về khía cạnh này, các tổ chức tài chính trung gian có đặc điểm
giống như các đơn vị kinh doanh khác, đều hoạt động vì mục tiêu lợi
nhuận. Có thể mô tả hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian theo
sơ đồ sau:

Các yếu tố đầu vào TỔ Các dịch vụ đầu ra

- Nhà cửa, máy móc, CHỨC - Nhận tiền gửi tiết kiệm
trang thiết bị, TÀI
- Cho vay
phương tiện... CHÍNH
TRUNG - Các dịch vụ tài chính
- Vốn bằng tiền khác
GIAN
- Người lao động

- Tiến trình tạo ra các đầu ra của các tổ chức tài chính trung gian
gồm 2 giai đoạn: Huy động nguồn tiền của những người có vốn tạm thời
nhàn rỗi; chuyển số vốn tiết kiệm này cho những người cần vốn.

221
+ Ở giai đoạn thứ nhất: Để huy động nguồn tiền của những người có
vốn trong nền kinh tế, các tổ chức tài chính trung gian phát hành các loại
tài sản tài chính, như trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, tài
khoản thanh toán, để thu hút tiền nhàn rỗi trong xã hội.
+ Ở giai đoạn thứ hai: Các tổ chức tài chính trung gian mua lại các
loại tài sản tài chính do các đơn vị cần vốn phát hành, như: thương phiếu,
trái phiếu, các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm,...
- Các tổ chức tài chính trung gian đảm nhận những hoạt động
trung gian như:
+ Trung gian mệnh giá: Các tổ chức tài chính trung gian thực hiện
huy động các khoản tiền tiết kiệm có quy mô nhỏ tập trung thành quỹ
cho vay có quy mô lớn để tài trợ cho những người cần vốn.
+ Trung gian rủi ro ngầm: Các tổ chức tài chính trung gian phát hành
những loại tài sản tài chính tương đối an toàn, có rủi ro thấp như các
chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu ngân hàng,… để thu hút tiền tiết
kiệm của những người không chấp nhận rủi ro; còn các tổ chức tài chính
trung gian lại chấp nhận những tài sản tài chính có rủi ro cao hơn như cổ
phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, …do những người cần vốn phát hành.
+ Trung gian kỳ hạn: Các tổ chức tài chính trung gian huy động
những khoản tiền tiết kiệm với những thời hạn khác nhau, sau đó
chuyển hoá và tài trợ cho những người cần vốn với những kỳ hạn cũng
khác nhau.
+ Trung gian thanh khoản: Các tổ chức và cá nhân nắm giữ các loại
tài sản tài chính có tính thanh khoản cao, khi có nhu cầu chi tiêu tiền mặt
có thể đến các tổ chức tài chính trung gian chuyển đổi thành tiền tệ.
+ Trung gian thông tin: Bằng những kỹ năng của mình, các tổ chức
tài chính trung gian thay thế những người tiết kiệm tiếp cận thông tin và
đánh giá khả năng của người cần vốn để đánh giá và đặt vốn đầu tư một
cách có hiệu quả.

222
8.1.2. Phân loại các tổ chức tài chính trung gian:
a. Căn cứ vào phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng
Các tổ chức tài chính trung gian được chia làm hai nhóm:
- Ngân hàng: Là tổ chức tài chính trung gian thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung
ứng dịch vụ thanh toán.
- Tổ chức tài chính phi ngân hàng: Là loại hình tổ chức tài chính
trung gian không hội đủ các điều kiện để trở thành ngân hàng.
b. Căn cứ vào đặc điểm hoạt động
Theo tiêu thức phân loại này, các tổ chức tài chính trung gian được
chia thành các loại hình sau:
- Ngân hàng thương mại: Đây là tổ chức tài chính trung gian thực
hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Các ngân hàng
thương mại thu hút vốn thông qua những khoản tiền gửi có thể phát séc,
tiền gửi tiết kiệm và các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Sau đó ngân hàng sử
dụng nguồn vốn này để cho vay, chủ yếu là cho vay thương mại, hoặc để
mua trái phiếu Chính phủ. Đây là trung gian tài chính chủ yếu nhất ở bất
kỳ quốc gia nào, là nơi mà các tổ chức, đơn vị và cá nhân thường xuyên
giao dịch nhất.
- Các loại quỹ tiết kiệm: Nguồn vốn chủ yếu được huy động của tổ
chức tài chính trung gian này là các khoản tiền gửi tiết kiệm, các khoản
tiền gửi có kỳ hạn và các khoản tiền gửi có thể phát séc. Số vốn huy động
được chủ yếu sử dụng để cho vay thế chấp. Đây là điểm khác biệt cơ bản
với ngân hàng thương mại.
Do các khoản cho vay thế chấp chủ yếu là các khoản cho vay dài
hạn, các tổ chức này ban đầu chịu những ràng buộc khắt khe hơn so với
ngân hàng thương mại.

223
Hiện nay, ở nhiều nước, pháp luật cho phép các loại quỹ tiết kiệm
mở rộng phạm vi và đối tượng cho vay, nhằm xoá bỏ dần sự khác biệt
với các ngân hàng thương mại. Do vậy, các trung gian tài chính này đang
trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại.
- Các quỹ tín dụng: Tổ chức tài chính trung gian này thường hoạt
động có tính chất tương trợ như là một hợp tác xã, được tổ chức xung
quanh một nhóm xã hội đặc biệt, các thành viên của quỹ là những người
lao động trong các công ty. Trung gian tài chính này huy động vốn bằng
cách nhận tiền gửi để tiến hành cho vay. Thông thường, các quỹ tín dụng
cung cấp các món vay quy mô nhỏ.
- Các công ty bảo hiểm: Là một tổ chức tài chính trung gian thực
hiện việc huy động vốn bằng cách bán các hợp đồng bảo hiểm đồng thời
sử dụng vốn vào các hoạt động đầu tư, bù đắp bồi thường thiệt hại cho
người mua bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra.
Cụ thể, các công ty bảo hiểm thực hiện trung gian tài chính bằng
cách sử dụng phí bảo hiểm thu được nhờ bán các hợp đồng bảo hiểm để
đầu tư vào các tài sản tài chính như trái phiếu, cổ phiếu, các món vay thế
chấp hoặc các món vay khác ít rủi ro để sinh lời. Từ những tài sản này,
các công ty bảo hiểm có thể sử dụng để thanh toán, bồi thường tổn thất
cho những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm theo hợp đồng đã bán.
- Các công ty tài chính: Công ty tài chính là một trung gian tài chính
tín dụng, được thành lập dưới dạng một công ty trách nhiệm hữu hạn
hoặc công ty cổ phần. Khác với ngân hàng thương mại, công ty tài chính
không được nhận tiền gửi thường xuyên dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn
của khách hàng, không thực hiện các nghiệp vụ trung gian thanh toán.
- Các loại quỹ đầu tư: Là những tổ chức tài chính trung gian thực hiện
việc huy động vốn của các nhà đầu tư thông qua việc phát hành chứng chỉ
quỹ đầu tư và dùng số tiền thu được để đầu tư góp vốn kinh doanh hoặc
đầu tư vào các loại chứng khoán khác như cổ phiếu, trái phiếu,...
- Các ngân hàng tiết kiệm hỗ tương: Tổ chức tài chính trung gian
này cũng giống như các quỹ tiết kiệm, nhưng khác ở chỗ, chúng được tổ
chức như những hiệp hội tương trợ, tức là hoạt động như kiểu hợp tác xã,
trong đó những người sở hữu tiền gửi lại là các chủ sở hữu ngân hàng.

224
- Các quỹ hưu trí: Là trung gian tài chính huy động vốn bằng cách
nhận đóng góp từ người lao động trong các doanh nghiệp hoặc khu vực
Nhà nước, sau đó đầu tư tiền vào các loại chứng khoán để sinh lời. Tiền
sẽ được trả lại cho các thành viên của quỹ dưới hình thức tiền hưu trí.
c. Căn cứ vào mức độ thực hiện chức năng trung gian
- Các tổ chức nhận tiền gửi:
Đây là các tổ chức tài chính trung gian hoạt động chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền gửi từ các tổ chức và cá nhân, sau đó sử dụng nguồn
vốn này để cho vay. Thuộc về các tổ chức nhận tiền gửi gồm có:
+ Các ngân hàng thương mại
+ Các quỹ tín dụng
+ Các quỹ tiết kiệm
+ Các ngân hàng tiết kiệm hỗ tương.
- Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng:
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng thu nhận vốn theo định kỳ trên
cơ sở các hợp đồng thoả thuận với khách hàng và đầu tư chúng vào thị
trường vốn dưới các loại tài sản tài chính dài hạn như: chứng khoán vốn,
chứng khoán nợ. Do nguồn vốn huy động có đặc điểm là ổn định và dự
đoán được, nên tính lỏng của các tài sản tài chính không phải là tiêu thức
ưu tiên hàng đầu trong quản lý tài sản của các định chế tiết kiệm theo
hợp đồng. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng bao gồm:
+ Các công ty bảo hiểm
+ Các quỹ hưu trí.
- Các tổ chức trung gian đầu tư:
Các tổ chức trung gian đầu tư thực hiện huy động vốn trên thị trường
rất đa dạng bằng cách phát hành các loại chứng từ có giá như: tín phiếu,
trái phiếu, sau đó mua danh mục đầu tư trên thị trường tài chính. Đặc
trưng của các tổ chức này là huy động vốn trung và dài hạn để đầu tư vào
những lĩnh vực chuyên môn mà họ có lợi thế để giảm áp lực cạnh tranh
từ phía ngân hàng. Các tổ chức trung gian đầu tư bao gồm:
+ Các loại quỹ đầu tư

225
+ Các công ty chứng khoán
+ Các công ty tài chính
+ Các công ty cho thuê tài chính.
8.1.3. Chức năng và vai trò của các tổ chức tài chính trung gian
trong nền kinh tế thị trường
8.1.3.1. Chức năng của các tổ chức tài chính trung gian
Các tổ chức tài chính trung gian có các chức năng cơ bản sau:
a. Chức năng tập trung vốn
Đây là chức năng khách quan theo sự phân công lao động xã hội,
theo đó, các tổ chức tài chính trung gian có thể huy động, tập trung các
nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng nhu cầu vốn cho vay hoặc
đầu tư. Các tổ chức tài chính trung gian tiến hành huy động các nguồn
tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế hình thành các quỹ tiền tệ tập trung.
Phương thức huy động vốn được sử dụng hoặc theo thể thức tự nguyện,
hoặc theo thể thức bắt buộc. Theo hình thức tự nguyện, các tổ chức tài
chính trung gian đưa ra các mức lãi suất phù hợp để thu hút vốn nhàn
rỗi. Theo hình thức bắt buộc, trong một số tình huống thông qua cơ chế
điều hành lãi suất Chính phủ can thiệp lãi suất huy động vốn của các tổ
chức tài chính trung gian. Với chức năng này, các tổ chức tài chính trung
gian đem lại lợi ích cho mình và cho những người có khoản tiền tiết
kiệm, để dành.
b. Chức năng cung ứng vốn cho nền kinh tế
Đây là chức năng khách quan của các tổ chức tài chính trung gian
trong việc cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu vốn trong nền kinh tế. Tiền
vốn được huy động từ những người có vốn là để thực hiện mục tiêu cung
ứng vốn cho những người cần nó. Trong nền kinh tế thị trường, người
cần vốn là các doanh nghiệp, Chính phủ, các tổ chức cá nhân trong nước
và ngoài nước. Với chức năng này các tổ chức tài chính trung gian đáp
ứng chính xác, đầy đủ, kịp thời nhu cầu tài trợ vốn cho các tổ chức và cá
nhân. Ngoài việc mang lại lợi ích cho chính các định chế tài chính trung
gian, chức năng này còn mang lại lợi ích cho những người cần vốn trong
nền kinh tế.

226
c. Chức năng kiểm soát.
Các tổ chức tài chính trung gian thực hiện chức năng kiểm soát
nhằm giảm tới mức tối thiểu vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo
đức do tình trạng thông tin bất cân xứng gây ra; yêu cầu của chức năng
này là các tổ chức tài chính trung gian phải thường xuyên hoặc định kỳ
kiểm soát trước, trong và sau khi cung ứng vốn cho khách hàng.
8.1.3.2. Vai trò của các tổ chức tài chính trung gian trong nền kinh
tế thị trường
a. Chu chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế
Vai trò quan trọng nhất của các tổ chức tài chính trung gian là chu
chuyển nguồn lực tài chính từ nơi thừa đến nơi thiếu. Trong bối cảnh hội
nhập, các tổ chức tài chính trung gian không chỉ là kênh chuyển tải
nguồn lực tài chính từ các chủ thể thừa vốn đến các chủ thể thiếu vốn
trong nước mà còn là kênh chuyển tải nguồn lực tài chính từ những nhà
đầu tư quốc tế đến những người đi vay quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tài chính trung gian có thể
huy động các nguồn tiền thông qua các kênh sau đây:
- Kênh huy động vốn đầu tư ở trong nước:
+ Huy động vốn đầu tư trong nước thông qua các dịch vụ đầu ra:
Các tổ chức tài chính trung gian khai thác các nguồn vốn tiết kiệm trong
xã hội thông qua việc triển khai các dịch vụ đầu ra mà chủ yếu là phát
hành các sản phẩm tài chính như kỳ phiếu, các chứng chỉ tiền gửi tiết
kiệm, hợp đồng bảo hiểm,… với nhiều kỳ hạn khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường, tiết kiệm của khu vực dân cư giữ vị trí
rất quan trọng trong hệ thống tài chính. Các tầng lớp dân cư có thể lựa
chọn các kênh đầu tư như đầu tư qua các tổ chức tài chính trung gian,
mua chứng khoán trên thị trường chứng khoán, trực tiếp đầu tư vào hoạt
động kinh doanh,… Mỗi kênh đầu tư đều có những ưu và nhược điểm
nhất định. Kênh đầu tư qua các tổ chức tài chính trung gian có ưu điểm
nổi bật là: Chi phí giao dịch thấp, độ an toàn cao, rủi ro ít, các tổ chức tài
chính trung gian tỏ ra có ưu thế trong quá trình đánh giá và chọn lựa đầu

227
tư vốn. Tuy nhiên, nếu như môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định, thị
trường tài chính và các công cụ tài chính yếu kém thì các tổ chức tài
chính trung gian khó mà phối hợp và chuyển tải nhanh chóng nguồn vốn
tiết kiệm của khu vực dân cư cho các tổ chức và cá nhân cần vốn.
+ Huy động vốn đầu tư qua thị trường vốn trong nước
Với sự chuyên môn hóa về mua bán các loại chứng khoán, thị
trường chứng khoán được xem như một cơ sở hạ tầng tài chính để các tổ
chức tài chính trung gian thực hiện chính sách huy động vốn của các nhà
đầu tư thông qua việc phát hành các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái
phiếu,… trên thị trường chứng khoán.
- Kênh huy động vốn đầu tư từ nước ngoài:
Các tổ chức tài chính trung gian huy động vốn đầu tư nước ngoài
qua các hình thức:
+ Tiếp nhận nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) để thực
hiện cho vay theo các chương trình tín dụng chỉ định của các nhà tài trợ
nước ngoài. Nguồn vốn ODA có ưu điểm là chi phí sử dụng thấp và quy
mô vốn lớn nhưng lại có nhược điểm là bên tiếp nhận nguồn vốn này
phải chấp nhận những điều kiện và ràng buộc khắt khe về thủ tục chuyển
giao vốn. Mỗi tổ chức tài trợ đều có những phương cách và thông lệ
riêng trong việc cung cấp ODA nhằm đạt được những mục tiêu riêng biệt
của họ. Thực tế cho thấy, việc khai thác nguồn vốn này đã mang lại
những hệ quả tốt lẫn xấu trong việc tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn này.
+ Huy động vốn đầu tư qua thị trường vốn quốc tế
Ưu điểm của kênh này là mở ra cho các tổ chức tài chính trung gian
trong nước một thị trường huy động vốn rộng lớn. Thế nhưng, việc tìm
kiếm vốn trên thị trường tài chính quốc tế vẫn có nhiều khó khăn và
thách thức, đặc biệt là các tiêu chuẩn tín nhiệm chặt chẽ đặt ra đối với
các chứng khoán để được chấp nhận giao dịch tại các thị trường tài chính
quốc tế. Việc phát hành trái phiếu quốc tế đòi hỏi các tổ chức tài chính
trung gian phải tuân thủ các thông lệ quốc tế, những thủ tục này rất phức
tạp, gây ra nhiều trở ngại trong việc tiếp cận kênh huy động này.

228
Trong xu thế tự do hóa tài chính, thị trường chứng khoán sẽ mở ra
nhiều cơ hội để cho các định chế tài chính trung gian trong nước và các
nhà đầu tư nước ngoài giao lưu vốn với nhau trên thị trường chứng
khoán. Tuy vậy, kênh huy động vốn này luôn chứa đựng những rủi ro
tiềm ẩn, gây bất ổn cho các tổ chức tài chính trung gian. Cũng chính ở
đây, nếu giá cả chứng khoán do những hoạt động đầu cơ đẩy lên cao thì
tạo nên kinh tế ảo hoặc bong bóng rất nguy hiểm và làn sóng khủng
hoảng tài chính - tiền tệ có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Trên cơ sở huy động được các nguồn tài chính từ các tổ chức và các
cá nhân trong nền kinh tế, các tổ chức trung gian tài chính sẽ chuyển
nguồn vốn này đến những nơi cần vốn thông qua các hình thức cho vay,
chiết khấu các giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính, cung cấp các
dịch vụ tài chính, các hoạt động đầu tư,... Từ đó, góp phần nâng cao hiệu
quả của các nguồn vốn trong nền kinh tế.
Như vậy, các tổ chức tài chính trung gian chính là cầu nối trung gian
giữa những người có nhu cầu sử dụng tạm thời các nguồn tài chính với
những người có khả năng cung ứng chúng.
b. Khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường
tài chính
Trong một tiến trình giao dịch vốn, người cần vốn bao giờ cũng nắm
rõ thông tin về mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lời của dự án đầu tư mà anh
ta đang tiến hành hơn là người cung cấp vốn. Vấn đề này còn gọi là
thông tin bất cân xứng. Thông tin bất cân xứng sẽ làm nảy sinh hai vấn
đề làm cho người có vốn không sẵn lòng cung cấp vốn cho người cần
vốn, đó là: lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
- Lựa chọn đối nghịch:
Lựa chọn đối nghịch xảy ra trước khi giao dịch vốn. Đối với những
người cần vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn về
vốn thường có khuynh hướng đưa ra mức lãi suất huy động vốn hấp dẫn.
Nhưng một sự lựa chọn đối nghịch xảy ra đối với người cung cấp vốn, đó
là nếu không biết rõ lịch sử và đặc điểm hoạt động của người cần vốn thì
người cung cấp vốn sẽ không sẵn sàng cung cấp vốn.

229
- Rủi ro đạo đức:
Rủi ro đạo đức xảy ra sau khi thực hiện giao dịch vốn. Những hợp
đồng vay nợ thường có đặc điểm là mức lãi suất cố định. Vì vậy, khi vay
được vốn các doanh nghiệp có khuynh hướng sử dụng số vốn vay để đầu
tư vào các dự án đầu tư có lãi suất cao hơn nhưng lại có nhiều rủi ro tiềm
năng. Trong khi đó, người cho vay lại không có đủ khả năng để giám sát
những hoạt động của người đi vay sau khi đã cung cấp vốn nên rất có thể
sẽ gặp phải rủi ro không thu hồi được vốn và lãi do người đi vay sử dụng
vốn vay vào những phương án đầu tư nhiều rủi ro. Vì vậy, người thừa
vốn không sẵn sàng cung ứng vốn.
Chính sự tồn tại của các tổ chức tài chính trung gian là để giải
quyết mâu thuẫn về thông tin bất cân xứng và hai vấn đề liên đới là lựa
chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Các tổ chức tài chính trung gian
chuyên môn hoá trong việc đánh giá rủi ro tiềm năng của người đi vay.
Họ có thể tiếp cận các thông tin cá nhân của người xin vay (như trạng
thái tài khoản tiền gửi, thu nhập, tài sản, nợ phải trả,..) và kiểm soát được
những hoạt động đầu tư của người đi vay. Nói cách khác, các tổ chức
trung gian tài chính có vị thế tốt hơn để đưa ra quyết định cung cấp các
khoản nợ một cách hợp lý. Các tổ chức tài chính trung gian tạo điều kiện
thuận lợi cho các quỹ tiền tệ nhàn rỗi của xã hội chuyển dịch từ người
thừa sang người thiếu, cải thiện tính hiệu quả kinh tế của tiến trình này.
c. Góp phần giảm chi phí giao dịch của xã hội
Chi phí giao dịch là chi phí về tiền bạc và thời gian để thực hiện giao
dịch tài chính. Một trong các yếu tố quan trọng của chi phí giao dịch là
chi phí nghiên cứu, thẩm định, đánh giá để đưa ra quyết định đầu tư. Nếu
không có các tổ chức tài chính trung gian, người vay vốn phải bỏ ra
nhiều thời gian và chi phí để tìm người cho vay vốn với mức lãi suất hợp
lý. Đối với người tiết kiệm, để quyết định cho vay, họ cần phải trải qua
hai công đoạn:
+ Tìm người cần vốn đáng tin cậy.
+ Thiết lập hợp đồng vay vốn chặt chẽ.

230
Để thực hiện các hoạt động này, đòi hỏi người tiết kiệm phải bỏ ra
một lượng chi phí nhất định. Như vậy, rõ ràng sự ra đời của các tổ chức
tài chính trung gian đã góp phần làm giảm chi phí giao dịch mang lại lợi
ích cho cả người đi vay và người tiết kiệm. Các định tổ chức tài chính
trung gian có ưu thế tạo ra lợi thế kinh tế về quy mô thông qua việc tập
trung những quỹ tiền tệ có quy mô nhỏ của từng tổ chức, cá nhân tiết
kiệm và đa dạng hóa các nghiệp vụ sử dụng vốn. Những hoạt động này
của các tổ chức tài chính trung gian được thực hiện bởi một đội ngũ cán
bộ có trình độ chuyên môn cao. Với lợi thế kinh tế về quy mô, các tổ
chức tài chính trung gian đã làm cho các giao dịch tài chính riêng lẻ của
từng cá nhân, tổ chức được thực hiện dễ dàng với chi phí thấp. Từ đó làm
giảm chi phí giao dịch của xã hội.
d. Góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống
xã hội.
Các tổ chức tài chính trung gian mang lại lợi ích cho cả người tiết
kiệm và người đi vay. Qua đó, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng
cuộc sống xã hội. Điều này được thể hiện trên các khía cạnh:
- Lợi ích đối với người tiết kiệm: Bằng việc tập trung nguồn vốn
nhàn rỗi của những người tiết kiệm, biến nó thành đồng vốn sinh lời, sự
tồn tại của các tổ chức tài chính trung gian khắc phục những khó khăn
mà vốn dĩ từng người tiết kiệm thường gặp phải khi thực hiện đầu tư trực
tiếp như: thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin, khả năng tiếp cận thị trường
bị hạn chế, thiếu những công cụ tài chính có quy mô nhỏ và chi phí giao
dịch tốn kém. Bên cạnh đó, các tổ chức tài chính trung gian còn tạo ra
kinh tế quy mô và đa dạng hóa các sản phẩm tài chính từ đó phân tán rủi
ro cho những người tiết kiệm.
- Lợi ích đối với người vay vốn: Thông qua các nghiệp vụ cụ thể, các
tổ chức tài chính trung gian đã đem lại lợi ích cho người vay vốn trên các
khía cạnh: làm giảm chi phí giao dịch; gắn kết chặt chẽ nhu cầu của
người tiết kiệm và người đi vay; chuyển hoá nguồn vốn tiết kiệm ngắn
hạn để đáp ứng nhu cầu vay vốn dài hạn của các doanh nghiệp; đa dạng
hoá các sản phẩm tài chính với nhiều loại quy mô và kỳ hạn khác nhau;
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ tiếp cận để vay vốn.

231
8.2. MéT Sè Tæ CHøC TµI CHÝNH TRUNG GIAN CHñ YÕU
TRONG NÒN KINH TÕ
8.2.1. Ngân hàng
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các hoạt
động ngân hàng và cung cấp các dịch vụ tài chính có liên quan. Cùng với
sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, các ngân hàng phát
triển thành 2 loại hình: Ngân hàng trung ương và ngân hàng trung gian.
Ngân hàng trung ương thực hiện chức năng chủ yếu là phát hành
tiền và kiểm soát cung tiền trong nền kinh tế. Còn các ngân hàng trung
gian thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng với nội dung chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ
thanh toán.
Ngày nay, ngân hàng trung gian phát triển rất đa dạng về loại hình
sở hữu và các lĩnh vực chuyên doanh. Từ đó, hình thành nên các loại
hình ngân hàng khác nhau như: NHTM, ngân hàng chính sách,…Mạng
lưới hoạt động của ngân hàng ngày càng được mở rộng nên đã tạo điều
kiện mở rộng khả năng thu hút vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Để duy trì
và mở rộng hoạt động, ngoài vốn tự có, các ngân hàng trung gian đã đa
dạng hóa nguồn vốn huy động, bao gồm các nguồn vốn chủ yếu sau: vốn
huy động từ tiền gửi thanh toán - tiền gửi có thể phát séc, nguồn huy
động từ tiền gửi có kỳ hạn; nguồn vốn huy động qua thị trường liên ngân
hàng; nguồn huy động qua phát hành các chứng từ có giá như chứng chỉ
tiền gửi, kỳ phiếu,…
Ngân hàng trung gian sử dụng vốn chủ yếu để cấp tín dụng cho tổ
chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và
các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính, cung cấp các dịch
vụ tài chính và tiến hành các hoạt động đầu tư.
8.2.2. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
a. Quỹ tín dụng
Quỹ tín dụng là loại hình tổ chức tín dụng hợp tác hoạt động theo
nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động,

232
thực hiện mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát
huy sức mạnh của tập thể và của từng thành viên, giúp nhau thực hiện
có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và cải thiện đời sống.
Hoạt động của quỹ tín dụng phải đảm bảo bù đắp chi phí và có tích luỹ
để phát triển.
Quỹ tín dụng có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Quỹ tín dụng là một tổ chức hợp tác, hoạt động trong lĩnh vực tiền
tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng nhằm tương trợ và giúp đỡ các chủ thể
trong nền kinh tế - xã hội phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao đời
sống. Thành viên tham gia quỹ tín dụng có quyền sở hữu và quản lý mọi
tài sản và hoạt động của quỹ theo tỷ lệ vốn góp.
+ Phạm vi hoạt động của quỹ tín dụng khá hẹp, chủ yếu là ở địa bàn
nông thôn, các tụ điểm dân cư gắn với địa bàn hành chính cấp xã,
phường, hoặc liên xã, liên phường.
+ Các quỹ tín dụng thường hoạt động trong một hệ thống liên kết với
nhau thành hệ thống từ trung ương đến khu vực và cơ sở. Mỗi quỹ tín
dụng là một đơn vị kinh tế độc lập nhưng lại có mối quan hệ mật thiết
với nhau thông qua hoạt động điều hoà vốn, thông tin, cơ chế phân tán
rủi ro nhằm đảm bảo cho hệ thống quỹ phát triển bền vững.
+ Thế mạnh của quỹ tín dụng là bám sát khách hàng, do đó họ có
điều kiện nắm bắt kịp thời nhu cầu và khả năng của khách hàng để cung
cấp các dịch vụ của quỹ một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
Thông thường, các hoạt động cơ bản của quỹ tín dụng bao gồm:
- Huy động vốn: nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn của
các thành viên và ngoài thành viên; vay vốn từ các tổ chức tài chính
trung gian khác.
- Cho vay: Cho vay đối với các thành viên và các hộ gia đình, cá
nhân không phải là thành viên trong địa bàn; Quỹ tín dụng nhân dân cơ
sở thực hiện các hoạt động tín dụng khác theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước.

233
- Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Quỹ tín dụng được mở tài khoản
tiền gửi tại ngân hàng trung ương và các tổ chức tài chính khác; Quỹ tín
dụng được thực hiện các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, để phục vụ chủ
yếu cho các thành viên.
- Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật: nhận uỷ thác và
làm đại lý trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ theo quy định của luật pháp và
thực hiện các hoạt động khác.
b. Quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là một tổ chức tài chính trung gian hoạt động dựa trên
việc huy động những nguồn vốn nhỏ lẻ trong xã hội thông qua việc phát
hành chứng chỉ quỹ để đầu tư trên thị trường chứng khoán và các hình
thức đầu tư khác. Mục tiêu của quỹ đầu tư là làm gia tăng giá trị vốn và
thu nhập của mỗi cổ phần hay chứng chỉ quỹ. Vì vậy, công ty đầu tư đặc
biệt quan tâm đến việc đa dạng hoá danh mục đầu tư.
Nhìn chung, đầu tư qua quỹ có những lợi ích sau:
+ Đảm bảo tính chuyên nghiệp trong đầu tư
+ Giảm thiểu rủi ro trong đầu tư
+ Nâng cao hiệu quả đầu tư
Căn cứ vào quy mô, cách thức và tính chất góp vốn, quỹ đầu tư
được chia thành 2 loại: quỹ đầu tư mở và quỹ đầu tư đóng.
- Quỹ đầu tư mở là quỹ đầu tư tạo vốn nhiều lần thông qua việc phát
hành cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ. Trong quá trình hoạt động, quỹ có thể
phát hành bổ sung hoặc mua lại cổ phiếu, chứng chỉ của chính quỹ mình.
Các giao dịch mua bán được thực hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ.
Chứng chỉ quỹ đầu tư dạng mở không được niêm yết trên thị trường
chứng khoán.
- Quỹ đầu tư đóng là quỹ chỉ tạo vốn một lần thông qua phát hành
chứng chỉ quỹ ra công chúng. Tổng số vốn huy động của quỹ là cố định
trong suốt thời gian hoạt động của quỹ. Chứng chỉ đầu tư dạng đóng
được niêm yết trên TTCK.

234
Hiện nay ở Việt Nam có một số quỹ đầu tư như Dragon Capial,
Vietfund, Vina Capital, Mekong Capital, Prudential Fund, IFC, IDG, và
hầu hết các quỹ này đều là quỹ đầu tư đóng. Trong đó, nhiều quỹ đầu tư đã
niêm yết trên thị trường chứng khoán như Prudential Fund, Viet Fund,…
c. Công ty bảo hiểm
Công ty bảo hiểm là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt động
chủ yếu là nhằm đề phòng những rủi ro tài chính cho những người tham
gia bảo hiểm về những rủi ro thuộc trách nhiệm của bảo hiểm trên cơ sở
người tham gia phải trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.
Hoạt động chủ yếu của các công ty bảo hiểm thường là:
- Cung cấp dịch vụ bảo hiểm: Công ty bảo hiểm thu phí bảo hiểm
của người tham gia bảo hiểm và tiến hành chi trả bồi thường cho người
được bảo hiểm nếu rủi ro xảy ra.
- Sử dụng vốn nhàn rỗi tập trung được để đầu tư tài chính.
Ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm ra đời muộn hơn nhiều so với thế
giới. Công ty bảo hiểm đầu tiên của Việt Nam được thành lập vào
12/1964 và chính thức đi vào hoạt động 1/1965, đó là Công ty Bảo hiểm
Việt Nam (Bảo Việt). Tuy nhiên, hiện nay, ngoài Bảo Việt, còn có nhiều
công ty bảo hiểm trong và ngoài nước hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
như: Công ty bảo hiểm Bảo Minh, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
(PJICO), Prudential, AIA,...
d. Công ty tài chính
Công ty tài chính là một tổ chức tài chính trung gian được thành lập
dưới dạng một công ty trực thuộc một ngân hàng thương mại hay một tập
đoàn kinh tế có nhiệm vụ huy động vốn trung, dài hạn để cho vay. Công
ty tài chính không được phép huy động vốn ngắn hạn và thực hiện các
nghiệp vụ trung gian thanh toán.
Các hoạt động chủ yếu và thường xuyên của công ty tài chính là:
- Huy động vốn: Công ty tài chính thực hiện hoạt động huy động vốn
dưới các hình thức sau: Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên; phát
hành kỳ phiếu, trái phiếu hoặc chứng chỉ tiền gửi từ một năm trở lên.

235
- Cho vay và đầu tư: Cho vay với các kỳ hạn khác nhau; Chiết khấu
các chứng từ có giá, cầm cố các loại hàng hoá, vật tư, ngoại tệ, các giấy
tờ có giá và dụng cụ bảo đảm khác; Góp vốn mua cổ phần, đầu tư vào
các dự án và tham gia vào thị trường tiền tệ.
- Cung cấp các dịch vụ tài chính khác như tư vấn tài chính, bảo
lãnh,...
Điểm khác biệt giữa công ty tài chính với ngân hàng thương mại:
- Công ty tài chính không nhận tiền gửi của dân chúng, của các tổ
chức kinh tế - xã hội,... với thời hạn ngắn và dưới hình thức mở tài
khoản. Để tạo nguồn vốn bổ sung cho hoạt động của mình, các công ty
tài chính được vay dưới hình thức phát hành các phiếu nợ dài hạn.
- Các công ty tài chính không thực hiện các dịch vụ thanh toán,
không sử dụng vốn vay của dân để làm phương tiện thanh toán.
- Điểm khác biệt quan trọng của công ty tài chính so với ngân hàng
thương mại là ở sự điều hành của Chính phủ. Chính phủ chỉ kiểm soát số
tiền cực đại mà các công ty tài chính có thể cho các cá nhân người tiêu
dùng vay và kỳ hạn của hợp đồng nợ, nhưng không có hạn chế nào về
mở chi nhánh, về những tài sản có mà họ nắm giữ và sự thu nhận vốn của
các công ty tài chính. Việc không can thiệp và kiểm soát chặt chẽ của
Chính phủ giúp cho các công ty tài chính có thể phục vụ tốt các nhu cầu
của khách hàng hơn là các ngân hàng.
e. Công ty cho thuê tài chính: Là tổ chức tài chính trung gian thực
hiện dịch vụ cho thuê tài chính.
Dịch vụ cho thuê tài chính là một dịch vụ tín dụng trung, dài hạn
thông qua tài sản cho thuê, trong đó bên cho thuê cam kết mua tài sản
theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu tài sản đó trong suốt
thời hạn thuê; bên đi thuê sử dụng tài sản và thanh toán tiền thuê theo
hợp đồng. Kết thúc thời hạn thuê, bên đi thuê được quyền chọn mua tài
sản với giá tượng trưng hoặc được quyền thuê tiếp theo các điều khoản
đã thỏa thuận trong hợp đồng.

236
Các hoạt động chủ yếu của công ty cho thuê tài chính là:
- Huy động vốn trung và dài hạn.
- Cung cấp dịch vụ cho thuê tài chính.
- Cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng về những vấn đề liên
quan đến nghiệp vụ cho thuê.
- Cung cấp dịch vụ ủy thác, quản lý tài sản, bảo lãnh liên quan đến
tài sản thuê.
- Các hoạt động khác theo luật định.
Về bản chất, cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ tín dụng, cho
nên nó giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ: Công ty cho thuê
tài chính phải xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc và lãi sau một thời hạn
nhất định. Công ty cũng phải đối mặt với rủi ro khi khách hàng kinh
doanh không có hiệu quả không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn.
Tuy nhiên, cho thuê có nhiều điểm khác biệt so với cho vay ở chỗ: Công
ty cho thuê tài chính có quyền thu hồi tài sản nếu thấy bên thuê không
thực hiện đúng hợp đồng; Cho thuê không có tài sản bảo đảm, nhiều tài
sản thuê mang tính đặc chủng, khó bán, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao,...
nên cho thuê tài chính thường có rủi ro rất cao.
f. Công ty chứng khoán
* Khái niệm
Công ty chứng khoán là tổ chức có tư cách pháp nhân thực hiện
một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động kinh doanh chứng khoán như
môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng
khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.
* Đặc điểm của công ty chứng khoán
Các công ty chứng khoán được tổ chức rất khác nhau tùy thuộc vào
tính chất công việc của mỗi công ty hay mức độ phát triển của thị trường.
Tuy nhiên, chúng vẫn có cùng một số đặc điểm cơ bản như sau:

237
Thứ nhất, công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian;
là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tính chất trung gian
được thể hiện trong việc công ty chứng khoán là tổ chức trung gian giữa
nhà phát hành với nhà đầu tư và giữa các nhà đầu tư với nhau.
Thứ hai, công ty chứng khoán thực hiện các nghiệp vụ trên thị
trường chứng khoán như: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành chứng
khoán, tư vấn đầu tư…
* Hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán
- Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là việc làm trung gian hoặc đại diện mua bán
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Với hoạt động này,
công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông
qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC.
Với hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến khách hàng
các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa những nhà đầu tư
bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán.
Để làm tốt được hoạt động trên đòi hỏi các nhân viên môi giới của
các công ty chứng khoán phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức nghề
nghiệp và có kỹ năng chuyên nghiệp thành thạo trong công việc.
- Hoạt động tự doanh
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tiến hành cách giao dịch mua,
bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động này nhằm thu lợi nhuận cho
chính công ty. Nguồn vốn cho hoạt động này là nguồn vốn của chính
công ty. Hoạt động tự doanh chứng khoán của các công ty chứng khoán
được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên Sở giao dịch chứng
khoán hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế
giao dịch theo cơ chế khớp giá; hoạt động này được thực hiện thông qua
hoạt động tạo lập thị trường. Điều đó có nghĩa là các công ty chứng
khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng

238
khoán nhất định và thực hiện mua bán với các khách hàng để hưởng
chênh lệch giá.
Hoạt động tự doanh song hành với hoạt động môi giới. Do đó, trong
quá trình thực hiện không thể tránh khỏi những xung đột lợi ích. Vì vậy,
luật chứng khoán các nước đều quy định tách biệt quản lý, ưu tiên khách
hàng; góp phần bình ổn thị trường và hoạt động tạo lập thị trường.
- Hoạt động bảo lãnh phát hành
“Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành
cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán
chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức
phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân
phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc
phân phối chứng khoán ra công chúng.” ( Luật Chứng khoán năm 2006)
- Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán thông qua
hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống
có thể thực hiện một số công việc dịch vụ liên quan đến phát hành; đầu
tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
+ Hoạt động này đòi hỏi người tư vấn phải có kiến thức chuyên sâu,
đầu óc nhạy bén vì chất xám họ bỏ ra sẽ đem lại lợi nhuận cho khách
hàng. Đây cũng là hoạt động đòi hỏi sự thận trọng khi đưa ra lời khuyên
cho khách hàng.
- Các nghiệp vụ phụ trợ
Ngoài các hoạt động kể trên, công ty chứng khoán còn có thể thực
hiện các hoạt động phụ trợ như:
+ Lưu ký chứng khoán: Là việc nhận ký gửi, bảo quản, chuyển giao
chứng khoán cho khách hàng, giúp khách hàng thực hiện các quyền liên
quan đến sở hữu chứng khoán.

239
+ Quản lý thu nhập của khách hàng: Xuất phát từ việc lưu ký chứng
khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãi,
cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức
cho khách hàng, thông qua tài khoản của khách hàng.
+ Nghiệp vụ tín dụng: Là các nghiệp vụ cho vay chứng khoán để
khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc mua ký quỹ.
+ Repo chứng khoán: Là giao dịch bán rồi mua lại chứng khoán theo
kì hạn nhất định. Về bản chất thì nghiệp vụ repo giống như một khoản
vay có đảm bảo bằng các chứng khoán và các tài sản đảm bảo khác. Về
hình thức biểu hiện thì repo chứng khoán sử dụng một hợp đồng mua lại
(còn gọi là hợp đồng repo).
+ Dịch vụ tư vấn tài chính : Tư vấn xử lý các vấn đề tài chính của
doanh nghiệp như các vấn đề liên quan đến công nợ của doanh nghiệp.
Tư vấn tái cấu trúc doanh nghiệp: Tư vấn cho các doanh nghiệp lựa
chọn cấu trúc tài chính tối ưu nhằm tạo chi phí vốn thấp nhất và giá trị
thặng dư cho cổ đông lớn nhất đồng thời lựa chọn các công cụ tài chính
phù hợp với điều kiện và nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp cũng như phù
hợp với tình hình thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
g. Một số tổ chức tài chính trung gian khác
* Quỹ hưu trí: Là tổ chức tài chính trung gian huy động tiền bằng
cách nhận đóng góp từ người lao động trong các doanh nghiệp để đầu
tư chứng khoán, sau đó trả lại các thành viên của quỹ dưới hình thức
tiền hưu.
* Ngân hàng tiết kiệm hỗ tương
Là tổ chức tài chính trung gian có rất nhiều đặc điểm tương đồng với
các hiệp hội tiết kiệm và cho vay. Ngân hàng thu hút tiền gửi của công
chúng và chủ yếu cho các doanh nghiệp, các cá nhân vay để mua nhà và
các loại bất động sản.

240
C¢U HáI ¤N TËP CH¦¥NG 8

1. Thế nào là tổ chức tài chính trung gian? Phân tích đặc điểm của
các tổ chức tài chính trung gian?
2. Trình bày các cách phân loại các tổ chức tài chính trung gian? Ý
nghĩa của việc nghiên cứu?
3. Phân tích vai trò của các tổ chức tài chính trung gian trong nền
kinh tế thị trường?
4. Phân tích chức năng của các tổ chức tài chính trung gian?
5. Quỹ tín dụng là gì? Trình bày các đặc điểm của quỹ tín dụng?
6. Trình bày các loại quỹ đầu tư và hoạt động của chúng trong nền
kinh tế?
7. Phân tích các hoạt động chủ yếu của công ty bảo hiểm?
8. Công ty tài chính là gì? Trình bày các hoạt động chủ yếu của công
ty tài chính?
9. Công ty cho thuê tài chính là gì? Trình bày các hoạt động chủ yếu
của công ty cho thuê tài chính?
10. Công ty chứng khoán là gì? Trình bày các hoạt động chủ yếu và
phân tích các đặc điểm của công ty chứng khoán?

241
Chương 9
HÖ THèNG NG¢N HµNG

Hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân được ví như hệ thống
huyết mạch của một cơ thể sống. Nó thực hiện chức năng tập trung, thu
gom, phân bổ và lưu chuyển các nguồn tài chính trong xã hội để nuôi
dưỡng và kích thích sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Với mục đích
cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về hệ thống ngân hàng,
chương này đề cập đến các vấn đề: Quá trình ra đời và phát triển của hệ
thống ngân hàng; chức năng, vai trò và các hoạt động cơ bản của ngân
hàng thương mại (NHTM) và ngân hàng trung ương (NHTW).

9.1. QU¸ TR×NH RA §êI Vµ PH¸T TRIÓN CñA HÖ THèNG


NG¢N HµNG
9.1.1. Lịch sử ra đời của ngân hàng
Ngân hàng được hình thành và phát triển trải qua một quá trình
lâu dài gắn liền với sự phát triển của nhiều hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau.
Lịch sử cho thấy, nghề ngân hàng đã xuất hiện từ thời Trung cổ.
Trong thời kỳ này, mỗi quốc gia, mỗi địa phương đều có một loại tiền
riêng và loại tiền đó chỉ sử dụng trong phạm vi địa phương, quốc gia của
mình. Điều này đã gây trở ngại và khó khăn cho việc trao đổi, buôn bán
giữa các địa phương, các quốc gia. Trong tình hình đó, xuất hiện một số
thương nhân chuyên làm nghề đổi tiền (tiền đúc) cho các nhà buôn.
Khi tích lũy được một khối lượng vốn khá lớn đủ để tạo niềm tin,
những người làm nghề đổi tiền này nhận tiền gửi bằng vàng và cung cấp
cho những người gửi tiền giấy biên nhận làm căn cứ để xác định quyền
sở hữu số vàng đã gửi. Giấy biên nhận này có thể dùng để thanh toán
thay tiền vàng và dễ dàng chuyển đổi ra vàng.

242
Những người nhận giữ tiền vàng cũng phát hiện ra rằng trong cùng
một khoảng thời gian nhất định, có một số người mang giấy biên nhận
(chứng thư) đến đổi lấy vàng nhưng một số khác lại gửi tiền vào, do đó
xuất hiện một lượng tiền nhàn rỗi. Điều này chứng tỏ người nhận giữ
vàng giờ đây chỉ cần dự trữ một lượng tiền vàng để thanh toán với một tỷ
lệ nhất định so với tổng số tiền đã nhận gửi, phần còn lại có thể sử dụng
để cho vay cùng với số vốn của bản thân họ tích lũy được.
Sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa đã làm cho những
quan hệ giao dịch tiền tệ ngày càng mở rộng và phát triển. Bên cạnh
nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay lấy lãi, những thương nhân đổi tiền
đã kiêm cả việc thanh toán thay cho khách hàng, giúp họ tránh khỏi rủi ro
khi mang tiền từ địa phương này đến địa phương khác để thanh toán. Ban
đầu, việc thanh toán cho khách hàng được thực hiện miễn phí. Sau đó,
hoạt động này được phát triển thành các dịch vụ thanh toán có thu phí.
Như vậy, sự phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một tầng
lớp thương nhân mới chuyên hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
Đó chính là tiền thân của nghề ngân hàng. Khi những người làm nghề đổi
tiền thực hiện cả ba nghiệp vụ là nhận gửi, cho vay và làm dịch vụ thanh
toán thì ngân hàng xuất hiện và nghề đổi tiền được chuyển thành nghề
ngân hàng.
9.1.2. Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng trên thế giới
Thời kỳ đầu, các ngân hàng chỉ thực hiện những nghiệp vụ đơn giản
như: đổi tiền, nhận tiền gửi, cho vay, bảo quản hộ tiền, thanh toán,
chuyển tiền, trong đó nghiệp vụ cho vay mang tính chất nặng lãi là chủ
yếu và do nhiều chủ thể thực hiện như các thương nhân, nhà thờ,... Cùng
với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, số lượng tổ chức kinh
doanh tiền tệ cũng như các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ phát triển khá
nhanh. Có thể chia quá trình phát triển của các ngân hàng trên thế giới
thành các giai đoạn sau:
* Giai đoạn từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XVII
Giai đoạn này các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng được phát triển
và hoàn thiện như nghiệp vụ ghi chép sổ sách, hình thành các số hiệu tài

243
khoản, theo dõi quản lý chi tiết đến từng đối tượng cho vay, mục đích
cho vay cũng như nguồn vốn cho vay. Hoạt động thanh toán bù trừ ở
dạng sơ khai trong cùng một ngân hàng đã bắt đầu phát triển, đồng thời
hoạt động này cũng được mở ra giữa các ngân hàng. Nghiệp vụ chuyển
tiền và bảo lãnh hình thành vào cuối thế kỷ thứ X, sau đó là nghiệp vụ
chiết khấu thương phiếu ra đời và phát triển. Sang thế kỷ XVII, các
nghiệp vụ cơ bản của mỗi ngân hàng đã tương đối hoàn thiện, bao gồm:
- Nhận tiền gửi, cho vay
- Phát hành tiền giấy có khả năng chuyển đổi ra vàng
- Chiết khấu thương phiếu
- Chuyển tiền, thanh toán bù trừ và bảo lãnh.
Trong giai đoạn này, một số ngân hàng thương mại đã được hình
thành ngân hàng đầu tiên được thành lập ở Hà Lan vào năm 1609, sau
đó là ngân hàng Thụy Điển được thành lập vào năm 1656, Ngân hàng
Anh Quốc ra đời từ năm 1694, ngân hàng Hoa Kỳ được hình thành vào
năm 1791, Ngân hàng Pháp thành lập vào năm 1800.
* Giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX
Ở giai đoạn này, hoạt động lưu thông hàng hóa được mở rộng và
phát triển. Các ngân hàng bắt đầu sử dụng ưu thế của mình để phát hành
một lượng lớn các loại tiền tách rời khỏi lượng dự trữ vàng để cho vay,
thay vì trước đây phải có một lượng vàng thực gửi vào ngân hàng. Lúc
này, tất cả các ngân hàng đều có quyền phát hành tiền nên Nhà nước
không thể kiểm soát được tính chất đảm bảo của lượng tiền trong lưu
thông. Mặt khác, mỗi ngân hàng có quy mô hoạt động, uy tín và khả
năng ảnh hưởng khác nhau nên công chúng bắt đầu có sự lựa chọn và sử
dụng tiền được phát hành bởi các ngân hàng khác nhau. Kết quả là tiền
do các ngân hàng lớn có uy tín phát hành dần dần chiếm lĩnh thị trường
và đẩy tiền của các ngân hàng nhỏ ra khỏi lưu thông. Tình trạng này đã
gây sự bất ổn định trong lưu thông tiền tệ và Nhà nước buộc phải can
thiệp nhằm thiết lập trật tự và thống nhất cho việc phát hành tiền. Kết quả
của sự can thiệp là các ngân hàng được chia thành hai bộ phận:

244
- Bộ phận thứ nhất là các ngân hàng được phép phát hành tiền giấy,
được gọi là các ngân hàng phát hành.
- Bộ phận thứ hai bao gồm các ngân hàng không được phép phát
hành tiền mà chỉ làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán trong
nền kinh tế, được gọi là các ngân hàng trung gian.
Ở Anh Quốc, năm 1826 ngân hàng cổ phần tư nhân Anh quốc được
phép độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng trong phạm vi London với
bán kính 65 dặm, những ngân hàng khác muốn được quyền phát hành
tiền phải ở ngoài phạm vi nói trên. Đến năm 1833, Ngân hàng Anh Quốc
được độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng trên toàn xứ Anh
(England), và đến năm 1844, ngân hàng này được độc quyền phát hành
giấy bạc ngân hàng trên toàn vương quốc Anh.
Ở Hoa Kỳ, năm 1864, để giới hạn bớt quyền phát hành của các ngân
hàng, Quốc hội Hoa Kỳ áp dụng chế độ đánh thuế trên các loại giấy bạc
do ngân hàng phát hành ra. Mức thuế đầu tiên áp dụng là 1%, rồi tăng lên
2%, và năm 1865 là 10%. Đến năm 1914, Quốc hội Hoa Kỳ nhập 12
ngân hàng lớn nhất nước Mỹ thành hệ thống dự trữ liên bang và giao
cho nó được độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng trên toàn đất Mỹ.
* Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến nay
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã để lại nhiều bài
học quý giá về việc phát hành tiền tệ và tác động của chính sách tiền tệ
đến các động thái của nền kinh tế vĩ mô như sự tăng trưởng và suy thoái,
thất nghiệp và hữu nghiệp, ổn định giá cả và lạm phát,… Lúc này, Nhà
nước của các quốc gia nhìn thấy vai trò cực kỳ to lớn của ngân hàng phát
hành độc quyền thâu tóm nó để nắm lấy một phương tiện cơ bản của nền
kinh tế thị trường, đó là tiền tệ để giải quyết những bất ổn của nền kinh
tế. Giải pháp cho vấn đề này là các nước lần lượt quốc hữu hoá ngân
hàng phát hành độc quyền. Ví dụ, ở Canada, việc quốc hữu hoá ngân
hàng phát hành đã được thực hiện vào năm 1938, Đức năm 1939, Pháp
và Anh năm 1946.
Trong giai đoạn này, khái niệm NHTW đã ra đời thay thế cho khái
niệm “Ngân hàng phát hành độc quyền”. Đây không chỉ thay đổi thuần

245
tuý về tên gọi, mà còn bao hàm cả sự thay đổi về chức năng hoạt động.
Nếu ngân hàng phát hành độc quyền chức năng phát hành giấy bạc vào
lưu thông thì NHTW, ngoài chức năng đó, còn có chức năng quản lý Nhà
nước về hoạt động tiền tệ - tín dụng - ngân hàng. Tuy nhiên, ở một số
nước vẫn tồn tại ngân hàng thực hiện chức năng phát hành và quản lý vĩ
mô về tiền tệ - tín dụng - thanh toán nhưng không thuộc sở hữu Nhà
nước mà vẫn do tư nhân nắm giữ.
Cũng trong thời kỳ đó, các ngân hàng trung gian phát triển mạnh ở
các nước Âu - Mỹ, các nước thuộc địa, bán thuộc địa ở các châu lục Á,
Phi và Mỹ - La tinh. Các ngân hàng này có thể tổ chức dưới hình thức
một công ty kinh doanh đa năng, đa ngành, đa lĩnh vực hoặc chỉ chuyên
hoạt động ở một lĩnh vực, một ngành kinh tế như: ngân hàng thương mại,
ngân hàng đầu tư, ngân hàng địa ốc... Với xu hướng khuyến khích cạnh
tranh, chống độc quyền và nhất thể hóa các thị trường tài chính, việc tổ
chức thành các ngân hàng kinh doanh tổng hợp (gọi chung là ngân hàng
thương mại) đã trở thành một xu thế phổ biến trên thế giới.
Thời kỳ đầu, các ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động
như: nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc có thời hạn ngắn, cho vay ngắn
hạn và thực hiện các dịch vụ thanh toán. Về sau, ngân hàng thương mại
mở rộng các nghiệp vụ huy động vốn với thời gian dài hơn, thực hiện các
khoản tín dụng trung, dài hạn và đầu tư tài chính. Cùng với sự ra đời của
thị trường tài chính, để thích ứng với môi trường mới, ngân hàng thương
mại phát triển theo hướng tổng hợp với nghiệp vụ kinh doanh ngày càng
đa dạng. Theo xu hướng phát triển đó, NHTM tồn tại ở nhiều hình thức
sở hữu khác nhau như: NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần, NHTM liên
doanh, chi nhánh NHTM nước ngoài, NHTM tư nhân.
Như vậy, từ thế kỷ XX đến nay, hệ thống ngân hàng ở hầu hết các
nước được phân thành hệ thống ngân hàng hai cấp: ngân hàng trung
ương và ngân hàng thương mại.
9.1.3. Sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam
Trước thế kỷ XIX, nền kinh tế Việt Nam còn kém phát triển, sản xuất
kinh doanh nhỏ lẻ nên quy mô vốn không lớn, quan hệ mậu dịch quốc tế

246
kém phát triển. Vì vậy, ở Việt Nam hầu như chưa có hoạt động ngân hàng,
trong giai đoạn này nghề kinh doanh tiền tệ kém phát triển, hoạt động tự
phát, phân tán, chủ yếu là hoạt động đổi tiền và cho vay nặng lãi.
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, cùng với việc xâm chiếm và thống trị của
thực dân Pháp, ở Việt Nam đã xuất hiện những ngân hàng hiện đại như
Ngân hàng Đông Dương với tư cách là ngân hàng phát hành và một số
các NHTM do người nước ngoài và người Việt Nam sở hữu như ngân
hàng Pháp - Hoa, ngân hàng Hồng Kông - Thượng Hải, ngân hàng An
Nam... Các NHTM này cùng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam tuy
không hợp thành một hệ thống thống nhất nhưng đều phải tuân theo luật
pháp của chính quyền thực dân Pháp.
Từ năm 1945 đến năm 1975, trên đất nước Việt Nam tồn tại hai hệ
thống ngân hàng thuộc hai chế độ chính trị khác nhau. Một hệ thống
ngân hàng của chính quyền cách mạng, một hệ thống ngân hàng của
chính quyền thực dân Pháp và chính quyền Nam Việt Nam.
Sau cách mạng tháng 8/1945 do thực dân Pháp quay trở lại xâm
lược Việt Nam, nên hệ thống ngân hàng của chính quyền thực dân Pháp
vẫn được duy trì ở Việt Nam. Từ tháng 5/1955 đến tháng 4/1975, chính
quyền Nam Việt Nam đã tạo dựng một hệ thống ngân hàng của nền kinh
tế thị trường. Hệ thống ngân hàng này được phân chia thành hai cấp rõ
rệt: ngân hàng quốc gia Việt Nam đóng vai trò là ngân hàng trung ương
và các ngân hàng thương mại cùng các tổ chức tín dụng phi ngân hàng
thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Đến 30/4/1975, hệ
thống ngân hàng của chính quyền Nam Việt Nam sụp đổ hoàn toàn.
Hoạt động tiền tệ, tín dụng của chính quyền cách mạng được hình
thành ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập với
các định chế như: Nông nghiệp tín dụng thuộc Bộ Canh nông (1945),
kinh tế tín dụng thuộc Bộ Kinh tế (1945), Nha tín dụng sản xuất (1947).
Ngày 6/5/1951 Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập. Đến
tháng 9/1960 đổi tên thành ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam được tổ chức theo mô hình một cấp, tức là vừa quản
lý, vừa kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và thanh toán.

247
Như vậy, từ năm 1945 đến 1975 trên đất nước Việt Nam tồn tại hai hệ
thống ngân hàng thuộc hai chế độ chính trị khác nhau: một hệ thống ngân
hàng của chính quyền cách mạng, một hệ thống ngân hàng của chính
quyền thực dân Pháp và giai đoạn sau là chính quyền Nam Việt Nam.
Ngày 26/3/1988, bằng Quyết định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ), hệ thống ngân hàng Việt Nam có sự chuyển
đổi sâu sắc từ hệ thống ngân hàng một cấp của nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, thành hệ thống ngân hàng hai cấp của nền kinh tế thị trường.
Đó là ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại.

9.2. NG¢N HµNG TH¦¥NG M¹I


9.2.1. Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại
9.2.1.1. Chức năng của ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại có các chức năng cơ bản sau:
a. Chức năng trung gian tín dụng
Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay.
Điều đó chứng tỏ rằng một trong các chức năng quan trọng của ngân
hàng thương mại là làm trung gian tín dụng. Ngân hàng thương mại thực
hiện chức năng trung gian tín dụng khi nó đóng vai trò là cầu nối giữa
những người có vốn dư thừa (người cho vay) và những người có nhu cầu
về vốn (người đi vay).
Thông qua việc huy động, khai thác các khoản vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay để cấp
tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này ngân hàng thương mại vừa
đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay.
Chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng được mô tả qua sơ đồ sau:

Chủ thể cung vốn Huy Cho Chủ thể cầu vốn
- Hộ gia đình, cá nhân động vay - Các tổ chức kinh tế
Ngân hàng
vốn
- Các tổ chức xã hội thương - Nhà nước
- Các tổ chức kinh tế mại - Các tổ chức xã hội
- Nhà nước - Hộ gia đình, cá nhân

248
Thứ nhất, với tư cách là người đi vay, ngân hàng thương mại huy
động các nguồn vốn từ các chủ thể tiết kiệm, có vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế thông qua các nghiệp vụ:
+ Nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm của các
tổ chức, cá nhân.
+ Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động vốn trong
xã hội.
+ Vay vốn của ngân hàng trung ương và các tổ chức tài chính khác.
Thứ hai, với tư cách là người cho vay, ngân hàng thương mại cấp tín
dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho các chủ thể trong nền kinh tế - xã hội
thông qua các nghiệp vụ:
+ Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
+ Chiết khấu chứng từ có giá
+ Các hình thức cấp tín dụng khác.
Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đã góp
phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia, bao gồm: Người gửi tiền,
người vay tiền và bản thân ngân hàng thương mại, đồng thời thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế.
Đối với người có vốn nhàn rỗi (người gửi tiền), họ thu lợi từ khoản
tiền tạm thời nhàn rỗi của mình dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng
trả cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho sự an toàn về khoản tiền
đó và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn để kinh
doanh, đáp ứng nhu cầu chi tiêu, thanh toán mà không phải chi phí nhiều
cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
Đối với ngân hàng thương mại, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ
chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Lợi nhuận này
chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
Đối với nền kinh tế, thông qua chức năng này ngân hàng thương mại
đã góp phần bổ sung thêm một kênh điều chuyển các nguồn vốn cho nền

249
kinh tế, làm phong phú thêm hệ thống các kênh dẫn vốn, phục vụ và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm cho người lao động.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng
nhất của ngân hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng
thương mại là đi vay để cho vay, nó quyết định sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng thương mại. Đồng thời chức năng trung tín dụng cũng là
cơ sở để thực hiện các chức năng khác.
b. Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán
khi nó thực hiện các yêu cầu thanh toán của khách hàng. Khi thực hiện
chức năng này, thông thường các ngân hàng thương mại trích một khoản
tiền trong tài khoản tiền gửi để thanh toán tiền hàng hoặc nhập vào một
khoản tiền gửi của khách hàng từ bán hàng hoá hoặc các khoản thu khác
theo lệnh của họ.
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại
trở thành thủ quỹ cho khách hàng. Trên thực tế, khi việc thanh toán trực
tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể trong nền kinh tế gặp nhiều hạn chế
và rủi ro cao, đã tạo nên nhu cầu và gia tăng khối lượng thanh toán qua
ngân hàng.
Chức năng trung gian thanh toán được thể hiện qua sơ đồ sau:

Yêu cầu Ngân Yêu cầu thanh toán


Người Người
hàng
trả thụ
thanh thương Kết quả thanh toán
tiền hưởng
toán mại

Khi thực hiện chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng thương
mại thường thực hiện các nghiệp vụ cơ bản sau:
- Mở tài khoản tiền gửi giao dịch cho khách hàng: các tổ chức, cá
nhân có nhu cầu đều có quyền mở tài khoản giao dịch tại bất kỳ một
ngân hàng thương mại nào mà họ cho là thuận tiện. Các ngân hàng
thương mại có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu mở tài khoản giao dịch cho
khách hàng khi họ đáp ứng các yêu cầu theo quy định về việc mở và sử

250
dụng tài khoản giao dịch tại ngân hàng. Chức năng trung gian thanh toán
của ngân hàng thương mại chỉ được thực hiện khi các khách hàng tham
gia có tài khoản giao dịch tại ngân hàng. Do vậy, thủ tục mở tài khoản
phải chặt chẽ nhưng đơn giản, đảm bảo bí mật, an toàn cho khách hàng.
- Quản lý và cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách hàng:
thanh toán qua ngân hàng là phương thức thanh toán không dùng tiền
mặt, nó được thực hiện thông qua việc phản ánh trên sổ sách ngân hàng.
Do đó, các chứng từ dùng làm căn cứ hạch toán vào sổ sách phải chuẩn
xác do ngân hàng cung cấp và kiểm soát, có như vậy mới đảm bảo cho
quá trình thanh toán được nhanh chóng, an toàn và chính xác. Vì vậy,
ngân hàng thiết kế và cung cấp cho khách hàng các phương tiện thanh
toán khác nhau như: giấy chuyển tiền, uỷ nhiệm chi, séc, thư tín
dụng,… Những phương tiện này vừa phải đáp ứng yêu cầu quản lý và
kiểm soát chặt chẽ, đồng thời vừa phải đáp ứng yêu cầu linh hoạt, tiện lợi
và dễ sử dụng.
- Tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách hàng: Để
đảm bảo yêu cầu thanh toán nhanh chóng, an toàn, chính xác và tiện lợi,
ngân hàng phải tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách
hàng. Tuỳ theo từng phương thức thanh toán sẽ có những quy trình khác
nhau, khách hàng cảm nhận được những tiện ích và ưu điểm của từng
phương thức để lựa chọn cho từng giao dịch thanh toán thích hợp.
Những dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại ngày càng
được ưa chuộng vì nó đem lại sự thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết
kiệm chi phí cho các chủ thể trong nền kinh tế.
Việc các ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý
nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế, cụ thể:
Đối với khách hàng của ngân hàng thương mại, nhờ các công cụ
thanh toán do NHTM phát hành ngày càng đa dạng (séc, thẻ thanh
toán, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi...) mà khách hàng có thể lựa chọn
được một phương tiện thanh toán thích hợp, hạn chế được những rủi ro
do việc nắm giữ và thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt và mang lại
nhiều tiện ích khác.

251
Đối với ngân hàng thương mại, khi thực hiện chức năng này sẽ tạo
điều kiện tăng thêm thu nhập từ cung cấp dịch vụ thanh toán vừa huy
động thêm nguồn vốn để cho vay (số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng).
Đối với nền kinh tế, nhờ thanh toán chuyển khoản qua ngân hàng đã
giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí lưu thông
tiền mặt như in ấn, tiếp nhận và bảo quản tiền mặt, qua đó góp phần giảm
chi phí cho xã hội. Đồng thời ngân hàng thương mại góp phần giám sát
kỷ luật tài chính, giữ gìn kỷ cương kinh tế - tài chính trong toàn xã hội.
c. Chức năng tạo tiền ghi sổ (bút tệ)
Khi có sự phân hóa trong hệ thống ngân hàng, hình thành ngân hàng
trung ương và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không
còn thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng nữa. Tuy vậy, với
chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán, ngân
hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền ghi sổ (bút tệ) thể hiện trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại.
Đây chính là một bộ phận của lượng tiền đang được sử dụng trong các
giao dịch.
Từ khoản tiền gửi ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển
khoản, các ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra số tiền gửi gấp
nhiều lần số tiền gửi ban đầu. Mức tạo tiền gửi phụ thuộc vào số tiền gửi
ban đầu và hệ số tạo tiền. Hệ số này lại phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt
buộc do ngân hàng trung ương quy định trong từng thời kỳ đối với từng
loại tiền gửi.
Khi chỉ có một NHTM thì khả năng tạo tiền của ngân hàng này sẽ
không được phép cho vay vượt quá đối với một khoản tiền gửi ban đầu.
Tuy nhiên, khi có sự tham gia của cả hệ thống NHTM thì khả năng tạo
tiền của một hệ thống được mở rộng hơn.
Quá trình tạo bút tệ của NHTM có thể được mô tả qua ví dụ sau:
Khách hàng A mang đến NHTM gửi không kỳ hạn một số tiền là
200 triệu đồng. Như vậy tiền gửi của khách hàng và tiền mặt tại NHTM
tăng lên 200 triệu đồng.

252
Tài sản có NHTM X Tài sản nợ

Tiền mặt tại quỹ: 200 trđ Tiền gửi của A: 200 trđ

Giả sử tỉ lệ dự trữ bắt buộc do NHTW quy định đối với tiền gửi
không kỳ hạn là 10%. Khi đó, NHTM X có thể cho vay ra tối đa là 180 trđ.
Nếu khách hàng B vay hết số tiền này và sử dụng để thanh toán cho C thì
tình hình tại NHTM X diễn ra như sau:

Tài sản có NHTM X Tài sản nợ

- Dự trữ bắt buộc: 20 trđ - Tiền gửi của A: 200 trđ


- Cho B vay: 180 trđ

Nếu khách hàng C mở tài khoản tại NHTM Y thì tình hình tại
NHTM Y như sau:
Tài sản có NHTM Y Tài sản nợ

- Tiền gửi qua chuyển khoản 180 trđ - Tiền gửi của C: 180 trđ

Trên số tiền gửi nhận được, NHTM Y dự trữ bắt buộc 10% tức là
18 trđ và có thể cho vay tối đa 162 trđ. Giả sử khách hàng D vay số tiền
này để trả nợ cho E và E mở tài khoản tại NHTM Z, ta có:
Tài sản có NHTM Y Tài sản nợ

- Dự trữ bắt buộc: 18 trđ - Tiền gửi của C: 180 trđ


- Cho E vay: 162 trđ

Tài sản có NHTM Z Tài sản nợ

- Tiền gửi qua chuyển khoản: 162 trđ - Tiền gửi của E: 162 trđ

Đến lượt NHTM Z cho vay tình hình cũng diễn ra tương tự. Vì các
NHTM phải thực hiện dự trữ bắt buộc tại NHTW, nên số gia tăng tiền
gửi và cho vay giảm dần và đi đến triệt tiêu.
Như vậy sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và trung
gian thanh toán là cơ sở để NHTM thực hiện chức năng tạo tiền. Thông
qua chức năng trung gian tín dụng NHTM sử dụng số tiền huy động để

253
cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để thanh toán tiền
hàng hóa dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử
dụng để mua hàng hóa, dịch vụ.
Việc tạo tiền của NHTM có ý nghĩa kinh tế to lớn, nó mở ra
những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của quá trình sản xuất, đáp
ứng nhu cầu sử dụng tiền của xã hội bên cạnh lượng tiền mặt do
NHTW phát hành.
Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ,
bổ sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức
năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng khác. Đồng
thời khi ngân hàng thương mại thực hiện tốt chức năng trung gian thanh
toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở
rộng hoạt động tín dụng.

9.2.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại


a. Ngân hàng thương mại là nơi tập trung huy động các nguồn tiền
trong xã hội để đáp ứng các nhu cầu vốn trong nền kinh tế và góp phần
nâng cao hiệu quả kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, để mở rộng qui mô sản xuất kinh
doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn để có thể
tăng cường đầu tư, đổi mới thiết bị và công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật hiện đại. Trong điều kiện đó, với chức năng trung gian tín
dụng, các ngân hàng thương mại đã huy động, tập trung các nguồn tiền
nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn thiếu hụt
cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể nhanh chóng thực hiện được
kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, các ngân hàng
thương mại còn cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng
khác nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh
doanh. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của họ.

254
b. Ngân hàng thương mại góp phần phân bổ hợp lý các nguồn lực giữa
các vùng trong quốc gia và tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế
Với chức năng trung gian tín dụng, các ngân hàng thương mại trở
thành cầu nối giữa người cung vốn và người cầu vốn, vốn sẽ được di
chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu và từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang
nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Qua đó, một mặt, ngân hàng thương mại
góp phần hình thành, duy trì và phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu
ngành và khu vực nhất định. Mặt khác, các ngân hàng thương mại góp
phần điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển mất cân đối
hoặc khi cần có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường.
c. Ngân hàng thương mại tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính
sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về ngân hàng trung ương.
Tuy nhiên, để thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương phải sử
dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, thị trường mở,… mà các
ngân hàng thương mại lại chính là các chủ thể chịu sự tác động trực tiếp
của các công cụ này. Các ngân hàng thương mại đóng vai trò cầu nối
trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh
tế. Bởi vì hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại thường gắn
liền với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và
các chủ thể khác trong nền kinh tế (thông qua hoạt động huy động vốn,
cho vay, thanh toán, và các dịch vụ khác của ngân hàng). Mặt khác, cũng
qua ngân hàng thương mại, tình hình giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu
tiền mặt, lãi suất tỷ giá của nền kinh tế sẽ được phản hồi về ngân hàng
trung ương, để Chính phủ và ngân hàng trung ương có những chính sách
điều tiết thích hợp.
9.2.2. Phân loại ngân hàng thương mại
Có rất nhiều căn cứ để tiến hành phân loại ngân hàng thương mại.
Sau đây là một số căn cứ tiêu biểu:
a. Căn cứ vào phạm vi hoạt động và tính chất kinh tế
- NHTM chuyên doanh: Là những NHTM hoạt động kinh doanh trên
từng lĩnh vực kinh tế - xã hội cụ thể như: nông nghiệp, công nghiệp,

255
ngoại thương, bất động sản,… Với mục đích chuyên môn hóa để phát
huy lợi thế so sánh, các ngân hàng này sẽ khai thác nghiệp vụ kinh doanh
ngân hàng trên các lĩnh vực đã lựa chọn.
- NHTM hỗn hợp: Là ngân hàng hoạt động theo hướng đa ngành, đa
lĩnh vực. Để mở rộng và phát triển, các ngân hàng từng bước đa dạng hóa
các nghiệp vụ ngân hàng nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Xu thế này
đã làm cho phần lớn các ngân hàng hiện nay tồn tại và hoạt động dưới
dạng là các ngân hàng hỗn hợp. Do yếu tố lịch sử, tên gọi của một số
ngân hàng có thể là chuyên doanh nhưng hoạt động lại mang tính chất là
ngân hàng hỗn hợp.
b. Căn cứ vào tính chất sở hữu
Theo tính chất sở hữu, người ta phân NHTM thành NHTM công
(còn gọi là NHTM Nhà nước hay NHTM quốc doanh) và NHTM tư.
- NHTM công: Là các ngân hàng thương mại do Nhà nước đầu tư
vốn điều lệ, thành lập và tổ chức hoạt động kinh doanh.
Hoạt động của các NHTM Nhà nước vừa nhằm mục đích lợi nhuận,
vừa để thực hiện ý chí quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng, thanh toán và tạo nguồn thu cho ngân sách.
- NHTM tư: Là loại hình NHTM do tư nhân góp vốn để thành lập.
9.2.3. Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
a. Tạo lập vốn
NHTM là một loại hình doanh nghiệp, bởi vậy muốn thực hiện và
mở rộng các hoạt động kinh doanh, nó phải tạo lập được nguồn vốn. Vốn
của NHTM được tạo lập từ các nguồn sau:
- Vốn chủ sở hữu:
Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn kinh doanh của
NHTM (thông thường từ 5- 10%), song nó có ý nghĩa quan trọng: là cơ
sở để thu hút nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng
đối với khách hàng, sử dụng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
ngân hàng. Đồng thời, vốn tự có còn là cơ sở xác định hệ số an toàn

256
trong kinh doanh của ngân hàng thương mại. Thành phần vốn chủ sở hữu
của ngân hàng thương mại gồm:
+ Vốn điều lệ
Vốn điều lệ là vốn đầu tư ban đầu của chủ ngân hàng. Vốn điều lệ
được ghi trong bản điều lệ của ngân hàng. Vốn điều lệ phải đạt mức tối
thiểu theo quy định của pháp luật và được gọi là vốn pháp định. Tùy vào
từng loại hình ngân hàng mà Chính phủ quy định mức vốn pháp định
khác nhau.
+ Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
NHTM có thể gia tăng vốn theo phương thức khác nhau và tuân thủ
theo quy định của pháp luật. Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động kinh
doanh của NHTM bao gồm: bổ sung vốn từ nguồn lợi nhuận và bổ sung
từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm.
+ Các quỹ của NHTM
Trong quá trình hoạt động các NHTM không thể thiếu các quỹ như
quỹ thặng dư cổ phần, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo tồn vốn, quỹ khen
thưởng, quỹ phúc lợi...
- Vốn tiền gửi:
Đây là nguồn vốn được hình thành thông qua hoạt động huy động
tiền gửi nhàn rỗi của các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế, bao gồm:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể
rút ra bất cứ lúc nào. Do tính chất có thể rút ra bất cứ lúc nào nên loại
tiền gửi này thường chỉ được hưởng lãi suất rất thấp nhưng bù lại người
gửi tiền có thể sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với loại
tiền gửi này, người gửi không nhằm mục đích hưởng lãi mà chủ yếu là
nhằm đảm bảo an toàn cho khoản tiền và thực hiện các hoạt động thanh
toán qua ngân hàng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà người gửi chỉ được rút ra
sau một thời gian nhất định. Mức lãi suất của loại tiền gửi này thường
cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn nhưng người gửi tiền không được

257
hưởng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Mục đích chủ yếu của người
gửi tiền là để hưởng lãi. Nếu rút tiền trước hạn, về nguyên tắc người
gửi tiền không được hưởng lãi nhưng để cạnh tranh giữa các ngân
hàng thì thường các ngân hàng vẫn trả lãi cho khách hàng với lãi suất
không thời hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi
tiền vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi theo định kỳ. Có thể là loại
gửi tiết kiệm có sổ hoặc chứng chỉ tiết kiệm. Ở Việt Nam, tiền gửi tiết
kiệm bao gồm ba loại: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm
có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có mục đích (ví dụ gửi tiết kiệm để mua nhà
thì khi mua nhà được vay thêm của ngân hàng với số tiền vay tối đa bằng
số dư tiền gửi).
Sở dĩ phải tách riêng tiền gửi tiết kiệm ra mà không xếp vào hai loại
tiền gửi trên (tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn mặc dù tính
chất của chúng rất giống nhau), vì đây là tiền tiết kiệm của các tầng lớp
dân cư, là tài sản tích lũy của quốc gia, và được xem là nguồn vốn nội
lực cần được bảo vệ. Vì vậy, NHTW thường bắt buộc các NHTM phải
mua bảo hiểm tiền gửi cho loại này, đồng thời quy định các công ty tài
chính không được huy động loại tiền gửi này.
Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là nguồn vốn quan
trọng nhất của NHTM. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định vì NHTM
xác định được kỳ hạn luân chuyển của nó cho nên có thể chủ động cho
vay với các kỳ hạn khác nhau.
Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của NHTM, đây là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Nó
phản ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay.
- Vốn vay:
Trong quá trình hoạt động, NHTM còn có thể vay vốn từ NHTW
hay các tổ chức tín dụng khác hoặc từ thị trường tài chính trong và
ngoài nước.

258
+ Vay từ NHTW:
Bất kỳ NHTM nào khi được NHTW cho phép thành lập và hoạt
động đều được vay vốn tại NHTW trong trường hợp thiếu hụt dự trữ hay
thiếu tiền mặt. NHTW cấp tín dụng cho các NHTM chủ yếu dưới các
hình thức: Chiết khấu hay tái chiết khấu các chứng từ có giá; cho vay thế
chấp hay ứng trước.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng các hình thức cấp
tín dụng sau: chiết khấu, tái chiết khấu chứng từ có giá ngắn hạn; cho vay
có đảm bảo bằng cầm cố chứng từ có giá; cho vay lại theo hồ sơ tín dụng
(thường là các hồ sơ tín dụng hỗ trợ theo yêu cầu).
+ Vay vốn của NHTM và các tổ chức tín dụng khác:
Các NHTM có thể vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân
hàng. Đây là hình thức luân chuyển vốn cho nhau trong một thời gian
ngắn với mức lãi suất hợp lý để đảm bảo mức dự trữ tiền gửi theo quy
định và đáp ứng nhu cầu ngân quỹ đột xuất của các NHTM. Trong quá
trình hoạt động, một NHTM có thể tạm thời thiếu vốn để thực hiện nghĩa
vụ với khách hàng, trong khi đó có những NHTM đang có dự trữ vượt
yêu cầu do tiền huy động tăng và có chính sách giảm cho vay trong một
khoảng thời gian. Chính vì vậy, đây là hoạt động hết sức quan trọng để
đảm bảo khả năng thanh khoản của các NHTM.
+ Phát hành các chứng từ có giá:
Các NHTM có thể chủ động phát hành các loại chứng từ có giá để
huy động vốn như kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi có khả năng
chuyển nhượng.
- Các nguồn vốn khác: Vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn ủy
thác đầu tư để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng...
b. Sử dụng vốn (cho vay và đầu tư)
* Hoạt động cho vay: Là hoạt động sinh lợi chủ yếu của NHTM,
thực chất đây là quá trình NHTM cấp tín dụng cho khách hàng, theo đó
NHTM giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và
một thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc
và lãi. Các NHTM có thể cho vay theo các phương thức cơ bản sau:

259
- Cho vay từng lần: Là phương thức cho vay mà mỗi lần vay vốn,
người vay và NHTM đều làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp
đồng tín dụng. Từng khoản vay tương ứng với một hợp đồng tín dụng và
một phương án sử dụng vốn cụ thể.
Theo phương thức này, khi có nhu cầu vay vốn khách hàng sẽ lập hồ
sơ xin vay. Căn cứ vào hồ sơ xin vay, NHTM sẽ phân tích khách hàng và
ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời
hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo tiền vay. NHTM sẽ phát tiền vay
cho người vay dựa vào hợp đồng tín dụng, phù hợp với tiến độ và yêu
cầu sử dụng vốn của người vay. Tiền vay có thể chuyển thẳng cho người
thụ hưởng (căn cứ vào chứng từ thanh toán) hoặc chuyển vào tài khoản
tiền gửi của người vay hoặc phát tiền mặt cho người vay, mỗi lần nhận
tiền vay người vay phải lập “Giấy nhận nợ”. Trên giấy nhận nợ phải ghi
thời hạn cho vay, không vượt thời hạn nợ ghi trên hợp đồng, tổng số tiền
cho vay trên các giấy nhận nợ không được vượt quá số tiền cho vay trong
hợp đồng. Theo từng kỳ hạn trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và
lãi. Nếu người vay không đủ tiền để trả và không được ngân hàng chấp
nhận điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và gia hạn nợ, ngân hàng được quyền
chuyển số nợ phải trả nhưng chưa trả được sang nợ quá hạn với mức lãi
suất cao hơn.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là phương thức cho vay trong đó
việc cho vay và thu nợ được thực hiện phù hợp với quá trình luân chuyển
vật tư hàng hóa của người vay, với điều kiện mức dư nợ tại bất kỳ thời
điểm nào trong thời hạn đã ký kết không được phép vượt quá hạn mức
tín dụng đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Theo phương thức này, khi chấp nhận cho vay, ngân hàng và khách
hàng sẽ ký hợp đồng tín dụng theo kỳ (thường là quý), trong đó thể hiện
một số nội dung cơ bản sau: hạn mức tín dụng; số vòng quay vốn vay;
tổng doanh số trả nợ trong quý. Sau khi ký hợp đồng tín dụng, khách
hàng có thể vay làm nhiều lần nhưng đồng thời khi có tiền thu bán hàng,
người vay phải nộp toàn bộ vào tài khoản tiền vay để đảm bảo doanh số
trả nợ và vòng quay vốn tín dụng, phần còn lại chuyển về tài khoản tiền

260
gửi để sử dụng. Lãi vay thường được ngân hàng tính và thu vào ngày
cuối của tháng. Phương thức cho vay này thường được áp dụng với các
khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên.
- Cho vay thấu chi: Là phương thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt,
trong đó ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt quá số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán trong một hạn mức và một khoảng thời gian
nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
Khác với cho vay ứng trước, mức tín dụng thỏa thuận cho vay thấu chi
chưa phải là khoản tiền mà ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách
hàng sử dụng (chi vượt số dư) thì mới được coi là số tiền cho vay được
cấp phát và bắt đầu tính tiền lãi. Hình thức này thường áp dụng cho
những khách hàng có khả năng tài chính mạnh và có uy tín.
- Cho vay chiết khấu chứng từ: Là phương thức cho vay ngắn hạn
được thực hiện trên cơ sở các chứng từ có giá với đặc điểm là toàn bộ lãi
tiền vay được thanh toán ngay tại thời điểm cấp vốn.
Các chứng từ có giá bao gồm: các loại tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu
do Kho bạc Nhà nước, NHTW, NHTM và các tổ chức tài chính phát
hành; các loại sổ tiết kiệm có kỳ hạn, các chứng chỉ tiền gửi; bộ chứng từ
thanh toán, ...
Các chứng từ trên được chấp nhận chiết khấu nếu thỏa mãn các điều
kiện sau: được phát hành hợp pháp; phải được bảo toàn mệnh giá và có
khả năng chuyển nhượng; không bị tẩy xóa; còn trong hạn thanh toán
(chưa đáo hạn).
Thông thường, NHTM và người sở hữu chứng từ có thể thỏa thuận
lựa chọn các phương thức chiết khấu sau:
+ Chiết khấu toàn thời gian còn lại của chứng từ có giá: Là phương
thức mua hẳn giấy tờ có giá theo giá chiết khấu và khách hàng chuyển
giao ngay quyền sở hữu giấy tờ có giá đó cho ngân hàng. Khi đến hạn
thanh toán, ngân hàng có toàn quyền thanh toán với người phát hành.
+ Chiết khấu có thời hạn: Là phương thức mua các chứng từ có giá
theo thời hạn và giá chiết khấu, đồng thời kèm theo cam kết của khách
hàng về việc mua lại chứng từ có giá đó vào ngày hết hạn chiết khấu.

261
Nếu hết hạn chiết khấu mà khách hàng không thực hiện cam kết mua lại
chứng từ có giá thì ngân hàng là chủ sở hữu hợp pháp và hưởng toàn bộ
quyền lợi phát sinh từ các chứng từ có giá đó.
* Hoạt động đầu tư:
Hoạt động đầu tư của NHTM là nghiệp vụ sử dụng vốn đầu tư dưới
nhiều hình thức: đầu tư mua bán chứng khoán, đầu tư góp vốn cổ phần,
góp vốn liên doanh liên kết... Khi thực hiện hoạt động này, các NHTM
có thể sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động, đa dạng
hóa kinh doanh và phân tán rủi ro đồng thời nó cũng mang lại một trong
những nguồn thu nhập của NHTM.
c. Cung ứng dịch vụ ngân hàng
Bên cạnh hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn, các NHTM còn
cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng để tối đa hóa lợi nhuận. Thông
thường các dịch vụ chủ yếu mà NHTM cung cấp bao gồm:
* Thu đổi ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao
đổi (mua bán) ngoại tệ, tức là một ngân hàng đứng ra mua bán một loại
tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài
chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn thực
hiện vì những giao dịch này có mức độ rủi ro cao, đồng thời phải có trình
độ chuyên môn cao.
* Dịch vụ trung gian thanh toán
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng
tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần đến ngân hàng để lấy tiền mà
chỉ cần viết giấy chi trả cho khách (còn gọi là séc), khách hàng mang
giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không
dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp
phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh
nghiệp. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức
thanh toán đã phát triển như: Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, thư tín dụng, thanh
toán bằng thẻ,…

262
* Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn
và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng nên ngân hàng có
uy tín trong việc bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây,
nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng
thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và thiết bị,
phát hành chứng khoán, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác,…
* Cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính của ngân hàng có rất nhiều
chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và DN đã nhờ
ngân hàng quản lý hộ tài sản, hoạt động tài chính. Dịch vụ uỷ thác phát
triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ
thác đầu tư,…
Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài
chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính, về thành
lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
* Cung cấp dịch vụ môi giới, đầu tư chứng khoán:
Ở một số nước, ngân hàng cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không cần nhờ đến người
kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp mà điển hình
là ở Việt Nam, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc các
công ty môi giới chứng khoán để thực hiện các dịch vụ về chứng khoán.

9.3. NG¢N HµNG TRUNG ¦¥NG


9.3.1. Mô hình tổ chức Ngân hàng Trung ương
Mặc dù, Ngân hàng Trung ương (NHTW) là một định chế công quản
của Nhà nước, nhưng mối quan hệ của nó với Chính phủ không hoàn
toàn giống với các Bộ, Ngành khác của Nhà nước. Mối quan hệ này ở
các nước khác nhau cũng không giống nhau. Tuỳ thuộc vào đặc điểm ra
đời của NHTW, thể chế chính trị, nhu cầu của nền kinh tế cũng như
truyền thống văn hoá của từng quốc gia mà NHTW có thể được tổ chức
theo mô hình trực thuộc hay độc lập với Chính phủ.

263
9.3.1.1. Mô hình NHTW độc lập với Chính phủ
Mô hình NHTW độc lập với Chính phủ có thể khái quát qua sơ đồ sau:

Quốc hội

Chính phủ NHTW

Theo mô hình này, quan hệ giữa NHTW và Chính phủ là quan hệ


phối hợp. Chính phủ không được quyền can thiệp vào hoạt động của
NHTW. NHTW dựa trên chỉ tiêu về tốc độ lạm phát do Quốc hội giao có
toàn quyền quyết định về việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ,
chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất mà không bị ảnh hưởng bởi áp lực
chi tiêu của ngân sách hoặc các áp lực chính trị khác. Tuy nhiên, mức độ
độc lập của mỗi NHTW đối với Chính phủ tuỳ thuộc vào cơ chế lập pháp
và nhân sự của nó.
Các NHTW theo mô hình này là Cục dự trữ liên bang Mỹ, NHTW
Thụy Sỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật (NHTW Nhật trước đây, trực thuộc Bộ
Tài chính, tức là thuộc Chính phủ, nhưng từ tháng 6/1998 với sự cải cách
tài chính, NHTW Nhật tách ra độc lập với Chính phủ) và gần đây là
NHTW châu Âu (ECB). Xu hướng tổ chức NHTW theo mô hình này
đang ngày càng mở rộng ở các nước phát triển.
Thâm hụt ngân sách là căn bệnh kinh niên của các Chính phủ, do
vậy nếu NHTW đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, khi
thâm hụt ngân sách xảy ra, Chính phủ có thể buộc NHTW phát hành tiền
để tài trợ. Điều này dễ dẫn đến nguy cơ lạm phát, gây tổn hại lớn cho xã
hội. Khi NHTW trực thuộc Chính phủ, Chính phủ có thể vì mục tiêu kinh
tế chính trị trước mắt, chẳng hạn nhằm gây ấn tượng trước kỳ bầu cử,
khiến cho NHTW theo đuổi các mục tiêu ngắn hạn thay vì các mục tiêu,
chính sách dài hạn. Mặt khác, theo quan điểm dân chủ cổ truyền của châu
Âu thì mọi chính sách phải được phục vụ cho quyền lợi của công chúng
và phải được quyết định bởi Quốc hội - cơ quan đại diện cho quyền lực
của toàn dân chứ không phải một nhóm các nhà chính trị. Chính vì vậy,

264
NHTW có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế nên không
thể đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ mà phải do Quốc hội
kiểm soát.
Tuy nhiên, không phải tất cả các NHTW được tổ chức theo mô hình
này đều được đảm bảo sự độc lập hoàn toàn với Chính phủ khi điều hành
chính sách tiền tệ. Mức độ độc lập của mỗi NHTW phụ thuộc vào sự chi
phối của người đứng đầu Nhà nước vào cơ chế lập pháp và nhân sự của
NHTW. Tính độc lập của NHTW đối với Chính phủ thể hiện ở 3 yếu tố:
nhân sự, tài chính, nghiệp vụ. Thực tế cho thấy, sự độc lập của NHTW
đối với Chính phủ càng cao thì các biến số vĩ mô (lạm phát, tăng trưởng
kinh tế,…) sẽ càng vận động tích cực. Chính vì vậy, nhiều quốc gia đang
cố gắng thực hiện mô hình NHTW độc lập với Chính phủ.
Điểm bất lợi chủ yếu của mô hình này là khó kết hợp hài hoà giữa
chính sách tiền tệ - do NHTW thực hiện và chính sách tài khoá - do
Chính phủ chi phối để quản lý vĩ mô nền kinh tế một cách có hiệu quả.
Không có một mô hình nào có thể được coi là thích hợp cho mọi quốc
gia. Việc lựa chọn mối quan hệ thích hợp giữa NHTW và Chính phủ phải
tuỳ thuộc vào chế độ chính trị, yêu cầu phát triển của nền kinh tế, đặc
điểm lịch sử và sự phát triển của hệ thống ngân hàng từng nước. Tuy
nhiên, trong một chừng mực nào đó nó cũng bị ảnh hưởng bởi trào lưu
của thế giới.
9.3.1.2. Mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ
Mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ có thể khái quát qua sơ đồ sau

Quốc hội

Chính phủ

NHTW

265
Theo mô hình này, NHTW chịu sự chi phối trực tiếp của Chính phủ
về nhân sự, về tài chính, đặc biệt là các quyết định có liên quan đến việc
xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Các nước áp dụng mô hình này
phần lớn là các nước Đông Á (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo, Indonesia,
Việt Nam,…). Theo mô hình này, Chính phủ có thể dễ dàng phối hợp
chính sách tiền tệ của NHTW đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô
khác nhằm đảm bảo mức độ và liều lượng tác động hiệu quả của tổng thể
các chính sách đối với mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này
được xem là phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác
tiềm năng xây dựng kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển.
Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình này là NHTW sẽ mất đi sự chủ
động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Sự phụ thuộc vào Chính phủ
có thể làm cho NHTW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị
tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự lớn mạnh nhanh
chóng của các nước thuộc nhóm NIEs như: Singapo, Hàn Quốc, Đài
Loan,…nơi NHTW như một guồng máy Chính phủ là một bằng chứng
có sức thuyết phục về sự phù hợp của mô hình tổ chức này đối với văn
hóa truyền thống Á Đông.
Như vậy, giữa hai mô hình tổ chức của NHTW có những điểm khác
biệt nhất định. Trong mô hình tổ chức NHTW độc lập với Chính phủ, về
mặt xã hội NHTW là một định chế còn về phía nền kinh tế, nó là tác
nhân điều tiết, hướng dẫn và hoạch định. Trong mô hình tổ chức NHTW
trực thuộc Chính phủ, về mặt xã hội NHTW là một cơ quan hay bộ phận
cấu thành của bộ máy chính quyền, còn về phía nền kinh tế, nó là công
cụ để thực hiện chính sách kinh tế của Chính phủ.
9.3.2. Chức năng và vai trò của Ngân hàng Trung ương
9.3.2.1. Chức năng của Ngân hàng Trung ương
Ở tất cả các nước đều có một NHTW thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán và một số hoạt động ngân hàng.
Tuy nhiên, khác với tính chất quản lý Nhà nước của các Bộ và các Tổng
cục, NHTW thực hiện việc quản lý Nhà nước qua các nghiệp vụ mang
tính kinh doanh, song tính chất kinh doanh chỉ là phương tiện nâng cao

266
hiệu quả của công tác quản lý mà Nhà nước giao phó, chứ không phải là
mục đích của NHTW. Như vậy, mục đích hoạt động của NHTW không
phải là tìm lợi nhuận mà là cung ứng và điều hoà khối lượng tiền tệ, điều
khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng, kiểm soát hệ thống ngân hàng, bảo vệ
giá trị đồng tiền trong nước nhằm đảm bảo lưu thông tiền tệ ổn định, từ
đó tạo điều kiện thúc đẩy, tăng trưởng kinh tế. Để đạt được các mục tiêu
này, NHTW đảm nhận các chức năng sau:
a. Độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại đồng
thời điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông
NHTW là tổ chức độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và tiền
kim loại theo các quy định của pháp luật hoặc theo sự phê duyệt của
Chính phủ (về lượng tiền phát hành, loại tiền, các loại mệnh giá). Khối
lượng tiền mà NHTW cung ứng cho lưu thông ảnh hưởng trực tiếp đến
tổng phương tiện thanh toán cho xã hội và do đó có ảnh hưởng đến
toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, việc xác định đúng số lượng tiền cần phát
hành, thời điểm và phương thức phát hành có vai trò vô cùng quan
trọng để đảm bảo ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, mỗi
giai đoạn lịch sử khác nhau thì các nguyên tắc phát hành tiền cũng
không giống nhau.
Trước thập niên 30 của thế kỷ XX, phần lớn các nước đều thực hiện
chế độ lưu thông tiền giấy khả hoán (tiền giấy có thể tự do đổi ra vàng
theo tiêu chuẩn giá cả của nó). Do vậy việc phát hành tiền giấy trong giai
đoạn này bị ràng buộc chặt chẽ vào số lượng vàng đang có tại ngân hàng.
Cơ chế này đã tự động điều chỉnh lưu lượng tiền giấy trong lưu thông.
Lúc đầu số lượng tiền giấy lưu hành được đảm bảo bằng 100% lượng
vàng dự trữ tại ngân hàng. Dần dần, việc sử dụng tiền giấy trở nên quen
thuộc nên tiền giấy phát hành vào lưu thông có thể vượt lượng vàng dự
trữ nhưng vẫn nằm trong một tỷ lệ khống chế nhất định của Nhà nước.
Thời kỳ này, lưu thông tiền tệ đã trải qua 2 chế độ dự trữ vàng:
- Chế độ dự trữ vàng cố định: mức dự trữ vàng so với giấy bạc ngân
hàng phát hành vào lưu thông theo tỉ lệ 1/1. Điển hình là Anh.

267
- Chế độ dự trữ vàng linh hoạt: lượng vàng dự trữ của ngân hàng
phát hành bằng một tỷ lệ nhất định so với lượng giấy bạc được phát hành
vào lưu thông, thường từ 25% - 40%. Ví dụ Thụy Sĩ quy định tỷ lệ dự trữ
vàng là 40%.
Từ thập niên 30 của thế kỷ XX trở đi, phần lớn các nước đã lần lượt
cắt đứt mối quan hệ giữa tiền giấy với vàng. NHTW đảm nhận chức năng
phát hành tiền trên một cơ sở rộng rãi hơn, đó là dựa vào nhu cầu thực tế
của nền kinh tế và trực tiếp là phát hành tiền có bảo đảm bằng giá trị
hàng hoá thông qua cơ chế tín dụng. Đây là cơ sở của việc phát hành tiền
tệ ngày nay.
Theo chế độ này, việc phát hành tiền của NHTW được thực hiện trên
cơ sở tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng.
Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng phát hành tiền vào lưu
thông theo nhu cầu tiền tệ phát sinh do tăng trưởng kinh tế đòi hỏi, thông
qua cơ chế tín dụng ngắn hạn và được đảm bảo bằng giá trị hàng hoá thể
hiện trên kỳ phiếu thương mại và các chứng từ nợ khác. Vì vậy, tiền phát
hành vào lưu thông được đảm bảo bằng khối lượng hàng hoá, dịch vụ;
làm cho tổng khối lượng tiền tệ phù hợp với tổng giá trị hàng hoá và dịch
vụ trên thị trường. Mặt khác, việc phát hành tiền thông qua cơ chế tín
dụng còn giúp ngân hàng xác định được thời hạn tiền quay trở về nơi
phát hành, ngăn chặn hiện tượng lạm phát, đồng thời tạo điều kiện cho
NHTW thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền tệ cung ứng theo nhu
cầu của mục tiêu ổn định tiền tệ. Tuy nhiên trên thực tế, không có sự bảo
đảm chắc chắn rằng lúc nào việc phát hành tiền cũng được dựa trên cơ sở
hàng hoá thực có trong lưu thông. Nếu việc phát hành tiền được dựa trên
cơ sở các chứng từ thương mại khống sẽ làm khối lượng tiền phát hành
lớn hơn khối lượng hàng hoá có trong lưu thông gây nên hiện tượng lạm
phát trong nền kinh tế.
Khi đưa tiền vào lưu thông, các chủ thể có thể phát hành các loại
tiền: giấy bạc ngân hàng, tiền đúc bằng kim loại, bút tệ và các chứng
khoán có tính thanh khoản cao. Tuy nhiên, lượng giấy bạc ngân hàng
luôn là loại tiền cơ bản nhất. Do đó để đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền

268
mặt, NHTW thường phải in hoặc đúc sẵn một số lượng tiền tệ nhất định
để dự trữ. Thông thường, khối lượng tiền dự trữ này gồm những loại tiền
có hình dáng, kích cỡ, màu sắc, mệnh giá,... hoàn toàn giống tiền đang
lưu hành (thường chỉ khác số sêri, năm in ấn,...). Loại dự trữ này dùng để
thay thế những đồng tiền trong lưu thông bị rách nát, dơ bẩn. Trong
trường hợp tiền đang lưu hành có triệu chứng mất giá nghiêm trọng hoặc
bị làm giả cần phải thay thế bằng tiền mới thì khối lượng tiền dự trữ còn
có thể bao gồm những loại tiền có hình dáng, kích cỡ, hoa văn, màu sắc,
mệnh giá,... khác những đồng tiền đang lưu hành.
Tuy giấy bạc ngân hàng không phải là thành phần duy nhất cũng
chưa hẳn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng tiền cung ứng nhưng lại là
yếu tố chi phối quyết định đến các thành phần tiền khác của các khối
tiền. Cụ thể, các NHTM không thể tạo tiền nếu không có giấy bạc ngân
hàng từ NHTW. Những phương tiện chuyển tải giá trị do Nhà nước và
các doanh nghiệp phát hành thì tính thanh khoản thấp hơn so với giấy
bạc ngân hàng. Mặt khác, với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước về
lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán và hoạt động ngân hàng, NHTW
nắm trong tay các công cụ thực thi chính sách tiền tệ, qua đó có thể điều
tiết khả năng cung ứng của các chủ thể khác. Bởi thế, hoạt động cung
ứng tiền của NHTW tác động một cách trực tiếp đến độ tăng, giảm của
tổng cung tiền tệ trong nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến cả sản xuất và
tiêu dùng.
Trong điều kiện lưu thông tiền khả hoán thì khối lượng tiền trên thực
tế sẽ phù hợp với nhu cầu của lưu thông hàng hóa một cách tự phát thông
qua cơ chế đúc và đổi tiền tự do. Ngày nay, thời đại của lưu thông tiền
giấy bất khả hoán, bản thân tiền giấy không thể tự điều tiết được giữa
chức năng phương tiện trao đổi và thanh toán với chức năng phương tiện
cất trữ giá trị. Do đó, việc phát hành giấy bạc ngân hàng của NHTW phải
đảm bảo phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế cả về số lượng lẫn cơ cấu
cũng như yêu cầu quản lý vĩ mô. Đồng thời, NHTW cần phải kiểm soát
toàn bộ khối lượng tiền cung ứng, tổ chức công tác điều hòa lưu thông
tiền tệ, kiểm soát quá trình tạo tiền của các NHTM nhằm vừa đảm bảo đủ

269
phương tiện trao đổi và thanh toán, vừa đảm bảo kiểm soát lạm phát trên
cơ sở các căn cứ như: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát,
tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế, thực trạng thu chi ngân sách
Nhà nước, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng
giai đoạn,...
b. Ngân hàng của các ngân hàng
Khi nghiên cứu về quá trình ra đời của NHTW chúng ta thấy rằng:
để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ - tín dụng - ngân
hàng và thanh toán, NHTW đã từ bỏ các mối quan hệ tiền tệ - tín dụng -
ngân hàng và thanh toán với công chúng, NHTW chỉ thực hiện chức
năng ngân hàng đối với các NHTM và các tổ chức tín dụng khác, nghĩa
là khách hàng của NHTW trong các quan hệ tiền tệ - tín dụng - ngân
hàng và thanh toán là NHTM và các tổ chức tín dụng khác. Chức năng
này của NHTW được thể hiện trên các khía cạnh sau:
* NHTW mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng
trung gian
Ngày nay, tất cả các NHTM và các tổ chức tín dụng đều mở tài
khoản tại NHTW vì hai lý do: thứ nhất điều này mang lại một phần lợi
ích cho ngân hàng trung gian, thứ hai là vì pháp luật quy định bắt
buộc. Tiền gửi của các NHTM và các tổ chức tín dụng gửi vào NHTW
gồm hai loại:
- Tiền gửi dự trữ bắt buộc: khoản tiền gửi này được quy định bắt
buộc đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng có huy
động vốn tiền gửi của công chúng. Mức dự trữ bắt buộc cao hay thấp tuỳ
thuộc vào quy định của NHTW trong từng thời kỳ cho phù hợp với chính
sách tiền tệ. Mức dự trữ bắt buộc được tính theo tỷ lệ % trên từng loại
tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn. Khoản tiền gửi này thường không
được NHTW trả lãi (tuỳ theo từng quốc gia). Mục đích của việc bắt buộc
dự trữ là để giới hạn mức tín dụng tối đa mà NHTM và các tổ chức tín
dụng có thể cung cấp, tránh trường hợp các NHTM vì hám lợi, huy động
được bao nhiêu cho vay bấy nhiêu dẫn đến mất khả năng thanh toán,

270
phương hại đến quyền lợi của người gửi tiền nói riêng và đến nền kinh tế
nói chung. Tuy nhiên theo thời gian, ý nghĩa này giảm dần. Cùng với sự
phát triển của thị trường tài chính và xu hướng chứng khoán hoá trong
hoạt động ngân hàng, khả năng thanh khoản của các tài sản có do ngân
hàng nắm giữ được cải thiện và do đó khả năng đáp ứng nhanh chóng
nhu cầu tiền mặt của các ngân hàng tăng lên. Bên cạnh đó, các hình thức
bảo hiểm tiền gửi ra đời đã giảm bớt khả năng xảy ra tình trạng rút tiền ồ
ạt khi có thông tin bất thường về một ngân hàng. Vì vậy, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc ngày càng giảm ở hầu khắp các quốc gia. Hơn nữa, việc tập trung
tiền gửi dự trữ bắt buộc của các NHTM và các tổ chức tín dụng tại
NHTW còn là một phương tiện để NHTW có thêm quyền lực điều khiển
hệ thống ngân hàng, điều tiết lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế.
Ngày nay, dự trữ bắt buộc được nói đến chủ yếu với tư cách là một
công cụ của NHTW trong điều hành chính sách tiền tệ. Trên thực tế, các
ngân hàng có thể duy trì mức dự trữ lớn hơn yêu cầu của NHTW, do điều
kiện kinh doanh cụ thể của ngân hàng, do không cho vay hết hoặc không
tìm kiếm được cơ hội đầu tư an toàn. Phần dự trữ này được gọi là dự trữ
vượt mức và có thể gửi tại NHTW hoặc có thể để ở két sắt ngay tại
NHTM và các tổ chức tín dụng. Sự tăng lên hay giảm xuống của lượng
dự trữ vượt mức này phản ánh tình trạng thừa hay thiếu vốn khả dụng
của hệ thống ngân hàng và là chỉ tiêu định hướng điều hành chính sách
tiền tệ của NHTW.
- Tiền gửi trong thanh toán: ngoài tiền gửi dự trữ bắt buộc, các
NHTM và các tổ chức tín dụng còn gửi thêm một khoản tiền gửi thanh
toán tại NHTW với mục đích là để đáp ứng nhu cầu thanh toán thường
xuyên giữa các ngân hàng với nhau và để điều chỉnh mức dự trữ bắt buộc
khi cần. Tiền gửi loại này còn giúp cho NHTM và các tổ chức tín dụng
khác có thể thực hiện thanh toán bù trừ qua NHTW. Mặt khác, việc
NHTM và các tổ chức tín dụng mở tài khoản thanh toán tại NHTW còn
giúp NHTW có thể tận dụng được nguồn vốn tạm thời dư thừa của họ để
thực hiện các chức năng của mình.

271
* NHTW cấp tín dụng cho các NHTM và các tổ chức tín dụng
Như đã trình bày ở phần trước, NHTW phát hành tiền vào lưu thông
bằng nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cấp vốn. Thực chất, đây là hoạt động
cho vay của NHTW đối với NHTM và các tổ chức tín dụng. Khi đó
NHTW giữ vai trò chủ động trong vấn đề cho vay. Tuy nhiên, không
phải lúc nào NHTW cũng có thể chủ động được trong việc cho vay, đó là
khi cần phải cứu các NHTM và các tổ chức tín dụng thoát khỏi bờ vực
của sự phá sản. Vì hoạt động chính của NHTM và các tổ chức tín dụng là
đi vay để cho vay. Nhưng không phải lúc nào hoạt động của NHTM và
các tổ chức tín dụng cũng thuận lợi. Những đợt rút tiền ồ ạt của dân
chúng (vì những lý do như: lạm phát cao, dân chúng mất lòng tin vào
hoạt động của hệ thống ngân hàng,..) rất dễ lan tràn và làm cho NHTM
và các tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán. Trong những trường
hợp này, NHTM và các tổ chức tín dụng không thể thu hồi kịp để chi trả,
không còn chỗ vay mượn nào khác, các NHTM và các tổ chức tín dụng
này tìm đến NHTW vay tiền như là một phương cách cuối cùng. NHTW
sẽ cho các NHTM và các tổ chức tín dụng vay thông qua nghiệp vụ tái
chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá. Về nguyên tắc, NHTW chỉ
đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM các tổ chức
tín dụng trong trường hợp này vì hai lý do cơ bản như sau:
- Việc NHTW cho NHTM vay là một hoạt động phát hành tiền.
- Nếu NHTW dễ dãi trong việc cấp tín dụng cho các NHTM sẽ tạo
ra tâm lý ỷ lại, kết quả là mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng tăng
cao. Cụ thể, nếu một NHTM biết được NHTW sẽ cấp tín dụng cho họ khi
gặp khó khăn, thì họ sẽ dám chấp nhận nhiều rủi ro hơn trong kinh doanh
để thu được nhiều lợi nhuận vì tin rằng NHTW sẽ cứu nguy cho họ. Đặc
biệt là những ngân hàng lớn, họ tin rằng sẽ nhận được tiền vay từ NHTW
một cách thường xuyên khi gặp khó khăn vì chính sự phá sản của họ có
thể gây nên sự khủng hoảng của hệ thống tài chính - ngân hàng. Rõ ràng
đây là một điều nguy hiểm cho nền kinh tế. Bởi vậy, khi NHTW sử dụng
công cụ tái cấp vốn để ngăn chặn những nguy cơ sụp đổ ngân hàng, thì
cần phải cân nhắc hai mặt lợi hại vừa nêu trên. Cũng chính điều này giải

272
thích tại sao NHTW rất thận trọng, không sử dụng thường xuyên vai trò
người cho vay cuối cùng của mình.
Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW luôn là chủ nợ
và là người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng thông qua
hoạt động tái cấp vốn. Nghiệp vụ này tạo cho NHTW thực hiện vai trò
điều tiết khối lượng tiền cung ứng một cách có hiệu quả. Khi cần cung
ứng thêm tiền vào lưu thông, NHTW tăng thêm hạn mức tái cấp vốn,
giảm lãi suất tái cấp vốn đối với các NHTM và các tổ chức tín dụng. Ngược
lại, khi cần rút bớt tiền khỏi lưu thông, NHTW giảm hạn mức tái cấp vốn,
tăng lãi suất tái cấp vốn đối với các NHTM và các tổ chức tín dụng.
* NHTW là trung tâm thanh toán cho hệ thống ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng
Các NHTM và các tổ chức tín dụng khác đều mở tài khoản và ký gửi
các khoản dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức tại NHTW nên chúng có
thể thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt qua NHTW thay vì thanh
toán trực tiếp với nhau. Khi đó, NHTW đóng vai trò là trung tâm thanh
toán giữa các NHTM và các tổ chức tín dụng.
Thông qua dịch vụ thanh toán, NHTW góp phần tiết kiệm được chi
phí thanh toán cho các NHTM và các tổ chức tín dụng và toàn xã hội,
đảm bảo vốn luân chuyển nhanh chóng trong hệ thống ngân hàng và
phản ánh chính xác quan hệ thanh toán giữa các chủ thể kinh tế trong xã
hội. Mặt khác, thông qua hoạt động này, NHTW có thể kiểm tra sự biến
động vốn khả dụng của từng NHTM làm cơ sở để có những giải pháp xử
lý, kiến nghị kịp thời.
c. Quản lý Nhà nước về hoạt động của ngân hàng
Với chức năng này, NHTW có nhiệm vụ thay mặt Nhà nước quản lý
các hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán và các dịch vụ ngân hàng
khác. Cụ thể, NHTW phải thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Xét đơn xin thành lập NHTM, cấp giấy phép hoạt động, quy định
nội dung, phạm vi, quy chế hoạt động kinh doanh của các NHTM và tổ
chức tín dụng.

273
- Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi và yêu cầu
các NHTM phải thực hiện. Chủ động áp dụng các giải pháp để điều tiết
khối lượng tiền cung ứng.
- Kiểm tra, giám sát hoạt động đối nội, đối ngoại của các NHTM và
các tổ chức tín dụng để bảo đảm an toàn và ổn định trong toàn hệ thống,
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền vào ngân hàng.
- Đình chỉ hoạt động hoặc giải thể ngân hàng, tổ chức tín dụng trong
trường hợp vi phạm luật lệ hoặc mất khả năng thanh toán sau khi đã áp
dụng những biện pháp cần thiết...
- Quản lý dự trữ quốc gia về ngoại tệ, vàng, bạc và các phương tiện
có giá trị ngoại tệ khác.
- Thay mặt Nhà nước tham gia ký kết các hiệp định về tiền tệ, tín
dụng, thanh toán với nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế; cố vấn
các chính sách tài chính - tiền tệ cho Chính phủ; cung ứng các phương
tiện thanh toán cho hệ thống Kho bạc Nhà nước; cho ngân sách Nhà
nước vay khi ngân sách thiếu hụt…
9.3.2.2. Vai trò của Ngân hàng Trung ương
a. NHTW góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế - xã hội thông
qua điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông
Trong nền kinh tế thị trường, mức cung tiền tệ có tác động mạnh mẽ
đến tăng trưởng kinh tế, thông qua sự thúc đẩy mức tăng giảm tổng sản
phẩm quốc nội (GDP). Do vậy, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông
cho phù hợp với yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế giữ vị trí quan
trọng bậc nhất trong các nhiệm vụ của NHTW.
Sự điều tiết của NHTW đối với khối lượng tiền trong lưu thông là
rất cần thiết. Bởi lẽ, do nhiều nhân tố khác nhau tác động mà nền kinh tế
có lúc thăng, lúc trầm. Mặt khác, do tình hình thu chi tiền tệ trong mỗi
vùng, mỗi khu vực là khác nhau và thường xuyên biến động, làm cho
nhu cầu về tiền tệ cũng biến động tương ứng. Thông qua hoạt động điều
tiết khối lượng tiền trong lưu thông của NHTW mà mọi hoạt động kinh
tế - xã hội được thực hiện một cách trôi chảy hơn.

274
NHTW thực hiện vai trò này thông qua các công cụ điều tiết trực
tiếp hoặc gián tiếp như lãi suất, hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
lãi suất tái chiết khấu, hoạt động thị trường mở,…
Đương nhiên, sự điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông chỉ có hiệu
quả khi có sự phối hợp đồng bộ với quá trình sử dụng linh hoạt các công
cụ kinh tế - tài chính khác.
b. NHTW tham gia thiết lập và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế
NHTW tham gia vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, nhằm thiết lập một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả cao. Đồng
thời, với vị trí đặc biệt của mình, NHTW tài trợ tín dụng cho nền kinh tế
thông qua hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng để thực hiện kế hoạch
thiết lập cơ cấu kinh tế đó.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là các yếu tố cấu thành thị
trường đều có thể biến đổi không ngừng. Thị trường đồng nghĩa với
những bước thăng trầm, với những biến động vốn có theo các chiều
hướng khác nhau. Trong điều kiện đó, NHTW còn có vai trò quan trọng
trong việc dự đoán những biến cố của nền kinh tế, những tín hiệu thị
trường để có được những quyết định đúng về các chính sách tiền tệ,
nhằm góp phần điều chỉnh kịp thời cơ cấu kinh tế hiện có cho phù hợp
với thực tiễn nền kinh tế đất nước và xu thế hội nhập quốc tế.
c. NHTW ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia
Để ổn định sức mua đối nội của đồng tiền quốc gia, thông qua việc
xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, NHTW góp phần cân đối tổng
cầu và tổng cung tiền của toàn xã hội. Mặt khác, thông qua việc xây
dựng và thực hiện các chính sách tỷ giá, lãi suất, quản lý ngoại hối,...
NHTW tác động mạnh đến cân đối cung - cầu ngoại tệ để góp phần ổn
định tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia.
Cần lưu ý rằng, ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia không có
nghĩa là cố định nó. Sức mua đối nội cũng như đối ngoại của đồng tiền,
có thể biến động lên, xuống trong một thời kỳ nào đó. Song sự biến động
ấy cần được kiểm soát, duy trì, điều chỉnh ở mức độ hợp lý cho phép, bảo
đảm có lợi cho nền kinh tế quốc dân.

275
d. NHTW quản lý hoạt động của hệ thống NHTM và các tổ chức tín
dụng khác
Với chức năng là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW có vai trò
quản lý toàn bộ hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng khác. Trong cơ
chế thị trường, để thực hiện được vai trò và cũng là trọng trách to lớn
này, NHTW phải xây dựng và ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức tín dụng.
Những chế tài đó phải được xây dựng trên cơ sở những định hướng có
căn cứ khoa học, sự nắm bắt các tín hiệu thị trường nhanh nhạy, sự phân
tích sắc bén những diễn biến trong các lĩnh vực tín dụng, thanh toán, thị
trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường ngoại hối, thị trường vàng... và
đưa ra các giải pháp điều chỉnh hữu hiệu. Mặt khác, NHTW còn có trách
nhiệm tổ chức thanh tra, giám sát thường xuyên hoạt động của các
NHTM và các tổ chức tín dụng, kịp thời phát hiện những hành vi vi
phạm pháp luật để có các biện pháp xử lý thích hợp.
9.3.3. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
9.3.3.1. Khái niệm, mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia
a. Khái niệm chính sách tiền tệ quốc gia
Như chúng ta đã biết, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi,
nếu lượng tiền tệ trong lưu thông thay đổi thì giá trị đại diện của một đơn
vị tiền tệ sẽ thay đổi. Dẫn đến đó, giá cả hàng hoá, giá trị tài sản và thu
nhập thay đổi. Do vậy, bằng cách tạo ra các thay đổi biến số về tiền tệ,
NHTW có thể hướng những biến động nhất định trong đời sống và hoạt
động kinh tế của quốc gia, của cộng đồng. Tổng hợp những phương thức,
biện pháp mà qua đó NHTW tạo ra các biến động về tiền tệ nhằm thực
hiện những mục tiêu nhất định hợp thành chính sách tiền tệ quốc gia.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Chính sách tiền tệ quốc gia là tổng
hoà những phương thức mà NHTW thông qua các hoạt động của mình
tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kỳ
nhất định.

276
Nó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế -
tài chính vĩ mô của Chính phủ.
b. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia
Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ quốc gia là tăng trưởng
kinh tế, tạo công ăn việc làm và kiểm soát lạm phát, các mục tiêu cụ
thể là:
- Phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng:
Sự tác động vào quá trình phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng do
nhiều yếu tố khác nhau và rất phức tạp. Nhưng có một điều chắc chắn
rằng, muốn kinh tế tăng trưởng thì nhất thiết phải thực hiện tái sản xuất
mở rộng trên cơ sở khai thác triệt để các nguồn vốn tiềm năng trong và
ngoài nước. Trong việc thực hiện mục tiêu này, vai trò của NHTW rất
quan trọng. Với chức năng là trung tâm tín dụng, dưới sự chỉ đạo của
NHTW thông qua chính sách tiền tệ, các ngân hàng huy động sẽ huy
động một cách triệt để các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, trên cơ sở đó
phân phối lại cho các chủ thể cần vốn để phát triển kinh tế.
- Tạo công ăn việc làm:
Trong nền kinh tế thị trường, khi sức lao động trở thành hàng hoá thì
hiện tượng thất nghiệp là một hiện tượng tất yếu xảy ra. Do vậy, tạo công
ăn việc làm là một yêu cầu bức thiết và thường trực của các quốc gia.
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm, nói chung chủ yếu phụ thuộc
vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế được mở rộng và phát
triển thì việc làm được tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm, và ngược lại.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết
quả của cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể không tăng mà thậm chí còn
giảm. Vì vậy, để thực hiện mục tiêu này, NHTW phải vận dụng các công
cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Những phân tích trên cho thấy vai trò của NHTW trong việc thực
hiện mục tiêu này là phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng
cường đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Mặt khác, phải tham gia tích
cực vào việc chống suy thoái kinh tế, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế ổn

277
định, vững chắc, nhằm mục đích khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt
quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, gia tăng khối lượng công ăn việc làm.
- Kiểm soát lạm phát:
Trong điều kiện lưu thông tiền vàng hoặc tiền giấy tự do chuyển đổi
ra vàng, thì khối lượng tiền thực tế sẽ phù hợp với nhu cầu của nền kinh
tế một cách tự phát thông qua cơ chế tự do đúc và đổi tiền. Ngày nay,
thời đại của chế độ lưu thông tiền giấy bất khả hoán, lạm phát là một hiện
tượng tất yếu xảy ra. Một nền kinh tế chỉ có thể tăng trưởng được trong
một môi trường ổn định về tiền tệ - giá cả. Trong điều kiện đó, NHTW
phải luôn coi việc kiểm soát lạm phát là một trong những mục tiêu của
chính sách tiền tệ quốc gia.
Thường thì lạm phát vừa phải là mục tiêu phấn đấu của các NHTW
trong vấn đề kiểm soát lạm phát. Vì theo kết quả nghiên cứu được công
bố năm 1960 của nhà kinh tế học người Mỹ, tên là A.W Philips, thì lạm
phát và thất nghiệp tỷ lệ nghịch với nhau. Cụ thể, cứ giảm 1% tỷ lệ lạm
phát thì tỷ lệ thất nghiệp tăng 2%. Mặt khác, mức lạm phát quá thấp thì
nền kinh tế dễ rơi vào tình trạng suy thoái. Mà tăng trưởng kinh tế, khống
chế tỷ lệ thất nghiệp và kiềm chế lạm phát đều là các mục tiêu cần đạt
đến của chính sách tiền tệ quốc gia.
Rõ ràng, sự phối hợp ba mục tiêu này là rất quan trọng. Bởi vì không
phải cùng một lúc cả ba mục tiêu đó đều có thể thực hiện được mà không
có sự mâu thuẫn với nhau. Do vậy, khi đặt các mục tiêu cho chính sách
tiền tệ quốc gia cần phải có sự dung hoà. Cụ thể là phải tuỳ lúc, tuỳ
thời, tuỳ điều kiện cụ thể mà sắp xếp thứ tự ưu tiên. Muốn vậy, NHTW
phải luôn nắm bắt được thực tế diễn biến của quá trình thực hiện các
mục tiêu, nhằm điều chỉnh chúng khi có sự thay đổi bằng những giải
pháp thích hợp.
9.3.3.2. Các công cụ để thực thi Chính sách tiền tệ quốc gia
Công cụ chính sách tiền tệ quốc gia là các hoạt động của NHTW
nhằm tác động đến cung tiền và lãi suất, qua đó nhằm đạt được các mục
tiêu của chính sách tiền tệ. NHTW sử dụng hai nhóm công cụ chính sách

278
tiền tệ đó là: nhóm công cụ gián tiếp (thị trường) và nhóm công cụ trực
tiếp (hành chính).
a. Nhóm công cụ trực tiếp
Công cụ trực tiếp là công cụ mà thông qua chúng, NHTW có thể
tác động trực tiếp đến các mục tiêu mà không phải qua một biến số
trung gian nào khác. Các công cụ trực tiếp mà NHTW có thể sử dụng
thường là:
* Lãi suất tiền gửi:
Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng
nguồn vốn để cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả
năng mở rộng cung cấp tín dụng của các NHTM và các tổ chức tín dụng.
Khi NHTW thay đổi các mức ấn định lãi suất tiền gửi, các NHTM
và các tổ chức tín dụng phải tuân thủ các mức lãi suất ấn định này, từ đó
sẽ làm thay đổi khối lượng tiền tệ, tín dụng trong nền kinh tế. Việc thay
đổi các mức ấn định lãi suất tiền gửi sẽ có tác động trực tiếp và nhanh
chóng đến khối lượng tiền tệ và tín dụng của nền kinh tế, song nhược
điểm của biện pháp này là làm cho các tổ chức tín dụng mất đi tính linh
hoạt và quyền tự chủ kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh giữa các
ngân hàng, dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn nhất thời ở ngân hàng
nhưng lại thiếu vốn cho đầu tư hoặc có thể khuyến khích dân chúng dùng
tiền vào dự trữ ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng hụt hẫng về
tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay.
* Khung lãi suất tiền gửi và cho vay hoặc lãi suất cơ bản
NHTW có thể tác động tới khối lượng tiền cung ứng bằng cách quy
định và điều chỉnh khung lãi suất (giới hạn tối đa và tối thiểu) hoặc quy
định điều chỉnh lãi suất cơ bản và biên độ dao động.
Biện pháp này giúp ngân hàng thương mại được quyền lựa chọn
mức lãi suất tiền gửi hoặc lãi suất cho vay phù hợp với điều kiện cụ thể
của mình trong giới hạn khung lãi suất hay biên độ giao động của lãi suất
cho phép để kinh doanh, nâng cao được tính độc lập, tự chủ của mỗi
ngân hàng, mỗi tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trong kinh tế thị trường, lãi

279
suất rất nhạy cảm với đầu tư, nên nhiều khi khung lãi suất do NHTW
quy định trở nên gò bó, cứng nhắc, không theo kịp những diễn biến của
thị trường.
* Hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng
Đây là biện pháp NHTW khống chế mức cho vay tối đa đối với
NHTM và tổ chức tín dụng. Trên cơ sở quy mô, tình hình hoạt động cũng
như khả năng huy động vốn của từng tổ chức tín dụng, NHTW tiến hành
phân chia hạn mức tín dụng cho từng tổ chức tín dụng, đó chính là mức
tối đa mà mỗi ngân hàng, mỗi tổ chức tín dụng được phép vay từ NHTW.
Việc sử dụng biện pháp này tạo cho NHTW dễ dàng đạt được mục tiêu
kiểm soát khối lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị
trường, với sự biến động thường xuyên của cung và cầu tiền vay, biện
pháp này tỏ ra không còn linh hoạt phù hợp với sự biến động của nền
kinh tế.
Bên cạnh việc quy định hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín
dụng, NHTW còn quy định hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong
trường hợp này NHTW có thể quy định giới hạn khối lượng tín dụng mà
các tổ chức tín dụng được cung cấp cho nền kinh tế. Công cụ này được
sử dụng để kiểm soát chặt chẽ sự mở rộng tín dụng khi mà NHTW thực
hiện chính sách thắt chặt tiền tệ.
* Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư
Khi ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt, NHTW phát hành tiền để bù
đắp sự thiếu hụt ấy. Biện pháp này làm gia tăng khối lượng tiền trong lưu
thông và hậu quả là gia tăng lạm phát.
Vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội có thể được thực hiện thông
qua con đường tín dụng ngân hàng. Việc NHTW phát hành tiền trực
tiếp cho đầu tư là một biện pháp cần thiết trong điều kiện nền kinh tế
suy thoái, dư thừa tiềm năng kinh tế và sẽ mang lại hiệu quả tích cực
nếu việc phát hành tiền được sử dụng để khai thác tiềm năng về tài
nguyên và con người.

280
b. Nhóm công cụ gián tiếp
Công cụ gián tiếp là công cụ mà sự tác động của chúng đến các mục
tiêu của chính sách tiền tệ được thực hiện thông qua một biến số khác
thuộc về sự kiểm soát của NHTW và qua cơ chế tự điều tiết của các lực
lượng thị trường.
Nhóm công cụ gián tiếp thường bao gồm: nghiệp vụ thị trường mở,
lãi suất tái cấp vốn và dự trữ bắt buộc.
* Nghiệp vụ thị trường mở (Open market operation)
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng
nhất, bởi vì chúng là những nhân tố chủ yếu làm thay đổi lãi suất và khối
lượng tiền cơ sở, là nguồn chủ yếu làm thay đổi cung tiền. Như vậy,
nghiệp vụ thị trường mở không tác động trực tiếp mà tác động gián tiếp
đến cung tiền và lãi suất thị trường thông qua lãi suất liên ngân hàng và
tiền cơ sở đến cung tiền và lãi suất thị trường. Nghiệp vụ thị trường mở
là nghiệp vụ mua bán các chứng khoán ngắn hạn của NHTW trên thị
trường mở.
- Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở
Nếu muốn gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín
dụng, NHTW tiến hành mua giấy tờ có giá trên thị trường. Ngược lại khi
muốn giảm mức cung ứng tiền, thu hẹp tín dụng, NHTW phát hành và
bán các giấy tờ có giá.
Khi NHTW mua các giấy tờ có giá sẽ tạo ra các hiệu ứng:
+ Lãi suất liên ngân hàng giảm ngay lập tức, qua đó tác động làm
cho lãi suất thị trường ngắn hạn giảm theo.
+ Dự trữ của hệ thống NHTM tăng ngay lập tức, qua đó làm tăng
tiền cơ sở. Tiền cơ sở tăng, thông qua cơ chế tạo tiền gửi, làm cho cung
tiền tăng lên.
Ngược lại, khi NHTW bán chứng khoán sẽ tạo ra các hiệu ứng:
+ Lãi suất liên ngân hàng tăng ngay lập tức, qua đó tác động làm cho
lãi suất thị trường ngắn hạn tăng theo.

281
+ Dự trữ của hệ thống NHTM giảm ngay lập tức, qua đó làm giảm
khối lượng tiền cơ sở. Tiền cơ sở giảm, thông qua cơ chế tạo tiền gửi,
làm cho cung tiền giảm xuống.
Như vậy, thông qua các nghiệp vụ của thị trường mở, NHTW có thể
kiểm soát được mức lãi suất thị trường ngắn hạn và mức cung tiền trong
nền kinh tế.
Thông thường, nghiệp vụ thị trường mở bao gồm 2 loại:
+ Nghiệp vụ chủ động (dynamic open market operations): là nghiệp
vụ được tiến hành nhằm mục đích chủ động thay đổi mức dự trữ và tiền
cơ sở. Chẳng hạn, NHTW thấy tổng lượng tiền cung ứng vào lưu thông
không đủ để kích thích nền kinh tế phát triển nên quyết định thực hiện
nghiệp vụ thị trường mở để tăng lượng tiền đưa vào lưu thông.
+ Nghiệp vụ bị động (defensive open market operations): là nghiệp
vụ được tiến hành nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố ảnh
hưởng một cách không có lợi đến tổng lượng tiền trong lưu thông. Chẳng
hạn, khi tiền gửi của Kho bạc và các NHTM và các tổ chức tín dụng tại
NHTW được dự đoán là giảm xuống, điều này đồng nghĩa với sự tăng
lên của tổng lượng tiền trong lưu thông, NHTW sẽ phải tiến hành bán
chứng khoán trên thị trường mở.
Ưu, nhược điểm của nghiệp vụ thị trường mở
- Ưu điểm
Các công cụ của nghiệp vụ thị trường mở có những lợi thế nhất định
so với các công cụ khác trong chính sách của NHTW. Những lợi thế này
bao gồm tính chính xác với tổng dự trữ và cơ số tiền dự trữ và cơ số tiền
tệ có thể bị ảnh hưởng bởi tính linh hoạt của nghiệp vụ thị trường mở và
thực tế là quyền lực đối với sự thay đổi hoàn toàn trong tay của NHTW.
+ Tính chính xác: Hoạt động thị trường mở giúp cho NHTW quản lý
chính xác tổng dự trữ ngân hàng và cơ số tiền tệ, đặc biệt khi chúng được
tính bình quân tuần hoặc tháng dựa trên số liệu hàng ngày. Nếu NHTW
muốn bơm bao nhiêu tiền dự trữ vào hệ thống ngân hàng nó thực hiện
đơn giản bằng cách mua bấy nhiêu tiền chứng khoán Chính phủ. Mức

282
chính xác cao này không thể đạt được khi sử dụng các công cụ lãi suất tái
cấp vốn hoặc dự trữ bắt buộc. Chẳng hạn, nếu NHTW muốn giảm dự trữ
thông qua chính sách tái cấp vốn, tất cả những gì nó có thể làm là tăng lãi
suất tái cấp vốn và thậm chí có thể phát hành một thông báo khiển trách
các ngân hàng không chịu vay với khối lượng lớn tại NHTW. Trong một
chừng mực nào đó, những hành động này sẽ tạo ra một sự suy giảm trong
dự trữ và cơ số tiền tệ không thể dự báo trước được.
Luận chứng tương tự được đưa ra với khía cạnh liên quan đến thay
đổi trong dự trữ bắt buộc. Trước hết, một sự thay đổi trong dự trữ bắt
buộc ảnh hưởng đến cung tiền thông qua số nhân tạo tiền hơn là thông
qua dự trữ ngân hàng và cơ số tiền tệ. Mặt khác, ngay cả một sự thay
đổi nhỏ của tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng tạo ra sự thay đổi khá lớn trong
dự trữ yêu cầu và dự trữ vượt mức. Về nguyên tắc, NHTW có thể áp
dụng những thay đổi thường xuyên và nhỏ trong dự trữ bắt buộc. Tuy
nhiên, cả NHTM và NHTW đều phản đối biện pháp như vậy bởi nó
không thực sự thuận lợi và có thể gây ra những xáo trộn đối với hoạt
động của ngân hàng.
+ Tính linh hoạt: NHTW có thể tham gia vào thị trường mở hàng
ngày, mua và bán với số lượng lớn chứng khoán Chính phủ thông qua
mạng lưới phân phối của nó. Vì lý do này NHTW dễ dàng thay đổi cung
bậc của chính sách tiền tệ và thậm chí đảo hướng của nó thông qua các
hoạt động của thị trường mở (chỉ trong thời gian ngắn nếu muốn). Điều
tương tự không đúng với những thay đổi trong chính sách tái cấp vốn và
dự trữ bắt buộc là những thứ mà công chúng có thể nhận thức rõ ràng.
Chẳng hạn, nếu NHTW tăng lãi suất tái cấp vốn hoặc dự trữ bắt buộc thì
đây là một hành động hạn chế cung tiền. Do vậy, hành động của NHTW
được xem như là dấu hiệu một nhu cầu về hạn chế tiền tệ. Hướng ngược
lại của việc giảm lãi suất tái cấp vốn hoặc dự trữ bắt buộc trong thời gian
tiếp theo sẽ làm NHTW lúng túng. Bằng cách như vậy, nó sẽ bị công
chúng coi là sai lầm. Hậu quả là nó không đảo ngược được hướng của
công cụ chính sách tới tận khi có những bằng chứng tin cậy cho thấy
rằng một sự thay đổi trong chính sách là cơ bản.Vì lý do này mà công cụ

283
nghiệp vụ thị trường mở có thể được NHTW thực hiện nhiều lần mỗi
ngày trong khi đó với hai công cụ trên thì chỉ được sử dụng một vài lần
trong năm.
+ Khả năng tiên liệu: Nếu NHTW phải tác động đến các hoạt động
kinh tế thông qua dự trữ bắt buộc, cơ số tiền tệ hoặc dự trữ vượt mức, sự
thay đổi trong những biến số này nhất định phải do các quyết định của
NHTW thay vì bị áp đặt bởi các lực lượng bên ngoài. Tức là, khả năng
tiên liệu những thay đổi trong dự trữ, dự trữ vượt mức nằm trong sự kiểm
soát và quyết định của NHTW. Đây cũng là tình huống đối với hoạt động
thị trường mở: bằng cách tiên liệu các hoạt động như vậy NHTW có thể
điều khiển ứng xử của tổng dự trữ ngân hàng và cơ số tiền tệ. Một tình
huống tương tự có thể được thực hiện đối với công cụ dự trữ bắt buộc, nó
cho phép NHTW có thể kiểm soát dự trữ yêu cầu. Tuy nhiên, điều này
không đúng đối với công cụ lãi suất tái cấp vốn.
Nhờ những ưu điểm trên mà nghiệp vụ thị trường mở được coi là
công cụ hữu hiệu nhất trong các công cụ của chính sách tiền tệ. Tuy
nhiên, việc thực hiện công cụ này đỏi hỏi sự phát triển của thị trường tài
chính thứ cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Ngoài ra NHTW
phải có khả năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả
dụng trong hệ thống ngân hàng.
- Nhược điểm
Mặc dù là công cụ có nhiều ưu điểm song nó cũng còn có những
nhược điểm nhất định, cụ thể là:
+ Các ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở đến cơ số tiền có thể
bị triệt tiêu bởi các tác động ngược chiều làm dự trữ của ngân hàng
không tăng hoặc giảm tương ứng khi NHTW tiến hành các nghiệp vụ
mua bán chứng khoán. Chẳng hạn, do dòng chảy ngược chiều của vốn,
do mất cân đối trong cán cân thanh toán hoặc số dư tiền gửi của ngân
sách ở NHTW tăng lên làm cho việc mua chứng khoán nhằm tăng lượng
tiền cung ứng của NHTW có thể bị triệt tiêu một phần hay toàn bộ.
+ Các NHTW không nhất thiết phải tăng hoặc giảm lượng cung ứng
tín dụng và đầu tư khi dự trữ tăng lên hay giảm đi do tác động của các

284
nghiệp vụ trên thị trường mở. Có một số yếu tố ngăn cản các NHTM sử
dụng tối đa số dự trữ dư thừa cho việc mở rộng tín dụng như: nhu cầu trả
nợ NHTW, nhu cầu sử dụng tiền mặt tăng lên,…
+ Khi sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, NHTW thường mua bán với
khối lượng chứng khoán lớn nên có thể gây ra sự biến động về lãi suất
trên thị trường. Trong trường hợp lãi suất thị trường giảm xuống thì khối
lượng tín dụng không nhất thiết tăng lên tương ứng bởi lẽ điều này còn
phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, mức rủi ro và sự ổn
định của môi trường đầu tư.
* Dự trữ bắt buộc (Reserve requirements)
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải duy trì theo
quy định của NHTW. Nó được xác định bằng tỷ lệ % nhất định trên tổng
số dư tiền gửi của các NHTM và các tổ chức tín dụng trong một khoảng
thời gian nhất định.
Dự trữ bắt buộc được xác định theo công thức sau:
Tiền gửi dự trữ Tổng số tiền gửi phải Tỷ lệ dự trữ
= 
bắt buộc tính dự trữ bắt buộc bắt buộc

Tuỳ theo điều kiện của từng nước, trong từng thời kỳ mà NHTW có
những quy định về việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Dự trữ
bắt buộc có thể quy định cho tất cả các tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt
buộc có thể được quy định chung cho toàn bộ các nguồn vốn huy động
được của các tổ chức tín dụng, hoặc có thể chỉ được quy định đối với tiền
gửi không kỳ hạn và tiền gửi ngắn hạn dưới một năm.
- Cơ chế tác động của dự trữ bắt buộc:
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh
toán cho các tổ chức tín dụng và quan trọng hơn là để NHTW kiểm soát
quá trình tạo tiền của hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng khác. Sự
thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến sự thay đổi số nhân tiền và
qua đó tác động tới mức cung tiền. Cụ thể:

285
+ Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, các yếu tố khác không thay đổi,
ngay lập tức dự trữ vượt mức của hệ thống ngân hàng giảm, làm giảm
khả năng cho vay và đầu tư của tổ chức tín dụng, do đó làm giảm cung
tiền trong lưu thông.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là bộ phận cấu thành mẫu số của hệ số nhân
tiền. Vì thế khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng sẽ làm giảm hệ số nhân tiền,
làm giảm khả năng tạo tiền và cung ứng tiền của hệ thống ngân hàng.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm tăng cầu dự trữ của các NHTM trên
thị trường liên ngân hàng. Trong điều kiện cung dự trữ không đổi, sự
tăng cầu dự trữ làm tăng lãi suất liên ngân hàng, từ đó dẫn đến tăng các
mức lãi suất trên thị trường, giảm khối lượng cung tiền.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng sẽ làm tăng chi phí đầu vào cho các
NHTM. Khi đó, để cho vay có lãi, buộc các NHTM phải nâng lãi suất
cho vay.
Ngược lại, nếu NHTW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tạo điều kiện
cho các tổ chức tín dụng mở rộng, khả năng cho vay và đầu tư, dẫn đến
khả năng tăng mức cung tiền trong nền kinh tế.
Như vậy, thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động cả về
khối lượng tín dụng và giá cả tín dụng của các tổ chức tín dụng:
Về khối lượng tín dụng: việc tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có
nghĩa là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của NHTM và các tổ
chức tín dụng khác.
Về chi phí: việc tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là
làm tăng hoặc giảm chi phí tín dụng của các NHTM.
Do đó, dự trữ bắt buộc tạo ra tác động kép để buộc các tổ chức tín
dụng có thể mở rộng hay hạn chế khả năng cung ứng tiền tệ và tín dụng
trong nền kinh tế.
- Ưu, nhược điểm của công cụ dự trữ bắt buộc
+ Đây là công cụ có ảnh hưởng rất mạnh và nhanh chóng đến lượng
tiền cung ứng. Chỉ cần một thay đổi nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ dẫn
đến sự thay đổi đáng kể khối lượng tiền cung ứng

286
+ Bất lợi chủ yếu của công cụ dự trữ bắt buộc là có thể khiến cho
một số tổ chức tín dụng có dự trữ vượt mức ở mức thấp có thể nhanh
chóng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán
+ Việc thay đổi thường xuyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc khiến cho các
ngân hàng rơi vào tình trạng bất ổn trong việc quản lý và đảm bảo tính
thanh khoản đồng thời gia tăng chi phí.
* Chính sách chiết khấu (Discount policy)
Chính sách chiết khấu thể hiện bằng quy chế cho vay của NHTW
đối với các NHTM vay các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Quy chế này
bao gồm những nội dung về điều kiện cho vay ngắn hạn dưới hình thức
chiết khấu các giấy tờ có giá do các tổ chức tín dụng đưa đến. Mục đích
vay chiết khấu của các tổ chức tín dụng là để bù đắp thiếu hụt tạm thời
nhu cầu thanh toán hoặc thiếu hụt dự trữ bắt buộc. Những thay đổi trong
chính sách chiết khấu của NHTW sẽ tác động đến khối lượng vay chiết
khấu của các ngân hàng thương mại, từ đó ảnh hưởng tới lượng tiền cung
ứng và lãi suất thị trường.
- Cơ chế tác động của chính sách chiết khấu
NHTW thay đổi lãi suất chiết khấu và hạn mức chiết khấu, qua đó
ảnh hưởng đến hoạt động đi vay của các tổ chức tín dụng như sau:
+ Hạn mức chiết khấu: Khối lượng dự trữ bổ sung cho các tổ chức
tín dụng có thể bị thu hẹp hoặc nới rộng phụ thuộc vào hạn mức chiết
khấu của NHTW, từ đó ảnh hưởng đến khả năng tạo tiền của hệ thống
NHTM và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, làm thay đổi lượng tiền
cung ứng. Mặt khác, khi cung tiền thay đổi sẽ tác động làm cho lãi suất
thị trường thay đổi.
+ Lãi suất chiết khấu: Khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu sẽ làm
tăng chi phí đi vay của các tổ chức tín dụng, để kinh doanh có lãi, các tổ
chức tín dụng phải tăng lãi suất cho vay, từ đó làm giảm nhu cầu tín
dụng. Mặt khác, khi lãi suất chiết khấu tăng, chi phí đi vay tăng buộc các
tổ chức tín dụng hạn chế vay NHTW. Để hồi phục dự trữ, các tổ chức tín
dụng phải giảm cung ứng tín dụng, khiến lãi suất thị trường tăng.

287
- Ưu, nhược điểm của chính sách chiết khấu
+ Ưu điểm của công cụ chiết khấu là các khoản vay chiết khấu đều
được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá, nên NHTW chắc chắn thu hồi
được nợ khi đến hạn.
+ Tuy nhiên, tác dụng của chính sách chỉ có thể phát huy khi các tổ
chức tín dụng có nhu cầu vay từ NHTW với mức lãi suất hợp lý. Với sự
phát triển của thị trường tài chính, các ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng phi ngân hàng có thể tìm kiếm được các nguồn cho vay
thay thế làm cho sự phụ thuộc vào các khoản vay NHTW giảm đi, do đó
làm giảm mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này.
+ Ngoài ra, NHTW khó có thể kiểm soát được hoàn toàn những tác
động của công cụ này bởi vì NHTW chỉ có thể thay đổi được lãi suất
chiếu khấu và các điều kiện cho vay mà không kiểm soát được việc các
tổ chức tín dụng quyết định vay từ mình bao nhiêu.
+ Công cụ này cũng không dễ khắc phục được sai sót như nghiệp vụ
thị trường mở. Chẳng hạn, nó cũng có thể gây ra những biến động lãi
suất trên thị trường,…
Nhìn chung, thông qua các công cụ gián tiếp, cho phép NHTW điều
hành chính sách tiền tệ một cách mềm dẻo, linh hoạt để đối phó với
những đột biến của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ này
đỏi hỏi các nhà quản lý phải nắm bắt chính xác những tín hiệu của thị
trường, có được những dự báo, tiên đoán chính xác những biến động của
nền kinh tế. Vì vậy, trong điều kiện nền kinh tế chưa phát triển, trình độ
quản lý và điều hành chính sách tiền tệ còn hạn chế thì việc sử dụng các
công cụ gián tiếp khó có khả năng mang lại kết quả như mong muốn.
Ở Việt Nam, những năm gần đây NHNN Việt Nam đã chủ động
điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thận trọng và linh hoạt, phù hợp
với diễn biến thực tế của nền kinh tế nhằm đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm
soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong quá trình điều hành
chính sách tiền tệ, NHNN thường được sử dụng một số công cụ như: tái
cấp vốn, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ tiền tệ mở, lãi suất trần hoặc lãi suất
cơ bản, công bố tỷ giá chính thức và biên độ giao động tỷ giá.

288
Theo xu hướng chung, các công cụ gián tiếp ngày càng sử dụng
nhiều hơn và được coi là những công cụ linh hoạt, hiệu quả hơn trong
việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam.

C¢U HáI ¤N TËP CH¦¥NG 9

1. Trình bày quá trình ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng
của các nước trên thế giới?
2. Trình bày quá trình ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng ở
Việt Nam?
3. Phân tích các chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại?
4. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại là gì?
Liên hệ thực tế tại một ngân hàng thương mại mà bạn biết.
5. Trình bày các mô hình tổ chức NHTW và xu hướng phát triển của
các mô hình đó.
6. Để thực thi chính sách tiền tệ của mình, NHTW đã sử dụng những
công cụ nào? Hãy nêu những ưu, nhược điểm của các công cụ đó?
7. Để kiểm soát khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại,
NHTW phải sử dụng những công cụ nào của chính sách tiền tệ? Trình
bày cơ chế sử dụng các công cụ đó?

289
Chương 10
THÞ TR¦êNG TµI CHÝNH

Thị trường tài chính là môi trường vận động của các nguồn lực tài
chính, thực hiện quá trình dịch chuyển các luồng vốn tiền tệ từ những
chủ thể cung vốn sang những chủ thể cầu vốn để thực hiện các mục tiêu
của các chủ thể trong nền kinh tế - xã hội. Thông qua hoạt động trên thị
trường, các chủ thể kinh tế - xã hội (Nhà nước, doanh nghiệp tổ chức xã
hội và dân cư) có thể huy động, tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu vốn
cho các hoạt động của mình và đầu tư sử dụng vốn nhằm đạt được các
mục tiêu đã định của các chủ thể đó. Nghiên cứu thị trường tài chính sẽ
giúp các chủ thể kinh tế - xã hội tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả
hoạt động của thị trường cũng như tham gia thị trường đạt được hiệu quả
cao nhất.
Chương này cung cấp những vấn đề cơ bản nhất về thị trường tài
chính trên các khía cạnh: khái niệm, đặc trưng cơ bản, phân loại, chức
năng và vai trò của thị trường tài chính. Trên cơ sở đó, phần tiếp theo của
chương sẽ đi sâu nghiên cứu nội dung của hai loại hình thị trường tài
chính điển hình là thị trường tiền tệ và thị trường vốn.

10.1. C¸C VÊN §Ò CHUNG VÒ THÞ TR¦êNG TµI CHÝNH


10.1.1. Khái niệm
Thị trường hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là nơi diễn ra các hoạt
động giao dịch, mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Với các đối tượng
và phương thức hoạt động khác nhau nhiều loại thị trường được hình
thành và phát triển song hành với quá trình phát triển của nền kinh tế thị
trường: Thị trường tư liệu sản xuất; Thị trường tư liệu sinh hoạt; Thị
trường thông tin; Thị trường lao động; Thị trường tài chính;… Vậy thị
trường tài chính là gì? Có những đặc trưng nào khác biệt so với các thị
trường khác trong hệ thống kinh tế thị trường thống nhất?

290
Trong nền kinh tế thị trường, luôn nảy sinh hiện tượng có những chủ
thể có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn
nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư. Từ nhu cầu khách quan này đã hình
thành một cơ chế chuyển vốn từ những người có vốn nhàn rỗi sang
những người cần vốn kinh doanh theo các nguyên tắc thị trường. Từ đó,
tạo nên một loại hình thị trường mới được gọi là thị trường tài chính
(TTTC). Dưới các góc độ nghiên cứu và tiếp cận khác nhau có thể có
những khái niệm về TTTC khác nhau.
Các quan điểm về thị trường tài chính:
- Thị trường tài chính là nơi diễn ra quá trình dịch chuyển vốn tiền tệ
từ chủ thể cung vốn sang chủ thể cầu vốn.
- TTTC là thị trường trong đó các nguồn tài chính được dịch chuyển
từ người thừa vốn sang người thiếu vốn, là tổng hoà của các mối quan hệ
cung cầu về vốn.
Dù tiếp cận ở những góc độ khác nhau thì các khái niệm về thị
trường tài chính đều có điểm chung thống nhất nói lên bản chất của nó,
đó là, TTTC là tổng hoà của các mối quan hệ cung cầu về vốn tiền tệ, giá
cả, phương thức giao dịch, phương thức thanh toán. Hoạt động của thị
trường tài chính có những hiệu ứng trực tiếp tới mọi hoạt động của đời
sống kinh tế - xã hội.
Từ đó, có thể khái quát về TTTC như sau: Thị trường tài chính là
loại thị trường thực hiện việc chuyển giao các nguồn vốn từ người cung
vốn sang người cầu vốn theo các nguyên tắc thị trường, là tổng hoà của
các mối quan hệ hàng hoá - vốn tiền tệ, cung cầu, giá cả phương thức
giao dịch và phương thức thanh toán.
10.1.2. Các đặc trưng cơ bản của TTTC
Thị trường tài chính có các đặc trưng cơ bản như sau:
Về bản chất, hàng hoá lưu thông trên TTTC là một loại hàng hoá đặc
biệt - “Quyền sở hữu vốn tách rời quyền sử dụng vốn” song việc giao
dịch chúng lại được thực hiện thông qua các sản phẩm tài chính (được
gọi là các công cụ tài chính). Các công cụ tài chính có chức năng chuyển

291
tải những lượng giá trị (vốn tiền tệ) cần giao dịch nhằm dịch chuyển
quyền sở hữu hay quyền sử dụng chúng từ người cung vốn sang người
cầu vốn. Những chủ thể cầu vốn phát hành lần đầu các công cụ tài chính
này bán cho những chủ thể cung vốn để huy động vốn phục vụ mục đích
kinh doanh của mình. Các công cụ tài chính bao gồm: trái phiếu, cổ
phiếu, chứng khoán phái sinh, phương tiện thanh toán,… Việc giao dịch
các nguồn tài chính - vốn tiền tệ đã trở thành giao dịch các công cụ tài
chính nói trên nhằm các mục đích huy động vốn hoặc kiếm lời.
- Sự khác biệt mang tính đặc thù của các chủ thể tham gia TTTC so
với các chủ thể tham gia các thị trường thông thường khác là ở chỗ: nếu
trên thị trường hàng hoá, dịch vụ người mua tham gia với mục đích có
thể là tiêu dùng trực tiếp các hàng hoá dịch vụ mua được, song trên thị
trường tài chính thì mọi chủ thể tham gia thị trường chỉ với mục đích duy
nhất là thu lợi nhuận và tránh rủi ro. Người cầu vốn - người được quyền
sử dụng vốn sau giao dịch thành công trên thị trường đóng vai trò người
phát hành các công cụ tài chính giao dịch sơ cấp, hoặc bán, chuyển
nhượng chiết khấu các công cụ tài chính trên thị trường thứ cấp. Trái lại,
người cung vốn lại là người mua hoặc chiết khấu các công cụ đó vì mục
đích thu lợi nhuận.
- Kết quả giao dịch trên thị trường có thể làm thay đổi quyền sở hữu
các nguồn vốn một cách dễ dàng, trong khi đó, quyền sử dụng các nguồn
vốn có thể không thay đổi. Đây chính là một đặc điểm khác biệt rõ nét
nhất, phân biệt giao dịch trên thị trường tài chính khác với giao dịch trên
các thị trường hàng hoá dịch vụ thông thường.
10.1.3 Phân loại thị trường tài chính
Phân loại TTTC là việc phân chia tổng thể thị trường thành những
bộ phận hợp thành của nó theo một tiêu thức nhất định nhằm nghiên cứu,
tổ chức quản lý, điều hành và kiểm soát thị trường phục vụ tốt nhất cho
các chủ thể tham gia thị trường. Dựa trên những tiêu thức phân loại khác
nhau mà có thể nghiên cứu thị trường tài chính theo những cấu trúc khác
nhau, dưới đây là một số cách phân loại thường gặp:

292
+ Căn cứ vào thời hạn thu hồi vốn đầu tư, TTTC được chia thành
hai loại: thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của TTTC tại đó các nguồn vốn có
thời gian luân chuyển không quá một năm thông qua hoạt động giao
dịch, phát hành, mua bán các công cụ tài chính có thời hạn đầu tư không
quá một năm (gọi tắt là các công cụ tài chính ngắn hạn). Các công cụ tài
chính lưu thông trên thị trường tiền tệ bao gồm: tín phiếu kho bạc ngắn
hạn, thương phiếu (hối phiếu hoặc kỳ phiếu thương mại), kỳ phiếu ngân
hàng, các chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn,… Hoạt động của thị trường tiền tệ
chủ yếu được thực hiện qua hệ thống tổ chức tín dụng, ngân hàng và các
trung gian tài chính khác.
Thị trường vốn là bộ phận thị trường tài chính thực hiện việc di
chuyển các nguồn vốn có thời gian sử dụng và luân chuyển từ một năm
trở lên. Các công cụ tài chính lưu thông trên thị trường vốn bao gồm: trái
phiếu dài hạn, cổ phiếu,…
+ Căn cứ vào thời hạn giao nhận và thanh toán, thị trường tài chính
được chia thành: thị trường giao ngay và thị trường có kỳ hạn.
Thị trường giao ngay là thị trường mà ở đó việc ký kết hợp đồng
giao dịch các công cụ tài chính và việc thanh toán, giao nhận được thực
hiện ngay trong ngày giao dịch hoặc trong thời gian thanh toán bù trừ
theo quy định.
Thị trường có kỳ hạn là thị trường mà tại đó việc ký kết hợp đồng
giao dịch mua bán các công cụ tài chính diễn ra tại một thời điểm nhất
định, nhưng việc giao nhận và thanh toán chúng được thực hiện sau ngày
giao dịch một thời gian nhất định.
+ Căn cứ vào cơ chế hoạt động: Thị trường tài chính được chia
thành: thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Thị trường có tổ chức là loại thị trường mà tại đó các hoạt động của
nó chịu sự quản lý, điều hành, kiểm soát về mặt pháp lý và điều tiết của
Nhà nước nhằm đảm bảo tính hiệu quả của thị trường.

293
Thị trường có tổ chức lại được chia thành thị trường tập trung và thị
trường bán tập trung. Thị trường tập trung là thị trường có tổ chức và có
địa điểm hoạt động xác định, chịu sự quản lý giám sát của cơ quan tổ
chức thị trường theo quy định của pháp luật, hoạt động như tổ chức tự
định chế không vì mục tiêu lợi nhuận. Thị trường bán tập trung là loại thị
trường có tổ chức nhưng không có địa điểm giao dịch thống nhất, địa
điểm giao dịch là các sàn giao dịch của các công ty chứng khoán thành
viên của thị trường. Các hoạt động giao dịch trên thị trường này được
thực hiện thông qua hệ thống máy vi tính và điện thoại kết nối giữa các
chủ thể tham gia.
Thị trường tự do có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời nhất, tại
đây các hoạt động của nó mang tính phân tán, nhỏ lẻ không có địa điểm
giao dịch cụ thể, thiếu sự kiểm soát của Nhà nước và có nhiều rủi ro cho
các nhà đầu tư.
+ Căn cứ vào đối tượng giao dịch trên thị trường, thị trường tài
chính bao gồm: Thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường
các công cụ phái sinh.
Thị trường trái phiếu là thị trường thực hiện giao dịch phát hành mua
bán các loại trái phiếu như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp
và các hợp đồng vay nợ. Đặc trưng cơ bản của thị trường này là đối
tượng giao dịch trên thị trường là các công cụ tài chính có kỳ hạn xác
định do bên nợ phát hành để vay tiền của các chủ nợ, giá cả giao dịch
được niêm yết là lãi suất vay vốn, sự biến động của thị trường chịu tác
động rất lớn bởi lãi suất của ngân hàng công bố.
Thị trường cổ phiếu là thị trường có đối tượng giao dịch phát hành,
mua bán, chuyển nhượng là các cổ phiếu do các công ty cổ phần phát
hành. Đặc trưng cơ bản nhất của thị trường này là hàng hoá giao dịch
không có kỳ hạn. Nhà đầu tư cổ phiếu chỉ có thể thu hồi vốn bằng việc
bán nó tại thị trường thứ cấp. Đầu tư trên thị trường cổ phiếu rất hấp dẫn,
có thể thu được lợi nhuận cao song cũng chịu rủi ro cao hơn đầu tư trên
thị trường trái phiếu.

294
Thị trường các công cụ phái sinh có đối tượng giao dịch là những
công cụ tài chính được phát hành trên cơ sở hoạt động giao dịch các công
cụ tài chính cơ bản như cổ phiếu, trái phiếu đang lưu hành nhằm các mục
đích khác nhau như phát hành chứng khoán bổ sung tăng vốn điều lệ,
phân tán rủi ro, bảo vệ hoặc tăng lợi nhuận cho nhà đầu tư.
Ngoài các cách phân loại trên, có thể phân loại thị trường theo các
giai đoạn vận động của các công cụ tài chính, theo đó TTTC bao gồm thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Thị trường sơ cấp (Primary market) là thị trường diễn ra các hoạt
động giao dịch các chứng khoán mới phát hành lần đầu. Thị trường này
có các đặc điểm:
+ Chủ thể phát hành là những tổ chức phát hành các công cụ tài
chính để gọi vốn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động của họ,
còn người mua là các nhà đầu tư.
+ Phương tiện huy động vốn là các công cụ tài chính do các tổ chức
huy động vốn bán ra thị trường như trái phiếu, cổ phiếu,…
+ Kết quả giao dịch trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho tổ chức
phát hành, đồng thời làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
- Thị trường thứ cấp (Secondary markret): Là thị trường diễn ra
hoạt động mua bán lại các công cụ tài chính đã phát hành trên thị trường
sơ cấp.
Thị trường thứ cấp có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Công cụ tài chính lưu thông trên thị trường này chỉ là các công cụ
đầu tư sinh lời hoặc di chuyển vốn nhằm tránh rủi ro, tăng lợi nhuận cho
các nhà đầu tư. Lúc này, các công cụ lưu thông trên thị trường thứ cấp
không còn là phương tiện huy động vốn cho các tổ chức phát hành.
+ Chủ thể giao dịch trên thị trường là các nhà đầu tư, kinh doanh vì
mục tiêu lợi nhuận.
+ Kết quả giao dịch trên thị trường không làm tăng vốn đầu tư cho
nền kinh tế mà chỉ đóng vai trò di chuyển vốn của các nhà đầu tư nhằm
phân tán rủi ro và vì mục tiêu lợi nhuận.

295
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ hữu cơ, tác
động qua lại với nhau. Việc phân loại và nghiên cứu thị trường theo cách
phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích quan hệ cung
cầu về vốn trong nền kinh tế, đánh giá hiện trạng của nền kinh tế cũng
như uy tín và vị thế của các tổ chức phát hành trên thị trường.
10.1.4. Các chủ thể tham gia thị trường tài chính
Trên thị trường tài chính, các chủ thể tham gia có thể là:
- Chủ thể phát hành các công cụ tài chính: Đây là những chủ thể có
nhu cầu về vốn đầu tư và được cơ quan chức năng của Nhà nước cho
phép phát hành chứng khoán để huy động vốn. Các chủ thể này thường là
các doanh nghiệp, Chính phủ, các tổ chức tài chính trung gian,… Họ là
những tổ chức cung ứng các hàng hoá lần đầu cho thị trường vốn.
- Người đầu tư: Là những tổ chức và cá nhân có vốn nhàn rỗi và
tham gia gửi tiền tiết kiệm, mua các công cụ tài chính phát hành lần đầu
của người cầu vốn nói chung, mua bán chứng khoán trên thị trường nói
riêng để kiếm lời.
- Nhà môi giới: Là những người trung gian kết nối giữa người mua
với người bán chứng khoán trên thị trường nhằm đảm bảo cho hoạt động
của thị trường công bằng và hiệu quả, họ phải chấp hành một nguyên tắc
cơ bản trong giao dịch chứng khoán là nguyên tắc trung gian. Vai trò của
những nhà môi giới là hết sức quan trọng đối với việc phát triển một thị
trường chứng khoán hiệu quả. Người môi giới chứng khoán có thể là một
thể nhân độc lập hay là một pháp nhân (công ty chứng khoán) được cấp
phép hoạt động. Người môi giới chứng khoán có trình độ nghề nghiệp,
chuyên môn về chứng khoán tốt và hội đủ các điều kiện do quy chế về
nghề nghiệp môi giới do luật pháp quy định và do cơ quan tổ chức quản
lý thị trường cấp phép hoạt động.
- Nhà tạo lập thị trường: Đây là nhóm các nhà môi giới giỏi được
thị trường cho phép thực hiện cả chức năng môi giới và tự doanh trên
thị trường tập trung. Với chức năng tự doanh, họ hoạt động như những
nhà đầu tư và điều tiết thị trường nhằm đảm bảo thị trường hoạt động
hiệu quả.

296
- Nhà tổ chức và quản lý thị trường: Đây là những cơ quan được Nhà
nước thành lập như Uỷ ban Chứng khoán (UBCK), Hội đồng Chứng
khoán quốc gia, các Sở giao dịch Chứng khoán (SGDCK),... Những tổ
chức này có nhiệm vụ ban hành văn bản luật pháp liên quan đến thị
trường chứng khoán, tổ chức quản lý và giám sát hoạt động của thị
trường nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động hiệu quả.
- Các tổ chức phụ trợ: Để hỗ trợ và tạo điều kiện cần thiết cho sự vận
hành của thị trường, trên thị trường tài chính còn có sự tham gia của các
tổ chức phụ trợ như Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ; Trung tâm dữ
liệu dự phòng, Các công ty định mức tín nhiệm,…

10.1.5. Chức năng và vai trò của thị trường

10.1.5.1. Chức năng của thị trường


Chức năng của thị trường tài chính là khả năng khách quan phát huy
tác dụng của nó trong đời sống kinh tế. Hiểu theo nghĩa đó, TTTC có các
chức năng cơ bản sau:
+ Dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu cho
phát triển kinh tế.
Đây là chức năng cơ bản và chủ yếu nhất, biểu hiện bản chất của
TTTC. Với chức năng này, TTTC hoạt động như những kênh dẫn vốn từ
người cung vốn sang người cầu vốn. Chính nhờ chức năng này mà các
nguồn tiền tiết kiệm của dân chúng, của các doanh nghiệp và các tổ chức
xã hội được huy động, tập trung để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế. Thật vậy, thông qua hoạt động của các chủ thể cầu vốn
(phát hành các công cụ tài chính trên thị trường sơ cấp) và hoạt động của
các chủ thể cung vốn - những người có vốn nhàn rỗi (mua các công cụ tài
chính được phát hành), các dòng vốn tiền tệ được dịch chuyển từ nơi
thừa vốn sang nơi thiếu vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho Nhà nước, doanh
nghiệp,… Từ đó, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. Có thể mô tả
quá trình dẫn vốn khi thực hiện chức năng này qua sơ đồ sau:

297
Kênh tài chính gián tiếp

Các trung gian tài chính


- NHTM
- Công ty tài chính, công ty
bảo hiểm
- Quỹ tín dụng

Quản Giám
lý sát
Chủ thể cầu vốn
Chủ thể cung vốn
Cơ quan - Doanh nghiệp
- Hộ gia đình, cá nhân Quản lý Quản lý
quản lý - Nhà nước
- Tổ chức xã hội Giám sát Giám sát
nhà nước - Tổ chức xã hội
- Doanh nghiệp
- Hộ gia đình, cá nhân
- Nhà nước
Quản Giám
lý sát

Các trung gian giao dịch


- Nhà môi giới chứng khoán
- Công ty chứng khoán
Các tổ chức phụ trợ:
- Trung tâm lưu ký chứng khoán
- Trung tâm thanh toán bù trừ
- Sở giao dịch chứng khoán

Kênh tài chính trực tiếp

Qua sơ đồ trên ta thấy, ở kênh tài chính trực tiếp, những người cung
vốn trực tiếp chuyển vốn cho các chủ thể cầu vốn bằng cách mua các
công cụ tài chính (còn được gọi là tài sản tài chính) trực tiếp từ các chủ
thể cầu vốn phát hành thông qua thị trường tài chính. Như vậy TTTC đã
thực hiện chức năng chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn và bằng
phương thức chuyển vốn này, quá trình luân chuyển vốn được thực hiện
nhanh chóng và hiệu quả, các nguồn vốn tiết kiệm lớn, nhỏ của nhà đầu
tư được tập trung với thời hạn và chi phí hợp lý nhất, đem lại lợi ích
cho cả nhà đầu tư và cả chủ thể cầu vốn, từ đó, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.

298
+ Tạo tính thanh khoản cho các tài sản tài chính.
TTTC bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Trên thị
trường thứ cấp, các nhà đầu tư có thể bán lại các tài sản tài chính mà họ
đã mua ở thị trường sơ cấp. Đây chính là chức năng của TTTC trong việc
tạo tính thanh khoản cho các sản phẩm tài chính. Chức năng này rất quan
trọng, bởi lẽ nhờ có chức năng này mà hoạt động của thị trường trở nên
hấp dẫn, giúp các nhà đầu tư di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác
một cách dễ dàng hoặc rút khỏi thị trường tránh rủi ro. Mặt khác, thông
qua chức năng này, nền kinh tế hình thành một lĩnh vực kinh doanh mới
mang tính trí tuệ cao, tạo thêm việc làm cho xã hội, giảm thất nghiệp.
+ Cung cấp thông tin, hình thành giá cả của các tài sản tài chính.
Các tài sản tài chính lưu thông trên thị trường có hai tác dụng quan
trọng: Thứ nhất, chuyển vốn từ chủ thể cung vốn sang chủ thể cầu vốn để
đầu tư vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Thứ hai, chuyển vốn theo
một phương thức sao cho các rủi ro không tránh khỏi liên quan đến dòng
tiền đầu tư vào các tài sản đó được phân bố lại một cách hợp lý nhất giữa
người gọi vốn và người cung vốn. Vì vậy, giao dịch, phát hành, mua đi
bán lại các công cụ tài chính đòi hỏi phải có được các thông tin cần thiết
về tổ chức phát hành các tài sản đó một cách đầy đủ chính xác kịp thời và
các thông tin khác liên quan đến đời sống kinh tế của tổ chức phát hành
cũng như các thông tin về quan hệ cung cầu, giá cả,… Thị trường tài
chính chỉ có thể hoạt động hiệu quả khi cung cấp đầy đủ, kịp thời các
thông tin về các chủ thể tham gia, đặc biệt là chủ thể phát hành, các
thông tin liên quan đến giá trị đích thực hay giá trị nội tại của các tài sản
tài chính, về triển vọng thu nhập cũng như các rủi ro có thể gặp phải đối
với các tài sản này trong tương lai. Để có thể thực hiện chức năng cung
cấp thông tin, thị trường tài chính phải chịu sự quản lý và giám sát bởi
các cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức liên quan theo pháp luật
hoặc theo quy chế quản lý thông tin do các cơ quan quản lý thị trường
hay bản thân một thị trường cụ thể ban hành. Thông tin được cung cấp
công khai, minh bạch, đầy đủ, chính xác trên thị trường là yếu tố quan
trọng hàng đầu quyết định một thị trường tài chính trở thành thị trường
hiệu quả.

299
Thị trường đạt hiệu quả về thông tin, đến lượt mình, sẽ làm cơ sở
cho quá trình hình thành giá cả của các tài sản tài chính một cách khách
quan, công bằng, đảm bảo cho các tổ chức huy động vốn đạt được mục
tiêu huy động vốn của mình, còn nhà đầu tư thì thu được lợi nhuận mong
đợi, tránh được rủi ro.
+ Đánh giá giá trị doanh nghiệp và nền kinh tế.
Thông qua giao dịch trên thị trường giá cả của các tài sản tài chính,
mà chủ yếu là cổ phiếu của doanh nghiệp phát hành, được hình thành.
Nói cách khác, giá trị thị trường của doanh nghiệp được xác định. Nhìn
chung, như một quy luật, doanh nghiệp tăng trưởng ổn định, có tỷ suất
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cao sẽ được thị trường định giá cao và
ngược lại. Từ đây tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp các
doanh nghiệp làm ăn tuân thủ luật pháp, đổi mới công nghệ, tăng năng
suất lao động, tăng hiệu quả kinh doanh của mình. Đối với toàn bộ nền
kinh tế, thông tin trên thị trường chứng khoán thường phản ánh tức thì
sức khoẻ của nền kinh tế thông qua sự thay đổi của các chỉ số chứng
khoán - các chỉ số biểu hiện mức giá trung bình của các tài sản tài chính
do các doanh nghiệp trong nền kinh tế phát hành để huy động vốn. Khi
thị trường đạt hiệu quả về thông tin, một sự tăng lên trong dài hạn của
các chỉ số chứng khoán được công bố trên thị trường phản ánh một xu
thế tăng trưởng của nền kinh tế và ngược lại, nền kinh tế tăng trưởng ổn
định thì giá cả các tài sản tài chính cũng tăng lên ổn định.
10.1.5.2. Vai trò của TTTC
Vai trò của TTTC được biểu hiện thông qua hoạt động của các chủ
thể tham gia thị trường có thể nêu lên những vai trò chủ yếu của TTTC
dưới đây:
+ Tập trung, huy động vốn trong nền kinh tế.
Thông qua hoạt động giao dịch trên thị trường phát hành, các nguồn
vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế của các cá nhân, hộ gia đình, tổ
chức chính trị xã hội, doanh nghiệp được tập trung vào các tổ chức phát
hành. Chính nhờ việc phát hành các tài sản tài chính trên thị trường sơ

300
cấp mà Nhà nước huy động, tập trung được các nguồn vốn lớn trong nền
kinh tế, thực hiện tốt các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của mình như đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các công trình
công cộng, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cũng thông
qua thị trường phát hành, các doanh nghiệp có thể huy động vốn đầu tư
ban đầu hoặc tiếp tục bổ sung tăng vốn, đáp ứng nhu cầu đổi mới công
nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, tăng sức
cạnh tranh cho doanh nghiệp.
+ Điều tiết các nguồn vốn trong nền kinh tế.
Các dòng chảy tài chính từ người cung vốn sang người cầu vốn trên
TTTC thường tuân theo những quy luật nhất định.
Thứ nhất, quy luật cung cầu về vốn trên thị trường. Theo đó, các
nguồn vốn nhàn rỗi trong các lĩnh vực, ngành nghề, vùng miền khác
nhau được di chuyển trên một phạm vi rộng lớn của quốc gia, thậm chí
quốc tế nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng đồng vốn cao nhất, cũng như
đáp ứng nhu cầu đầu tư sử dụng vốn theo các mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội của Chính phủ trong từng thời kỳ nhất định.
Thứ hai, quy luật tối đa hóa lợi nhuận. Theo quy luật này, đồng vốn
nhàn rỗi từ các tổ chức chính trị, xã hội, hộ gia đình, cá nhân và doanh
nghiệp sẽ di chuyển mạnh trên thị trường TTTC từ những nơi có lợi
nhuận thấp sang những nơi có lợi nhuận cao. Thật vậy, trong nền kinh tế
thị trường, do tác động của quy luật phát triển không đều giữa các ngành
nghề trong nền kinh tế, tồn tại những ngành nghề, doanh nghiệp phát
triển mạnh thu được lợi nhuận cao, trong khi đó cũng có không ít những
ngành nghề gặp khó khăn trong kinh doanh và những doanh nghiệp làm
ăn kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ. Khi đó, khả năng thu hút vốn của các
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ sẽ bị thu hẹp, các
chủ nợ sẽ rút vốn để bảo toàn vốn, còn các cổ đông cũng không mặn mà
bỏ thêm vốn đầu tư vào những doanh nghiệp này. Ngược lại, các doanh
nghiệp, các ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận cao thì khả năng huy động
vốn lại rất thuận lợi. Như vậy, qua thị trường, dòng vốn đã di chuyển từ
nơi có lợi nhuận thấp sang nơi có tỷ suất lợi nhuận cao hơn tạo ra cơ cấu
kinh tế mới hợp lý và hiệu quả hơn.

301
+ TTTC là môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh
tế vĩ mô.
Các chỉ báo của thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng
khoán phản ánh tình hình và sức khoẻ của nền kinh tế tương đối toàn
diện và chính xác. Vì vậy, TTTC được coi là phong vũ biểu đo lường sức
khoẻ của nền kinh tế. Từ đó, Nhà nước sử dụng TTTC như một công cụ
thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường, Nhà nước
có thể thực hiện việc phát hành trái phiếu Chính phủ để gọi vốn đầu tư,
tăng thu cho NSNN, giảm thâm hụt, giảm lượng tiền lưu thông trong
ngắn hạn để giảm lạm phát. Thông qua các tín hiệu trên thị tường ngoại
hối, Nhà nước thực thi chính sách hối đoái tích cực thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế của mình như khuyến khích xuất khẩu,...

10.2. THÞ TR¦êNG TIÒN TÖ


10.2.1. Khái niệm và đặc điểm của thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của TTTC - nơi diễn ra quá trình
phát hành, giao dịch, mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn nhằm đáp
ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của nền kinh tế.
Thông qua thị trường tiền tệ, các nguồn vốn có thời gian sử dụng
trong vòng một năm được dịch chuyển từ người cung vốn sang người cầu
vốn, góp phần tăng hiệu quả phân bổ nguồn lực của xã hội. Thị trường
tiền tệ cũng là môi trường để ngân hàng trung ương thực thi chính sách
tiền tệ như chính sách tái chiết khấu, hạn mức tín dụng, nghiệp vụ thị
trường mở,… nhằm kiểm soát hoạt động của các ngân hàng thương
mại, tổ chức kinh doanh tiền tệ và điều tiết lượng tiền cung ứng cho nền
kinh tế.
Thị trường tiền tệ có những đặc điểm cơ bản sau:
- Đối tượng giao dịch trên thị trường tiền tệ được gọi là “công cụ của
thị trường tiền tệ” có thời hạn đáo hạn ngắn (thời hạn hiệu lực trong vòng
1 năm), có tính thanh khoản cao, độ rủi ro thấp và hoạt động tương đối
ổn định.

302
- Hoạt động của thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu trong hệ thống tổ
chức tín dụng qua hình thức tài chính đặc trưng - tài chính gián tiếp. Về
bản chất, đây là một thị trường giao dịch “quyền sử dụng vốn” có thời
gian sử dụng trong vòng một năm thông qua hoạt động giao dịch giữa
những người tiết kiệm vốn và các tổ chức tín dụng mà chủ yếu là ngân
hàng thương mại. Giá cả hình thành trên thị trường này là lãi suất tiền
vay ngắn hạn.
10.2.2. Cấu trúc của thị trường tiền tệ
Xét theo đối tượng giao dịch và đặc điểm hoạt động, thị trường tiền
tệ được cấu thành bởi các bộ phận sau:
- Thị trường tín dụng ngắn hạn. Các hoạt động tại thị trường này bao
gồm: hoạt động huy động vốn và cho vay ngắn hạn của các tổ chức tín
dụng và các hoạt động trên thị trường liên ngân hàng nhằm giải quyết
nhu cầu về vốn ngắn hạn giữa các ngân hàng.
- Thị trường ngoại hối là thị trường diễn ra các giao dịch mua bán
chuyển nhượng cho vay ngoại tệ. Thông qua thị trường này ngân hàng
trung ương thực thi chính sách tỷ giá hối đoái của mình, đồng thời thị
trường cũng tác động đến tỷ giá hối đoái, một biến số quan trọng của
kinh tế vĩ mô.
- Thị trường giao dịch các giấy tờ có giá ngắn hạn: Các giấy tờ có
giá ngắn hạn bao gồm: tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng,… và được
gọi tắt là chứng khoán ngắn hạn.
10.2.3. Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ
Đó là các tài sản tài chính ngắn hạn (hay là công cụ nợ ngắn hạn) có
tính thanh khoản cao như:
- Tín phiếu kho bạc ngắn hạn: Đây là loại tài sản tài chính ngắn hạn
được xem là công cụ đầu tư phi rủi ro phá sản và an toàn nhất. Các công
cụ tài chính này được lưu thông rộng rãi và có tính thanh khoản cao trên
thị trường tài chính. Các công ty tài chính và ngân hàng thương mại
thường đầu tư vốn nhàn rỗi của mình vào trái phiếu Chính phủ để tăng

303
lợi nhuận và sử dụng nó như một loại “tiền dự trữ” đặc biệt nhằm giải
quyết khó khăn về tài chính của họ. Ngân hàng Trung ương có thể sử
dụng công cụ này để thực hiện nghiệp vụ thị trường mở.
- Chứng chỉ tiết kiệm ngắn hạn có thể chuyển nhượng được: Là tài
sản tài chính xác nhận một khoản tiền gửi tại một ngân hàng có lãi suất
cố định và thời gian đáo hạn trong vòng một năm. Tiền lãi của nó được
thanh toán cùng với vốn gốc tại thời điểm đáo hạn của nó. Đây là công
cụ tạo vốn rất quan trọng và đảm bảo tính thanh khoản cho ngân hàng.
- Giấy chấp nhận thanh toán của ngân hàng và hối phiếu do ngân
hàng phát hành: Đây là loại tài sản tài chính do ngân hàng phát hành, ít
rủi ro và được áp dụng trong giao dịch quốc tế.
- Thương phiếu: Đây là một loại giấy tờ có giá xác nhận một khoản
nợ trong quan hệ tín dụng thương mại. Người giữ nó có quyền đòi tiền
người nợ khi đến hạn thanh toán. Thương phiếu có hai loại:
+ Lệnh phiếu (còn gọi là kỳ phiếu thương mại): Đây là một tờ giấy
xác nhận một khoản nợ trong quan hệ tín dụng thương mại do người mua
ký phát cho người bán (người cấp tín dụng thương mại) với thời gian đáo
hạn xác định. Lệnh phiếu thường được giao dịch trên thị trường tiền tệ
với giá chiết khấu.
+ Hối phiếu thương mại: Là loại giấy tờ phát sinh trong quan hệ tín
dụng thương mại, nhưng khác với thương phiếu, hối phiếu lại do chủ nợ
phát hành. Trong đó người ký chấp nhận trả một số tiền nhất định cho
người nắm giữ nó khi hối phiếu đến hạn thanh toán.
- Các thoả thuận mua lại chứng khoán: Đây là thỏa thuận, theo đó
người bán chứng khoán được phép mua lại các chứng khoán đã bán cho
người mua với các điều kiện được quy định trong thoả thuận mua lại đó.
Các thoả thuận mua lại giúp người bán thỏa mãn nhu cầu cấp thiết về vốn
cho chi tiêu hiện tại, thông qua việc bán các chứng khoán của mình và sẽ
mua lại các chứng khoán đó bán vào một số ngày sau đó theo các thỏa
thuận với người mua.

304
10.3. THÞ TR¦êNG VèN
10.3.1. Khái niệm và đặc điểm của trường vốn
Thị trường vốn là bộ phận của thị trường tài chính, tại đó diễn ra quá
trình giao dịch phát hành, mua bán, chuyển nhượng các công cụ tài chính
trung và dài hạn (có thời hạn từ một năm trở lên), là nơi cung ứng vốn
đầu tư trung và dài cho nền kinh tế, đồng thời cũng là thị trường đầu tư
hấp dẫn và quan trọng của những nhà đầu tư.
Thị trường vốn có những đặc điểm cơ bản sau:
- Đối tượng giao dịch trên thị trường vốn được gọi là “công cụ của
thị trường vốn” có thời hạn đáo hạn từ 1 năm trở lên, có tính thanh khoản
phụ thuộc vào trạng thái thị trường và chất lượng của chính đối tượng
đang được giao dịch trên thị trường, có độ rủi ro cao hơn các đối tượng
giao dịch trên thị trường tiền tệ.
- Hoạt động của thị trường vốn diễn ra trong phạm vi rộng bao quát
cả thị trường tín dụng thuê mua, cho vay thế chấp và thị trường chứng
khoán. Về bản chất, đây là loại hình thị trường giao dịch các công cụ tài
chính có thời gian sử dụng từ một năm trở lên.
10.3.2. Cấu trúc của thị trường vốn
Thị trường vốn có nhiều bộ phận hợp thành và tuỳ thuộc vào mục
đích nghiên cứu tổ chức quản lý điều hành mà được chia thành những bộ
phận khác nhau.
Căn cứ vào hình thức vận động, thị trường vốn được cấu thành bởi
các bộ phận: Thị trường tín dụng trung, dài hạn và thị trường chứng
khoán.
- Thị trường tín dụng trung và dài hạn được biểu hiện chủ yếu qua
hoạt động của hai hình thức phổ biến là thị trường tín dụng cho thuê tài
chính và thị trường cho vay thế chấp bất động sản.
Thị trường tín dụng cho thuê tài chính là loại hình thị trường tín
dụng diễn ra các giao dịch cho thuê tài chính.

305
Thị trường cho vay thế chấp bất động sản là thị trường thực hiện
cho vay vốn gắn liền với giao dịch, đảm bảo tiền vay bằng việc thế chấp
bất động sản của người đi vay. Thị trường này gắn bó mật thiết với thị
trường bất động sản.
- Thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là bộ phận thị trường biểu hiện hình thức
phát triển cao nhất của thị trường vốn, tại thị trường này diễn ra các hoạt
động phát hành, giao dịch, mua bán các loại chứng khoán. Nếu nhìn từ
góc độ bao quát về các hình thức giao dịch vốn thông qua các công cụ
tài chính trung và dài hạn trong nền kinh tế, có thể thấy thị trường vốn và
thị trường chứng khoán chỉ là cách gọi khác nhau của cùng một thị
trường giao dịch các nguồn vốn (trung và dài hạn) trong nền kinh tế,
trong đó thị trường vốn biểu hiện bản chất của quá trình giao dịch các
chứng khoán còn thị trường chứng khoán biểu hiện hình thức bên ngoài
của giao dịch vốn trung và dài hạn.
Thị trường chứng khoán cũng được cấu thành bởi các bộ phận
khác nhau.
- Nếu căn cứ vào các giai đoạn vận động của các chứng khoán, thị
trường chứng khoán được chia thành: Thị trường sơ cấp và thị trường
thứ cấp.
- Nếu căn cứ vào cơ chế hoạt động của thị trường, thị trường chứng
khoán được chia thành: thị trường có tổ chức và thị trường tự do (xem
phần phân loại TTTC).
- Nếu căn cứ vào đối tượng giao dịch trên thị trường, thị trường
chứng khoán được chia thành: Thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu
và thị trường các công cụ phái sinh.
Thị trường trái phiếu được phân thành thị trường trái phiếu Chính
phủ và thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Thị trường trái phiếu Chính
phủ là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại trái phiếu

306
Chính phủ phát hành để huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước. Đây là
nơi Nhà nước huy động vốn vay của xã hội để đáp ứng nhu cầu vốn cho
đầu tư phát triển kinh tế đã xác định, đồng thời cũng là nơi huy động vốn
khắc phục thâm hụt Ngân sách Nhà nước, chống lạm phát, thực hiện điều
tiết vĩ mô nền kinh tế. Thị trường trái phiếu Chính phủ thường rất ổn
định vì trái phiếu Chính phủ thường ít rủi ro nhưng có mức lợi nhuận
thấp. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp là thị trường giao dịch các loại
trái phiếu doanh nghiệp trung và dài hạn do các doanh nghiệp phát hành
để huy động vốn đầu tư. Thị trường này cũng phát triển ổn định nhưng
độ rủi ro cao hơn thị trường trái phiếu Chính phủ.
Thị trường cổ phiếu: Là bộ phận cơ bản nhất của thị trường vốn hay
thị trường chứng khoán nói riêng, tại đây các loại cổ phiếu - một công cụ
huy động vốn quan trọng đặc biệt của doanh nghiệp - được phát và lưu
thông trên cả hai thị trường sơ cấp và thứ cấp. Ở các nước có nền kinh tế
phát triển, đã hình thành và phát triển thị trường cổ phiếu riêng biệt
(Anh, Mỹ, Nhật Bản, Đức...) và là một kênh tạo vốn quan trọng đặc biệt
của nền kinh tế, đồng thời là môi trường đầu tư hấp dẫn của các nhà đầu
tư tài chính. Mặt khác, do cổ phiếu là loại sản phẩm tài chính có mức thu
nhập phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần phát hành,
vì vậy, giá trị của nó (những lợi ích tài chính mà nhà đầu tư nhận được từ
việc sở hữu cổ phiếu) phụ thuộc vào chính hiệu quả kinh doanh của tổ
chức phát hành.
Thị trường cổ phiếu chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các
yếu tố môi trường kinh tế - xã hội của các quốc gia và thế giới như: giá
cả các đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp, lạm phát, đình công, thất
nghiệp, chiến tranh khủng bố,… chính các yếu tố đó có tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do
đó, các yếu tố này tác động đến giá trị cổ phiếu trên thị trường. Có thể
khẳng định, thị trường cổ phiếu phản ánh đầy đủ sự thăng trầm của đời
sống kinh tế - xã hội.

307
10.3.3. Các công cụ chủ yếu lưu thông trên thị trường vốn
Cổ phiếu
Cổ phiếu là bằng chứng pháp lý xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu đối với một phần vốn góp vào tổ chức phát hành là
công ty cổ phần.
Theo quy định tại khoản 1 điều 6 chương I của luật chứng khoán
(Luật số 70/2006 /QH 11 do Quốc hội nước ta thông qua), cổ phiếu là
một loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.
Nhà đầu tư sở hữu cổ phiếu được gọi là cổ đông và trở thành đồng
chủ sở hữu công ty cổ phần.
Mức độ sở hữu cũng như quyền và lợi ích của cổ đông phụ thuộc
vào tỷ lệ cổ phần (hay số cổ phiếu) mà họ nắm giữ. Là cổ đông, họ phải
chấp nhận nguyên tắc đầu tư lời ăn lỗ chịu theo điều lệ hoạt động của
công ty cổ phần. Trong trường hợp xấu nhất, công ty cổ phần bị phá sản
nhà đầu tư có thể mất toàn bộ số vốn giúp của mình.
Cổ phiếu có nhiều loại, theo tính chất của các quyền và lợi ích mà cổ
phiếu mang lại cho cổ đông thì có hai loại cổ phiếu: cổ phiếu phổ thông
và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu phổ thông là loại cổ phiếu có mức cổ tức phụ thuộc vào kết
quả kinh doanh của công ty cổ phần, ngoài ra, nếu công ty cổ phần kinh
doanh đạt hiệu quả cao, giá trị công ty tăng lên thì giá cổ phiếu của cổ
đông cũng tăng lên. Vì vậy, cổ đông hay các nhà đầu tư cổ phiếu nói
chung rất quan tâm đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty
cổ phần.
Trên thị trường vốn hay thị trường cổ phiếu, giá cả của cổ phiếu chịu
sự tác động rất mạnh của kết quả kinh doanh của công ty cổ phần, nếu
công ty làm ăn có tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu cao thì giá
của nó càng cao. Theo đó, thu nhập của cổ đông sẽ càng cao do chênh
lệch giá mua bán cao và cổ tức được chia cũng cao lên và ngược lại. Đây
cũng là lý do tại sao đầu tư vào cổ phiếu phổ thông thường có lợi nhuận
kỳ vọng cao nhưng cũng gặp những rủi ro cao.

308
Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu dành cho người sở hữu nó những ưu
đãi so với cổ đông phổ thông. Kiểu ưu đãi lâu đời nhất và phổ biến nhất
là ưu đãi về cổ tức.
Cổ phiếu ưu đãi cổ tức có mức cổ tức cố định và được ghi rõ trên cổ
phiếu ưu đãi. Người sở hữu cổ phiếu ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi. Với
việc sở hữu cổ phiếu này nhà đầu tư có thu nhập ổn định và hầu như
không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty phát hành. Về mặt
này, cổ phiếu ưu đãi tương đối giống với trái phiếu doanh nghiệp.
Tính ưu đãi của loại cổ phiếu này cũng được thể hiện ở một số nội
dung như: được chia cổ tức trước cổ phiếu phổ thông, được hoàn vốn
trước cổ phiếu phổ thông khi công ty bị thanh lý, được phép chuyển
thành cổ phiếu phổ thông theo quy định của công ty. Tuy nhiên, đối với
cổ phiếu ưu đãi cổ tức lại không được hưởng một số quyền như cổ đông
nắm giữ cổ phiếu phổ thông. Chẳng hạn cổ đông ưu đãi không có quyền
ứng cử, bầu cử các thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát công ty
cổ phần, không có quyền biểu quyết các vấn đề quan trọng của công ty
tại đại hội cổ đông.
Ngoài loại cổ phiếu ưu đãi cổ tức còn có các loại cổ phiếu ưu đãi
khác như: cổ phiếu ưu đãi tham dự, cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi, cổ phiếu
ưu đãi cộng dồn, cổ phiếu ưu đãi bỏ phiếu về quyền bỏ phiếu (được
nhiều phiếu bầu hơn) hoặc được quyền đòi lại vốn góp (theo Luật doanh
nghiệp Việt Nam).
Trái phiếu
Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu đối với phần vốn vay của tổ chức phát hành (Luật
Chứng khoán Việt Nam năm 2006).
Trái phiếu là công cụ huy động vốn vay của tổ chức phát hành,
người mua trái phiếu là người cho vay vốn, tổ chức phát hành trái phiếu
là người vay vốn cam kết sẽ trả cho người sở hữu trái phiếu những khoản
thu nhập nhất định theo những kỳ hạn đã được xác định trước trong trái
phiếu. Khác với cổ phiếu phổ thông, trái phiếu có lợi tức cố định và

309
thường thấp hơn thu nhập của cổ phiếu phổ thông nhưng ít rủi ro và
thanh khoản thấp hơn cổ phiếu.
Nhằm mục tiêu quản lý và nâng cao hiệu quả huy động vốn nhàn rỗi
cho phát triển kinh tế - xã hội, thông qua trái phiếu, tổ chức huy động
vốn có thể phát hành nhiều loại trái phiếu khác nhau. Nếu căn cứ vào chủ
thể phát hành trên thị trường vốn, gồm có các loại trái phiếu sau:
+ Trái phiếu Chính phủ: Do kho bạc Nhà nước phát hành nhằm huy
động vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và bù đắp thiếu hụt
ngân sách Nhà nước. Đặc trưng cơ bản nhất của trái phiếu Chính phủ là
nhà đầu tư sở hữu nó có mức lợi nhuận hợp lý và hầu như không có rủi
ro về thanh khoản và phá sản.
+ Trái phiếu chính quyền địa phương: Do chính quyền địa phương
phát hành nhằm mục đích huy động vốn hỗ trợ ngân sách địa phương.
Mức rủi ro của loại trái phiếu này rất thấp.
+ Trái phiếu công trình: Được phát hành gắn liền với các công trình,
dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của Chính phủ, của chính
quyền địa phương. Chủ thể phát hành là Chính phủ trung ương, chính
quyền địa phương hoặc các chủ dự án đầu tư. Trái phiếu loại này có thể
có rủi ro lớn hơn so với hai loại trên.
+ Trái phiếu doanh nghiệp: Do các doanh nghiệp phát hành nhằm
mục đích huy động vốn vay đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Người sở hữu trái phiếu doanh
nghiệp là chủ nợ của doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Mức độ an toàn
của trái phiếu doanh nghiệp thấp hơn trái phiếu Chính phủ và trái phiếu
chính quyền địa phương, nhưng thường có thu nhập cao hơn.
Trên thị trường vốn có nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp lưu hành,
phổ biến nhất là các loại sau:
- Trái phiếu có bảo đảm bằng tài sản thế chấp: cụ thể của đơn vị
phát hành hoặc đảm bảo bằng tài sản của tổ chức bảo lãnh phát hành
(thường là của các ngân hàng bảo lãnh hoặc của công ty chứng khoán có
uy tín tài chính lớn).

310
- Trái phiếu không có bảo đảm (còn gọi là trái phiếu tín chấp). Đây
là loại trái phiếu doanh nghiệp phát hành nhờ vào uy tín và danh tiếng
của doanh nghiệp trên thị trường hoặc của một công ty cổ phần đại chúng
có uy tín cao đối với khách nợ.
- Trái phiếu chuyển đổi: Là loại trái phiếu có điều khoản quy định
cho phép người nắm giữ nó được chuyển đổi thành chứng khoán khác
(nhưng phổ biến và hấp dẫn nhà đầu tư nhất là chuyển đổi thành cổ phiếu
phổ thông). Loại trái phiếu này sẽ cho thu nhập cao khi công ty phát
hành tăng trưởng mạnh.
- Trái phiếu có thể mua lại.
Chứng chỉ quỹ đầu tư. Đây là loại tài sản tài chính do các quỹ đầu
tư phát hành để huy động vốn thực hiện mục tiêu đầu tư tập thể để thu lợi
nhuận tránh rủi ro. Có hai mô hình thành lập quỹ đầu tư:
Một là, quỹ đầu tư dạng công ty có tư cách pháp nhân, có hội đồng
quản trị - cơ quan quản lý điều hành cao nhất được phép phát hành cổ
phần ra công chúng để huy động vốn đầu tư. Thực chất, mô hình này
giống một công ty cổ phần.
Hai là, quỹ đầu tư dạng hợp đồng, quỹ đầu tư dạng này không có tư
cách pháp nhân do một công ty quản lý quỹ huy động vốn bằng cách lấy
tổng lượng vốn dự kiến để huy động chia nhỏ thành những phần bằng
nhau và phát hành chứng chỉ tương ứng với phần vốn đó bán cho ra công
chúng như là một đơn vị đầu tư. Công ty quản lý quỹ đảm nhiệm cả hai
chức năng huy động vốn và đầu tư kiếm lời cho chủ sở hữu vốn. Ưu
điểm nổi bật của việc đầu tư vào chứng chỉ quỹ là giảm thiểu rủi ro cho
các nhà đầu tư nhỏ lẻ vốn ít, không có kinh nghiệm trên thị trường chứng
khoán. Trên thị trường vốn, chứng chỉ quỹ cũng có tính thanh khoản cao,
thậm chí đầu tư vào chứng chỉ quỹ vẫn thu được chênh lệch giá cao
ngoài cổ tức được chia theo điều lệ của quỹ đầu tư.
Chứng khoán phái sinh:
Quyền mua cổ phiếu: Đây là loại chứng khoán phát sinh từ chứng
khoán cơ sở là cổ phiếu phổ thông. Loại chứng khoán này cho phép các

311
cổ đông hiện tại của công ty cổ phần được mua một số lượng cổ phiếu
của đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới, tương ứng với tỷ lệ cổ phần
hiện có của họ trong công ty với một mức giá xác định thấp hơn mức giá
chào bán ra công chúng trong một thời hạn xác định thường là một tháng
trở lại, đôi khi chỉ vài tuần.
Chứng quyền: Là loại chứng khoán cho phép người sở hữu nó được
mua một số lượng xác định một loại chứng khoán nào đó, thường là cổ
phiếu phổ thông của tổ chức phát hành với một mức giá và thời gian xác
định trước. Chứng quyền được phát hành khi tổ chức lại công ty hoặc
công ty có nhu cầu lớn về vốn cần khuyến khích nhà đầu tư mua trái
phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi của công ty phát hành.
Khác với quyền mua cổ phiếu, chứng quyền có thời hạn dài có khi là
vĩnh viễn, về giá mua cổ phiếu ghi trong chứng quyền bao giờ cũng cao
hơn giá trị hiện tại của cổ phiếu được mua nhưng do thời hạn hiệu lực
của chứng quyền dài, nên đến một thời hạn nhất định, giá cổ phiếu đơn vị
phát hành tăng quá mức giá ghi trong chứng quyền thì chứng quyền trở
thành công cụ tài chính có giá. Trên thị trường vốn, chứng quyền và
quyền mua cũng được giao dịch rất nhộn nhịp và được các nhà đầu cơ rất
quan tâm.
Quyền chọn: Một quyền chọn là một hợp đồng cho phép người nắm
giữ quyền được mua (nếu là quyền mua) hoặc được bán (nếu là quyền
bán) một khối lượng nhất định hàng hoá cơ sở tại một mức giá và trong
một thời hạn được xác định trước, hàng hoá cơ sở ghi trong hợp đồng có
thể là cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán,…
Hợp đồng quyền chọn có các nội dung cơ bản sau:
Loại quyền được thực hiện: Có thể là quyền chọn mua (call option
contracts) hoặc quyền chọn bán (put option contracts). Người nắm giữ
quyền sẽ được chọn thực hiện quyền đó theo những điều khoản đã được
quy định sẵn trong hợp đồng quyền chọn.
Tên hàng hoá (còn gọi là hàng hoá cơ sở của hợp đồng quyền chọn)
và khối lượng được giao dịch.

312
Thời hạn hiệu lực của quyền: Đây là khoảng thời gian mà quyền
chọn có hiệu lực, theo đó, trong khoảng thời gian này, người nắm
giữ quyền chọn được quyền chọn thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ
và mất phí.
Giá (giá mua hoặc bán của hàng hóa cơ sở) thực hiện của hợp đồng:
Đây là mức giá xác định trước làm căn cứ để bên nắm giữ quyền chọn
đưa ra quyết định thực hiện hay hủy bỏ hợp đồng.
Giá của quyền chọn (còn gọi là phí chọn - call premium): Đây là giá
mua quyền chọn, theo đó, bên mua hay nắm giữ quyền chọn phải trả cho
người bán khi ký hợp đồng.
Trên thị trường vốn, đây là một công cụ tài chính phái sinh khá hấp
dẫn, bởi lẽ nó vừa là công cụ dự phòng, phòng ngừa rủi ro, vừa là công
cụ để đầu tư kiếm lợi.

C¢U HáI ¤N TËP CH¦¥NG 10

1. Thị trường tài chính là gì? Các đặc trưng cơ bản của thị trường
tài chính?
2. Trình bày các cách phân loại thị trường tài chính?
3. Trình bày các chức năng và vai trò của thị trường tài chính?
4. Phân biệt thị trường tiền tệ và thị trường vốn?
5. Trình bày các công cụ của thị trường tiền tệ?
6. Trình bày các công cụ của thị trường vốn?

313
Chương 11
TµI CHÝNH QUèC TÕ

Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá cùng với sự phát triển của các
quan hệ kinh tế quốc tế, các quan hệ tài chính quốc tế (TCQT) cũng phát
triển rất mạnh mẽ và có những vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
của nền kinh tế thế giới. Với mục đích cung cấp cho người đọc những
kiến thức cơ bản nhất về tài chính và hoạt động tài chính trên phạm vi
toàn cầu, chương này sẽ đề cập đến các vấn đề như: Cơ sở hình thành và
phát triển của TCQT, các đặc trưng, vai trò của TCQT, những quan hệ tài
chính quốc tế chủ yếu và tương tác của chúng với các mối quan hệ kinh
tế - tài chính trong từng quốc gia.

11.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ TµI CHÝNH QUèC TÕ


11.1.1. Cơ sở hình thành và phát triển của tài chính quốc tế
Trong các chương trước chúng ta đã nghiên cứu các quan hệ tài
chính trong phạm vi một quốc gia cụ thể và đã nhận thấy rõ hoạt động tài
chính trong phạm vi một quốc gia gắn liền và tác động đến mọi lĩnh vực
của đời sống kinh tế - xã hội. Cơ sở hình thành các quan hệ tài chính
trong nền kinh tế là các quan hệ kinh tế - xã hội phát sinh gắn liền với
quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định ở các chủ thể
trong nền kinh tế và phục vụ lợi ích của các các chủ thể đó. Trên phạm vi
toàn cầu, sự hình thành và phát triển của tài chính cũng tuân theo trật tự
đó nghĩa là luôn là hệ quả tất yếu của các quan hệ kinh tế - xã hội phát
sinh. Tuy nhiên, sự khác biệt ở chỗ phạm vi hoạt động và tác động của
tài chính không bó hẹp trong một quốc gia cụ thể mà được mở rộng ra
giữa các quốc gia, các khu vực của thế giới. Để có thể hiểu rõ cơ sở hình
thành của TCQT trước hết cần hiểu tài chính quốc tế là gì?
Cách tiếp cận lo-gíc và khoa học nhất là nhìn nhận tài chính như một
hệ thống thống nhất và hoạt động tài chính không chỉ hạn chế trong

314
phạm vi một quốc gia. Nghĩa là phải nghiên cứu nó trong điều kiện các
quan hệ kinh tế đã vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia trong xu thế hội
nhập và toàn cầu hoá một cách mạnh mẽ và sâu rộng như hiện nay, từ đó
có thể khái quát hoá khái niệm tài chính quốc tế trên cơ sở khái niệm tài
chính đã nghiên cứu trong phạm vi một quốc gia như sau:
Tài chính quốc tế là tổng thể các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá
trị gắn liền với quá trình phân phối, tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
nhất định ở những chủ thể kinh tế - xã hội xác định, phục vụ mục đích
tích luỹ hay tiêu dùng của các chủ thể đó xét trên bình diện quốc tế.
Tài chính quốc tế cũng phản ánh sự dịch chuyển các nguồn lực tài
chính từ các chủ thể của một nước này với các chủ thể của nước khác và
với các tổ chức quốc tế, gắn liền với các hoạt động kinh tế - xã hội và
phục vụ lợi ích của các chủ thể đó.
Nghiên cứu quá trình phát triển của xã hội loài người có thể nhận
thấy rằng quá trình dịch chuyển các nguồn lực tài chính giữa các quốc
gia ra đời và phát triển từ những hình thức đơn giản đến phức tạp và luôn
gắn liền với những điều kiện phát triển khách quan của mỗi quốc gia
trong đời sống kinh tế quốc tế. Hình thái sơ khai nhất của TCQT là hiện
tượng cống nạp vàng, bạc, đá quý,… để chiếm đoạt tài sản của nước này
đối với nước khác xuất hiện từ cuối thời kỳ chiếm hữu nô lệ sang thời kỳ
phong kiến. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, các quan hệ
TCQT cũng không ngừng phát triển theo. Có thể thấy rõ khi các quan hệ
kinh tế quốc tế phát triển mà trước hết là sự phát triển thương mại và đầu
tư nói chung trên phạm vi toàn cầu thì cũng đã thúc đẩy nhanh chóng sự
dịch chuyển của các nguồn lực tài chính giữa các quốc gia và sự chuyển
dịch này ngày càng diễn ra nhộn nhịp, phong phú và mạnh mẽ hơn.
Trong điều kiện xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới đang diễn ra một cách sâu sắc mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế quốc tế, các quan hệ tài chính quốc tế cũng phát triển mạnh
mẽ như là hệ quả của sự phát triển. Trong điều kiện đó, mỗi biến cố tài
chính quan trọng xảy ra ở mỗi quốc gia đều tác động đến kinh tế của các
quốc gia khác.

315
Thật vậy trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia là một đơn vị kinh tế
mang tính độc lập tương đối có mối quan hệ tác động qua lại với quốc
gia khác và nhu cầu tạo lập sử dụng các nguồn lực tài chính của các chủ
thể kinh tế - xã hội của từng quốc gia nhằm đáp ứng các mục đích tích
luỹ hay tiêu dùng của họ theo đó cũng được mở rộng và phát triển ra
phạm vi quốc tế. Đây cũng chính là kết quả của hợp tác và phân công lao
động quốc tế. Đồng thời, với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế quốc
tế, các liên minh kinh tế khu vực được hình thành và phát triển, các liên
kết kinh tế - tài chính cũng hình thành và phát triển nhằm giải quyết
những vấn đề mang tính toàn cầu (khủng hoảng kinh tế tài chính, môi
trường, đói nghèo, chiến tranh khủng bố…) đã làm nảy sinh nhu cầu hình
thành và phát triển các tụ điểm tài chính hay các tổ chức tài chính lớn
trên thế giới như IMF, ADB, WB,…
Từ những phân tích ở trên có thể thấy rằng dù có phạm vi hoạt động
rất rộng lớn, rất đa dang và phong phú, vượt ra khỏi một quốc gia cụ thể,
liên quan đến mọi mặt của đời sống quốc tế, song các quan hệ TCQT đều
được hình thành và phát triển trên những cơ sở sự phát triển khách quan
của các quan hệ kinh tế chủ yếu sau đây:
- Sự phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Phân công lao động quốc tế là hệ quả trực tiếp của sự phát triển nền
kinh tế hàng hoá tiền tệ ra phạm vi quốc tế. Hiện tượng này diễn ra một
cách sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế quốc tế và với một
tốc độ ngày càng nhanh chóng. Cùng với phân công lao động phát triển,
sự hợp tác quốc tế cũng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú hơn.
Sự phát triển mạnh mẽ của hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác nhau
của đời sống kinh tế quốc tế như thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, văn
hoá ngoại giao du lịch khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới là minh
chứng cụ thể cho quá trình đó và hệ quả tất yếu của phân công và hợp tác
quốc tế phát triển không ngừng đó là việc phát sinh các quyền và nghĩa
vụ thanh toán tiền tệ giữa các nước nói chung và các chủ thể kinh tế - xã
hội của các nước khác nói riêng. Từ đây làm nảy sinh quá trình dịch
chuyển các nguồn tài chính từ quốc gia này sang quốc gia khác gắn liền
với quá trình tạo lập phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ, phục vụ mục
đích tích luỹ hay tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trên phạm vi toàn cầu,

316
đồng thời với các hiện tượng đó là sự hình thành các quan hệ tỷ giá hối
đoái, cán cân thanh toán, cán cân thương mại,… nghĩa là tài chính quốc
tế xuất hiện và phát triển.
- Sự phát triển của hoạt động đầu tư quốc tế.
Vào những năm cuối của thế kỷ 20, do những nhu cầu to lớn cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia cũng như kết quả của sự phát
triển phân công và hợp tác quốc tế, các hoạt động đầu tư quốc tế diễn ra
một cách mạnh mẽ nhằm khai thác các lợi thế kinh tế và nâng cao hiệu
quả của nền kinh tế - xã hội của từng quốc gia trong sự phát triển nhanh
chóng của toàn cầu hoá, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ quyền con
người, thúc đẩy phát triển xã hội. Các hoạt động đó phát triển trên nhiều
lĩnh vực dưới các hình thức đa phương, song phương gắn liền với sự phát
triển của các hình thức hoạt động tài chính quốc tế như: Đầu tư trực tiếp
nước ngoài, viện trợ phát triển… Nói một cách khác, sự phát triển của
các hoạt động đầu tư quốc tế đã làm cho các hoạt động tài chính quốc tế
phát triển nhanh chóng lên một tầm cao mới, thúc đẩy và nâng cao vị thế
của từng quốc gia trong sự phát triển chung của thế giới.

Các chủ thể Các hoạt động kinh tế Các chủ thể
của một quốc tế: của quốc gia
quốc gia + Đầu tư vốn quốc tế khác
Dßng chuyÓn dÞch
Dßng chuyÓn dÞch hµng hãa, dÞch vô
hµng hãa, dÞch vô + Thương mại quốc tế
- Doanh nghiệp + Chuyển nhượng vốn - Doanh nghiệp
- Chính phủ quốc tế - Chính phủ
- Các tổ chức + Du lịch quốc tế,… - Các tổ chức
chính trị, xã hội chính trị, xã hội
- Các cá nhân - Các cá nhân

Các tổ chức Các tổ chức


tài chính Dßng chuyÓn dÞch, Tài chính quốc tế Dßng chuyÓn dÞch tài chính
dÞch vèn tiÒn tÖ vèn, tiÒn tÖ
quốc tế quốc tế

Hoạt động khác:


Quan hÖ hîp t¸c + Chính trị Quan hÖ hîp t¸c
+ Ngoại giao,…

317
11.1.2. Những đặc trưng cơ bản của tài chính quốc tế
Với bản chất là một phạm trù kinh tế hình thành khách quan, có thể
thấy rằng các hoạt động tài chính quốc tế diễn ra rất đa dạng, phong phú
và diễn ra trên một phạm vi rộng lớn hơn nhiều so với hoạt động tài
chính trong một quốc gia. TCQT có thể nảy sinh trên nhiều lĩnh vực của
đời sống kinh tế tài chính quốc tế và Chính phủ của các nước thường
phải giải quyết các vấn đề thuộc về TCQT chủ yếu sau đây:
- Quản lý và điều hành tỷ giá hối đoái; cán cân thanh toán quốc tế;
hệ thống tiền tệ; nợ nước ngoài.
- Quản trị rủi ro quốc tế; tổ chức có hiệu quả thị trường tài chính
quốc tế; thu hút, thực hiện và quản lý đầu tư quốc tế trực tiếp và gián tiếp.
Những biểu hiện rõ nét nhất của hoạt động tài chính quốc tế làm cho
tài chính quốc tế khác với tài chính nội địa bởi 3 đặc trưng cơ bản sau:
- Tài chính quốc tế chịu ảnh hưởng rất lớn bởi rủi ro hối đoái và rủi
ro chính trị, thể hiện:
+ Tỷ giá hối đoái tác động đến nền kinh tế - xã hội nói chung và hoạt
động tài chính quốc tế nói riêng. Khi đồng tiền của một nước tăng giá
(tăng giá trị so với các đồng tiền khác) thì hàng hoá của nước đó tại nước
ngoài trở nên đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó rẻ hơn và
ngược lại. Tương tự, giá cả, doanh thu, lợi nhuận của các nhà nhập khẩu
cũng bị ảnh hưởng bởi những thay đổi đột ngột của tỷ giá.
+ Biến động tỷ giá đột ngột cũng khiến cho giá trị tài sản và nguồn
vốn tính theo đồng bản tệ của nhà đầu tư nước ngoài trở nên bất định.
+ Rủi ro tỷ giá hối đoái có những ảnh hưởng đặc biệt trong hoạt
động ngoại thương và đầu tư nước ngoài khi có nhạy cảm với các biến cố
chiến tranh chính trị, kinh tế ở một số khu vực hay một số nước, đặc biệt
những nước có nền kinh tế phát triển.
+ Rủi ro chính trị bắt nguồn từ những biến động về chính trị của các
quốc gia, như: đảo chính, thay đổi về thể chế, cải tổ,… dẫn đến thay đổi
về đường lối, chính sách quản lý kinh tế - tài chính của một quốc gia và
khi đó chủ thể liên quan phải gánh chịu và không thể kháng cự những tác

318
động của các chính sách thuế quan, chính sách trưng thu, tịch biên tài sản
trong nước của người nước ngoài nắm giữ,…
Tất cả những điều đó tác động mạnh đến các dòng chảy tài chính
trên phạm vi toàn cầu, làm giảm hiệu quả quá trình huy động và sử dụng
các quỹ tiền tệ của các chủ thể kinh tế - xã hội.
- Sự thiếu hoàn hảo của thị trường:
Mặc dù nền kinh tế thế giới hiện đại đã mang tính thống nhất rõ nét
hơn so với cách đây vài thập kỷ, song vẫn còn những hàng rào đa dạng
được dựng lên, đó là những luật lệ, những chính sách được các quốc gia
lập ra để ngăn chặn những dòng luân chuyển tự do của các nguồn nhân
lực, vốn hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia. Những rào cản này làm cho
thị trường thế giới thiếu hoàn hảo và trong chừng mực nào đó đã thúc
đẩy hoặc kìm hãm dòng luân chuyển các nguồn lực trên phạm vi toàn
cầu. Sự thiếu hoàn hảo của thị trường tài chính toàn cầu có thể làm phân
tán vốn của giới đầu tư làm giảm hiệu quả kinh tế ảnh hưởng đến sự phát
triển của tài chính quốc tế.
- Môi trường quốc tế mở ra nhiều cơ hội để phát triển tài chính
quốc tế:
Hoạt động trong một môi trường rộng lớn gấp nhiều lần môi trường
kinh tế - xã hội của một quốc gia (môi trường quốc tế), các quốc gia có
nhiều cơ hội mở rộng các hoạt động tài chính của mình để thực hiện các
mục tiêu đã định, giải quyết những vấn đề về vốn, về thị trường, công
nghệ,… để phát triển kinh tế. Các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng qui
mô, phạm vi sản xuất kinh doanh, khả năng huy động vốn, phân tán rủi
ro để tăng hiệu quả hoạt động trên qui mô toàn cầu.

11.1.3. Vai trò của tài chính quốc tế


Vai trò của tài chính quốc tế được thể hiện và phát huy tác dụng của
nó thông qua hoạt động của các chủ thể kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn
cầu. Chính các hoạt động đó đã làm cho dòng lưu chuyển hàng hoá, vốn
và các lợi ích to lớn thu được từ sự vận động của các dòng chảy hàng hoá

319
và vốn làm cho TCQT ngày càng trở nên quan trọng hơn. Vai trò của
TCQT được biểu hiện qua các mặt sau:
- Tài chính quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia hoà
nhập vào nền kinh tế thế giới và thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá
nền kinh tế thế giới.
Tài chính quốc tế ngày càng mở rộng và phát triển sẽ tạo điều kiện
cho các quốc gia tham gia vào nền kinh tế thế giới với những lợi thế so
sánh của mình về vốn, thị trường, công nghệ, nguồn nhân lực,… từ đó
mở rộng các quan hệ đầu tư, tham gia vào các thị trường tài chính quốc
tế, mở rộng hoạt động thương mại quốc tế. Đến lượt mình, quá trình toàn
cầu hoá lại diễn ra một cách sâu rộng và nhanh chóng hơn.
- Tài chính quốc tế mở ra cơ hội cho các quốc gia phát triển kinh tế -
xã hội.
Hoạt động trong môi trường toàn cầu, các chủ thể tham gia sẽ có
nhiều cơ hội đầu tư sử dụng vốn với hiệu quả cao hơn, đồng thời khả
năng huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu phát triển được mở rộng hơn.
Các cơ hội về sản xuất hàng hoá xuất khẩu, xuất khẩu lao động, nhập
khẩu tư bản, nhập khẩu công nghệ, tận dụng những nguồn vốn ưu đãi của
các tổ chức tài chính, ngân hàng quốc tế là những yếu tố rất quan trọng
gắn liền với TCQT giúp các quốc gia phát triển kinh tế - xã hội. Sau khi
gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã tận dụng được các cơ hội do tổ
chức này đem lại. Đây là một minh chứng thuyết phục nhất của TCQT về
việc tạo cơ hội cho các quốc gia phát triển. Có thể khái quát rằng, với sự
phát triển của tài chính quốc tế trên các lĩnh vực như tín dụng quốc tế,
đầu tư quốc tế trực tiếp, viện trợ quốc tế, thanh toán quốc tế,… đã giúp
các nước giải quyết được các vấn đề riêng của mình như vấn đề về vốn,
công nghệ, thị trường, lao động,…
- Tài chính quốc tế giúp nâng cao hiệu quả sử dụng của các nguồn
lực tài chính.
Sự phát triển của các quan hệ tài chính quốc tế trong xu thế hội nhập
và toàn cầu hoá hiện đại đã tạo ra các dòng lưu chuyển vốn, công nghệ

320
theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận tối đa. Đây là yếu
tố cơ bản giúp các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế đa quốc gia phát
triển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trên toàn cầu, tăng khả năng phân
tán rủi ro của các khoản đầu tư. Chính môi trường kinh tế mở rộng và cơ
hội kinh doanh nhiều hơn là tiền đề khách quan cho các chủ thể kinh tế -
xã hội và từng quốc gia phát huy các lợi thế so sánh của mình trên thị
trường toàn cầu đã thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của từng
nước. Đến lượt mình, TCQT đã tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực tài chính trên phạm vi toàn cầu. TCQT còn
giúp các nước nghèo, thậm chí cả các quốc gia giàu có, khắc phục được
khủng hoảng kinh tế tài chính của nước mình. Bên cạnh đó, TCQT còn
giúp cho các chủ thể có thể trang trải các khoản chi tiêu bằng vay mượn
nước ngoài trong những năm khó khăn.

11.2. C¸C QUAN HÖ TµI CHÝNH QUèC TÕ CHñ YÕU


11.2.1. Đầu tư trực tiếp quốc tế của các tổ chức kinh tế
11.2.1.1. Khái quát về đầu tư trực tiếp quốc tế
Đầu tư quốc tế là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước
ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm
lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Về bản chất, đây
là hình thức xuất khẩu tư bản - một hình thức cao hơn của xuất khẩu
hàng hóa.
Với mục đích xác định quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn trong
đầu tư, đầu tư quốc tế thường được chia thành hai hình thức chủ yếu là
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp quốc tế là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư
nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch
vụ cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu
tư. Đầu tư trực tiếp quốc tế thường được nhắc đến với thuật ngữ đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Xuất phát từ vai trò của hoạt động đầu tư nước ngoài trong phát triển
kinh tế đối với nước tiếp nhận đầu tư, ở các nước này người ta thường sử

321
dụng thuật ngữ đầu tư trực tiếp nước ngoài để nói về hoạt động đầu tư
trực tiếp quốc tế.
Bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Là những phương
thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế - xã
hội nhất định. Về bản chất Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức xuất
khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá.
Động cơ chung nhất của các chủ đầu tư nước ngoài là tìm kiếm thị
trường đầu tư hấp dẫn, thuận lợi và an toàn nhằm thu hút lợi nhuận cao.
Tuy nhiên, động cơ cụ thể trong từng dự án lại rất khác nhau, tuỳ thuộc
vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp và mục tiêu của nó ở thị
trường nước ngoài. Thông thường có 3 động cơ cụ thể tạo nên 3 định
hướng cơ bản trong đầu tư trực tiếp nước ngoài, như sau:
- Đầu tư định hướng thị trường: Là hình thức đầu tư mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm của các công ty vào các nước sở tại. Đây là
chiến lược bành trướng thị trường của các công ty đa quốc gia. Mục đích
của đầu tư định hướng thị trường là nhằm vượt qua các hàng rào bảo hộ
của các nước sở tại đồng thời kéo dài tuổi thọ của các sản phẩm.
- Đầu tư định hướng chi phí: Là hình thức đầu tư ở nước ngoài nhằm
giảm chi phí sản xuất thông qua việc tận dụng lao động và các nguồn tài
nguyên rẻ của các nước sở tại nhằm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm,
nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
- Đầu tư định hướng nguồn nguyên liệu: Đây là hình thức đầu tư
theo chiều dọc. Các cơ sở đầu tư ở nước ngoài là một bộ phận cấu thành
trong dây chuyền sản xuất kinh doanh của các công ty mẹ, các cơ sở này
có trách nhiệm khai thác nguồn nguyên liệu của các nước sở tại cung cấp
cho công ty mẹ để tiếp tục chế biến và hoàn chỉnh sản phẩm nhằm tối đa
hóa chuỗi giá trị gia tăng tạo ra.
11.2.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tuỳ theo từng nước mà có các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
khác nhau. Ở Việt Nam, theo luật đầu tư, có các hình thức đầu tư trực
tiếp nước ngoài sau:

322
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là doanh nghiệp do chủ
nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều hành toàn bộ
doanh nghiệp theo qui định của pháp luật tại nước sở tại.
- Doanh nghiệp liên doanh: Là doanh nghiệp được thành lập do các
chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp ở nước sở tại
trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh
nghiệp, chia sẻ lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ vốn góp.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Đây là một văn bản được kí kết
giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước để tiến
hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên
cơ sở qui định về trách nhiệm để thực hiện hợp đồng và xác định quyền
lợi của mỗi bên, nhưng không hình thành một pháp nhân mới.
- Các hình thức khác:
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (sau đây gọi tắt là
hợp đồng BOT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ
tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao
không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (sau đây gọi tắt là
hợp đồng BTO) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau
khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước
Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình
đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BT)
là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà
đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong,
nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính
phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu
tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp
đồng BT.

323
11.2.1.3. Lợi ích của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại lợi ích cho cả chủ đầu tư và các
nước tiếp nhận đầu tư.
* Đối với chủ đầu tư (nước xuất khẩu FDI): Họ có thể nhận được
các lợi ích cơ bản sau:
- FDI giúp mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường
ảnh hưởng sức mạnh kinh tế trên thế giới, đồng thời đây còn là biện pháp
thâm nhập thị trường, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước
sở tại.
- FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, rút ngắn
thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao do tận dụng những lợi
thế so sánh của nước sở tại, giảm chi phí vận chuyển, quảng cáo, tiếp
thị,…
- FDI giúp chủ đầu tư tìm được các nguồn cung cấp nguyên vật liệu
ổn định và rẻ hơn.
- FDI giúp các chủ đầu tư đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công
nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
* Đối với các nước tiếp nhận đầu tư (nước nhập khẩu FDI), họ có
thể nhận được các lợi ích như sau:
- Đối với những nước công nghiệp phát triển:
Đây là những nước mặc dù xuất khẩu FDI nhiều nhưng cũng là
những nước tiếp nhận vốn FDI không ít. Như vậy, nó tạo nên luồng đầu
tư hai chiều giữa các quốc gia, trong đó đặc biệt là đầu tư của các tập
đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia, tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật của
nền kinh tế, mở rộng nguồn thu Ngân sách Nhà nước, giải quyết nạn thất
nghiệp và kiềm chế lạm phát,…
- Đối với các nước đang phát triển:
+ Nguồn vốn FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng để thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Các nhà kinh tế cũng đã chứng minh được rằng vốn FDI chiếm tỷ trọng
càng lớn trong GDP thì tốc độ tăng trưởng GDP thực tế càng cao.

324
+ FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc
làm mới cho các nước nhận đầu tư; Các dự án FDI góp phần giải quyết
tình trạng thất nghiệp.
+ Hoạt động của các dự án FDI cũng góp phần vào mở rộng quy mô
hoạt động xuất nhập khẩu.
+ FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá thông qua chính sách thu hút vốn theo các ngành định
hướng hợp lí.
+ Các dự án FDI góp phần bổ sung nguồn thu quan trọng cho Ngân
sách của các quốc gia.
11.2.1.4. Những mặt trái của FDI đối với các nước tiếp nhận
đầu tư:
Mặc dù FDI đã mang lại nhiều lợi ích cho nước tiếp nhận đầu tư,
song nó cũng có không ít các mặt trái gây thua thiệt ảnh hưởng xấu cho
họ. Trong quá trình thu hút và quản lý FDI, các nước tiếp nhận vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài có thể phải đối diện với những mặt trái như sau:
- Các nước nhận đầu tư có thể phải tiếp nhận những công nghệ và kĩ
thuật lạc hậu, từ đó có thể gây ra rất nhiều những thiệt hại cho nước sở
tại về môi trường, chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất, khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường.
- Các chủ đầu tư nước ngoài thường tính giá cao hơn hoặc tối thiểu
bằng với mặt bằng giá quốc tế cho các nhân tố đầu vào như máy móc,
thiết bị, nguyên vật liệu,… từ đó gây ra những thua thiệt cho nước nhận
đầu tư.
- Nước nhận đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư
nước ngoài như giảm thuế, miễn thuế,… từ đó có thể tạo ra những bất lợi
cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong nước trong quá trình cạnh tranh.
- Đôi khi các sản phẩm, hàng hoá được sản xuất và bán ra không
thích hợp đối với các nước kém phát triển,…
Trên đây là những mặt trái của FDI đối với những nước tiếp nhận
đầu tư, tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận những lợi thế cơ bản mà

325
nó đem lại. Do vậy, Nhà nước cần phải có những chính sách tích cực,
phù hợp và những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy những mặt
tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của FDI.
11.2.2. Đầu tư gián tiếp quốc tế
11.2.2.1. Khái quát về đầu tư gián tiếp quốc tế
Đầu tư gián tiếp quốc tế là một loại hình đầu tư quốc tế trong đó chủ
đầu tư bỏ vốn đầu tư nhưng không trực tiếp quản lý và điều hành hoạt
động sử dụng vốn. Trên thực tế, đầu tư gián tiếp nước ngoài được dùng
như một thuật ngữ phổ biến để nói về hình thức đầu tư gián tiếp quốc tế.
Về thực chất, đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) là loại hình đầu tư
gián tiếp mà chủ đầu tư không trực tiếp chịu trách nhiệm về kết quả đầu
tư, họ hưởng lợi ích theo một tỷ lệ nhất định tính trên số vốn đã đầu tư
thông qua các cá nhân hoặc tổ chức ở nước nhận đầu tư. Trong hình thức
đầu tư này, nhà đầu tư thu lợi nhuận dưới hình thức thu nhập từ đầu tư
chứng khoán hoặc tiền lãi cho vay.
Đặc điểm chung của vốn FII là:
+ Trong thời gian đầu tư, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách
rời ở hai chủ thể. Bên đầu tư nắm giữ quyền sở hữu vốn, trong khi đó bên
tiếp nhận đầu tư lại nắm quyền sử dụng vốn.
+ Nếu là vốn đầu tư của các tổ chức quốc tế hoặc của các Chính phủ
thì hình thức đầu tư này thường bị lệ thuộc vào mối quan hệ kinh tế -
chính trị giữa hai bên. Nếu là vốn tư nhân thì chủ đầu tư nước ngoài
thường bị khống chế mức góp vốn theo Luật đầu tư của nước sở tại. Ví
dụ: Theo Luật đầu tư của Việt Nam, mức góp vốn của chủ đầu tư nước
ngoài theo quy định trước đây là không quá 30%, nhưng hiện nay mức
góp vốn cho phép của chủ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam là không vượt
quá 49%.
+ Bên đầu tư có thu nhập ổn định thông qua lãi suất cố định của số
tiền cho vay, hạn chế được các rủi ro khi đầu tư vốn, vì chủ đầu tư
không chịu trách nhiệm về kết quả vốn đầu tư, nhưng lợi ích kinh tế thu
được thấp.

326
+ Bên nhận đầu tư hoàn toàn chủ động sử dụng vốn đầu tư theo mục
đích của mình, nhưng hiệu quả sử dụng vốn thường thấp và phụ thuộc
vào trình độ quản lý vốn nơi nhận đầu tư.
11.2.2.2. Các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài
Đối với đầu tư gián tiếp nước người, các nhà đầu tư nước ngoài có
thể thực hiện dưới một số hình thức đầu tư chủ yếu như sau:
- Đầu tư chứng khoán: Chủ đầu tư mua chứng khoán của các công
ty, các tổ chức phát hành ở một nước khác với mức khống chế nhất định
để thu lợi nhuận nhưng không được nắm giữ quyền kiểm soát, điều hành
của đối tượng đầu tư. Các hình thức đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư
nước ngoài, cụ thể:
Đầu tư cổ phiếu: Là việc nhà đầu tư nước ngoài tiến hành mua cổ
phiếu của các công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán ở nước sở tại.
Đầu tư trái phiếu và các công cụ tài chính khác: Là việc các nhà đầu
tư nước ngoài mua các giấy tờ chứng nhận nợ, trái phiếu và các công cụ
tài chính phái sinh trên thị trường tài chính ở nước sở tại.
Đặc điểm của đầu tư quốc tế gián tiếp thông qua đầu tư chứng khoán:
+ Số lượng chứng khoán bán ra thị trường thế giới thường bị khống
chế ở một tỷ lệ nhất định.
+ Chủ đầu tư nước ngoài không tham gia điều hành hoạt động của
đối tượng bỏ vốn và thu lợi nhuận dưới hình thức lợi tức chứng khoán.
- Tín dụng quốc tế: Là hình thức đầu tư quốc tế gián tiếp trong đó
chủ đầu tư cho nước ngoài vay vốn và thu lợi nhuận thông qua lãi suất từ
số tiền cho vay.
Sự cần thiết sử dụng quan hệ tín dụng quốc tế bắt nguồn từ những
đòi hỏi mang tính khách quan của chính sự phát triển kinh tế - xã hội của
các nước, sự phát triển của các doanh nghiệp, đồng thời với việc mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế. Đối với các nước nghèo và chậm phát triển, hạ
tầng cơ sở còn thấp kém, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn có hạn thì
việc mở rộng quan hệ tín dụng quốc tế càng trở nên cần thiết để có thể

327
tranh thủ vốn, công nghệ,… của thế giới phục vụ cho việc xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Tín dụng quốc tế được sử dụng khá phổ biến vì có những ưu
điểm sau:
+ Vốn vay chủ yếu dưới dạng tiền tệ, dễ chuyển thành các phương
tiện đầu tư khác.
+ Nước tiếp nhận đầu tư toàn quyền chủ động sử dụng vốn đầu tư
cho các mục đích riêng của mình.
+ Chủ đầu tư nước ngoài có thu nhập ổn định, thông qua lãi suất tiền
vay, không phụ thuộc và hiệu quả hoạt động của vốn đầu tư.
+ Nhiều nước chủ đầu tư thông qua hình thức này đã trói buộc các
nước tiếp nhận đầu tư vào vòng ảnh hưởng của mình.
Đối với những nước đi vay, đặc biệt là những nước chậm và đang
phát triển, tín dụng quốc tế có thể trở thành “con dao hai lưỡi”. Nếu các
nước ngày sử dụng và quản lý nguồn vốn vay không hiệu quả thì có thể
dẫn đến tình trạng nợ nần, thậm chí mất khả năng chi trả.
Các hình thức tín dụng quốc tế:
Vay thương mại: Là hình thức vay nợ quốc tế dựa trên cơ sở quan hệ
cung cầu về vốn trên thị trường, lãi suất do thị trường quyết định. Hình
thức đầu tư quốc tế này có một số đặc điểm chính sau:
- Ngân hàng là người cung cấp vốn, không tham gia vào hoạt động
của người vay, nhưng trước khi cho vay phải nghiên cứu tính khả thi của
dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh hoặc thế chấp các khoản vay để
giảm rủi ro.
- Các Doanh nghiệp chỉ cho vay quốc tế chủ yếu trong trường hợp
xuất nhập khẩu hàng trả chậm có ngân hàng thương mại bảo lãnh và phải
trả lãi; hoặc công ty mẹ và công ty con hoặc các công ty con trong một
tập đoàn đa quốc gia cho nhau vay không cần thế chấp, tín chấp.
- Người cho vay không tham gia quản lý hoạt động của đối tượng
vay vốn, nhưng vẫn có các yêu cầu thế chấp, bảo lãnh và xem xét khả
năng trả nợ của doanh nghiệp vay.

328
- Nhà đầu tư thu lợi nhuận qua lãi suất cho vay được thỏa thuận
trong khế ước vay, không phụ thuộc kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp vay.
- Đối tượng vay vốn thường là các doanh nghiệp (nếu là đầu tư tư
nhân) và là Chính phủ các nước (nếu là tín dụng thương mại trong
chương trình ODA).
Tín dụng thương mại trong chương trình ODA là những khoản tín
dụng dành cho Chính phủ các nước sở tại với lãi suất thấp và thời gian ân
hạn trả nợ dài, nhưng có những ràng buộc nhất định. Nguồn vốn vay tín
dụng thương mại có thể do Chính phủ các nước cung cấp hoặc có thể từ
các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB…
- ODA - Hỗ trợ phát triển chính thức: Official Development Assisstance
ODA là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại và tín
dụng ưu đãi của các Chính phủ, các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc, các tổ
chức kinh tế tài chính quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ giành cho các
nước đang và chậm phát triển nhằm hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế của
những nước này.
(i) Đối tác cung cấp ODA.
- Chính phủ các nước;
- Tổ chức liên Chính phủ như Ủy ban châu Âu - EC; OPEC;…
- Các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc;
- Các tổ chức kinh tế tài chính quốc tế như IMF, ADB,...
- Các tổ chức phi Chính phủ.
(ii) Cơ cấu của ODA.
- Viện trợ không hoàn lại: Khi cung cấp ODA, Chính phủ các nước
thường chỉ dành một phần nhỏ là khoản viện trợ không hoàn lại nhằm
một số mục đích như: nhân đạo, chính trị hoặc ngoại giao,…
- Viện trợ có hoàn lại: Đây là bộ phận thường chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng khối lượng ODA cung cấp. Với khoản này thì mức lãi suất sẽ
ưu đãi rất nhiều so với lãi suất tín dụng thương mại thông thường, thời

329
gian cho vay rất dài, thời gian chưa phải trả cả lãi lẫn gốc cũng dài. Phần
ODA có hoàn lại này về thực chất nó cũng là một hình thức tín dụng
quốc tế của các Chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế.
ODA có thể được thực hiện dưới hình thức là khoản viện trợ không
hoàn lại hoặc có hoàn lại hoặc có thể kết hợp cả hai hình thức này (một
phần hoàn lại và một phần không); hoặc có thể gồm một phần không
hoàn lại còn một phần là tín dụng thương mại thông thường.
11.2.3. Viện trợ quốc tế không hoàn lại
11.2.3.1. Khái quát về viện trợ quốc tế không hoàn lại
Từ trước đến nay, viện trợ quốc tế đã đang đóng vai trò rất quan
trọng trong quá trình phát triển của các quốc gia. Các nước tài trợ vì
nhiều lý do. Động cơ nhân đạo có thể là lý do chủ yếu nhưng nhân tố
kinh tế chính trị và chiến lược phát triển lại tác động đến việc xác định cụ
thể giá trị viện trợ mà các nước tài trợ lựa chọn để cung cấp viện trợ.
Có thể thấy Viện trợ quốc tế không hoàn lại là những khoản tài trợ
của Chính phủ hoặc tổ chức phi Chính phủ của các quốc gia phát triển
đối với một số nước nghèo hoặc đang phát triển vì lí do nhân đạo, ngoại
giao, chính trị, chiến lược phát triển và một số lí do khác của bên cấp
viện trợ.
Đây là một nguồn quan trọng bổ sung cho NSNN, một bộ phận cấu
thành của thu nhập quốc dân, viện trợ quốc tế không hoàn lại cần được
tổng hợp, kế hoạch hóa trong kế hoạch kinh tế quốc dân. Việc bố trí, sử
dụng các nguồn viện trợ phải tập trung vào việc phục vụ cho phương
hướng phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và chiến lược phát triển dài
hạn của đất nước.
11.2.3.2. Các hình thức viện trợ không hoàn lại
Ở Việt Nam, trong những năm qua, nguồn viện trợ quốc tế đã góp
phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Viện trợ quốc tế cho
Việt Nam được thực hiện dưới nhiều hình thức.
- Viện trợ của các Chính phủ: Là loại viện trợ song phương giữa các
nước có thoả thuận song phương với nhau. Viện trợ song phương thường

330
được thực hiện thông qua một tổ chức Chính phủ - cơ quan quản lí hoạt
động viện trợ, hợp tác phát triển kinh tế với nước ngoài của Chính phủ
nước cung cấp viện trợ.
- Viện trợ của các tổ chức quốc tế: Là loại hình viện trợ đa phương
giữa các quốc gia được thực hiện thông qua tổ chức quốc tế như: Quĩ nhi
đồng liên hợp quốc (UNICEF), Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Cộng
đồng chung châu Âu (EC), Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF),…; Đặc trưng của
hình thức này là:
+ Nguồn tài chính cho các tổ chức quốc tế hoạt động là do các nước
đóng góp.
+ Vốn của các tổ chức quốc tế được viện trợ cho các nước theo
nguyên tắc chung là nhằm hỗ trợ các chương trình phát triển tổng thể
cho từng quốc gia hoặc từng khu vực hay cho một số nước. Do đó, các
nước nhận viện trợ của các tổ chức quốc tế chủ yếu là các nước đang
phát triển.
- Viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (NGO): Là loại viện trợ do
các tổ chức phi Chính phủ tổ chức thực hiện trên nhiều lĩnh vực.
Để tranh thủ viện trợ NGO, cần chú ý một số vấn đề sau:
+ Nắm được mục đích tôn chỉ của các tổ chức phi Chính phủ để vận
động, tranh thủ các tổ chức này.
+ Đối với phần viện trợ có chương trình, có dự án cần có các dự án
phù hợp và kế hoạch hoá việc sử dụng như đối với viện trợ của các tổ
chức LHQ.
+ Đối với phần viện trợ bất thường, không theo chương trình, dự án
thì các địa phương cần thể hiện đầy đủ trong các kế hoạch kinh tế - xã
hội của mình, sử dụng đúng mục đích, quản lí chặt chẽ để đảm bảo lòng
tin của các tổ chức viện trợ, từ đó tranh thủ viện trợ tiếp.

11.3. MéT Sè Tæ CHøC TµI CHÝNH QUèC TÕ


Trong đời sống kinh tế quốc tế, sự hợp tác và liên kết kinh tế giữa
các quốc gia nảy sinh và phát triển như một đòi hỏi tất yếu khách quan

331
của chính sự phát triển kinh tế của từng quốc gia độc lập. Sự hợp tác và
liên minh kinh tế quốc tế càng phát triển thì mức độ quốc tế hóa đời sống
kinh tế quốc tế càng sâu sắc, khi các quan hệ hợp tác và liên kết kinh tế
quốc tế và sự quốc tế phát triển đến một mức độ nhất định thì nhu cầu
thiết lập các tổ chức kinh tế quốc tế cũng trở thành tất yếu.
Tổ chức kinh tế quốc tế là một hình thức tổ chức hợp tác kinh tế
quốc tế do các nước thành viên thiết lập trên cơ sở các hiệp định được ký
kết trong các lĩnh vực khác nhau của sự hợp tác kinh tế.
Gắn liền với các tổ chức kinh tế quốc tế là việc hình thành các tổ
chức tài chính - tiền tệ quốc tế trong từng lĩnh vực kinh tế cụ thể như:
IMF, WB, ADB…
Sau đây sẽ nghiên cứu một vài tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
quan trọng:
11.3.1. Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF (International monetary fund)
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là một tổ chức tiền tệ, tín dụng liên Chính
phủ được thành lập trên cơ sở nghị quyết của hội nghị quốc tế về tiền tệ,
tài chính của Liên Hiệp quốc vào năm 1944 với đại diện của 44 nước
tham gia tại Bretton wood. Tại hội nghị này, đã thành lập IMF dựa trên
sự phối hợp hai dự án: Dự án Keynes và dự án White.
Dự án Keynes: Đề nghị sáng lập một ngân hàng thế giới
IMF là một tổ chức tự định chế của LHQ, được thành lập năm 1944,
hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng quốc tế.
Thành viên của IMF gồm nhiều quốc gia ở khắp các nơi trên thế
giới. Đến nay, IMF đã có trên 150 nước thành viên.
Điều hành hoạt động của IMF gồm có một ban thống đốc, một ban
giám đốc điều hành, một giám đốc quản lí và đội ngũ cán bộ.
11.3.1.1. Mục đích hoạt động của IMF
Từ khi thành lập, trải qua mỗi một giai đoạn thời kỳ khác nhau, IMF
có những sự thay đổi trong hoạt động do vậy mục đích cũng có những
thay đổi nhất định. Đến nay, IMF có một số mục đích chính như sau:

332
- Kêu gọi, khuyến cáo sự hợp tác quốc tế về tiền tệ.
- Ổn định hối đoái giữa các đơn vị tiền tệ nhằm tránh sự phá giá của
tiền tệ do cạnh tranh giữa các quốc gia. Thúc đẩy sự ổn định về hối đoái,
duy trì việc dàn xếp hối đoái có trật tự giữa các thành viên.
- Thiết lập hệ thống thanh toán đa phương từ đó hỗ trợ trong việc
thiết lập hệ thống thanh toán đa phương giữa các thành viên.
- Cung ứng cho các quốc gia hội viên ngoại tệ cần thiết để bình quân
hoặc giảm bớt thiếu hụt trong cán cân thanh toán quốc tế.
- Tạo thuận lợi cho việc mở rộng và phát triển cân đối thương mại
quốc tế.
- Giúp các nước thành viên bằng cách cho họ tận dụng nguồn vốn
chung của IMF để sửa chữa các sai sót trong cán cân thanh toán.
- Rút ngắn giai đoạn làm giảm bớt mức độ mất cân đối trong cán cân
thanh toán của các nước thành viên.
11.3.1.2. Một số nghĩa vụ chung của các nước thành viên
Bên cạnh một số lợi ích mà các nước thành viên IMF có được, khi
gia nhập IMF họ cũng phải có những nghĩa vụ chung, cụ thể:
- Tránh áp dụng những hạn chế đối với thanh toán thường xuyên.
- Tránh việc thu xếp, thanh toán tiền tệ có sự phân biệt.
- Chuyển đổi các số dư tiền tệ do các nước thành viên khác nắm giữ.
- Gửi và trao đổi các thông tin cho Quĩ theo yêu cầu của Quĩ.
- Trao đổi tham khảo lấy ý kiến của các thành viên về các hiệp định,
thoả thuận quốc tế hiện hành.
- Có nghĩa vụ hợp tác với Quĩ và các thành viên về các chính sách
đối với các tài sản dự trữ.
11.3.1.3. Nguồn vốn hoạt động của IMF
* Nguồn vốn điều lệ: Là nguồn vốn hoạt động chủ yếu của Quỹ,
được hình thành từ tiền vốn đóng góp của các thành viên theo Điều lệ
thành lập Quỹ.

333
Khi gia nhập Quỹ, nước thành viên phải góp vốn tùy theo sức mạnh
kinh tế - tài chính của quốc gia, dựa trên cơ sở tỷ trọng xuất nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ của nước đó trên thị trường quốc tế. Khoản đóng góp
này trước năm 1980 gồm 25% là vàng và 75% là bản tệ. Ngày nay gồm
25% bằng ngoại tệ mạnh và 75% bằng bản tệ. Như vậy, nguồn vốn này
gồm có: vàng, SDR, tiền của các nước thành viên (SDR được hình thành
dựa trên cơ sở giá trị của 5 đồng tiền chính: USD, PRF, DEM, GBP, JPY)
Theo điều lệ của Quỹ, cứ 5 năm quỹ sẽ xem xét và quyết định lại
mức vốn góp. Kể từ khi thành lập đến nay, Quỹ đã 11 lần nâng mức vốn
góp. Tính đến cuối năm 2003 nguồn vốn điều lệ của Quỹ đã lên đến
khoảng 316 tỷ USD.
* Nguồn vốn đi vay: Nguồn này được dùng để bổ sung nguồn vốn
của quỹ ngoài vốn điều lệ. Quỹ có một số thỏa thuận vay mượn trong
thực tế nhằm đáp ứng nhu cầu tài trợ bổ sung ngày càng tăng lên của các
nước thành viên. Năm 1962, nhằm mở rộng khả năng tài trợ cho các
nước thành viên, Quỹ đã ký Hiệp định vay nợ tổng quát với 11 nước phát
triển (hoặc Ngân hàng Trung ương) gồm: NHTW Thụy Sĩ, Bỉ, Canada,
Đức, Hoa Kỳ, Pháp, Italia, Nhật, Hà Lan, Anh và Nauy. Hiệp định này
cho phép Quỹ sử dụng những hạn mức tín dụng từ các nước này trong
những trường hợp cần thiết và được gia hạn đều đặn với tổng mức tín
dụng là 17 tỷ SDR (24 tỷ USD) với lãi suất thị trường. Năm 1997, Quỹ
ký kết hiệp định mới với 25 nước hoặc các định chế tài chính của các
nước nhằm tạo nguồn bổ sung cho Quỹ.
*Nguồn vốn tích lũy: IMF hoạt động theo nguyên tắc lấy thu bù chi
và phải có lãi. Hàng năm, số lãi ròng thu được từ hoạt động cho vay sẽ
được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của Quỹ. Lãi ròng = thu từ hoạt
động của IMF - lãi vay trả cho các chủ nợ.
* Nguồn vốn đặc biệt: Ngoài các nguồn vốn thông thường kể trên,
tùy nhu cầu từng thời kỳ, IMF có thể có các nguồn vốn đặc biệt như: Quỹ
dollar dầu lửa, Quỹ tín thác, Quỹ Witteveen.

334
11.3.1.4. Các hình thức tài trợ của IMF
* Các hình thức sử dụng nguồn vốn chung của quĩ: (hình thức cho
vay thông thường)
Sử dụng nguồn vốn chung của Quỹ là hình thức các nước thành viên
dùng đồng tiền của mình mua SDR của Quỹ hoặc đồng tiền của một
nước khác là thành viên của IMF để sử dụng trong một thời gian xác
định nào đó, chủ yếu là dùng cho nhu cầu về cán cân thanh toán.
Các hình thức tài trợ của quỹ từ nguồn vốn chung thể hiện dưới dạng
một số chính sách, hình thức tín dụng mà mức độ cho vay tùy thuộc vào
chính sách điều chỉnh của các nước thành viên và nhu cầu của cán cân
thanh toán của nước đó. Có các hình thức cụ thể như sau:
- Điều kiện mua dự trữ: Hình thức này phụ thuộc vào nhu cầu cán
cân thanh toán của nước thành viên.
- Điều kiện đợt tín dụng: Nước thành viên có thể mua bốn đợt tín
dụng, mỗi đợt bằng 25% hạn mức đóng góp của mình vào quỹ. Mục đích
là giải quyết khó khăn về cán cân thanh toán và vay dự phòng.
- Vay dự phòng và mở rộng: Hình thức này không có đặc điểm của
một hợp đồng pháp lý giữa quỹ và nước thành viên. Đặc điểm của hình
thức này thể hiện ở thời hạn cho vay và điều kiện cho vay. Mục đích là
hỗ trợ cho nhu cầu ngắn hạn của cán cân thanh toán.
- Tài trợ để giảm bớt nợ và thanh toán nợ: Số tiền tài trợ cho mục
đích này được quyết định cho từng trường hợp và phù hợp với cán thanh
toán và mức độ mạnh mẽ của chương trình điều chỉnh do nước thành
viên thực hiện.
- Trợ giúp khẩn cấp liên quan đến thiên tai: Hình thức này được
xem xét trong trường hợp thiên tai có thể ảnh hưởng xấu đến cán cân
thanh toán.
* Các hình thức cho vay trợ giúp đặc biệt: Các hình thức này có thể
áp dụng để bổ sung các hình thức nêu trên và cũng để giải quyết một số
khó khăn cụ thể của cán cân thanh toán. Có các hình thức cho vay trợ
giúp cụ thể để hỗ trợ do thiết hụt xuất khẩu tạm thời và bù cho chi phí

335
nhập khẩu ngũ cốc quá cao. Mức độ cho vay cũng tùy thuộc vào hạn mức
đóng góp và mức độ thâm hụt xuất khẩu.
* Các hình thức tài trợ cho các nước thành viên có thu nhập thấp.
Quỹ còn có thể dành các nguồn vốn giúp các nước đang phát triển có
thu nhập với các điều kiện rất ưu đãi, thông qua các hình thức như: Vay
điều chỉnh cơ cấu, Vay điều chỉnh cơ cấu tăng cường và mở rộng, vay từ
Quỹ tín thác.
11.3.2. Ngân hàng thế giới - WB
* Mục tiêu hoạt động của WB:
Trên thực tế, Ngân hàng thế giới - WB gồm năm tổ chức thành viên:
- Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế - IBRD (International bank
for Reconstruction and Development), thành lập ngày 17/2/1945 theo tinh
thần của hiệp ước Bretton wood và bắt đầu hoạt động vào năm 1946.
- Công ty tài chính quốc tế - IFC (International Financial Company)
thành lập vào năm 1955.
- Hiệp hội phát triển quốc tế - IDA (International Development
Association) thành lập vào năm 1960.
- Công ty bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA).
- Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư (ICSID).
Hoạt động của WB cùng hướng tới mục tiêu chung nhất là:
+ Thúc đẩy phát triển kinh tế và cải tổ cơ cấu kinh tế để phát triển
bền vững ở các nước đang phát triển.
+ Giúp các nước đang phát triển nâng cao mức sống và phát triển
kinh tế thông qua việc chuyển các nguồn tài trợ từ các nước công nghiệp
phát triển sang các nước đang phát triển.
+ Trợ giúp tài chính đặc biệt cho các nước đang phát triển nghèo
nhất thông qua Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA).
+ Hỗ trợ cho giới doanh nghiệp tư nhân tại các nước đang phát triển
thông qua Công ty tài chính quốc tế (IFC).

336
+ Tạo điều kiện thúc đẩy nguồn vốn đầu tư quốc tế, đặc biệt là đầu
tư vào các nước đang phát triển nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ
trong phát triển kinh tế ở các quốc gia này.
11.3.2.1. Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRB)
Được thành lập cùng lúc với IMF và được qui định gắn kết mật thiết
với IMF trong bản Hiệp ước điều lệ thành lập. IBRD thuộc quyền sở hữu
của 160 nước thành viên. Nguồn vốn sử dụng gồm vốn chủ sở hữu (do
các thành viên đóng góp) và vốn vay (chủ yếu là vay từ thị trường vốn
quốc tế). Ngoài hội sở chính đóng tại Washington, còn có văn phòng đại
diện tại 20 nước thành viên. Từ 44 nước thành viên lúc thành lập hiện
nay WB đã có 184 thành viên (đồng thời là thành viên IMF).
Cơ cấu tổ chức của IBRB bao gồm: Có 1 hội đồng các thống đốc,
1 ban giám đốc điều hành. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của IBRB là Hội
đồng thống đốc hay còn gọi là Hội đồng quản trị mà thành viên là các Bộ
trưởng Tài chính hoặc Thống đốc NHTW các nước thành viên. Hội đồng
giám đốc điều hành là cơ quan điều hành công việc hàng ngày của Ngân
hàng gồm 24 ủy viên có mặt thường xuyên tại Ngân hàng.
Hoạt động của IBRD được áp dụng dưới các hình thức tài trợ hoặc
đồng tài trợ như: Cho vay theo lãi suất hiện hành của thị trường; Trợ cấp
và bù đắp; Bảo lãnh…
Mục đích của IBRD:
- Giúp các nước thành viên chủ yếu là các nước tư bản châu Âu khôi
phục kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai.
- Giúp đỡ các nước đang phát triển về vốn và kỹ thuật để đẩy mạnh
sản xuất và phát triển kinh tế.
Hoạt động chủ yếu của IBRD là cho vay và trợ giúp kỹ thuật cho các
nước thành viên dựa trên những nguyên tắc chủ yếu sau:
+ Chỉ cho vay đối với những nước có khả năng trả nợ.
+ Việc cho vay tiến hành với Chính phủ hoặc tư nhân có sự đảm bảo
của Chính phủ.

337
+ Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất thị trường một ít.
+ Nước vay không bắt buộc dùng tiền vay để mua hàng ở bất kỳ
quốc gia hội viên nào.
11.3.2.2. Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA)
IDA ra đời năm 1960 với mục đích giúp đỡ các nước thành viên kém
phát triển trong tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của dân cư.
Hiện nay có 164 thành viên, đồng thời là thành viên IBRD. IDA cung
cấp các khoản vay với lãi suất rất thấp hoặc không có lãi và các khoản
viện trợ không hoàn lại cho các nước thành viên nghèo. Bộ máy Hội
đồng thống đốc, Hội đồng giám đốc điều hành, Chủ tịch IBRD cũng thực
hiện chức năng của họ trong cơ cấu tổ chức của IDA.
11.3.2.3. Công ty tài chính quốc tế (IFC)
IFC thành lập năm 1956 như là tổ chức vệ tinh của IBRD, nhằm tài
trợ cho các doanh nghiệp tư nhân ở các nước thành viên đang phát triển
mà không cần sự bảo lãnh của Chính phủ, cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và tư
vấn cho các Chính phủ và các Công ty. Hiện nay bao gồm 175 nước
thành viên đồng thời là thành viên của IBRD. Về mặt tổ chức như là một
công ty độc lập, nhưng được IBRD tài trợ tài chính.

11.3.3. Ngân hàng phát triển châu Á (Asian development Bank - ADB)
ADB là một ngân hàng phát triển khu vực được thành lập năm 1966,
trụ sở đặt tại Manila Philipine, phạm vi hoạt động là các nước đang phát
triển ở khu vực châu Á và vành đai Thái Bình Dương. Hiện nay có 38 quốc
gia thành viên trong khu vực và 16 quốc gia thành viên ngoài khu vực.
Đối tượng phục vụ của ADB là các nước kém và đang phát triển ở
khu vực, mục đích là hỗ trợ cho hoạt động của WB bằng cách tài trợ,
viện trợ cho các nước nghèo không có khả năng và đủ điều kiện tiếp cận
với nguồn vốn của WB.
Mục đích của ADB là nhằm xúc tiến những tiến bộ về kinh tế - xã
hội và thúc đẩy sự hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật giữa các quốc gia
trong khu vực châu Á Thái Bình Dương.

338
Cơ cấu tổ chức của ADB cũng gần giống như WB bao gồm: Hội
đồng thống đốc hay Hội đồng quản trị là cơ quan quyền lực cao nhất gồm
thành viên là đại diện toàn quyền của các nước thành viên, thường là Bộ
trưởng Tài chính hoặc Thống đốc NHTW. Hội đồng giám đốc (gồm 12
thành viên là người trong khu vực và 4 thành viên ngoài khu vực) là cơ
quan thay mặt Hội đồng thống đốc điều hành công việc hàng ngày của
Ngân hàng.
Hoạt động tài trợ của ADB: Các hình thức tài trợ về cơ bản giống
WB, nhưng chỉ áp dụng cho các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Để nâng cao hiệu quả các khoản tài trợ cho các nước thành viên
châu lục, ADB có nhiều điều chỉnh trong chính sách trong những năm
gần đây. Cụ thể:
- Đầu tư vào những ngành kinh tế - xã hội của các nước thành viên
đang phát triển.
- Tài trợ kỹ thuật cho việc chuẩn bị và thực hiện các chương trình và
dự án phát triển.
- Khuyến khích đầu tư vốn tư nhân và nhà nước vào các chương
trình và dự án phát triển có mục tiêu.
Đặc biệt, Ngân hàng ADB đã thiết lập Quỹ phát triển châu Á (AFD)
chuyên cho các nước nghèo trong khu vực châu Á vay với điều kiện ưu
đãi cả về lãi suất và thời gian vay. Hiện nay, ADB đã có vai trò hết sức
quan trọng đối với sự phát triển của các nước châu Á nói chung và thị
trường vốn châu Á nói riêng.

11.4. Tû GI¸ HèI §O¸I Vµ C¸N C¢N THANH TO¸N QUèC TÕ


11.4.1. Tỷ giá hối đoái
11.4.1.1. Khái niệm và vai trò của tỷ giá hối đoái
* Ngoại tệ và ngoại hối:
Trong quan hệ tài chính quốc tế, để thực hiện các giao dịch thương
mại, đầu tư và thanh toán cần thiết phải sử dụng các công cụ tài chính
được chấp nhận ở phạm vi quốc tế. Các công cụ này tồn tại dưới các

339
dạng tiền quốc gia, tiền vàng và các giấy tờ có giá khác. Khi sử dụng các
công cụ này cần phân biệt rõ các khái niệm ngoại tệ và ngoại hối.
Mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng do quốc gia đó phát hành theo
pháp luật riêng của nó. Ngoại tệ là đồng tiền của quốc gia khác lưu hành
trên thị trường của nước sở tại. Ví dụ: Trên thị trường Việt Nam các
đồng tiền USD, EUR, DEM, JPY, GDP,… là các loại ngoại tệ .
Ngoại hối là thuật ngữ chung dùng để chỉ các phương tiện thanh
toán quốc tế như ngoại tệ, hối phiếu, séc và các công cụ tài chính khác
ghi bằng ngoại tệ.
* Khái niệm tỷ giá hối đoái:
Trong thương mại, đầu tư và các giao dịch quốc tế khác đòi hỏi các
quốc gia phải thanh toán tiền tệ với nhau. Khi đó sẽ nảy sinh việc mua
bán các đồng tiền khác nhau, trao đổi đồng tiền này lấy đồng tiền kia.
Hai đồng tiền được mua bán với nhau theo một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ này
gọi là tỷ giá. Vậy, chúng ta có thể định nghĩa: “Tỷ giá hối đoái là giá cả
của một đồng tiền nước này được biểu thị thông qua đồng tiền nước
khác”. Ví dụ: 1 USD = 20.800 VND. Ở đây, giá của USD được biểu thị
thông qua VND và 1 USD có giá là 20.800 VND.
* Đồng tiền yết giá, đồng tiền định giá:
Trong quan hệ tỷ giá có hai đồng tiền, một đồng tiền đóng vai trò
tiền yết giá, còn đồng kia đóng vai trò là đồng tiền định giá.
Đồng yết giá là đồng tiền có số đơn vị cố định và bằng 1. Đồng tiền
định giá là đồng tiền có số đơn vị thay đổi, phụ thuộc vào quan hệ cung
cầu trên thị trường ngoại hối.
Trong ví dụ trên đồng USD là đồng tiền yết giá còn VND là đồng
tiền định giá.
11.4.1.2. Các loại tỷ giá
Trên thị trường ngoại hối có nhiều loại tỷ giá khác nhau tùy thuộc
vào những cách phân loại khác nhau, dưới đây là một số cách phân loại
chủ yếu:

340
- Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, tỷ giá được chia thành
tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra.
Tỷ giá mua, bán ngoại hối thường được niêm yết tại các ngân hàng
thương mại và được sử dụng để giao dịch mua bán ngoại tệ giữa các
ngân hàng và các ngân hàng với các khách hàng khác. Tỷ giá mua vào
bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán ra nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng có lợi nhuận.
- Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia thành
tỷ giá tiền mặt và tỷ giá chuyển khoản.
Tỷ giá tiền mặt là loại tỷ giá áp dụng cho các giao dịch bằng ngoại
tệ, séc và thẻ tín dụng. Tỷ giá chuyển khoản được áp dụng trong các giao
dịch thanh toán quốc tế qua hệ thống ngân hàng. Loại tỷ giá này thường
thấp hơn tỷ giá tiền mặt.
- Căn cứ vào thời điểm giao dịch, tỷ giá được chia thành:
+ Tỷ giá mở cửa và tỷ giá đóng cửa là loại tỷ giá quy định và áp
dụng vào các thời điểm đóng và mở cửa trong một phiên giao dịch
(thường là một ngày giao dịch) của các ngân hàng thương mại.
+ Tỷ giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn: Tỷ giá giao ngay là loại tỷ
giá được áp dụng khi mua bán ngoại hối theo hợp đồng giao ngay, nghĩa
là, hợp đồng mua bán ngoại hối được thanh toán theo tỷ giá công bố tại
thời điểm ký kết hợp đồng giao ngay còn tỷ giá có kỳ hạn là tỷ giá được
áp dụng trong giao dịch mua bán ngoại hối theo hợp đồng có kỳ hạn
nghĩa là tỷ giá được áp dụng sau đó từ 3 ngày trở lên.
- Căn cứ vào cơ chế quản lý, tỷ giá được chia thành tỷ giá cố định và
tỷ giá thả nổi.
Tỷ giá cố định là loại tỷ giá do Ngân hàng Trung ương công bố và
không thay đổi trong một khoảng thời gian nhất định. Tỷ giá thả nổi là tỷ
giá được hình thành theo quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường.
11.4.1.3. Các phương pháp niêm yết tỷ giá
Tỷ giá về thực chất là giá của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu
thị bằng một số đơn vị tiền tệ của nước khác, phục vụ nhu cầu mua bán

341
ngoại hối và thanh toán trong nền kinh tế thế giới hiện đại. Vì vậy cần
thiết phải niêm yết một cách công khai tại các sàn giao dịch ngoại hối.
Có hai phương pháp niêm yết phổ biến được áp dụng: Phương pháp trực
tiếp và phương pháp gián tiếp.
- Phương pháp niêm yết tỷ giá trực tiếp
Đây là phương pháp theo đó quy định một đơn vị đồng ngoại tệ được
yết giá bằng bao nhiêu đơn vị đồng nội tệ. Ví dụ: 1USD = 20.800 VND và
được ký hiệu là: USD/VND = 20.800
Đồng tiền đứng trước được gọi là đồng tiền yết giá còn đồng tiền
đứng sau gọi là đồng tiền định giá.
Trong thực tế các Ngân hàng Trung ương và ngân hàng thương mại
thực hiện niêm yết đồng thời cả giá mua và giá bán một cách công khai
trên sàn giao dịch ngoại hối của họ theo phương pháp trực tiếp.
Ví dụ: Bảng yết tỷ giá của VCB trong ngày 30/7/2011 trên các sàn
của VCB như sau: USD/VND = 20.800/24. Niêm yết này được hiểu là
ngân hàng VCB sẵn sàng mua USD với giá mua 1USD là 20.800 VND
và sẵn sàng bán 1USD lấy 20.824 VND.
- Phương pháp niêm yết tỷ giá gián tiếp là phương pháp yết tỷ giá
ngược với phương pháp trên. Tức là yết giá một đồng nội tệ bằng một số
đơn vị đồng ngoại tệ. Ví dụ: Tại Sàn giao dịch ngoại hối của VCB ở Hà
Nội công bố.
VND/USD = 0,0000498
Do vai trò nổi bật của các đồng tiền mạnh và tập quán tiêu dùng tiền
tệ trên thế giới, đặc biệt là các đồng tiền mạnh như USD và GBP, mà hầu
hết các thị trường ngoại hối trên thế giới đều sử dụng USD và GBP làm
đồng tiền yết giá còn nội tệ hoặc các đồng tiền của các quốc gia khác đều
là đồng tiền định giá.
11.4.1.4. Cơ sở hình thành tỷ giá
Quy luật một giá: Theo quy luật này nếu bỏ qua chi phí vận chuyển,
hàng rào thương mại, các rủi ro và thị trường là cạnh tranh hoàn hảo, thì

342
các hàng hóa giống hệt nhau sẽ có giá như nhau ở mọi nơi khi quy về
một đồng tiền chung.
Điều này có nghĩa là nếu ký hiệu: Giá của một hàng hóa tại một
khoảng thời gian nào đó là Pi ở trong nước tính bằng nội tệ, Pi* là giá
của chính hàng hóa đó ở nước ngoài tính bằng ngoại tệ và E là tỷ giá biểu
thị số đơn vị nội tệ trên 1 đơn vị ngoại tệ, thì theo quy luật một giá Pi =
E.Pi* hay giá của 1 hàng hóa tại hai nước phải bằng nhau nếu quy về
đồng nội tệ. Như vậy giữa tỷ giá và sức mua của hai đồng tiền có mối
quan hệ với nhau và chính sức mua của đồng tiền hai nước quyết định tỷ
giá của đồng tiền hai nước đó theo công thức E = Pi/P*.
Một cách tổng quát, để so sánh sức mua giữa hai đồng tiền, người ta
không tiến hành so sánh sức mua liên quan đến từng hàng hóa mà thay
vào đó là so sánh sức mua cho một rổ hàng hóa tiêu chuẩn giống nhau ở
trong nước và ở nước ngoài. Rổ hàng hóa tiêu chuẩn bao gồm các hàng
hóa tiêu biểu, thông dụng, chiếm một tỷ trọng nhất định và có ý nghĩa
trong cuộc sống hàng ngày. Sau đó, ta tính giá của rổ hàng hóa này trong
nước sở tại và giá của rổ hàng hóa đó tại nước ngoài quy ra bằng nội tệ,
từ đó suy ra ngang giá sức mua giữa hai đồng tiền. Như vậy, nếu gọi giá
của rổ hàng hóa tiêu chuẩn tính bằng nội tệ là P, tính bằng ngoại tệ là P*
thì ngang giá sức mua sẽ là:
P=E.P* <=> P/P* = E
Hay nói cách khác, ngang giá sức mua giữa hai đồng tiền là cơ sở
hình thành tỷ giá giao dịch trên thị trường ngoại hối. Đây là nội dung cơ
bản của học thuyết ngang giá sức mua (The Purchasing Power Parity
Theory - PPP).
Trong nền kinh tế mở, tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn đến các quan hệ
tài chính đối ngoại của một nước với nước ngoài biểu hiện qua các mặt
chủ yếu sau:
- Tác động đến thương mại quốc tế
Như đã trình bày tỷ giá liên quan đến và phản ánh sức mua của hai
đồng tiền, một sự thay đổi trong tỷ giá sẽ làm thay đổi sức mua của hai

343
đồng tiền có mặt trong quan hệ tỷ giá. Vì vậy, sẽ làm cho giá cả của hành
hóa xuất nhập khẩu giữa hai nước trong quan hệ tỷ giá trên thị trường
quốc tế cũng thay đổi theo, từ đó ảnh hưởng đến quy mô của thương mại
quốc tế.
Chẳng hạn, trong quan hệ thương mại Việt - Mỹ, nếu VND mất giá
so với USD, điều này đồng nghĩa với USD tăng giá. Khi đó hàng xuất
khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ trở nên rẻ hơn tại thị trường Mỹ.
Ví dụ: Một lô hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ có giá trị là
20.800 triệu VND vào thời điểm t có tỷ giá là USD/VND = 20.800VND thì
lô hàng này bán trên thị trường Mỹ sẽ có giá trị là một triệu USD (= 20.800
triệu VND). Nhưng nếu tỷ giá thay đổi tại thời điểm t+1 là USD/VND = 21.800
thì giá bán của lô hàng này sẽ giảm xuống trên thị trường Mỹ tính bằng
tiền USD, cụ thể chỉ còn 20.800/21.800 triệu USD = 0,9541248 triệu USD.
Như vậy, giá dệt may hàng xuất khẩu của Việt Nam có sức cạnh tranh cao
về giá cả và sẽ tăng được quy mô tiêu thụ hàng xuất khẩu sang thị trường
Mỹ, cải thiện được cán cân thương mại và cán cân thanh toán.
Ngược lại, đồng nội tệ tăng giá sẽ làm giảm giá hàng nhập khẩu,
tăng giá hàng xuất khẩu, từ đó sẽ khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất
khẩu, làm cán cân thương mại và thanh toán cũng xấu đi.
Tuy nhiên tác động của tỷ giá thay đổi đến hoạt động thương mại và
cán cân thanh toán thường có độ trễ nhất định. Về lâu dài, giảm giá đồng
nội tệ sẽ cải thiện được hoạt động xuất khẩu và cán cân thanh toán của
nước giảm giá tiền tệ.
Tác động của tỷ giá đến tăng trưởng kinh tế, việc làm và lạm phát.
Như đã phân tích ở trên, đồng nội tệ mất giá sẽ kích thích gia tăng
xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước gia tăng việc làm, nhưng đồng
thời làm cho giá cả hàng hóa nguyên liệu đầu vào của hàng nhập khẩu để
sản xuất trong nước tăng lên, giá thành sản xuất tăng lên có thể dẫn đến
lạm phát.
Ngược lại, đồng nội tệ tăng giá hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn một
cách tương ứng, trong khi hàng xuất khẩu lại đắt lên ở nước ngoài làm

344
cho hoạt động xuất khẩu khó khăn, sản xuất trong nước lại bị cạnh tranh
gay gắt bởi hàng ngoại nhập khẩu giá rẻ tác động xấu đến sản xuất kinh
doanh công ăn việc làm của người lao động.
Tóm lại, có một chính sách tỷ giá đúng đắn thúc đẩy quan hệ kinh tế
đối ngoại kích thích sản xuất phát triển, cải thiện cán cân thanh toán là
bài toán mà mọi nhà hoạch định chính sách phải quan tâm đặc biệt.
11.4.1.5. Chế độ tỷ giá hối đoái
Do vai trò quan trọng của tỷ giá như đã trình bày ở trên nên mọi
quốc gia đều quan tâm đến việc xây dựng một chế độ tỷ giá phù hợp với
mục tiêu phát triển kinh tế đối ngoại của nước mình và thông lệ quốc tế
nhằm sử dụng tỷ giá như một công cụ điều tiết nền kinh tế hiệu quả nhất.
Chế độ tỷ giá hối đoái của một quốc gia là tập hợp các quy tắc, thể lệ xác
định và điều tiết tỷ giá của một quốc gia, nhằm tạo ra một cơ chế tỷ giá
thực hiện chính sách phát triển kinh tế nói chung và kinh tế đối ngoại nói
riêng của quốc gia đó.
Tính chất đa dạng của các chế độ tỷ giá phụ thuộc vào vai trò của
Chính phủ và vai trò của thị trường trong việc hình thành tỷ giá. Tùy vào
mức độ can thiệp của Chính phủ mà Chính phủ thông qua Ngân hàng
Trung ương (NHTW) thực thi những chế độ tỷ giá nhất định có thể là
hoàn toàn cố định, theo mức độ can thiệp tăng dần của Chính phủ có thể
nêu ra 3 chế độ tỷ giá đặc trưng sau:
+ Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: Là chế độ trong đó tỷ giá được
xác định hoàn toàn tự do theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối
mà không có bất cứ sự can thiệp nào của NHTW. Trong chế độ tỷ giá thả
nổi hoàn toàn, sự biến động của tỷ giá là không có giới hạn và luôn phản
ánh những thay đổi trong quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối.
Chính phủ tham gia thị trường ngoại hối với tư cách là một thành viên
bình thường, nghĩa là Chính phủ có thể mua vào hay bán ra một đồng
tiền nhất định để phục vụ cho mục đích hoạt động của mình chứ không
nhằm mục đích can thiệp lên tỷ giá hay để cố định tỷ giá.
+ Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Khác với chế độ tỷ giá thả nổi
hoàn toàn, chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết tồn tại khi NHTW tiến hành

345
can thiệp tích cực trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá biến động
trong một vùng nhất định, nhưng NHTW không cam kết duy trì một tỷ
giá cố định hay một biên độ dao động hẹp xung quanh tỷ giá trung tâm.
Chẳng hạn NHTW không công bố và không cam kết duy trì một mức tỷ
giá cố định nào nhưng cam kết can thiệp để tỷ giá ngày hôm nay chỉ biến
động trong một giới hạn tỷ lệ phần trăm nhất định so với ngày hôm
trước. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết được xem như chế độ tỷ giá hỗn
hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn.
+ Chế độ tỷ giá cố định: Là chế độ tỷ giá trong đó NHTW công bố
và cam kết can thiệp để duy trì một mức tỷ giá cố định gọi là tỷ giá trung
tâm (Central Rate), trong một biên độ hẹp đã được định trước. Như vậy,
trong chế độ tỷ giá cố định, NHTW buộc phải mua vào hay bán ra đồng
nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì cố định tỷ giá trung tâm và
duy trì sự biến động của nó trong một biên độ hẹp đã định trước. Để tiến
hành can thiệp trên thị trường ngoại hối, đòi hỏi NHTW phải có sẵn
nguồn dự trữ ngoại hối nhất định. Mỗi đồng tiền quốc gia đều có tỷ giá
với các đồng tiền khác, do đó, tỷ giá của một đồng tiền có thể được thả
nổi với đồng tiền này nhưng lại được cố định với một đồng tiền khác.
11.4.1.6. Chính sách tỷ giá hối đoái
Chính sách tỷ giá là tổng hòa những phương thức và hệ thống các
công cụ can thiệp mà Chính phủ (đại diện là NHTW) thông qua một chế
độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành tỷ giá) nhằm duy trì một mức
tỷ giá nhất định để tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ của quốc gia, thực hiện các mục tiêu chính sách kinh tế
quốc gia đó trong từng thời kỳ cụ thể.
Chính sách tỷ giá tác động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu,
hàng hóa và dịch vụ là hai bộ phận chủ yếu cấu thành cán cân vãng lai.
Do đó chính sách tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân vãng lai. Cụ thể:
- Với chính sách tỷ giá định giá thấp nội tệ (undervalued) sẽ có tác
dụng thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu giúp cải thiện được cán
cân vãng lai từ trạng thái thâm hụt về trạng thái cân bằng hay thặng dư.

346
- Với chính sách tỷ giá định giá cao nội tệ (overvalued) sẽ có tác
dụng kìm hãm xuất khẩu và kích thích nhập khẩu giúp điều chỉnh cán
cân vãng lai từ trạng thái thặng dư về trạng thái cân bằng hay thâm hụt.
- Với chính sách tỷ giá cân bằng (equilirium) sẽ có tác dụng làm cân
bằng xuất khẩu và nhập khẩu giúp cán cân vãng lai tự động cân bằng.
Từ kết quả phân tích ở trên thấy rằng tỷ giá là một biến số kinh tế tác
động đến hầu hết các mặt hoạt động của nền kinh tế nhưng hiệu quả ảnh
hưởng của tỷ giá lên các hoạt động khác nhau là rất khác nhau. Trong đó
hiệu quả tác động của tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu là rõ ràng và
nhanh chóng, do đó, các quốc gia luôn sử dụng tỷ giá trước hết như là
công cụ hữu hiệu điều chỉnh hoạt động XNK hàng hóa và dịch vụ.
11.4.1.7. Các công cụ của chính sách tỷ giá hối đoái
Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá: Thông thường, đó là
hoạt động của NHTW trên thị trường ngoại hối thông qua việc mua bán
đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định (trong chế độ tỷ giá cố định)
hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo
mục tiêu đã đề ra (trong chế độ tỷ giá thả nổi). Để tiến hành can thiệp,
NHTW phải có một lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh. Hơn nữa các hoạt
động can thiệp trực tiếp của NHTW tạo ra hiệu ứng thay đổi cung ứng
tiền trong lưu thông có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không
mong muốn cho nền kinh tế, chính vì vậy, đi kèm theo hoạt động can
thiệp trực tiếp, NHTW thường phải sử dụng thêm một nghiệp vụ thị
trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ
trong lưu thông. Do có những hạn chế nhất định nên các NHTW của các
nước phát triển đã dần dần chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp
gián tiếp mà chủ yếu là thông qua công cụ lãi suất tái chiết khấu.
Ngoài ra, thuộc nhóm công cụ trực tiếp còn phải kể đến các biện
pháp can thiệp hành chính của Chính phủ có thể áp dụng là:
Biện pháp kết hối: Là việc Chính phủ quy định đối với các thể nhân
và pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong
một thời hạn nhất định cho các tổ chức được phép kinh doanh ngoại hối.

347
Biện pháp kết hối được áp dụng trong những thời kỳ khan hiếm ngoại tệ
giao dịch trên thị trường ngoại hối. Mục đích chính của biện pháp kết hối
là nhằm tăng cung ngoại tệ tức thời để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thị
trường, hạn chế hành vi đầu cơ và giảm áp lực phải phá giá nội tệ. Với xu
thế mở cửa kinh tế, tự do hóa thương mại và tự do hóa tài chính thì các
biện pháp can thiệp hành chính ngày càng trở nên không phù hợp. Chính
vì vậy, xu thế trên thế giới là ngày càng hạn chế can thiệp hành chính và
chuyển mạnh sang sử dụng các công cụ thị trường.
Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá:
Bao gồm các công cụ như: Lãi suất tái chiết khấu, thuế quan, hạn
ngạch, giá cả… Trong số các công cụ gián tiếp thì công cụ lãi suất tái
chiết khấu thường được sử dụng nhiều nhất và tỏ ra hiệu quả nhất.
- Lãi suất tái chiết khấu: Với các yếu tố khác không đổi, khi NHTW
tăng mức lãi suất tái chiết khấu, sẽ có tác động làm tăng mặt bằng lãi suất
thị trường, lãi suất thị trường tăng hấp dẫn các luồng vốn ngoại tệ chạy
vào làm cho nội tệ lên giá. Khi lãi suất tái chiết khấu giảm sẽ tác dụng
ngược chiều.
- Thuế quan: Thuế quan cao có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu,
nhập khẩu giảm làm cho cầu ngoại tệ giảm, kết quả là làm cho nội tệ lên
giá. Khi thuế quan thấp sẽ có tác dụng ngược lại.
- Hạn ngạch: Có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu, do đó có tác động
lên tỷ giá giống như thuế quan cao. Dỡ bỏ hạn ngạch có tác dụng làm
tăng nhập khẩu, do đó có tác động lên tỷ giá giống như thuế quan thấp.
- Giá cả: Thông qua hệ thống giá cả, Chính phủ có thể trợ giá cho
những mặt hàng xuất khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản
xuất. Trợ giá xuất khẩu làm cho khối lượng xuất tăng, làm tăng cung
ngoại tệ, khiến cho nội tệ lên giá. Chính phủ cũng có thể bù giá cho một
số mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, bù giá làm tăng nhập khẩu, kết quả làm
cho nội tệ giảm giá.
Ngoài các công cụ gián tiếp thông dụng nêu trên, trong từng thời kỳ,
Chính phủ còn có thể áp dụng một số biện pháp cá biệt khác như sau:

348
Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các ngân
hàng thương mại (NHTM). Khi ngoại tệ khan hiếm trên thị trường ngoại
hối, NHTW có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với vốn huy động bằng
ngoại tệ của các NHTM, làm cho chi phí sử dụng vốn ngoại tệ tăng. Để
kinh doanh có lãi buộc các NHTM phải hạ lãi suất huy động ngoại tệ, kết
quả là việc nắm giữ ngoại tệ trở lên kém hấp dẫn hơn so với nắm giữ nội
tệ, khiến cho những người sở hữu ngoại tệ phải bán đi lấy nội tệ, làm
tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại
tệ: Biện pháp này có tác động làm giảm lãi suất huy động tiền gửi ngoại
tệ, ảnh hưởng đến cung ngoại tệ, từ đó, có tác dụng điều chỉnh tỷ giá hối
đoái trên thị trường.
Quy định trạng thái ngoại tệ đối với các NHTM: Việc này nhằm mục
đích chính là phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Ngoài ra, còn có tác dụng hạn chế
đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.
11.4.2. Cán cân thanh toán quốc tế
11.4.2.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế mở, đặc biệt là trong xu thế hội nhập và toàn cầu
hóa diễn ra một cách mạnh mẽ như hiện nay, các liên kết kinh tế giữa các
quốc gia này ngày càng phát triển. Những mối quan hệ thường xuyên về
các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa giữa các quốc gia đã làm phát sinh các
quan hệ lợi ích và nghĩa vụ tài chính giữa các quốc gia với nhau. Việc
thanh toán các nghĩa vụ tài chính giữa các quốc gia được phản ánh vào
những bảng cân đối mà thường gọi là cán cân thanh toán quốc tế.
Cán cân thanh toán quốc tế (The Balance of Payments - viết tắt là
BOP hay BP) là một bản báo cáo thống kê tổng hợp có hệ thống, ghi
chép lại giá trị tất cả các giao dịch kinh tế quốc tế giữa một nước với
nước ngoài trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
Tùy theo yêu cầu của công tác quản lý, có thể lập các bảng cân đối
thanh toán quốc tế: Cán cân thanh toán song phương, đa phương và cán
cân thanh toán khu vực.

349
11.4.2.2. Kết cấu của cán cân thanh toán quốc tế
Để thuận tiện trong việc nghiên cứu, có thể mô phỏng bảng cán cân
thanh toán của Việt Nam trong một năm như sau (Đơn vị : Triệu USD)

Thứ Doanh số thu Doanh số


Nội dung Cân đối
tự (+) chi(-)
I Cán cân vãng lai - 8.500
1 Cán cân thương mại
- Xuất khẩu hàng hóa + 20.000
- Nhập khẩu hàng hóa - 25.000 - 5.000
2 Cán cân dịch vụ
- Xuất khẩu dịch vụ + 10.000
- Nhập khẩu dịch vụ - 12.000 - 2.000
3 Cán cân thu nhập
Thu + 1.000
Chi - 2.000 - 1.000
4 Chuyển giao vãng lai 1 chiều
Thu + 1.000
Chi - 1.500 - 500
II Cán cân vốn (Tư bản) + 5.000
5 Vốn dài hạn
Chảy vào + 10.000
Chảy ra - 7.000 + 3.000
6 Vốn ngắn hạn
Chảy vào + 3000
Chảy ra - 1.000 + 2.000
III Chu chuyển vốn một chiều
Nhầm lẫn và sai sót 0
IV Cán cân tổng thể - 3.500
V Cán cân bù đắp chính thức + 3.500 + 3.500
1 Thay đổi dự trữ + 2.000 + 2.000
2 Vay của IMF + 1.000 + 1.000
3 Tài trợ khác + 500 + 500
Cán cân tổng thể +58.500 - 58.500 0

350
Cán cân thương mại
Cán cân thương mại còn được gọi là cán cân hữu hình (visible),
phản ánh chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu và các khoản chi
cho nhập khẩu hàng hóa, mà các hàng hóa này lại có thể quan sát bằng
mắt thường khi di chuyển qua biên giới. Xuất khẩu làm phát sinh khoản
thu nên được ghi có (+) trong cán cân thanh toán quốc tế, và nhập khẩu
làm phát sinh khoản chi nên được ghi nợ (-) trong cán cân thanh toán
quốc tế. Khi thu nhập từ xuất khẩu lớn hơn chi cho nhập khẩu hàng hóa thì
cán cân thương mại thặng dư. Ngược lại, khi thu nhập từ xuất khẩu thấp
hơn chi cho nhập khẩu bằng hàng hóa thì cán cân thương mại thâm hụt.
Cán cân dịch vụ
Bao gồm các khoản thu, chi từ các hoạt động dịch vụ về vận tải du
lịch, bảo hiểm, bưu chính, viễn thông, hàng không, ngân hàng, thông tin,
xây dựng và từ các hoạt động dịch vụ khác giữa người cư trú với người
không cư trú. Giống như xuất nhập khẩu hàng hóa, kim ngạch xuất khẩu
dịch vụ được quy ước mang dấu (+), kim ngạch nhập khẩu dịch vụ làm
phát sinh cầu ngoại tệ (cung nội tệ), nên nó được ghi vào bên nợ và mang
dấu (-). Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ cũng
tương tự như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa.
Cán cân thu nhập
Thu nhập của người lao động: Là các khoản tiền lương, tiền thưởng
và các khoản thu nhập khác bằng tiền, hiện vật do người không cư trú trả
cho người cư trú và ngược lại. Các nhân tố ảnh hưởng lên thu nhập của
người lao động bao gồm: Số lượng và chất lượng (mức lương) của người
lao động ở nước ngoài.
Thu nhập về đầu tư: Là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp,
lãi từ đầu tư vào giấy tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả của các
khoản vay giữa người cư trú và người không cư trú.
Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều
Các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản
chuyển giao khác bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng do người
không cư trú chuyển cho người cư trú và ngược lại.

351
Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân phối lại
thu nhập giữa người cư trú với người không cư trú. Các khoản thu làm
phát sinh cung ngoại tệ (cầu nội tệ) nên được ghi vào bên có (+) các
khoản chi làm phát sinh cầu ngoại tệ (cung nội tệ) nên được ghi vào
bên nợ (-). Nhân tố chính ảnh hưởng lên chuyển giao vãng lai một
chiều là lòng tốt, tình cảm và mối quan hệ giữa người cư trú với người
không cư trú.
Chúng ta thấy rằng, cán cân dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng
lai một chiều không thể quan sát bằng mắt thường nên chúng được gọi là
cán cân vô hình (invisible).
Như vậy cán cân vãng lai có thể biểu diễn:
Cán cân vãng lai = Cán cân hữu hình + Cán cân vô hình

Cán cân vốn (Capital Balance)


Cán cân vốn dài hạn: Luồng vốn dài hạn chảy vào và chảy ra khỏi
một quốc gia được phân theo tiêu chí “chủ thể” và “khách thể”. Theo tiêu
chí chủ thể, vốn dài hạn được chia theo khu vực tư nhân và khu vực Nhà
nước. Theo tiêu chí khách thể, các luồng vốn dài hạn được chia thành
đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và vốn dài hạn khác.
Cán cân vốn ngắn hạn: Luồng vốn ngắn hạn chảy vào và chảy ra
khỏi một quốc gia cũng được phân theo tiêu chí “chủ thể” thành khu vực
Nhà nước và khu vực tư nhân. Cán cân vốn ngắn hạn bao gồm nhiều
hạng mục phong phú và chủ yếu là: tín dụng thương mại ngắn hạn, hoạt
động tiền gửi, mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, các khoản tín dụng
ngân hàng ngắn hạn, kinh doanh ngoại hối… Ngày nay, trong môi trường
tự do tài chính, các luồng vốn đầu cơ (hot money) tăng lên nhanh chóng
làm cho cán cân vốn ngắn hạn trở nên có ảnh hưởng đáng kể đến cán cân
thanh toán quốc tế nói chung của mỗi quốc gia. Nguyên nhân chính
khiến cho các luồng vốn ngắn hạn tăng lên nhanh chóng là xu hướng thả
nổi tỷ giá sau khi Hệ thống Bretton-Woods sụp đổ vào năm 1973.
Cán cân cơ bản = Cán cân vãng lai + Cán cân vốn dài hạn
Cán cân cơ bản được các nhà phân tích và hoạch định chính sách
kinh tế đặc biệt quan tâm.

352
Cán cân tổng thể (Overall Balance-OB)
Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối (tức nhầm lẫn và
sai sót là bằng 0) thì cán cân tổng thể bằng tổng của cán cân vãng lai và
cán cân vốn. Trong thực tế, có rất nhiều vấn đề phức tạp về thống kê
nhầm lẫn và sai sót. Do đó, cán cân tổng thể được điều chỉnh lại bằng
tổng của cán cân vãng lai, cán cân vốn và hạng mục nhầm lẫn sai sót
trong thống kê. Ta có:
Cán cân tổng thể = Cán cân vãng lai + Cán cân vốn + Nhầm lẫn và sai sót

Cán cân bù đắp chính thức (Official Finacing Balance - OFB)


Cán cân bù đắp chính thức bao gồm các hạng mục:
- Thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia.
- Tín dụng với IMF và các NHTW khác.
- Thay đổi dự trữ của các NHTW khác bằng đồng tiền của quốc gia
lập cán cân thanh toán.
Nhầm lẫn và sai sót
Do áp dụng nguyên tắc hạch toán kép nên BP luôn được cân bằng.
Do đó, tổng của cán cân tổng thể và cán cân bù đắp chính thức phải luôn
luôn bằng 0.
11.4.2.3. Ý nghĩa kinh tế của cán cân thanh toán quốc tế
Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai
Thặng dư cán cân thanh toán được hiểu là phần thu vượt phần chi và
ngược lại thì ta nói cán cân thanh toán thâm hụt.
Thặng dư hay thâm hụt cán cân vãng lai có ý nghĩa quan trọng biểu
hiện trên những mặt cơ bản sau:
- Nếu thặng dư, có ý nghĩa là thu nhập (income inflows) của người
cư trú từ người không cư trú là lớn hơn so với chi (income outflows) cho
người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có
giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người cư trú tăng lên.

353
- Nếu thâm hụt, có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ người
không cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có
nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát
hành nằm trong tay người cư trú giảm xuống.
- Ngoài ra, tình trạng cán cân vãng lai luôn là một bộ phận không thể
thiếu trong phân tích kinh tế vĩ mô đối với nền kinh tế mở. Đặc biệt, nó
có khả năng ảnh hưởng trực tiếp và nhanh chóng đến các chỉ tiêu quan
trọng của nền kinh tế như tỷ giá, tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái cán cân vãng lai là
lý tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài của quốc gia. Lý do có thể
được giải thích như sau: Trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực
tiếp với trạng thái tổng nợ nước ngoài của một quốc gia. Cán cân vãng lai
cân bằng nói lên trạng thái tổng nợ nước ngoài của quốc gia là không
thay đổi (quốc gia không là chủ nợ và cũng không là con nợ). Cán cân
vãng lai thặng dư phản ánh tài sản có ròng của quốc gia đối với phần thế
giới còn lại được tăng lên (vị thế quốc gia là chủ nợ). Ngược lại, cán cân
vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng của quốc gia đối với nước
ngoài tăng lên (vị thế quốc gia là con nợ).
Thặng dư và thâm hụt Cán cân cơ bản
Khi phân tích trạng thái nợ nước ngoài, ngoài việc phân tích trạng
thái cán cân vãng lai, các nhà kinh tế còn phân tích trạng thái cán cân cơ
bản. Cán cân vãng lai thâm hụt, quốc gia là con nợ, nhưng nếu thâm hụt
cán cân vãng lai được tài trợ bởi nguồn vốn dài hạn thì quốc gia không
chịu rủi ro thanh khoản. Chính vì vậy nhiều nhà kinh tế cho rằng cán cân
cơ bản phản ánh tổng quát hơn về trạng thái nợ nước ngoài của một quốc
gia so với cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì vốn dài hạn có đặc
trưng của sự phân phối lại thu nhập tương đối ổn định trong một thời
gian dài giữa một quốc gia và phần thế giới bên ngoài, ngoài ra, sự bù trừ
cho nhau giữa thặng dư của cán cân vãng lai và thâm hụt của cán cân vốn
dài hạn có thể được duy trì lâu dài. Trên cơ sở những đặc điểm này của
cán cân cơ bản mà chúng ta có thể định hướng chiến lược phát triển nền
kinh tế.

354
Thặng dư và thâm hụt Cán cân tổng thể
Cán cân tổng thể phản ánh bức tranh các hoạt động của NHTW
trong việc tài trợ cho sự mất cân đối cuối cùng của nền kinh tế.
Thông thường, mỗi NHTW thường nắm giữ những giấy tờ có giá ghi
bằng ngoại tệ trong dự trữ ngoại hối của mình, mà chủ yếu là bằng các
tín phiếu kho bạc ghi ngoại tệ. Dự trữ ngoại hối thường được các NHTW
sử dụng can thiệp để mua nội tệ trong những trường hợp cần bảo vệ nội
tệ khỏi bị giảm giá.
Mọi thâm hụt trong cán cân tổng thể thường được tài trợ bằng các
cách: giảm dự trữ ngoại hối; vay (hay hợp đồng hoán đổi) IMF và các
NHTW khác; tăng tài sản nợ tại các NHTW nước ngoài.
Một câu hỏi được đặt ra là trong thực tế khi nói đến cán cân thanh
toán quốc tế của một quốc gia là thặng dư hay thâm hụt thì người ta
muốn nói đến thặng dư hay thâm hụt của cán cân nào? Cán cân thương
mại, vãng lai, cơ bản hay tổng thể? Cho đến nay khi nói đến thâm hụt
hay thặng dư cán cân thanh toán mà không nói rõ đó là cán cân nào thì
người ta hiểu đó là thặng dư hay thâm hụt cán cân tổng thể, chính vì vậy
cán cân tổng thể (Overall Balance) còn được gọi là cán cân thanh toán
chính thức của quốc gia.

C¢U HáI ¤N TËP CH¦¥NG 11

1. TCQT là gì? Hãy phân tích các vai trò của TCQT?
2. TCQT là gì? Hãy phân tích các đặc trưng cơ bản của TCQT?
3. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là gì? Hãy trình bày các hình thức
đầu tư gián tiếp nước ngoài? Những mặt trái của đầu tư gián tiếp nước
ngoài đối với các nước tiếp nhận đầu tư?

355
4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là gì? Hãy trình bày các hình thức đầu
tư trực tiếp nước ngoài? Những mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài
đối với các nước tiếp nhận đầu tư? Liên hệ với thực tế ở VN hiện nay?
5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là gì? Hãy trình bày các hình thức đầu
tư trực tiếp nước ngoài? Những lợi ích của đầu tư trực tiếp nước ngoài
đối với các nước tiếp nhận đầu tư?
6. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là gì? Hãy trình bày các hình thức
đầu tư gián tiếp nước ngoài? Những lợi ích của đầu tư gián tiếp nước
ngoài đối với các nước tiếp nhận đầu tư?
7. Tỷ giá hối đoái là gì? Trình bày cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái?
8. Phân tích các chế độ và chính sách tỷ giá hối đoái?
9. Cán cân thanh toán quốc tế là gì? Trình bày kết cấu và ý nghĩa
kinh tế của cán cân thanh toán quốc tế?

356
Chương 12
CHÝNH S¸CH TµI CHÝNH QUèC GIA

Chương này nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chính sách tài chính
quốc gia với việc tìm hiểu về mục tiêu, quan điểm, các giải pháp để thực
thi chính sách tài chính quốc gia; đề cập đến Chiến lược tài chính quốc
gia của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.

12.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG CñA CHÝNH S¸CH TµI CHÝNH


QUèC GIA
12.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chính sách tài chính quốc gia
* Khái niệm
Tài chính là một phạm trù kinh tế khách quan, là hệ thống các quan
hệ kinh tế dưới hình thái giá trị, phát sinh trong quá trình phân phối của
cải xã hội thông qua việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền
kinh tế quốc dân nhằm đáp ứng cho các lợi ích khác nhau của mọi chủ
thể trong xã hội. Vấn đề đặt ra là làm sao có thể sử dụng phạm trù tài
chính đang tồn tại khách quan một cách đúng đắn nhằm phục vụ cho việc
phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng đất nước. Để đạt được mục tiêu
đó, đòi hỏi phải có sự định hướng của Nhà nước thông qua các chính
sách tài chính.
Chính sách tài chính là định hướng của Nhà nước về sử dụng phạm
trù tài chính. Nếu tài chính là một phạm trù kinh tế khách quan thì chính
sách tài chính của Nhà nước thể hiện là thái độ định hướng của Nhà nước
về sử dụng tài chính - phạm trù kinh tế khách quan này. Chính sách tài
chính quốc gia mang tính chất chủ quan do con người tác động vào các
mối quan hệ tài chính nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
trong một thời kỳ nhất định, trên cơ sở nhận thức khách quan các quy
luật phát triển kinh tế - xã hội và các quan hệ tài chính liên quan đến nó.

357
Các định hướng của Nhà nước bao gồm các quan điểm cần quán
triệt, các chủ trương cần triển khai, các mục tiêu cần đạt được và các giải
pháp cần thực hiện khi sử dụng các công cụ tài chính để phát triển các
nguồn lực tài chính, khai thác và huy động các nguồn tài chính, phân bổ
và sử dụng các nguồn tài chính trong nền kinh tế quốc dân một cách hợp
lý và đạt hiệu quả cao nhất.
Xuất phát từ vai trò của tài chính là công cụ phân phối tổng sản
phẩm quốc dân, là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, chính
sách tài chính quốc gia phải nhằm phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước đáp ứng các mục tiêu kinh tế vĩ mô
đã được xác định trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm về chính sách tài chính quốc gia như
sau: Chính sách tài chính quốc gia là chính sách của Nhà nước về việc
sử dụng các công cụ tài chính, bao gồm hệ thống các quan điểm, mục
tiêu, chủ trương và giải pháp về tài chính - tiền tệ nhằm bồi dưỡng phát
triển các nguồn lực tài chính, khai thác, huy động, phân bổ và sử dụng
hợp lý các nguồn lực tài chính đó phục vụ có hiệu quả cho việc thực hiện
các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong
thời kỳ.
* Đặc điểm
Chính sách tài chính quốc gia có những đặc điểm sau:
- Chính sách tài chính quốc gia là bộ phận không tách rời của chính
sách kinh tế - xã hội nói chung nhưng vẫn có tính độc lập tương đối của
nó. Mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia là phục vụ cho việc thực
hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời
kỳ, vì vậy nó là một bộ phận không thể tách rời của chính sách phát triển
kinh tế - xã hội nói chung. Nếu thoát ly khỏi các chính sách đó, chính
sách tài chính sẽ mất phương hướng, mục tiêu phục vụ. Tính độc lập
tương đối của chính sách tài chính quốc gia thể hiện ở chính những tác
động tích cực của nó tới việc thực hiện các nội dung và mục tiêu của
chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

358
- Chính sách tài chính quốc gia là sản phẩm chủ quan của Nhà
nước, do đó, nó luôn mang tính chất giai cấp bắt nguồn từ bản chất giai
cấp của Nhà nước, thể hiện rõ bản chất của chế độ chính trị. Nhà nước
luôn mang bản chất giai cấp và tài chính là công cụ phân phối nhằm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, vì vậy chính sách tài chính
quốc gia phải thể hiện rõ mục tiêu mà nó phục vụ.
- Chính sách tài chính quốc gia luôn mang tính lịch sử. Chính sách
tài chính quốc gia không phải là một thể chế bất biến mà nó luôn được bổ
sung, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn khách quan của mỗi thời kỳ lịch
sử. Chính sự khác nhau về chính trị, kinh tế, xã hội và đặc điểm vận động
của bản thân phạm trù tài chính trong các thời kỳ lịch sử, đòi hỏi chính
sách tài chính quốc gia phải thích ứng với mỗi thời kỳ, phải có sự thay
đổi theo cho phù hợp.
12.1.2. Mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia
Trong từng thời kỳ lịch sử, mục tiêu cụ thể của chính sách tài chính
quốc gia có thể có những điểm khác nhau, nhưng mục tiêu tổng quát của
chính sách tài chính quốc gia là không thay đổi, đó là:
- Xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ vững an
ninh tài chính, ổn định tài chính - tiền tệ, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế
tăng trưởng nhanh và bền vững, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội.
- Huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính trong xã
hội hiệu quả và công bằng.
- Cải cách hành chính và tăng cường công tác quản lý, giám sát
tài chính.
Từ các mục tiêu tổng quát nêu trên, mục tiêu cụ thể của chính sách
tài chính quốc gia bao gồm:
- Tăng cường tiềm lực tài chính của đất nước, đặc biệt là tiềm lực
Tài chính Nhà nước và Tài chính doanh nghiệp, đảm bảo đáp ứng nhu
cầu vốn để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững và đẩy nhanh tốc độ
giảm nghèo, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

359
- Thiết lập cơ chế phân phối nguồn lực tài chính phù hợp với các
mục tiêu ưu tiên của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, ổn định môi
trường bền vững và đảm bảo công bằng xã hội, phù hợp với cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hệ thống chính sách động viên, phân phối tài chính công bằng, ổn
định, tích cực, năng động, phù hợp nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đủ sức phát triển nội lực, chủ động hội nhập, thu hút ngoại lực,
quản lý và sử dụng có hiệu quả toàn bộ nguồn lực tài chính của đất nước.
- Kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả và sức mua đồng tiền, tạo điều
kiện, môi trường cho sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế - xã
hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân.
- Xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, công khai, minh bạch,
dân chủ, được kiểm toán, kiểm soát, làm cho tài chính trở thành thước đo
hiệu quả quá trình hoạt động kinh tế của các chủ thể trong xã hội.
- Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về tài chính, đổi mới và cải
cách mạnh thủ tục hành chính, từng bước hiện đại hóa công nghệ quản lý
tài chính, đội ngũ cán bộ tài chính thực sự là những cán bộ cần kiệm,
liêm chính, chí công, vô tư.
- Củng cố và nâng cao vị thế tài chính của đất nước trong quan hệ
quốc tế.
12.1.3. Quan điểm xây dựng chính sách tài chính quốc gia
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường mở cửa, chính sách tài chính
quốc gia cần được xây dựng trên nền tảng của những nhận thức mới về
kinh tế học, xã hội học và những tri thức mới về quản lý tài chính tiền tệ.
Các quan điểm phát triển cơ bản của chính sách tài chính là những tư
tưởng chủ đạo thể hiện tính định hướng, có ý nghĩa tìm ra các bước ngoặt
cho con đường phát triển và nó tạo động lực cơ bản xuyên suốt quá trình
phát triển của đất nước.
Việc xây dựng và thực hiện chính sách tài chính quốc gia phải quán
triệt những quan điểm cơ bản sau đây:

360
- Chính sách tài chính quốc gia phải thúc đẩy quá trình đổi mới cơ
chế quản lý tài chính mà vấn đề có tính quyết định là đổi mới chính sách
quản lý và sử dụng Ngân sách nhà nước, thuế, lãi suất, tỷ giá hối đoái
theo hướng nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý của bộ máy Nhà nước,
phát huy vai trò của các công cụ tài chính - tiền tệ trong việc điều tiết và
giám sát các hoạt động kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô.
- Chính sách tài chính quốc gia phải hướng vào việc mở rộng khả
năng và tăng nhanh tốc độ tạo vốn bằng nhiều hình thức và phương pháp
đa dạng khác nhau để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh
tế trên cơ sở coi trọng nguyên tắc nguồn vốn trong nước là quyết định và
các nguồn vốn nước ngoài là quan trọng. Đồng thời, phải kiên trì phối
hợp, sử dụng tốt các nguồn vốn đầu tư, đảm bảo cho nền kinh tế tăng
trưởng nhanh và bền vững.
- Xây dựng chính sách tài chính quốc gia phải phù hợp với quan
điểm phát triển nền kinh tế thị trường và chính sách hội nhập kinh tế.
Đặc biệt chú trọng việc hình thành và phát triển thị trường tài chính để
mở rộng và đẩy nhanh tốc độ giao lưu vốn trong nền kinh tế, tạo điều
kiện tiến tới hòa nhập thị trường tài chính trong nước với thị trường tài
chính quốc tế.
- Quản lý nền tài chính quốc gia bằng hệ thống luật pháp, tăng
cường kiểm tra, thanh tra tài chính, làm cho kỷ cương tài chính được
chấp hành nghiêm chỉnh.

12.2. NéI DUNG C¥ B¶N CñA CHÝNH S¸CH TµI CHÝNH QUèC GIA
12.2.1. Chính sách khai thác, huy động và phát triển nguồn lực
tài chính
Bộ phận chính sách này bao gồm các giải pháp sử dụng các công cụ
tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, đảm
bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, phát triển bền vững, từ đó gia
tăng nguồn lực tài chính quốc gia. Bộ phận chính sách này được hoạch
định dựa trên cơ sở các quy hoạch, kế hoạch và mục tiêu chiến lược về
kinh tế - xã hội của quốc gia trong thời kỳ tương ứng.

361
Với mục tiêu là huy động tối đa các nguồn lực tài chính trong và
ngoài nước cho đầu tư phát triển, tạo thế và lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế ổn định và bền vững, đáp ứng đủ nhu cầu vốn để thực hiện các
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Chính
sách phát triển nguồn lực tài chính hướng tới việc sử dụng các giải pháp
để cải thiện môi trường đầu tư nhằm khuyến khích mạnh mẽ mọi thành
phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; động viên tài chính
của các thành phần kinh tế thông qua thị trường tài chính và các tổ chức
tài chính trung gian; động viên tài chính bắt buộc qua thuế, phí vào
NSNN; động viên tài chính thông qua tín dụng nhà nước.
12.2.2. Chính sách phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực tài chính
Bộ phận chính sách này bao gồm các giải pháp sử dụng các công cụ
tài chính để phân bổ các nguồn lực tài chính một cách hợp lý. Việc phân
bổ đó phải đảm bảo giữ vững các quan hệ cân đối lớn trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội như giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa tiết kiệm
và đầu tư. Việc phân bổ các nguồn lực tài chính phải hướng vào việc tập
trung các nguồn lực tài chính cho các ưu tiên phát triển đã được xác định
trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Bộ phận
chính sách này bao gồm các giải pháp nhằm đảm bảo cho nguồn lực tài
chính trong xã hội được sử dụng một cách tiết kiệm, có hiệu quả.
Mục tiêu của chính sách này là: thông qua việc phân bổ một cách
hợp lý các nguồn lực tài chính trong xã hội, tạo tiền đề thúc đẩy các
ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh phát triển, tạo nên các ngành
kinh tế mũi nhọn, phát huy lợi thế cạnh tranh của đất nước, nâng cao
năng suất lao động và trình độ khoa học công nghệ của nền sản xuất; xác
lập cơ cấu kinh tế hợp lý theo ngành nghề và theo vùng lãnh thổ, thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các vùng
miền và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư.
Để thực hiện mục tiêu trên, các giải pháp lớn cần sử dụng như: phân
bố và sử dụng hợp lý, hiệu quả các khoản chi NSNN; tạo môi trường và
động lực phát triển kinh tế, khai thác triệt để việc sử dụng nguồn vốn đầu

362
tư của Nhà nước và các nguồn vốn đầu tư khác trong và ngoài nước, thực
hiện phân phối và phân phối lại các nguồn tài chính.
12.2.3. Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận cấu thành quan trọng của
chính sách kinh tế vĩ mô, có vai trò trọng yếu trong việc ổn định nền tiền
tệ quốc gia và phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu của chính sách
tiền tệ quốc gia là: ổn định sức mua và giá trị đồng tiền quốc gia, kiểm
soát chặt chẽ lạm phát; nâng cao uy tín và khả năng chuyển đổi của đồng
nội tệ; thương mại hóa các nguồn vốn tín dụng, nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống tín dụng, ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế phát
triển nhanh và bền vững.
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, chính sách tiền tệ cần tập trung vào:
- Điều hành khối lượng tiền cung ứng. Tổng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế cần được kiểm soát và điều hành có hiệu lực, bám sát
các tín hiệu thị trường để vừa đảm bảo cung ứng đủ phương tiện thanh
toán cho nhu cầu đầu tư tăng trưởng kinh tế, vừa không gây cầu quá mức
về hàng hóa kích thích tăng giá trong nước gây lạm phát.
- Đổi mới và nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống Ngân hàng,
của các Tổ chức tín dụng, hoàn thiện môi trường hoạt động của hệ thống
ngân hàng, kiện toàn cấu trúc hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng trung ương là cơ quan chức năng của Nhà nước trực tiếp
điều hành chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các công cụ như: tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, thị trường mở,… (xem thêm chương 9).
12.2.4. Chính sách tài chính doanh nghiệp
Chính sách tài chính doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng của
chính sách tài chính quốc gia. Phát triển doanh nghiệp sẽ tập hợp có hiệu
quả các nguồn lực phân tán nhưng rất to lớn trong xã hội để đầu tư cho
phát triển sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải cho xã hội. Trong phân bổ
nguồn lực tài chính, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước chủ yếu tập trung
vào đầu tư cho cơ sở hạ tầng, cho việc đáp ứng các nhu cầu công cộng
(cung cấp các hàng hóa dịch vụ công). Do vậy, đối với việc cung cấp

363
hàng hóa dịch vụ tư, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đảm
nhiệm. Các doanh nghiệp Nhà nước cũng bình đẳng với các thành phần
kinh tế khác trong huy động vốn, đầu tư và kinh doanh nói chung.
Mục tiêu của chính sách tài chính doanh nghiệp là:
- Giải phóng triệt để mọi nguồn lực, động viên toàn bộ nhân tài, vật
lực cho sản xuất kinh doanh, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp, tạo cơ sở vững chắc cho nền tài chính quốc gia.
- Lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, tiếp tục hoàn thiện cơ chế,
chính sách, luật pháp tài chính doanh nghiệp phù hợp với cơ chế thị
trường và thông lệ quốc tế.
- Duy trì vai trò chủ đạo của các Doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt
trong các ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời tạo môi trường và cơ hội
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển.
Giải pháp cho việc thực hiện các mục tiêu trên là: Nhà nước sử dụng
các công cụ ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về thuế để khuyến khích doanh
nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh không phân biệt quy mô kinh
doanh hay thành phần kinh tế; khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ
sản xuất kinh doanh; hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng cho mọi doanh nghiệp.
12.2.5. Chính sách giám sát tài chính - tiền tệ
Chính sách giám sát tài chính tiền tệ là một bộ phận quan trọng của
chính sách tài chính quốc gia. Hệ thống giám sát tài chính đồng bộ và
hiệu quả sẽ đảm bảo cho các nguồn lực tài chính được huy động, phân
phối và sử dụng theo đúng các mục tiêu đề ra. Ngoài ra, hệ thống giám
sát tài chính tiền tệ còn có khả năng phân tích, đánh giá, cảnh báo trung
thực mức độ rủi ro của toàn hệ thống tài chính và từng phân đoạn trong
hệ thống tài chính, qua đó có các biện pháp kịp thời điều chỉnh, ngăn
ngừa rủi ro và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Mục tiêu của chính sách giám sát tài chính tiền tệ là:
- Xây dựng một hệ thống giám sát tài chính đảm nhiệm chức năng
giám sát trong quản lý tài chính - tiền tệ của Nhà nước, tuân thủ pháp luật

364
về tài chính - tiền tệ; ngăn ngừa các nguy cơ và đảm bảo an ninh tài
chính - tiền tệ; góp phần nâng cao các hoạt động sản xuất kinh doanh; đề
xuất các giải pháp, yêu cầu về tuân thủ các quy định của pháp luật, đề
xuất sửa đổi những quy định không còn phù hợp, gây khó khăn cho phát
triển sản xuất kinh doanh.
- Giám sát tài chính phải đạt các yêu cầu: chặt chẽ, chính xác, thống
nhất, toàn diện; có tác dụng thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh
và nâng cao quản lý Nhà nước về kinh tế, tài chính, tiền tệ.
- Hệ thống giám sát tài chính phải rộng khắp, có chất lượng và uy tín
cao, kết hợp sự giám sát của Nhà nước với sự giám sát của các tổ chức
phi Nhà nước, của toàn thể nhân dân; chú trọng và tăng cường giám sát
nội bộ.
- Hệ thống tài chính được hình thành và phát triển phù hợp với các
nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế và thực tế của đất nước, có sự phối kết
hợp trong giám sát với các nước và các tổ chức quốc tế.
Giải pháp cho việc thực hiện các mục tiêu trên là tổ chức hệ thống
giám sát tài chính tiền tệ vĩ mô, giám sát hoạt động của các hệ thống
trung gian tài chính như: các tổ chức ngân hàng, các công ty tài chính,
các công ty bảo hiểm, các công ty chứng khoán, các công ty dịch vụ tài
chính, kế toán và kiểm toán, các công ty cho thuê tài chính, các quỹ đầu
tư,... Giám sát tài chính đối với các đơn vị sử dụng NSNN.
12.2.6. Chính sách phát triển thị trường tài chính và hội nhập tài
chính quốc tế
Ngày nay, phát triển nền kinh tế thị trường theo hướng mở cửa và
hội nhập quốc tế đã trở thành một xu hướng không thể cưỡng lại của các
quốc gia trên thế giới. Thị trường tài chính là một bộ phận thị trường
quan trọng bậc nhất có ảnh hưởng quyết định đến mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội, nơi xác lập các kênh dẫn vốn trong nền kinh tế theo quy
luật của thị trường. Vì vậy, chính sách phát triển thị trường tài chính là
một bộ phận quan trọng của chính sách tài chính quốc gia, đảm bảo tạo
môi trường cho việc thực hiện thành công các chính sách huy động, khai

365
thác và phát triển nguồn lực tài chính, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực tài chính,…
Trong xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa tài chính, việc phát triển thị
trường tài chính theo hướng mở cửa sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc
di chuyển các dòng vốn giữa các quốc gia, thông qua đó tối đa hóa lợi ích
của các chủ thể liên quan.
Mục tiêu của chính sách phát triển thị trường tài chính và hội nhập
tài chính quốc tế là:
- Xây dựng hệ thống thị trường tài chính đồng bộ, minh bạch, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, đảm bảo
sự phát triển lành mạnh, ổn định và bình đẳng giữa các chủ thể tham gia
thị trường.
- Phát triển mạnh thị trường vốn trung hạn và dài hạn, đẩy nhanh tốc
độ, hiệu quả luân chuyển, phân bổ các nguồn tài chính; đáp ứng yêu cầu
vốn cho đầu tư phát triển. Đồng thời phát triển mạnh thị trường dịch vụ
tài chính, thị trường dịch vụ khoa học kỹ thuật, thị trường bất động sản.
- Tự do hóa có trật tự các hoạt động trên thị trường tiền tệ và thị
trường vốn, mở cửa thị trường để có thể trao đổi và hội nhập được với hệ
thống tài chính - tiền tệ quốc tế và khu vực; khai thác tối đa những tác
động tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập, đảm
bảo an ninh tài chính trong tiến trình phát triển.
- Khai thác tối đa có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, nhất là
tiềm lực vốn đầu tư, thị trường, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản
lý, phục vụ đắc lực cho các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội.
- Xây dựng nền tài chính - tiền tệ độc lập, tự chủ, có sức mạnh thực
chất gắn liền với chủ động hội nhập quốc tế; tạo lập được môi trường tài
chính tiền tệ phù hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
- Giữ vững chủ quyền quốc gia và đảm bảo an ninh kinh tế tài chính.

366
12.3. NéI DUNG C¥ B¶N CñA CHIÕN L¦îC TµI CHÝNH VIÖT
NAM GIAI §O¹N 2011 - 2020
Thực hiện Chiến lược tài chính quốc gia 2001 - 2010 trong bối cảnh
nền kinh tế trong nước có những thay đổi sâu, rộng trên nhiều mặt, với
những chuyển biến sâu sắc trong quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu cơ bản. Trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới - WTO (2007), nền tài
chính quốc gia đã phải ứng phó với không ít khó khăn do các biến động
bất lợi của tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, đặc biệt là tác
động của cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008. Tuy vậy, sau 10 năm thực
hiện Chiến lược tài chính 2001 - 2010, có thể tổng kết thành tựu đã đạt
được qua các điểm cơ bản như sau: Hệ thống cơ chế, chính sách tài
chính được hoàn thiện phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và các điều kiện cụ thể của đất nước, từng bước tiệm
cận với thông lệ quốc tế; Tiềm lực tài chính quốc gia được tăng cường và
mở rộng; Các cân đối kinh tế - tài chính vĩ mô được duy trì ổn định; Việc
động viên, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính tiếp tục có những
chuyển biến tích cực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững, vượt qua khủng hoảng; Cải cách hành chính trong lĩnh vực tài
chính đã được đẩy mạnh theo hướng chuyên nghiệp, công khai, minh
bạch trên nhiều phương diện.
Những thành tựu nêu trên là tiền đề quan trọng cho việc xây dựng
chiến lược tài chính quốc gia giai đoạn 2011 - 2020.
Bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế là yếu tố quan trọng
hàng đầu chi phối chiến lược tài chính quốc gia. Hợp tác và phát triển
giữa các quốc gia trên thế giới sẽ là xu thế chủ đạo trong quan hệ kinh tế
quốc tế 10 năm tới. Toàn cầu hóa về thương mại, đầu tư tài chính và tiền
tệ sẽ diễn ra mạnh mẽ trên cả bề rộng và chiều sâu. Các chuẩn mực quốc
tế, nguyên tắc và luật chơi của các định chế quốc tế lớn sẽ trở thành nền
tảng chi phối sự vận động, phát triển của nền kinh tế thế giới. Cạnh tranh
giữa các quốc gia về vốn, nguồn lực và công nghệ cũng sẽ gay gắt hơn.
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới ở phạm vi khu vực

367
và toàn cầu trong hoạt động tài chính, thương mại và đầu tư ngày càng
gia tăng. Cùng với tự do hóa đầu tư và thương mại sẽ là quá trình quốc tế
hóa hệ thống tài chính - tiền tệ toàn cầu. Hệ thống chính sách tài chính
của các nước sẽ hướng tới việc hồi quy trong một hành lang chung, đồng
thời toàn cầu hóa sẽ làm giảm tính độc lập của mỗi quốc gia trong việc
thực hiện chính sách kinh tế nói chung và chính sách tài chính nói riêng.
Những biến động của kinh tế thế giới dự báo sẽ tiếp tục gây ra tác
động đa chiều đối với bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam, đặt ra nhiều
thách thức trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội nói chung và chiến lược tài chính nói riêng.
12.3.1. Quan điểm của Chiến lược tài chính Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020
Các quan điểm trong Chiến lược tài chính quốc gia giai đoạn 2011-
2020 là:
(1) Tài chính là huyết mạch của nền kinh tế, có vai trò quan trọng
trong việc định hướng, hỗ trợ và ổn định kinh tế - xã hội hướng tới tăng
trưởng nhanh và bền vững đi đôi với công bằng và tiến bộ xã hội.
Theo đó, tài chính phải thực hiện hiệu quả chức năng huy động và
phân phối các nguồn lực sản xuất trong xã hội, chuyển tải các nguồn lực
tài chính quốc gia để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, thực hiện các
chính sách xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng. Việc củng cố và lành
mạnh hóa hệ thống tài chính quốc gia nhằm huy động tối đa các nguồn
lực tài chính cho phát triển, thực hiện phân phối, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực tài chính phải được xem là yếu tố quyết định.
(2) Phát triển nền tài chính quốc gia theo hướng toàn diện, hiệu quả,
hợp lý và công bằng.
Khơi dậy và huy động đầy đủ, hiệu quả mọi nguồn lực cần thiết cho
các nhu cầu phát triển. Giải phóng triệt để các nguồn lực trong nước,
đồng thời thu hút tối đa và hiệu quả các nguồn lực ngoài nước cho phát
triển. Tiềm lực tài chính phải được giải phóng trên cả 3 cấp độ: tài chính
nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư, trong đó phải đặc
biệt coi trọng sự phát triển của tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư.

368
Chiến lược Tài chính 2011-2020 phải góp phần từng bước nâng cao
được chất lượng và hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính, nhất là
nguồn vốn nhà nước, phải xem đây là chìa khoá quan trọng trong việc
nâng cao năng suất sản xuất và sức cạnh tranh của toàn nền kinh tế.
Chính sách động viên và phân phối cần phải phù hợp, đảm bảo mối
quan hệ hài hoà giữa 3 chủ thể: Nhà nước, doanh nghiệp và dân cư. Cần
kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách tài chính với các mục tiêu,
chính sách xã hội; thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội trong từng
chính sách tài chính, phù hợp với trình độ và điều kiện cụ thể của Việt
Nam.
(3) Quản lý tài chính bằng pháp luật, đảm bảo tính thống nhất, minh
bạch, kỷ cương, kỷ luật tài chính và hiện đại hoá nền tài chính quốc gia.
Thực hiện quản lý tài chính bằng pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát tài chính đối với nền kinh tế, đảm bảo tính thống nhất của
nền tài chính quốc gia; ngăn ngừa lãng phí, chống tham nhũng, thất thoát
vốn và tài sản nhà nước; thực hiện các quy định về công khai, minh bạch,
được kiểm toán, giám sát, đảm bảo an ninh và an toàn tài chính quốc gia.
12.3.2. Mục tiêu
Về mục tiêu tổng quát, đến năm 2020, cần xây dựng được hệ thống
tài chính hiện đại, hợp lý về cơ cấu; huy động, phân bổ và sử dụng các
nguồn lực tài chính trong xã hội hiệu quả, công bằng và phù hợp với thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền tài
chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh tài chính, ổn định
tài chính - tiền tệ, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững, hỗ trợ tốt nhất cho việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để thực hiện được mục tiêu tổng quát này, các mục tiêu cụ thể của
Chiến lược tài chính là:
(1) Xử lý tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tiết kiệm
và đầu tư; tiếp tục có chính sách khuyến khích tăng tích lũy cho đầu tư
phát triển, hướng dẫn tiêu dùng; thu hút hợp lý các nguồn lực xã hội để

369
tập trung đầu tư cho hạ tầng kinh tế - xã hội, giải quyết các điểm nghẽn
của phát triển, tạo tiền đề để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, góp phần đưa nhịp độ tăng trưởng GDP
thời kỳ 2011 - 2020 bình quân hàng năm đạt 7 - 8%; duy trì tổng đầu tư
toàn xã hội bình quân khoảng 38 - 40% GDP, giai đoạn 2011-2015
khoảng 40% GDP, giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 38% GDP.
(2) Tỷ lệ động viên từ nền kinh tế vào NSNN ở mức hợp lý. Tổng
thu cân đối NSNN đạt 22 - 24% GDP (giai đoạn 2011 - 2015 đạt 23 - 24%,
giai đoạn 2016 - 2020 đạt 22 - 23%) , trong đó thu nội địa (không kể thu từ
dầu thô) đến năm 2015 đạt trên 70% tổng thu NSNN và đến năm 2020 đạt
trên 80% tổng thu NSNN. Tổng thu từ thuế và phí giai đoạn 2011 - 2015 là
22 - 23% GDP, giai đoạn 2016 - 2020 là 21 - 22% GDP.
(3) Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính công, đặc
biệt nguồn vốn từ NSNN; tiếp tục cơ cấu lại chi NSNN; tăng cường đầu
tư phát triển con người, cải cách cơ chế tài chính đối với lĩnh vực giáo
dục, y tế; cải cách tiền lương; từng bước xây dựng và củng cố hệ thống
an sinh xã hội.
(4) Phát triển đồng bộ các loại thị trường, tái cấu trúc thị trường tài
chính và dịch vụ tài chính; mở rộng và đa dạng hóa các hình thức hoạt
động trên thị trường để động viên các nguồn lực trong và ngoài nước cho
phát triển kinh tế - xã hội.
(5) Đảm bảo an ninh, an toàn tài chính quốc gia; cân đối ngân sách
tích cực, giảm dần tỷ lệ bội chi NSNN; duy trì dư nợ Chính phủ và nợ
quốc gia trong giới hạn an toàn; tăng cường dự trữ Nhà nước đáp ứng kịp
thời các nhu cầu đột xuất của nền kinh tế. Phấn đấu giảm mức bội chi
NSNN xuống 4,5% GDP vào năm 2015 và giai đoạn 2016 - 2020 xuống
khoảng 4% GDP; nợ công (bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ
bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương) không quá 65% GDP; nợ
nước ngoài quốc gia không quá 50% GDP; nợ Chính phủ đến 2015
không quá 55% GDP và đến 2020 không quá 50% GDP. Tăng cường
hiệu quả, hiệu lực của dự trữ quốc gia với cơ cấu mặt hàng đảm bảo đáp
ứng kịp thời các nhu cầu đột xuất và cấp bách của Nhà nước. Phấn đấu

370
đến 2015 tổng mức dự trữ nhà nước đạt 0,8 - 1% GDP và đến năm 2020
đạt khoảng 1,5% GDP.
(6) Tiếp tục hoàn thiện thể chế tài chính đảm bảo tính đồng bộ, ổn
định theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đổi mới tổ
chức bộ máy ngành Tài chính theo hướng hiện đại, hiệu lực và hiệu quả.
12.3.3. Định hướng chiến lược tài chính quốc gia giai đoạn 2011 -
2020
Thực hiện tái cơ cấu nền tài chính quốc gia trên cả ba mặt: tài chính
nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư nhằm hỗ trợ cho
quá trình chuyển đổi của nền kinh tế đạt đến giai đoạn phát triển cao hơn;
tập trung xác định rõ vị trí, vai trò, phạm vi, phương thức hoạt động của
tài chính nhà nước trong nền kinh tế, tạo động cơ, động lực đúng đắn cho
khu vực kinh tế nhà nước và môi trường đầu tư thực sự bình đẳng cho
mọi chủ thể trong nền kinh tế.
Hoàn thiện thể chế tài chính theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với trọng tâm là nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng
các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế - xã hội. Gắn kết chặt chẽ
tài chính với kinh tế - xã hội trên cơ sở thiết lập và vận hành khung chi
tiêu trung hạn trong toàn bộ nền kinh tế; tiến tới xoá bỏ cơ bản tình trạng
phân bổ nguồn lực dàn trải, thiếu tính chiến lược; thực hiện kế hoạch hoá
nền kinh tế trong trung hạn, tăng cường khả năng điều tiết nền kinh tế
trước các biến động kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá sâu rộng.
Với tinh thần đó, tài chính Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 cần phát
triển theo những định hướng chủ yếu sau:
- Giải phóng và huy động hiệu quả mọi nguồn lực tài chính phục vụ
cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; động viên hợp lý các
nguồn thu NSNN trên cơ sở tiếp tục thực hiện cải cách hệ thống thuế, phí
phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế và thông lệ quốc tế,
đồng thời thu hút có hiệu quả, đa dạng hoá các nguồn lực trong xã hội để
đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển dịch vụ công.
- Xây dựng chính sách phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài
chính trên cơ sở gắn với quá trình tái cơ cấu nền tài chính quốc gia và các

371
định hướng phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng đến việc nâng cao hiệu
quả đầu tư theo ngành, vùng, miền; có cơ chế, chính sách phân phối hợp
lý, đảm bảo cho mọi đối tượng xã hội, người nghèo được hưởng các dịch
vụ phúc lợi cơ bản.
- Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước
trong việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là nâng cấp kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, đảm bảo vốn cho các công trình trọng điểm quốc
gia và các mục tiêu, nhiệm vụ ưu tiên của chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội. Dịch chuyển dần nguồn lực nhà nước đầu tư cho con người, phát
triển mạnh mẽ sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hoá, tinh thần của nhân dân,
coi đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển.
- Tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý, sử dụng nguồn lực NSNN,
gắn với mục tiêu đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội, giảm
nghèo bền vững và các yêu cầu về quản lý nhà nước, đảm bảo quốc
phòng, an ninh.
- Đẩy mạnh cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp, coi đây là
nhiệm vụ trọng tâm trong việc đổi mới thể chế tài chính giai đoạn tới.
Phát triển mạng lưới an sinh xã hội trên cơ sở kết hợp hài hoà và hiệu
quả nguồn lực nhà nước và nguồn lực xã hội.
- Tiếp tục đổi mới chính sách, cơ chế tài chính DN theo hướng bình
đẳng, ổn định, minh bạch, thông thoáng nhằm giải phóng, phát triển
mạnh sức sản xuất của các DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Khuyến
khích và tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Đẩy mạnh quá trình đổi mới và cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp, các
tổng công ty nhà nước.
- Tiếp tục hoàn thiện cấu trúc của thị trường tài chính, thị trường
dịch vụ tài chính, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả,
để động viên tối đa các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước cho phát
triển kinh tế - xã hội. Tăng cường năng lực hoạt động của các tổ chức tham
gia thị trường tài chính và dịch vụ tài chính. Nâng cao hiệu quả giám sát
của Nhà nước đối với thị trường tài chính và các dịch vụ tài chính.

372
- Chủ động đề xuất các chương trình sáng kiến để nâng cao tiếng nói
và vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn hợp tác tài chính quốc tế. Tăng
cường hợp tác tài chính để từng bước tiếp cận với thị trường tài chính
tiên tiến, vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển hệ thống tài
chính trong nước. Tuân thủ hợp lý với các cam kết đã đưa ra trong hội
nhập quốc tế, đồng thời theo dõi các tác động để kịp thời phân tích và đề
xuất giải pháp phù hợp với các quy định quốc tế.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả thanh tra, kiểm tra, giám sát tài
chính, đảm bảo sử dụng tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát các nguồn
lực tài chính, tài sản quốc gia, ổn định thị trường, an ninh tài chính quốc
gia. Quản lý giá theo cơ chế thị trường có sự kiểm soát, quản lý của Nhà
nước, chống độc quyền, chống chuyển giá. Nâng cao khả năng giám sát
đối với khu vực doanh nghiệp nhằm giảm thiểu rủi ro cho toàn hệ thống.
Tăng cường công tác giám sát, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn về nợ và
an ninh tài chính quốc gia.
- Cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đảm bảo hoạt động
tài chính thông suốt, chất lượng và hiệu quả, xem đây là khâu đột phá
quan trọng của Chiến lược. Đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính; rút gọn và công khai
hoá qui trình, thủ tục hành chính theo hướng bình đẳng, thông thoáng,
thống nhất, minh bạch, hiện đại, hợp lý, khả thi, phù hợp với điều kiện và
trình độ phát triển của Việt Nam và tiến trình hội nhập quốc tế.
Thực hiện hiện đại hóa nền tài chính quốc gia thông qua việc đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là đối với vấn đề quản lý dữ
liệu tài chính, kiểm soát thu - chi NSNN, quản lý nợ công và quản lý tài
sản công. Củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý tài chính, đảm
bảo sự điều hành thống nhất và quản lý chặt chẽ nền tài chính quốc gia.
- Hoàn thiện thể chế tài chính, phương thức và cách thức điều hành
chính sách tài chính, tiền tệ theo hướng đồng bộ, thống nhất, ổn định và
minh bạch, phù hợp với quá trình chuyển đổi nền kinh tế và tái cấu trúc
nền tài chính quốc gia. Nâng cao năng lực phối hợp trong xây dựng và
thực hiện chính sách tài chính và các chính sách kinh tế vĩ mô khác của

373
Chính phủ, đảm bảo sự đồng bộ, nhất quán, nhất là giữa chính sách tài
chính và tiền tệ.
12.3.4. Các giải pháp chiến lược tài chính quốc gia giai đoạn
2011 - 2020
(1) Giải phóng và huy động hiệu quả mọi nguồn lực tài chính phục
vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
- Hoàn thiện thể chế tài chính, tạo lập môi trường thuận lợi nhằm thu
hút hiệu quả, kịp thời các nguồn tài chính trong và ngoài nước. Cơ cấu lại
nền kinh tế, tăng sức hấp dẫn của môi trường kinh tế vĩ mô thông qua
việc cam kết duy trì ổn định các cân đối kinh tế, tài chính vĩ mô một cách
rõ ràng và nhất quán. Tiếp tục rà soát, đồng bộ hóa và tháo gỡ các vướng
mắc về cơ chế, chính sách tài chính để khuyến khích các thành phần kinh
tế sản xuất kinh doanh. Hoàn thiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp
đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới, hoặc phát triển sản
phẩm mới, thị trường mới. Tiếp tục mở cửa thị trường tài chính một cách
thận trọng, phù hợp với cam kết quốc tế, chủ động tham gia thị trường tài
chính quốc tế.
- Động viên hợp lý các nguồn thu NSNN trên cơ sở tiếp tục thực
hiện cải cách hệ thống thuế, phí, chính sách thu đối với đất đai, tài
nguyên phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế và thông lệ
quốc tế. Hoàn thiện hệ thống chính sách thu đi đôi với cơ cấu lại thu
NSNN theo hướng giảm dần sự lệ thuộc vào những khoản thu không
thường xuyên, đảm bảo cơ cấu cân đối giữa thuế gián thu và thuế trực
thu. Đơn giản hóa hệ thống chính sách ưu đãi thuế, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý thuế, chống thất thoát gian lận thuế. Nghiên cứu ban
hành Luật phí, lệ phí thay cho Pháp lệnh phí, lệ phí. Hoàn thiện hệ thống
chính sách tài chính khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên, khuyến
khích chế biến sâu trong nước, hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô.
- Thu hút có hiệu quả, đa dạng hóa các nguồn lực trong xã hội để
đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển dịch vụ công. Hoàn
thiện cơ chế, chính sách tài chính để khuyến khích mọi thành phần kinh

374
tế đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển từ nhà nước trực tiếp đầu tư
sang các doanh nghiệp đầu tư theo quy hoạch tổng thể. Tiếp tục hoàn
thiện cơ chế, chính sách tài chính khuyến khích việc huy động các nguồn
lực trong xã hội cho đầu tư phát triển các sự nghiệp công, để các cơ sở
công lập hợp tác, liên kết với địa phương, doanh nghiệp, cá nhân trong
việc xây dựng cơ sở vật chất. Đa dạng hóa đối tượng cung ứng các loại
hình dịch vụ công, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong
việc cung cấp dịch vụ. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách tài chính ưu
đãi đối với các đơn vị xã hội hóa cung cấp dịch vụ công, đơn giản hóa
các thủ tục hành chính trong giải quyết các chính sách ưu đãi.
(2) Xây dựng chính sách phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực
tài chính trên cơ sở gắn với các định hướng phát triển kinh tế - xã hội
và quá trình tái cơ cấu nền tài chính quốc gia
- Hoàn thiện chính sách phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực
tài chính. Thiết lập cơ chế, chính sách tài chính thích hợp để hướng
nguồn lực xã hội vào các ngành, các lĩnh vực, các vùng có lợi thế so
sánh, có tiềm năng tăng giá trị gia tăng. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp
sang các ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, nhằm tạo sức bật
cho sự phát triển của toàn nền kinh tế. Tập trung nguồn lực đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp, nông thôn, từng bước đưa nông nghiệp thành sản xuất
hàng hóa lớn, hình thành liên kết nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ
trên từng địa bàn và trên cả nước.
- Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước
trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung vốn nhà nước phát triển
cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật thiết yếu, những lĩnh vực mà khu vực tư
nhân không sẵn sàng tham gia hoặc không có điều kiện để tham gia. Đẩy
mạnh phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng cho các địa phương, tạo cơ
chế cho địa phương trong thu hút các nguồn lực cho phát triển phù hợp
với quy hoạch, năng lực của từng địa phương. Phát huy vai trò định
hướng của đầu tư nhà nước để thu hút nguồn vốn đầu tư của xã hội. Đổi
mới cơ cấu chi đầu tư NSNN theo hướng gắn chặt với nhiệm vụ phát

375
triển kinh tế - xã hội, phân phối, sử dụng hiệu quả, đảm bảo quốc phòng,
an ninh, thực hiện đúng cam kết về nghĩa vụ trả nợ. Tập trung hướng các
nguồn lực tài chính nhà nước và thu hút các nguồn vốn ngoài nhà nước
để đầu tư cho khoa học công nghệ và môi trường, ưu tiên đầu tư cơ sở
vật chất cho giáo dục đào tạo, y tế. Đổi mới phương thức phát triển tín
dụng nhà nước theo nguyên tắc thương mại nhằm đảm bảo tính bền vững
của thể chế tín dụng nhà nước, tăng cường quản lý cho vay lại từ nguồn
vay nước ngoài của Chính phủ.
- Phát triển mạng lưới an sinh xã hội trên cơ sở kết hợp hài hòa và
hiệu quả nguồn lực tài chính nhà nước và nguồn lực xã hội. Tiếp tục tăng
chi từ NSNN để thực hiện các chính sách an sinh xã hội, thực hiện công
bằng xã hội. Nâng cao hiệu quả đầu tư cho các chương trình mục tiêu
quốc gia về xóa đói, giảm nghèo, đa dạng hóa các nguồn lực và phương
thức phát triển hệ thống bảo trợ xã hội, tăng nguồn vốn cho giảm nghèo,
đảm bảo giảm nghèo bền vững. Nâng cao tính bền vững, công bằng và
hiệu quả của hệ thống bảo hiểm xã hội, hoàn thiện cơ chế và mô hình tài
chính hướng đến sự ổn định dài hạn cho quỹ bảo hiểm xã hội và công
bằng giữa các đối tượng tham gia theo nguyên tắc đóng - hưởng. Đa dạng
hóa hình thức đầu tư quỹ BHXH, thực hiện có lộ trình cơ chế cho phép
tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ BHXH.
- Nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, sử dụng nguồn lực NSNN.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp tài chính, công tác lập và phân bổ dự
toán NSNN, nghiên cứu xây dựng cơ chế mới về phương thức lập dự
toán và phân bổ dự toán NSNN gắn với kết quả và hiệu quả công việc.
Hoàn thiện khung pháp lý để xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn, kế
hoạch chi tiêu trung hạn, đổi mới kế hoạch đầu tư nhiều năm, coi kế
hoạch chi đầu tư là một phần của kế hoạch tài chính - ngân sách trung
hạn, đảm bảo chi đầu tư công được giới hạn trong khả năng nguồn lực và
thống nhất với các chính sách của Chính phủ. Đề cao trách nhiệm giám
sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với các dự án đầu tư, tăng
cường giám sát cộng đồng.

376
- Thực hiện quản lý giá theo cơ chế thị trường có sự kiểm soát của
Nhà nước, tiếp tục thực hiện nhất quán cơ chế quản lý giá theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Phấn đấu đến năm 2013 thực hiện cơ
chế giá thị trường hoàn toàn đối với các mặt hàng Nhà nước định giá,
gắn với tăng cường kiểm soát chi phí sản xuất hàng hóa dịch vụ độc
quyền, sản phẩm công ích. Xây dựng Luật Giá để quản lý và điều hành
giá thông qua Luật. Thực hiện quản lý điều hành giá cả và bình ổn giá
bằng các biện pháp gián tiếp theo cơ chế thị trường và phù hợp với các
cam kết quốc tế.
- Tiếp tục thực hiện cải cách chế độ tiền lương công chức, viên chức.
Cải cách cơ bản chế độ tiền lương theo hướng tiền lương công chức, viên
chức phải gắn với kết quả lao động, đưa tiền lương trở thành nguồn thu
nhập chính, đảm bảo cuộc sống của công chức, viên chức. Tiền lương
phải có vai trò thu hút lực lượng lao động có trình độ cao, khuyến khích
làm việc hiệu quả gắn với trách nhiệm công vụ.
- Hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý tài sản công, đảm bảo sử
dụng tiết kiệm, hiệu quả tài sản quốc gia. Tiếp tục đổi mới chính sách tài
chính về quản lý sử dụng đất đai và các nguồn tài nguyên quốc gia theo
cơ chế thị trường, đảm bảo quản lý và khai thác hiệu quả tài sản quốc gia
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục triển khai thực hiện Luật
Quản lý tài sản Nhà nước, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn định mức sử
dụng tài sản nhà nước phù hợp với điều kiện mới, đảm bảo hiệu quả, tiết
kiệm, chống lãng phí. Tách bạch cơ chế quản lý tài sản công khu vực
hành chính và sự nghiệp, thực hiện giao quyền tự chủ gắn với trách
nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp trong việc mua sắm, sử dụng và thanh lý
tài sản công, từng bước chuyển các đơn vị sự nghiệp sang hoạt động theo
mô hình doanh nghiệp.
- Tăng cường tiềm lực và hiệu quả quản lý dự trữ nhà nước. Xây
dựng Luật Dự trữ quốc gia và tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật
về dự trữ nhà nước đồng bộ phù hợp với yêu cầu, điều kiện và tình hình
nhiệm vụ mới. Tăng cường lực lượng dự trữ nhà nước có cơ cấu danh
mục mặt hàng hợp lý, phù hợp. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chất
lượng, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật.

377
(3) Hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính doanh nghiệp, tiếp tục
thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước.
- Tiếp tục đổi mới chính sách, cơ chế tài chính doanh nghiệp. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật tài chính đối với doanh nghiệp trên cơ sở tôn
trọng quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, ổn
định, minh bạch, thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh, hạn chế độc quyền
trong kinh doanh. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách tài chính, tín dụng,
chế độ kế toán, kiểm toán, báo cáo tài chính, chế độ kê khai, nộp thuế.
Thực hiện chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn đối với
một số ngành, một số sản phẩm quan trọng, thiết yếu và một số địa bàn
trên cơ sở phù hợp với các cam kết quốc tế.
- Hoàn thiện chính sách tài chính cho quá trình sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp nhà nước, thực hiện cổ phần hóa theo nguyên tắc thị
trường, có chính sách thu hút và lựa chọn nhà đầu tư chiến lược phù hợp
với từng doanh nghiệp, kiên quyết thực hiện giải thể, phá sản những
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các tập đoàn, tổng công
ty nhà nước. Xây dựng các tập đoàn nhà nước mạnh về tiềm lực tài
chính, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và có vai trò dẫn dắt nền kinh
tế, có ảnh hưởng lớn tới cộng đồng. Thiết lập và tăng cường kiểm tra,
giám sát về tài chính đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, thực
hiện nghiêm túc việc kiểm toán bắt buộc đối với các tập đoàn, tổng công
ty nhà nước. Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các doanh
nghiệp, tăng cường thực hiện chức năng giám sát của chủ sở hữu nhà
nước đối với doanh nghiệp có vốn của nhà nước.
(4) Phát triển đồng bộ thị trường tài chính và dịch vụ tài chính
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với thị trường tài chính
và dịch vụ tài chính, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các thị trường tài
chính theo chiều sâu trên cơ sở đa dạng hóa các định chế tài chính và
hàng hóa trên thị trường. Có cơ chế, chính sách giám sát hiệu quả hoạt
động của thị trường tài chính và dịch vụ tài chính trên nguyên tắc tôn

378
trọng các quy luật của thị trường, hạn chế can thiệp hành chính, đảm bảo
tính đồng bộ, thống nhất, minh bạch, ổn định và phù hợp với thông lệ
quốc tế. Triển khai thực hiện Luật sửa đổi bổ sung Luật Kinh doanh bảo
hiểm để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các cam kết trong khuôn khổ
WTO về dịch vụ bảo hiểm. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý về kế toán, kiểm toán đầy đủ, đồng bộ, thống nhất phù hợp với
các chuẩn mực, thông lệ quốc tế.
- Tiếp tục hoàn thiện cấu trúc của thị trường chứng khoán, cơ cấu lại
thị trường chứng khoán đảm bảo sự phát triển đồng bộ, cân đối giữa thị
trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ phái sinh.
Xây dựng và triển khai hoạt động công bố thông tin cho các công ty đại
chúng theo chuẩn mực quốc tế, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc
tế về quản trị công ty, quản trị rủi ro và bảo vệ nhà đầu tư thiểu số, chuẩn
hóa các quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng.
- Phát triển đồng bộ thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán, định mức
tín nhiệm, tư vấn thẩm định giá, tư vấn thuế, đại lý hải quan.
- Tăng cường năng lực hoạt động của các tổ chức tham gia thị
trường tài chính và dịch vụ tài chính. Hình thành và phát triển các tổ
chức định giá hệ số tín nhiệm, tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả
hoạt động, vai trò của các Hiệp hội nghề nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ
tài chính, kế toán, kiểm toán, thuế và hải quan.
(5) Đẩy mạnh hoạt động hợp tác và chủ động hội nhập quốc tế về
tài chính
- Tích cực mở rộng quan hệ hợp tác tài chính, chủ động đề xuất và
tích cực tham gia các chương trình hợp tác quốc tế để nâng cao tiếng nói
và vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế. Tăng cường hợp tác tài
chính, từng bước tiếp cận với thị trường tài chính tiên tiến, vận dụng vào
công cuộc xây dựng và phát triển hệ thống tài chính trong nước.
- Củng cố và tăng cường hội nhập quốc tế về tài chính, thực hiện
điều chỉnh và xây dựng cơ chế chính sách tài chính phù hợp với các quy
định và cam kết trong khuôn khổ đa biên, khu vực. Chủ động xây dựng

379
chính sách hội nhập tài chính thận trọng, nhất quán, tăng cường theo dõi,
giám sát quá trình hội nhập.
(6) Nâng cao năng lực và hiệu quả kiểm tra, thanh tra, giám sát và
đảm bảo an ninh tài chính quốc gia
- Tăng cường năng lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra chuyên
ngành tài chính. Nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của công tác
kiểm tra, thanh tra tài chính trong tất cả các lĩnh vực, tăng cường hiệu lực
của hệ thống giám sát nội bộ, vai trò của công tác giám sát từ xa. Hoàn
thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
thanh tra, giám sát tài chính với các cơ quan chức năng trong việc xử lý
các vấn đề tài chính phát sinh.
- Nâng cao kỷ luật tài chính, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí,
thất thoát các nguồn lực tài chính, tài sản quốc gia. Hoàn thiện và thực
hiện hệ thống định mức tiêu chuẩn, chế độ để làm cơ sở cho việc thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và công chức, viên chức trong việc
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
- Nâng cao khả năng giám sát đối với khu vực doanh nghiêp. Xây
dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực phù hợp với thông lệ quốc tế về
quản trị doanh nghiệp, hoàn thiện theo lộ trình các cơ chế và hệ thống
tiêu chí giám sát tài chính doanh nghiệp. Xây dựng và tạo lập cơ sở dữ
liệu thống nhất về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi loại
hình doanh nghiệp, công khai các thông tin cơ bản về doanh nghiệp theo
luật định nhằm tạo điều kiện cho xã hội giám sát.
- Tăng cường công tác giám sát, quản lý rủi ro và đảm bảo an toàn
về nợ quốc gia. Tổ chức thi hành và đánh giá việc thi hành Luật quản lý
nợ công, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có liên quan và các đơn
vị sử dụng vốn từ các khoản nợ công. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt
các công cụ quản lý nợ, đặc biệt là chiến lược nợ, chương trình quản lý
nợ trung hạn nước ngoài. Tiếp tục duy trì các chỉ số nợ ở mức an toàn
theo các chỉ tiêu quy định và phù hợp với thông lệ quốc tế, chú trọng
công tác quản lý rủi ro đối với danh mục nợ.

380
- Nâng cao hiệu quả giám sát của Nhà nước đối với thị trường tài
chính và dịch vụ tài chính. Hoàn thiện cơ chế giám sát và áp dụng các
tiêu chí, chuẩn mực giám sát thị trường chứng khoán, thị trường bảo
hiểm, thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán. Kiện toàn tổ chức và nâng
cao năng lực tổ chức giám sát tài chính, phát triển và ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý và giám sát, tăng cường hợp tác, trao đổi
thông tin giữa các cơ quan giám sát tài chính, hình thành hệ thống giám
sát quốc gia toàn diện, hiệu lực và hiệu quả
- Nâng cao năng lực giám sát tài chính vĩ mô. Đổi mới phương thức
và cách thức giám sát tài chính vĩ mô thông qua việc thiết lập hệ thống
cảnh báo sớm về tài chính - tiền tệ, kịp thời cảnh báo những nguy cơ làm
mất an ninh trong hệ thống tài chính trên cả ba cấp độ: quốc gia, ngành
và doanh nghiệp. Hoàn thiện cơ sở thông tin dữ liệu và hệ thống hóa các
chỉ tiêu thu thập thông tin, phân tích và xử lý các dữ liệu kinh tế - tài
chính vĩ mô. Xây dựng và ứng dụng các mô hình phân tích và dự báo
kinh tế - tài chính vĩ mô, chú trọng công tác nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực giám sát kinh tế vĩ mô.
(7) Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đảm
bảo hoạt động tài chính thông suốt, chất lượng và hiệu quả.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủ tục hành chính trong
lĩnh vực tài chính. Đồng bộ hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính, đơn giản hóa và công khai
hóa quy trình thủ tục hành chính theo hướng bình đẳng, minh bạch, khả
thi, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của Việt Nam và tiến
trình hội nhập quốc tế.
- Thực hiện hiện đại hóa nền tài chính quốc gia thông qua việc đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Xây dựng cơ sở dữ liệu tài chính
quốc gia và xây dựng các cơ sở dữ liệu chuyên ngành, thiết lập hệ thống
thông tin quản lý và tăng cường khai thác hiệu quả hệ thống thông tin
phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành. Hoàn thành việc xây dựng nền tảng
công nghệ cung cấp dịch vụ công điện tử ngành tài chính.

381
- Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý tài chính, đảm bảo sự điều hành
thống nhất và quản lý chặt chẽ nền tài chính quốc gia. Thực hiện phân
cấp quản lý giữa trung ương và địa phương đảm bảo nguyên tắc thống
nhất nền tài chính quốc gia.
- Phát triển nguồn nhân lực ngành tài chính, chuẩn hóa và phát triển
công chức, viên chức ngành tài chính đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
đặt ra trong quá trình chuyển đổi của nền kinh tế.
(8) Hoàn thiện phương thức điều hành chính sách tài chính theo
hướng chủ đạo đảm bảo các cân đối tài chính vĩ mô theo từng giai đoạn
phát triển. Nghiên cứu, triển khai áp dụng phương thức điều hành ngân
sách theo chu kỳ kinh tế (trung hạn), hỗ trợ tối đa cho mục đích tăng
trưởng nhanh và bền vững trong khi vẫn đảm bảo các cân đối tài chính vĩ
mô trong cả chu kỳ. Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện, đánh giá tác
động và dự báo chính sách tài chính, đẩy mạnh công tác tuyên truyền
thông tin chính sách, hình thành hệ thống thu nhận thông tin phản hồi về
các chính sách, cơ chế tài chính từ người dân và doanh nghiệp để khắc
phục kịp thời những bất cập, hạn chế được phát hiện qua quá trình tổ
chức thực hiện chính sách.

C¢U HáI ¤N TËP

1. Chính sách tài chính quốc gia là gì? Những đặc trưng chủ yếu của
chính sách tài chính quốc gia?
2. Mục tiêu cơ bản của chính sách tài chính quốc gia?
3. Nội dung cơ bản của chính sách tài chính quốc gia?
4. Nội dung cơ bản của Chiến lược tài chính quốc gia Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2020?

382
DANH MôC TµI LIÖU THAM KH¶O

1. PGS.TS Dương Đăng Chinh, Giáo trình Lý thuyết tài chính, Nhà
xuất bản Tài chính, 2005.
2. TS. Phạm Ngọc Dũng, Những vấn đề cơ bản về lí thuyết tài chính,
Học viện tài chính, 2005.
3. PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn, Tiền tệ Ngân hàng, NXB Thống kê, 2005.
4. GS.TS. Vũ Văn Hóa; PGS.TS. Đinh Xuân Hạng, Giáo trình Lý
thuyết Tiền tệ, Nhà xuất bản Tài chính, 2007.
5. PTS Nguyễn Ngọc Hùng, Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ, Trường
Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia TPHCM, 1998.
6. PGS.TS Nguyễn Thị Phương Liên, Giáo trình Tiền tệ - Ngân
hàng, NXB Thống kê, 2008.
7. GS.TS Dương Thị Bình Minh, Giáo trình Lý thuyết Tài chính -
Tiền tệ, NXB Giáo Dục, 2001.
8. PGS.TS Nguyễn Thị Mùi, Giáo trình Lý thuyết Tiền tệ và ngân
hàng, NXB Xây dựng.
9. TS. Lê Thị Kim Nhung, Giáo trình Tài chính công, NXB Thống
kê, 2010.
10. PGS.TS. Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình Lý thuyết Tài chính - Tiền
tệ, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2009.
11. PGS. TS Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình Lý thuyết Tài chính - Tiền
tệ, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2005.
12. PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình Tài chính - Tiền tệ Ngân
hàng, NXB Thống kê, 2009.
13. PGS.TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng, Nhập môn Tài
chính - Tiền tệ, NXB Đại học Quốc gia TP. HCM, 2006.
14. PGS.TS Đinh Văn Sơn, Giáo trình Lý thuyết Tài chính tiền tệ,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.

383
15. K. Mark, Góp phần phê phán chính trị kinh tế học, NXB Sự thật
Hà Nội.
16. K.Mark, Tư bản, Quyển 1 - Tập 1 - NXB Sự thật Hà Nội.
17. Frederic S.Mishkin, Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính,
NXB Khoa học và kỹ thuật, 1995.
18. P.A.Samuelson, Kinh tế học I , Viện Quan hệ quốc tế.
19. Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14, ban hành theo Quyết định
số 149/2001/QĐ-BTC.
20. Luật Bảo hiểm xã hội 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
21. Luật các tổ chức tín dụng 2010 và các văn bản hướng dẫn thi
hành.
22. Luật chứng khoán 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
23. Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành mới, NXB
Lao động, 2000.
24. Anthony Saunders and Marcia Millon Cornett, Financial
Institutions Management, McGraw Hill, Fifth Edition, 2006.
25. Frederic S. Mishkin, The economic of money, banking &
Financial markets, Addison Wesley, 2004.
26. Gary Smith, D.C.: Mone, Banking and Financial Intermediation,
Health and Company, 1991.
27. Martin Shubik, The Theory of Money and Financial Institutions,
The MIT Press, 2004.
28. Ross, Westerfield and Jordan, Fundamentals of Corporate
Finance, McGraw Hill, 2003.

384
MôC LôC

Trang

LêI NãI §ÇU 3

Ch­¬ng 1. NH÷NG VÊN §Ò C¥ B¶N VÒ TµI CHÝNH 5

1.1. QU¸ TR×NH H×NH THµNH Vµ PH¸T TRIÓN CñA TµI CHÝNH 5
1.2. B¶N CHÊT CñA TµI CHÝNH 8
1.2.1. Néi dung vµ ®Æc tr­ng cña c¸c quan hÖ tµi chÝnh 8
1.2.2. B¶n chÊt cña tµi chÝnh 11
1.3. CHøC N¡NG CñA TµI CHÝNH 14
1.3.1. Chøc n¨ng ph©n phèi 14
1.3.2. Chøc n¨ng gi¸m ®èc 18
1.4. HÖ THèNG TµI CHÝNH 21
1.4.1. Kh¸i niÖm 21
1.4.2. CÊu tróc cña hÖ thèng tµi chÝnh 22

Ch­¬ng 2. NH÷NG VÊN §Ò C¥ B¶N VÒ TIÒN TÖ 31

2.1. LÞCH Sö RA §êI Vµ PH¸T TRIÓN CñA TIÒN TÖ 31


2.1.1. Nguån gèc ra ®êi vµ kh¸i niÖm tiÒn tÖ 31
2.1.2. C¸c h×nh th¸i tiÒn tÖ 35
2.2. CHøC N¡NG Vµ VAI TRß CñA TIÒN TÖ 41
2.2.1. Chøc n¨ng cña tiÒn tÖ 41
2.2.2. Vai trß cña tiÒn tÖ 47
2.3. C¸C CHÕ §é L¦U TH¤NG TIÒN TÖ 48
2.3.1. Kh¸i niÖm vµ c¸c yÕu tè c¬ b¶n cÊu thµnh chÕ ®é l­u th«ng tiÒn tÖ 48
2.3.2. C¸c chÕ ®é l­u th«ng tiÒn tÖ 50

385
Ch­¬ng 3. NG¢N S¸CH NHµ N¦íC 55

3.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ NG¢N S¸CH NHµ N¦íC 55


3.1.1. Kh¸i niÖm 55
3.1.2. §Æc ®iÓm 57
3.1.3. Vai trß cña Ng©n s¸ch Nhµ n­íc 59
3.2. THU NG¢N S¸CH NHµ N¦íC 64
3.2.1. Kh¸i niÖm, ®Æc ®iÓm thu Ng©n s¸ch Nhµ n­íc 64
3.2.2. Ph©n lo¹i thu Ng©n s¸ch Nhµ n­íc 65
3.2.3. C¸c yÕu tè ¶nh h­ëng ®Õn thu Ng©n s¸ch Nhµ n­íc 74
3.2.4. C¸c nguyªn t¾c thiÕt lËp hÖ thèng thu Ng©n s¸ch Nhµ n­íc 76
3.3. CHI NG¢N S¸CH NHµ N¦íC 78
3.3.1. Kh¸i niÖm, ®Æc ®iÓm cña chi Ng©n s¸ch Nhµ n­íc 78
3.3.2. Ph©n lo¹i chi Ng©n s¸ch Nhµ n­íc 80
3.3.3. C¸c nh©n tè ¶nh h­ëng ®Õn chi Ng©n s¸ch Nhµ n­íc 83
3.3.4. C¸c nguyªn t¾c tæ chøc chi Ng©n s¸ch Nhµ n­íc 85
3.4. BéI CHI Vµ C¢N §èI NG¢N S¸CH NHµ N¦íC 87
3.4.1. Kh¸i niÖm vµ c¸c lo¹i béi chi Ng©n s¸ch Nhµ n­íc 87
3.4.2. Gi¶i quyÕt béi chi vµ c©n ®èi Ng©n s¸ch Nhµ n­íc 89
3.5. HÖ THèNG NG¢N S¸CH Vµ PH¢N CÊP QU¶N Lý NG¢N S¸CH
NHµ N¦íC 91
3.5.1. HÖ thèng ng©n s¸ch nhµ n­íc 91
3.5.2. Ph©n cÊp qu¶n lý ng©n s¸ch nhµ n­íc 95

Ch­¬ng 4. TµI CHÝNH DOANH NGHIÖP 100 100

4.1. KH¸I NIÖM, §ÆC §IÓM Vµ VAI TRß CñA TµI CHÝNH DOANH NGHIÖP 100
4.1.1. Kh¸i niÖm 100
4.1.2. §Æc ®iÓm 103
4.1.3. Vai trß cña tµi chÝnh doanh nghiÖp 106

386
4.2. C¸C NéI DUNG C¥ B¶N CñA TµI CHÝNH DOANH NGHIÖP 109
4.2.1. Vèn kinh doanh 109
4.2.2. Nguån vèn kinh doanh 121
4.2.3. Chi phÝ kinh doanh vµ gi¸ thµnh s¶n phÈm 126
4.2.4. Doanh thu, thu nhËp kh¸c vµ lîi nhuËn 133

Ch­¬ng 5. B¶O HIÓM 138

5.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ B¶O HIÓM 138


5.1.1. Sù cÇn thiÕt kh¸ch quan cña b¶o hiÓm trong nÒn kinh tÕ 318
5.1.2. C¸c h×nh thøc b¶o hiÓm 141
5.1.3. §Æc ®iÓm cña b¶o hiÓm 143
5.1.4. Vai trß cña b¶o hiÓm trong nÒn kinh tÕ 144
5.2. B¶O HIÓM TH¦¥NG M¹I 146
5.2.1. Kh¸i niÖm 146
5.2.2. Nguyªn t¾c ho¹t ®éng cña b¶o hiÓm th­¬ng m¹i 147
5.2.3. C¸c yÕu tè c¬ b¶n cña hîp ®ång b¶o hiÓm th­¬ng m¹i 148
5.2.4. Ph©n lo¹i b¶o hiÓm th­¬ng m¹i 150
5.2.5. Ho¹t ®éng b¶o hiÓm th­¬ng m¹i ë ViÖt Nam 152
5.3. B¶O HIÓM X· HéI 153
5.3.1. Kh¸i niÖm 153
5.3.2. Nguyªn t¾c ho¹t ®éng cña b¶o hiÓm x· héi 154
5.3.3. §èi t­îng vµ c¸c chÕ ®é b¶o hiÓm x· héi 155
5.3.4. C¬ chÕ h×nh thµnh vµ sö dông quü b¶o hiÓm x· héi 156
5.3.5. Ho¹t ®éng cña BHXH ë ViÖt Nam 159

Ch­¬ng 6. TÝN DôNG 163

6.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ TÝN DôNG 163


6.1.1. Sù ra ®êi vµ ph¸t triÓn cña tÝn dông 163
6.1.2. Kh¸i niÖm vµ ®Æc ®iÓm cña tÝn dông 166
6.1.3. Ph©n lo¹i tÝn dông 168
6.1.4. Vai trß cña tÝn dông 171

387
6.2. L·I SUÊT TÝN DôNG 175
6.2.1. Kh¸i niÖm vÒ l·i suÊt tÝn dông 175
6.2.2. Ph©n lo¹i l·i suÊt tÝn dông 176
6.2.3. C¸c yÕu tè ¶nh h­ëng ®Õn l·i suÊt tÝn dông 180
6.3. C¸C H×NH THøC TÝN DôNG CHñ YÕU TRONG NÒN KINH TÕ THÞ TR¦êNG 183
6.3.1. TÝn dông th­¬ng m¹i 183
6.3.2. TÝn dông ng©n hµng 187
6.3.3. TÝn dông Nhµ n­íc 190
6.3.4. Thuª tµi chÝnh 191

Ch­¬ng 7. CUNG - CÇU TIÒN TÖ Vµ L¹M PH¸T 194

7.1. CUNG - CÇU TIÒN TÖ 194


7.1.1. C¸c khèi tiÒn trong l­u th«ng 194
7.1.2. Nhu cÇu tiÒn trong nÒn kinh tÕ 199
7.1.3. Cung tiÒn cho l­u th«ng 200
7.1.4. Mét sè lý thuyÕt vÒ tiÒn tÖ 201
7.2. L¹M PH¸T 205
7.2.1. Kh¸i niÖm vµ c¸c møc ®é l¹m ph¸t 205
7.2.2. Nguyªn nh©n chñ yÕu dÉn ®Õn hiÖn t­îng l¹m ph¸t trong nÒn kinh tÕ 209
7.2.3. ¶nh h­ëng cña l¹m ph¸t ®èi víi nÒn kinh tÕ - x· héi 210
7.2.4. C¸c biÖn ph¸p kiÓm so¸t l¹m ph¸t 212
7.3. THIÓU PH¸T 214
7.3.1. Kh¸i niÖm 214
7.3.2. Nguyªn nh©n cña thiÓu ph¸t 214
7.3.3. ¶nh h­ëng cña thiÓu ph¸t ®Õn nÒn kinh tÕ - x· héi 215
7.3.4. C¸c biÖn ph¸p æn ®Þnh tiÒn tÖ trong ®iÒu kiÖn thiÓu ph¸t 216

388
Ch­¬ng 8. C¸C Tæ CHøC TµI CHÝNH TRUNG GIAN 219

8.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ Tæ CHøC TµI CHÝNH TRUNG GIAN 219
8.1.1. Kh¸i niÖm vµ ®Æc ®iÓm cña c¸c tæ chøc tµi chÝnh trung gian 219
8.1.2. Ph©n lo¹i c¸c tæ chøc tµi chÝnh trung gian: 223
8.1.3. Chøc n¨ng vµ vai trß cña c¸c tæ chøc tµi chÝnh trung gian trong nÒn
kinh tÕ thÞ tr­êng 226
8.2. MéT Sè Tæ CHøC TµI CHÝNH TRUNG GIAN CHñ YÕU TRONG NÒN
KINH TÕ 232
8.2.1. Ng©n hµng 232
8.2.2. C¸c tæ chøc tµi chÝnh phi ng©n hµng 232

Ch­¬ng 9. HÖ THèNG NG¢N HµNG 242

9.1. QU¸ TR×NH RA §êI Vµ PH¸T TRIÓN CñA HÖ THèNG NG¢N HµNG 242
9.1.1. LÞch sö ra ®êi cña ng©n hµng 242
9.1.2. Qu¸ tr×nh ph¸t triÓn cña hÖ thèng ng©n hµng trªn thÕ giíi 243
9.1.3. Sù ra ®êi vµ ph¸t triÓn cña hÖ thèng ng©n hµng ë ViÖt Nam 246
9.2. NG¢N HµNG TH¦¥NG M¹I 248
9.2.1. Chøc n¨ng vµ vai trß cña ng©n hµng th­¬ng m¹i 248
9.2.2. Ph©n lo¹i ng©n hµng th­¬ng m¹i 255
9.2.3. C¸c ho¹t ®éng kinh doanh cña ng©n hµng th­¬ng m¹i 256
9.3. NG¢N HµNG TRUNG ¦¥NG 263
9.3.1. M« h×nh tæ chøc Ng©n hµng Trung ­¬ng 263
9.3.2. Chøc n¨ng vµ vai trß cña Ng©n hµng Trung ­¬ng 266
9.3.3. ChÝnh s¸ch tiÒn tÖ cña Ng©n hµng Trung ­¬ng 276

Ch­¬ng 10. THÞ TR¦êNG TµI CHÝNH 290

10.1. C¸C VÊN §Ò CHUNG VÒ THÞ TR¦êNG TµI CHÝNH 290


10.1.1. Kh¸i niÖm 290
10.1.2. C¸c ®Æc tr­ng c¬ b¶n cña TTTC 291

389
10.1.3. Ph©n lo¹i thÞ tr­êng tµi chÝnh 292
10.1.4. C¸c chñ thÓ tham gia thÞ tµi chÝnh 296
10.1.5. Chøc n¨ng vµ vai trß cña thÞ tr­êng 297
10.2. THÞ TR¦êNG TIÒN TÖ 302
10.2.1. Kh¸i niÖm vµ ®Æc ®iÓm cña thÞ tr­êng tiÒn tÖ 302
10.2.2. CÊu tróc cña thÞ tr­êng tiÒn tÖ 303
10.2.3. C¸c c«ng cô l­u th«ng trªn thÞ tr­êng tiÒn tÖ 303
10.3. THÞ TR¦êNG VèN 305
10.3.1. Kh¸i niÖm vµ ®Æc ®iÓm cña tr­êng vèn 305
10.3.2. CÊu tróc cña thÞ tr­êng vèn 305
10.3.3. C¸c c«ng cô chñ yÕu l­u th«ng trªn thÞ tr­êng vèn 308

Ch­¬ng 11. TµI CHÝNH QUèC TÕ 314

11.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ TµI CHÝNH QUèC TÕ 314


11.1.1. C¬ së h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn cña tµi chÝnh quèc tÕ 314
11.1.2. Nh÷ng ®Æc tr­ng c¬ b¶n cña tµi chÝnh quèc tÕ 318
11.1.3. Vai trß cña tµi chÝnh quèc tÕ 319
11.2. C¸C QUAN HÖ TµI CHÝNH QUèC TÕ CHñ YÕU 321
11.2.1. §Çu t­ trùc tiÕp quèc tÕ cña c¸c tæ chøc kinh tÕ. 321
11.2.2. §Çu t­ gi¸n tiÕp quèc tÕ 326
11.2.3 ViÖn trî quèc tÕ kh«ng hoµn l¹i: 330
11.3. MéT Sè Tæ CHøC TµI CHÝNH QUèC TÕ 331
11.3.1. Quü tiÒn tÖ quèc tÕ- IMF (International Monetary Fund) 332
11.3.2. Ng©n hµng thÕ giíi-WB (World Bank) 336
11.3.3. Ng©n hµng ph¸t triÓn ch©u ¸ (Asian Development Bank - ADB) 338
11.4. Tû GI¸ HèI §O¸I Vµ C¸N C¢N THANH TO¸N QUèC TÕ 339
11.4.1. Tû gi¸ hèi ®o¸i 339
11.4.2. C¸n c©n thanh to¸n quèc tÕ 349

390
Ch­¬ng 12. CHÝNH S¸CH TµI CHÝNH QUèC GIA 357

12.1. NH÷NG VÊN §Ò CHUNG CñA CHÝNH S¸CH TµI CHÝNH QUèC GIA 357
12.1.1. Kh¸i niÖm vµ ®Æc ®iÓm cña chÝnh s¸ch tµi chÝnh quèc gia 357
12.1.2. Môc tiªu cña chÝnh s¸ch tµi chÝnh quèc gia 359
12.1.3. Quan ®iÓm x©y dùng chÝnh s¸ch tµi chÝnh quèc gia 360
12.2. NéI DUNG C¥ B¶N CñA CHÝNH S¸CH TµI CHÝNH QUèC GIA 361
12.2.1. ChÝnh s¸ch khai th¸c, huy ®éng vµ ph¸t triÓn nguån lùc tµi chÝnh 361
12.2.2. ChÝnh s¸ch ph©n phèi vµ sö dông cã hiÖu qu¶ c¸c nguån lùc
tµi chÝnh 362
12.2.3. ChÝnh s¸ch tiÒn tÖ 363
12.2.4. ChÝnh s¸ch tµi chÝnh doanh nghiÖp 363
12.2.5. ChÝnh s¸ch gi¸m s¸t tµi chÝnh-tiÒn tÖ 364
12.2.6. ChÝnh s¸ch ph¸t triÓn thÞ tr­êng tµi chÝnh vµ héi nhËp tµi chÝnh
quèc tÕ 365
12.3. NéI DUNG C¥ B¶N CñA CHIÕN L¦îC TµI CHÝNH VIÖT NAM GIAI
§O¹N 2011 - 2020 367
12.3.1. Quan ®iÓm cña ChiÕn l­îc tµi chÝnh ViÖt Nam giai ®o¹n 2011 - 2020 368
12.3.2. Môc tiªu 369
12.3.3. §Þnh h­íng chiÕn l­îc tµi chÝnh quèc gia giai ®o¹n 2011 - 2020 371
12.3.4. C¸c gi¶i ph¸p chiÕn l­îc tµi chÝnh quèc gia giai ®o¹n 2011 - 2020 374
DANH MôC TµI LIÖU THAM KH¶O 383

391
Gi¸o tr×nh NhËp m«n tµi chÝnh - tiÒn tÖ

ChÞu tr¸ch nhiÖm xuÊt b¶n


TS. TrÇn H÷u Thùc

Biªn tËp
§ç V¨n ChiÕn
Thóy H»ng - Thïy linh

Tr×nh bµy
Thanh thñy - Bïi Dòng Th¾ng

In 1.000 cuèn, khæ 16 x 24 cm t¹i Nhµ xuÊt b¶n Thèng kª.


GiÊy phÐp xuÊt b¶n sè: 114 - 2012/CXB/139 - 01/TK
In xong vµ nép l­u chiÓu th¸ng 2 n¨m 2012.

392

You might also like