You are on page 1of 147

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

PGS.TS. ĐẶNG KIM VUI (Chủ biên)


ThS. TRẦN QUỐC HÙNG - ThS. NGUYỄN VĂN SỞ
ThS. PHẠM QUANG VINH - ThS. LÊ QUANG BẢO - ThS. VÕ HÙNG

GIÁO TRÌNH
NÔNG LÂM KẾT HỢP

NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP


HÀ NỘI - 2007
LỜI NÓI ĐẦU
Trong khoảng 2 thập niên cuối của thế kỷ 20, ngành nông lâm nghiệp đã và đang
có những biến đổi lý thú và quan trọng, trong đó phải kể đến sự ra đời của môn Nông
Lâm kết hợp. Môn này được trình thành do có sự gia tăng quan tâm đến việc hiện diện
của con người ở vùng rừng núi cao mà sự hiện diện này không phải lúc nào cũng là
nguyên nhân của sự suy thoái tài nguyên tự nhiên. Ngành Lâm Nghiệp hiện nay đang
phát triển thêm Lâm nghiệp ra hội đây cộng đồng trong đó cộng đồng người dân vùng
cao là các trợ thủ đắc lực của chính sách nông lâm nghiệp của nhiều quốc gia ở Châu
Á trong đó có Việt Nam. Cho đến nay, nhiều chính sách của nhà nước Việt Nam trong
đó có các chương trình 661, định canh định cư, giao đất khoán từng, và chương trình
327 đã hỗ trợ hàng vạn ha trồng rừng được tiến hành do sự hợp tác của dân cư và các
cơ quan nông lâm nghiệp nhà nước.
Trong hoàn cảnh hiện nay nhằm trang bị cho sinh viên những kiên thức mang
tính chất đa ngành để khi ra trường sinh viên có thể đáp ứng được các yêu cần thực
tiễn của sản xuất, chúng tôi đã tiên hành biên soạn giáo trình Nông Lâm Kết Hợp.
Giáo trình này được đặt cơ sở trên sự phối hợp hài hòa của các chuyên môn chính của
nhà trường như lâm nghiệp, nông nghiệp và chăn nuôi để tạo ra một ngành học phát
triển vững bền và mang tính bảo vệ sinh thái ở vùng đồi núi cao. Đây cũng là kết quả
của sự hợp tác về đào tạo giữa các trường Đại học trong nước gồm Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, Đại Học Nông Lâm Thủ Đức, Đại Học Lâm Nghiệp Xuân Mai, Đại
Học Nông Lâm Huế và Đại Học Nông Lâm Tây Nguyên trong Chương trình Hỗ trợ
Lâm nghiệp Xã hội (SFSP) và dự án mạng lưới đào tạo nông lâm kết hợp (SEANAFE).
Dưới sự chủ biên của PGS.TS. Đặng Kim Vui chúng tôi đã xây dựng và cập nhật
thêm các tài liệu mới cho giáo trình này để nhằm giới thiệu một cách tổng thể về cơ sở
và kỹ thuật Nông Lâm kết hợp, trong đó giáo trình được chia ra làm 5 chương:
chương 1 giới thiệu hình ảnh thực sự của vùng đồi núi cao hiện nay với sự tập trung
vào hiện tượng du canh phá từng làm lẫy và sự suy thoái tài nguyên thiên nhiên ở
nước ta. Chương hai nên về nguyên lý cơ bản của nông lâm kết hợp. Chương thứ ba
giới thiệu các hệ thống nông lâm kết hợp chính thường được áp dụng ở Việt Nam gồm
các hệ thống truyền thống và cải tiến. Chương thứ tư giới thiệu tổng quát các kỹ thuật
nông lâm kết hợp áp dụng cho các trang trại nhỏ gồm lâm nghiệp, trồng trọt và chăn
nuôi. Và chương thứ năm tổng kết các cách tiếp cận để thiết kế, xây dựng và phát triển
các hệ thông Nông Lâm kết hợp nhằm đưa kỹ thuật này vào thực tế nông thôn.
Do thời gian biên soạn còn hạn chế nên chắc chắn giáo trình này vẫn còn những
phần thiếu sót, chưa đầy đủ về nội dung. Vậy chúng tôi rất mong được các độc giả
đóng góp ý kiến để chúng tôi có thể cập nhật và hoàn thiện cho lần xuất bản sao đầy
đủ hơn.
Các tác giả

2
CÁC TỪ VIẾT TẮT

FAO Tổ chức Lương Nông thuộc Liên Hợp Quốc


IIRR Viện Nghiên cứu Lúa Quốc Tế
GDP Thu nhập bình quân đầu người một năm
WB Ngân Hàng Thế Giới
IDRC Trung Tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế
CGIAR Nhóm Tư Vấn về Nghiên Cứu Nông Nghiệp Quốc tế
ICRAF Trung Tâm Nghiên cứu về Nông Lâm Kết Hợp
VAC Hệ thống Vườn-Ao-Chuồng
RVAC Hệ thống Rừng-vườn-Ao-Chuồng
SALT1 Kỹ thuật canh tác nông nghiiệp trên đất dốc
SALT2 Kỹ thuật canh tác nông lâm nghiệp bền vững trên đất dốc
SALT3 Kỹ thuật canh tác nông nghiệp và chăn thả đơn giản
SALT4 Kỹ thuật canh tác vườn hộ trên đất dốc
PCARD Trung Tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông Lâm nghiệp Phillipin
ASF Cấu trúc mô phỏng theo rừng tự nhiên
IPM Quản lý sâu bệnh tổng hơp
PTD Phát triển kỹ thuật có sự tham gia
PMOE Giám sát, đánh giá có sự tham gia
PM Giám sát có sự tham Jia
PE Đánh giá có sự tham gia
C, D&D Mô tả, Chẩn đoán và Thiết kế
SD Phát triển bền vững
SA Nông nghiệp bền vững

3
Chương I
MỞ ĐẦU

1. CÁC VẤN ĐỀ THÁCH THỨC TRONG QUẢN LÝ BỀN VỮNG TÀI


NGUYÊN THIÊN NHIÊN
1.1. CÁC VẤN ĐỀ TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MIỀN NÚI
Ở các quốc gia Đông Nam Á, khu vực đất nông thôn và miền núi chiếm phần lớn
diện tích lãnh thổ và là nơi sinh sống của một bộ phận lớn dân cư của quốc gia. Ở Việt
Nam, đất đồi núi chiếm khoảng 2/3 diện tích và là vùng sinh sống của hơn 1/3 dân số
cả nước (Jamieson và cộng sự, 1998; Chu Hữu Quý, 1995; Rambo, 1995).
1.1.1. Tính chất mong manh và dễ bị tổn thương của đất và rừng nhiệt đới
Rừng và đất là hai nguồn tài nguyên cơ bản của vùng nhiệt đới ẩm. Khi không bị
tác động, các hệ sinh thái rừng nhiệt đới vốn ổn định nhờ vào sự đa dạng cao độ của
các loài cây và con, được gắn kết với nhau thông qua các chu trình dinh dưỡng gần
như khép kín (Wamer, 1991). Theo Richard (1977) (trích dẫn bởi Wamer, 1991), sự ổn
định của hệ sinh thái vùng nhiệt đới chính là sự thể hiện khả năng chống đỡ các biến
đổi thất thường của khí hậu và các yếu tố khác của môi trường tự nhiên. Trong đó, các
loài thực vật thân gỗ đóng vai trò chủ đạo trong việc quyết định cấu trúc, chức năng và
tính bền vững của hệ sinh thái rừng.
Tuy nhiên sự ổn định này chỉ có thể tồn tại trong khuôn khổ quá trình diễn thế tự
nhiên. Dưới tác động của con người, rừng và đất nhiệt đới trở nên rất dễ bị tan vỡ.
Chính các nhân tố đa dạng, phức tạp và chu trình dinh dưỡng khép kín vốn có khả
năng duy trì hệ sinh thái rừng nhiệt đới trong bối cảnh không bị tác động đã tạo nên
các đặc tính dễ bị tan vỡ khi tiếp xúc với con người (Wamer, 1991). Ở rừng mưa nhiệt
đới, do tính chất chuyên biệt cao độ của từng loài thực vật đã dẫn đến khả năng phục
hồi thấp khi có tác động trên qui mô lớn của con người (Goudic, 1984 - trích dẫn bởi
Wamer, 1991). Do phần lớn chất dinh dưỡng trong hệ sinh thái được dự trữ trong sinh
khối, nên một khi rừng bị chặt phá đi thì xẩy ra hiện tượng thiếu chất dinh dưỡng để
duy trì tăng trưởng mới của các loài cây. Thêm vào đó do lượng mưa lớn, trong điếu
kiến không có cây che phủ, các quá trình rửa trôi và xói mòn diễn ra mạnh mẽ làm đất
đai bị thoái hóa nhanh chóng. Như vậy sự bền vững của đất rừng nhiệt đới hoàn toàn
phụ thuộc vào lớp che phủ thực vật có cấu trúc phức tạp, đa dạng mà trong đó các
loài cây thân gỗ đóng vai trò chủ đạo. Hiện tượng thiếu chất dinh dưỡng trong đất
cũng như vai trò quyết định của thảm thực vật rừng đến sự bền vững về sức sản xuất
của đất cho thấy về cơ bản thì đất nhiệt đới không phù hợp với các phương thức sản
xuất nông nghiệp độc canh.

4
1.1.2. Tính đa dạng về sinh thái - nhân văn của khu vực nông thôn và miền núi
• Đa dạng về địa hình - đất đai - tiểu khí hậu: Sự biến đổi mạnh về địa hình dẫn
đến biến động lớn về đất đai và tiểu khí hậu cả trên những phạm vi nhỏ.
• Đa dạng sinh học: Hệ động thực vật phong phú và đa dạng. Thực vật bao gồm
rất nhiều loài và dạng sống khác nhau.
• Đa dạng về dân tộc và văn hóa: Miền núi Việt Nam là địa bàn sinh sống của
hơn 1/3 dân số cả nước thuộc 54 dân tộc khác nhau. Mỗi dân tộc có các đặc điểm văn
hoá đặc thù (Jamieson và cộng sự, 1998).
• Đa dạng về các hệ thống canh tác truyền thống: Sự đa dạng về điều kiện tự
nhiên (điều kiện lập địa và sinh cảnh) và xã hội đã tạo nên sự đa dạng về hệ thống
canh tác truyền thống ở nông thôn miền núi. Các kiến thức kỹ thuật và quản lý truyền
thống trong sử dụng đất và canh tác của người dân ở nông thôn miền núi rất đa dạng,
đã được thử nghiệm, chọn lọc và phát triển qua nhiều thế kỷ.
• Nông thôn miền núi chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế xã hội rất phức
tạp: Bên cạnh các đặc điểm phức tạp về tự nhiên như địa hình, tiểu khí hậu, đất đai và
sinh học, trong những thập kỷ gần đây khu vực nông thôn miền núi đang gánh chịu sự
tác động của nhiều nhân tố kinh tế xã hội như áp lực về dân số, sự biến động về chính
sách và kinh tế thị trường, sự du nhập các yếu tố văn hóa, xã hội từ bên ngoài, v.v. đã
dẫn đến động thái/diễn biến tài nguyên sinh thái/nhân văn rất phức tạp, tạo ra những
trở ngại và thách thức lớn cho quản lý/sử dụng bền vững và có hiệu quả nguồn tài
nguyên.
Tính đa dạng về sinh thái nhân văn của khu vực nông thôn miền núi là một trong
những cơ sở để đa dạng hóa các hệ thống sử dụng đất, cũng như phát triển các hệ
thống sử dụng tài nguyên tổng hợp. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức lớn cho các nhà
quản lý, nhà lập chính sách do yêu cầu phải hình thành và phát triển từng hệ thống
quản lý sử dụng đất, các hệ thống canh tác phù hợp cho từng điều kiện sinh thái nhân
văn đặc thù.
1.2. CÁC THAY ĐỔI MANG TÍNH THÁCH THỨC CHO PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG NÔNG THÔN MIỀN NÚI
• Sự gia tăng áp lực dân số gây ra các vấn đề bức xúc về đất canh tác và an toàn
lương thực, và sức ép lên tài nguyên thiên nhiên miền núi.
Ở các khu vực nông thôn miền núi, mật độ dân cư không cao như các khu vực đô
thị ở vùng đồng bằng nhưng lại có tốc độ tăng dân số rất nhanh. Theo Đỗ Đình Sâm
(1995), tốc độ tăng dân số ở miền núi Việt Nam biến động trong khoảng 2,5 - 3,5%
trong khi tốc độ bình quân của cả nước ở dưới mức này nhiều. Tình trạng này một
phần chủ yếu do phong trào di dân tự do từ các khu vực đồng bằng quá đông đúc lên
các vùng đồi núi, đặc biệt là các tỉnh khu vực Tây Nguyên (Đán Lan, Gia Lai, Kon

5
Tum). Dân số tăng trong điều kiện khan hiếm đất có tiềm năng nông nghiệp ở miền
núi đã dẫn đến bình quân đất canh tác đầu người giảm. Tuy miền núi Việt Nam được
xem là khu vực dân cư thưa thớt với mật độ bình quân 75 người/km2 nhưng bình quân
diện tích đất canh tác đầu người rất thấp (vào khoảng 1200 - 1500 m2/người) (FAO và
IIRR, 1995), trong khi đó mức đất canh tác để đáp ứng nhu cầu lương thực tối thiểu là
2000m2/người. Ở khu vực miền núi của 11 tỉnh phía Nam, diện tích canh tác bình
quân đầu người ở dưới 1000m2/người, còn thấp hơn cả ở miền núi ở các tỉnh phía bắc
miền Trung như Nghệ An và Thanh Hóa (Jamieson và cộng sự, 1998). Trong lúc đó
khả năng tăng diện tích lúa nước - là hệ thống sản xuất ngũ cốc có năng suất cao và ổn
định nhất Việt Nam - ở khu vực miền núi rất hạn chế, chỉ diễn ra ở các khu vực phân
tán nhỏ hẹp có thể tưới tiêu được Vì vậy có thể nói rằng mật độ dân số đang tiến gần
đến hoặc thậm chí đã vượt quá khả năng chịu đựng của đất đai ở phần lớn khu vực
miền núi (Jamieson và cộng sự, 1998).
Sự gia tăng dân số đã tạo ra áp lực lớn lên tài nguyên thiên nhiên miền núi là
rừng, đất và nguồn nước, làm các nguồn tài nguyên quí giá này suy giảm nhanh chóng.
• Sự suy thoái về tài nguyên thiên nhiên và môi trường Văn hóa và xã hội
- Sự suy giảm nhanh chóng tài nguyên rừng: Độ che phủ rừng cả nước giảm từ từ
40,7% vào 1940 xuống chỉ còn 27,7% vào 1993 (Đỗ Đình Sâm, 1994). Cách đây 50
năm, rừng tự nhiên bao phủ phần lớn khu vực đồi núi nhưng trong những năm gần đây
đã giảm xuống dưới 20% ở phần lớn khu vực đồi núi phía Bắc, thậm chí có nơi giảm
còn 10% như ở khu vực miền núi vùng Tây Bắc. Các diện tích rừng còn lại phần lớn là
rừng nghèo kiệt, trữ lượng gỗ thấp và hiếm có loài cây có giá trị kinh tế.
Sự suy thoái của đất đai là điều
dễ thấy ở khắp miền núi Việt Nam. Do
thiếu rừng che phủ, xói mòn đất và rửa
trôi chất dinh dưỡng diễn ra mạnh làm
giảm độ màu mỡ của đất. Canh tác
nương rẫy vốn là phương thức canh tác
truyền thống của các dân tộc miền núi,
tỏ ra khá phù hợp trong điều kiện mật
độ dân cư thấp và tài nguyên rừng còn
phong phú Trong những thập kỷ gần
đây, do áp lực dân số và sự suy giảm
diện tích rừng, giai đoạn canh tác kéo dài hơn và giai đoạn bỏ hóa bị rút ngắn lại, dẫn
đến sự suy giảm liên tục của độ phì đất và cỏ dại phát triển mạnh. Kết quả dẫn đến
giảm năng suất cây trồng một cách nhanh chóng.
Sự suy giảm về đa dạng sinh học. Nhiều loài động thực vật đã bị biến mất hoặc
trở nên khan hiếm. Nạn phá rừng, việc phát triển trồng rừng thuần loài và nông nghiệp
độc canh đã làm suy giảm đa dạng sinh học, trong đó chủ yếu bao gồm đa dạng di
6
truyền, đa dạng chủng loài và đa dạng về hệ sinh thái.
• Tình trạng đói nghèo
Vào năm 1994, khi GDP bình quân của cả nước là 270 USD thì ở miền núi phía
Bắc chỉ là 150 USD và ở Tây Nguyên là 70 USD. Rất nhiều nơi ở miền núi có thu
nhập tiền mặt bình quân đầu người dưới 50 Usd/năm. Hộ nghèo đói chiếm 34% ở
miền núi phía Bắc và hơn 60% ở Tây Nguyên, với thu nhập bình quân đầu người dưới
50.000đ/tháng, rất thấp so với tỉ lệ hộ nghèo đói bình quân là 27% của cả nước. Hơn
56% hộ gia đình ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên ở tình trạng suy dinh dưỡng
nghiêm trọng, có tiêu thụ năng lượng dưới l,500kcals/người/ngày trong lúc phải cần
2200-2500kcals/người/ngày (Jamieson và cộng sự, 1995). Tình trạng đói nghèo không
chỉ thể hiện ở thu nhập thấp mà còn ở không đảm bảo các nhu cầu cơ bản khác như
giáo dục, y tế, thông tin văn hóa xã hội, v.v.
• Sự phát triển theo các mô hình canh tác rập khuôn, áp đặt và phụ thuộc vào
bên ngoài.
Trái ngược với điều kiện đa dạng về sinh thái- nhân văn và sự phong phú về kiến
thức canh tác truyền thống ở miền núi, các chương trình phát triển miền núi của chính
phủ thường thực hiện theo các "mô hình" quản lý kỹ thuật đồng bộ, hình thành theo
cách nghĩ của người vùng đồng bằng. Các nhà nông nghiệp và lâm nghiệp được đào
tạo chính thống thường có định kiến về sự lạc hậu của các phương thức sản xuất
truyền thống, hay nghĩ đến việc tăng cường thực hiện pháp luật nhà nước và áp đặt các
mô hình kỹ thuật sản xuất từ bên ngoài hơn là hình thành các và phát triển các hệ
thống quản lý kỹ thuật thích ứng, phối hợp giữa kiến thức bản địa và kỹ thuật mới phù
hợp với các điều kiện cụ thể của nông dân và thúc đẩy phát huy tính tự chủ của họ
trong quản lý tài nguyên (Hoàng Hữu Cải, 1999). Chính điều này đã làm giảm hiệu
quả và tác dụng của nhiều các chương trình phát triển miền núi mặc dù có đầu tư rất
lớn.
• Xu hướng giao thoa giữa lâm nghiệp, nông nghiệp và các ngành khác trong sử
dụng tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế.

7
Khái niệm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp một cách thuần túy và tách biệt theo
quan niệm trước đây đã trở nên không còn phù hợp ở nhiều khu vực dân cư ở miền
núi. Phát triển sử dụng đất thuần nông hoặc thuần lâm đã bộc lộ nhiều hạn chế lớn,
chẳng hạn canh tác thuần nông trên đất dốc cho năng suất thấp và không ổn định trong
khi phát triển thuần lâm lại có khó khăn về nhu cầu lương thực trước mắt. Thực tiễn
sản xuất đã xuất hiện các phương thức sử dụng đất tổng hợp, có sự đan xen giữa nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
1.3. NHU CẦU VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG
THÔN MIỀN NÚI
1.3.1. Phát triển bền vững nông thôn và miền núi
Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững là quản lý và bảo tồn các nguồn
tài nguyên thiên nhiên và định hướng các thay đổi kỹ thuật và định chế nhằm đảm bảo
thoả mãn các nhu cầu của con người của các thế hệ hiện tại và trong tương lai. Đó là
sự phát triển đảm bảo bảo tồn đất, nước và các nguồn trên động thực vật, chống xuống
cấp về môi trường, phù hợp về kỹ thuật, khả thi vê kinh tế và được xã hội chấp nhận
(FAO, 1995). Nói một cách đơn giản hơn, phát triển bền vững chính là việc sử dụng
tài nguyên đáp ứng được các nhu cầu về sản xuất của thế hệ hiện tại, trong khi vẫn bảo
tồn được nguồn tài nguyên cần cho nhu cầu của các thế hệ tương lai.
1.3.2. Các thách thức
Như vậy, bối cảnh thay đổi trên đã cho thấy một nhu cầu và cũng là một thách
thức lớn cho phát triển bền vững nông thôn và miền núi là:
• Hình thành và phát triển các phương thức quản lý sử dụng tài nguyên
thiên nhiên (bao gồm rừng, đất và nước) một cách tổng hợp trong đó có sự
dung hòa giữa các lợi ích về kinh tế và bảo tồn tài nguyên môi trường
• Quản lý và sử dụng đất đồi núi có hiệu quả.
• Quản lý và sử dụng đất đảm bảo tính công bằng.
Hình thành và phát triển hệ thống quản lý sử dụng đất được sự chấp chấp nhận
của người dân và các nhóm đối tượng có liên quan khác.
Nông lâm kết hợp là một phương thức sử dụng đất tổng hợp giữ lâm nghiệp với
các ngành nông nghiệp (bao gồm cả chăn nuôi) và thủy sản, có nhiều ưu điểm và ý
nghĩa về bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển kinh tế xã hội được công nhận rộng
rãi trên khắp thế giới

8
2. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN NÔNG LÂM KẾT HỢP NHƯ LÀ MỘT
PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐẤT BỀN VỮNG
2.1. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG LÂM KẾT HỢP
2.1.1. Lịch sử phát triển nông lâm kết hợp thế giới
Canh tác cây thân gỗ cùng với cây trồng nông nghiệp trên cùng một diện lích là
một tập quán sản xuất lâu đời của nông dân ở nhiều nơi trên thế giới. Theo Keng
(1987), cho đến thời Trung cổ ở châu Âu, vẫn tồn tại một tập quán phổ biến là "chặt và
đốt" rồi sau đó tiếp tục trồng cây thân gỗ cùng với cây nông nghiệp hoặc sau khi thu
hoạch nông nghiệp. Hệ thống canh tác này vẫn tồn tại ở Phần Lan cho đến cuối thế kỷ
19, và vẫn còn ở một số vùng của Đức đến tận những năm 1920. Nhiều phương thức
canh tác truyền thống ở châu Á, Châu Phi và khu vực nhiệt đới châu Mỹ đã có sự phối
hợp cây thân gỗ với cây nông nghiệp để nhằm mục đích chủ yếu là hỗ trợ cho sản xuất
nông nghiệp và tạo ra các sản phẩm phụ khác khác như: gỗ, củi, đồ gia dụng, v.v.
2.1.1.1. Sự phát triển của hệ thống Taungya
Vào cuối thế kỷ 19, hệ thống taungya bắt đầu phát triển rộng rãi ở Myanmar dưới
sự bảo hộ của thực dân Anh. Trong các đồn điền trồng cây gỗ tếch (Tectona grandis),
người lao động được phép trồng cây lương thực giữa các hàng cây chưa khép tán để
giải quyết nhu cầu lương thực hàng năm. Phương thức này sau đó được áp dụng rộng
rãi ở Ấn Độ và Nam Phi. Các nghiên cứu và phát triển các hệ thống kết hợp này
9
thường hướng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp, được thực hiện bởi các nhà lâm
nghiệp với việc luôn cố gắng đảm bảo các nguyên tắc
• Giảm thiểu hoặc không gây tổn hại đến các loài cây rừng trồng là đối tượng
cung cấp sản phẩm chủ yếu trong hệ thống
• Sinh trưởng của cây rừng trồng không bị hạn chế bởi cây nông nghiệp
• Tối ưu hóa về thời gian canh tác cây trồng nông nghiệp sẽ đảm bảo tỉ lệ sống và
tốc độ sinh trưởng nhanh của cây trồng thân gỗ
• Loài cây rừng trồng có khả năng cạnh tranh với các loài cây nông nghiệp
• Tối ưu hóa mật độ để đảm bảo sự sinh trưởng liên tục của cây trồng thân gỗ.
• Chính vì vậy mà các hệ thống này chưa được xem xét như là một hệ thống quản
lý sử dụng đất có ý nghĩa cho phát triển nông nghiệp (Nair, 1995).
2.1.1.2. Các nhân tố làm tiền đề cho sự phát triển của nông lâm kết hợp trên phạm
vi toàn cầu
Nhiều nhân tố phát triển trong thập niên 70 của thế kỷ 20 đã tạo điều kiện cho
việc công nhận nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý sử dụng đất có khả năng áp
dụng cho cả trong nông nghiệp (trên nông trại) và lâm nghiệp (trên đất rừng). Các
nhân tố này bao gồm:
• Sự đánh giá lại chính sách phát triển của Ngân hàng Thế giới (WB);
• Sự tái thẩm định các chính sách lâm nghiệp của Tổ chức Lương nông (FAO)
thuộc Liên hiệp quốc;
• Sự thức tỉnh các mối quan tâm khoa học về xen canh và hệ thống canh tác;
• Tình trạng thiếu lương thực ở nhiều vùng trên thế giới;
• Sự gia tăng nạn phá rừng và suy thoái về môi trường sinh thái;
• Cuộc khủng hoảng năng lượng trong thập niên 70 của thế kỷ 20 và sau đó là sự
leo thang về giá cả và thiếu phân bón;
• Trung tâm Nghiên cứu phát triển Quốc tế (IDRC) của Canada thiết lập dự án
xác định các ưu tiên nghiên cứu về lâm nghiệp nhiệt đới
• Các thay đổi về chính sách phát triển nông thôn
Trong vòng 2 thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20, dưới sự bảo trợ của Nhóm tư vấn
về Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế (CGIAR), nhiều trung tâm nghiên cứu nông
nghiệp quốc tế được thành lập ở nhiều khu vực trên thế giới nhằm nghiên cứu nâng
cao năng suất của các loại cây trồng và vật nuôi chủ yếu ở vùng nhiệt đới. Việc phát
triển các giống cây trồng ngũ cốc năng suất cao và các kỹ thuật thâm canh liên quan
nhờ vào nỗ lực của một số Trung tâm và các chương trình quốc gia có liên quan đã tạo

10
nên một sự thay đổi lớn về năng suất nông nghiệp mà thường được gọi là Cách mạng
Xanh (Green Revolution) (Borlaug và Dowswell, 1988). Tuy nhiên các nhà quản lý và
phát triển đã sớm nhận thấy rằng các kỹ thuật thâm canh mới đã làm tăng nhu cầu
phân bón và các chi phí đầu vào khác trong khi đó vẫn còn một bộ phận lớn nông dân
nghèo nằm ngoài tầm ảnh hưởng tích cực của cuộc cách mạng trên. Phần lớn các
Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế và các chương trình phát triển nông nghiệp
quốc gia trong thời gian này chỉ mới tập trung nghiên cứu các loại cây trồng riêng rẽ
trong khi thực tế nông dân lại canh tác một cách tổng hợp: trồng xen các loại cây nông
nghiệp khác nhau, cây ngắn ngày với cây gỗ dài ngày, v.v. Sự thiếu sót này đã được
nhiều nhà quản lý và hoạch định chính sách nhận ra.
Từ đầu thập niên 70, chính sách phát triển của Ngân hàng Thế giới đã bắt đầu
chú ý hơn các vùng nông thôn nghèo cùng với sự tham gia của nông dân vào các
chương trình phát triển nông thôn. Trong chương trình Lâm nghiệp xã hội của WB
trong những năm 1980 không chỉ chứa đựng nhiều yếu tố của nông lâm kết hợp mà
còn thiết kế trợ giúp nông dân thông qua gia tăng sản xuất lương thực thực phẩm, bảo
vệ môi trường và phát huy các lợi ích truyền thống của rừng. Trong thời gian này, bên
cạnh phát triển nông nghiệp, FAO đặc biệt chú trọng nhấn mạnh vai trò quan trong của
lâm nghiệp trong phát triển nông thôn, khuyến cáo nông dân và nhà nước nên chú
trọng đặc biệt đến các ích lợi của rừng và cây thân gỗ đến sản xuất nông nghiệp,
khuyến cáo các nhà quản lý sử dụng đất kết hợp cả nông nghiệp và lâm nghiệp vào hệ
thống canh tác của họ (Keng, 1979). Nhiều khái niệm mới về lâm nghiệp như lâm
nghiệp cộng đồng, lâm nghiệp xã hội đã được hình thành và áp dụng ở nhiều nước mà
nông lâm kết hợp thường được xem là một phương thức sử dụng đất nhiều tiềm năng,
đem lại những lợi ích trực tiếp cho cộng đồng địa phương và toàn xã hội.
• Nạn phá rừng và tình trạng suy thoái môi trường
Cuối thập niên 70 và các năm đầu thập niên 80, sự suy thoái tài nguyên môi
trường toàn cầu, nhất là nạn phá rừng, đã trở thành mối quan tâm lo lắng lớn của toàn
xã hội. Sự phát triển của nông nghiệp nương rẫy đi kèm với áp lực dân số, sự phát
triển nông nghiệp thâm canh hóa học, độc canh trên qui mô lớn và khai thác lâm sản là
những nguyên nhân chủ yếu gây ra sự mất rừng, suy thoái đất đai và đa dạng sinh học.
Theo ước tính của FAO (1982), du canh là nguyên nhân tạo ra hơn 70% của tổng diện
tích rừng nhiệt đới bị mất ở châu Phi; diện tích đất rừng bỏ hóa sau nương rẫy chiếm
26,5% diện tích rừng khép tán còn lại ở châu Phi, khoảng 16% ở châu Mỹ Latin và
22,7% ở khu vực nhiệt đới của châu Á.
• Sự gia tăng các môi quan tâm về nghiên cứu các hệ thống canh tác tổng hợp và
các hệ thống kỹ thuật truyền thống
Thực trạng này cùng nhiều nỗ lực nghiên cứu đã gợi mở ra các chiến lược quản
lý sử dụng đất tổng hợp thay thế cho các phương thức quản lý hiện thời không bền

11
vững đã được xác định là một xu hướng tất yếu. Chẳng hạn như các nhà sinh thái học
đã cung cấp nhiều bằng chứng thuyết phục về vai trò của rừng và cây thân gỗ đối với
việc đảm bảo độ ổn định của hệ sinh thái, dẫn đến các biện pháp cần thiết để bảo vệ
rừng còn lại, đưa các loài cây thân gỗ lâu năm vào các hệ thống sử dụng đất cũng như
làm thay đổi quan điểm canh tác. Đã có nhiều kết quả nghiên cứu ban đầu ở nhiều khu
vực trên thế giới về tính hiệu quả cao trong việc sử dụng các tài nguyên tự nhiên (đất,
nước và ánh sáng mặt trời) cũng như tính ổn định cao của các hệ thống xen canh, các
hệ thống canh tác tổng hợp so với hệ thống nông nghiệp độc canh (Papendick và cộng
sự, 1976). Các nghiên cứu của các nhà nhân chủng học và khoa học xã hội về hệ thống
sử dụng đất đã chỉ ra tầm quan trọng của các hệ thống canh tác tổng hợp bản
địa/truyền thống và lưu ý cần xem xét chúng trong quá trình phát triển các tiếp cận
mới (Nair, 1995).
• Sự hình thành Trung tâm Quốc tế về Nghiên cứu Nông lâm kết hợp (ICRAF)
Vào tháng 7/1977, được sự ủy nhiệm của Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc
tế (IDRC) của Canada, John Bene đã tiến hành dự án nghiên cứu với các mục tiêu:
- Xác định các khoảng trống trong đào tạo và nghiên cứu lâm nghiệp thế giới;
- Đánh giá sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nông nghiệp và lâm nghiệp ở các quốc gia
nhiệt đới có thu nhập thấp và đề xuất nghiên cứu nhằm tối ưu hóa sử dụng đất;
- Xây dựng các chương trình nghiên cứu lâm nghiệp nhằm tạo ra các tác động
kinh tế xã hội có ý nghĩa ở cho các nước đang phát triển;
- Đề xuất các sắp xếp về tổ chức, thể chế để thực hiện các nghiên cứu trên một
cách có hiệu quả và
- Chuẩn bị kế hoạch hành động để có được ủng hộ của các nhà tài trợ quốc tế.
Mặc dù với mục đích ban đầu là xác định các ưu tiên nghiên cứu cho lâm nghiệp
nhiệt đới, nhóm nghiên cứu của John Bene đã đi đến kết luận rằng: để tối ưu hóa sử
dụng đất nhiệt đới, ưu tiên số một nên là nghiên cứu và phát triển các hệ thống kết hợp
giữa lâm nghiệp với nông nghiệp và chăn nuôi. Hay nói cách khác, đã có một sự
chuyển dịch trọng tâm từ lâm nghiệp sang những khái niệm sử dụng đất rộng hơn, phù
hợp hơn ở cả hai phương diện trực tiếp (trước mắt) và dài hạn (Bene và cộng sự,
1977). Báo cáo dự án này của IDRC đã được các cơ quan quốc tế xem xét và dẫn đến
sự hình thành Hội đồng Quốc tế về Nghiên cứu Nông Lâm kết hợp vào năm 1977, vào
1991 cơ quan này được đổi tên thành Trung tâm Quốc tế về Nghiên cứu Nông Lâm kết
hợp (International Centre for Research in Agroforestry - ICRAF. Kể từ khi thành lập,
ICRAF là tổ chức luôn đi đầu trong thu thập thông tin, tiến hành các dự án nghiên cứu,
chuyển giao kết quả .
2.1.1.3. Sự phát triển phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển
Song song với sự phát triển khái niệm và các nghiên cứu kỹ thuật, phương pháp

12
tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp cũng không ngừng được cải
thiện. Trong một thập niên gần đây, các công cụ chẩn đoán - thiết kế - phát triển đã
được phát triển trên cơ sở lý luận của các tiếp cận có sự tham gia vốn được sử dụng
phổ biến trong lâm nghiệp xã hội. Các nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của môi trường
chính sách đến phát triển nông lâm kết hợp và các tác động của phát triển nông lâm kết
hợp lên hệ thống sử dụng đất, cảnh quan và môi trường kinh tế xã hội cũng như khả
năng chấp nhận của nông dân cũng đang được chú trọng xem xét. Bên cạnh đó, nhiều
phương pháp nghiên cứu mới có liên quan đến các ngành khoa học khác như khoa học
đất, sinh lý học thực vật, sinh thái học, khoa học hệ thống và mô phỏng, v.v. đã được
áp dụng vào nghiên cứu nông lâm kết hợp đã tạo ra được các tiến bộ đáng kể trong
nghiên cứu.
2.1.1.4. Sự hòa nhịp của nông lâm kết hợp vào chương trình đào tạo nông nghiệp,
lâm nghiệp và phát triển nông thôn
Ngày nay, các kiến thức về nông lâm kết hợp đã được đưa vào giảng dạy ở các
trường đại học, viện nghiên cứu-đào tạo về công nghiệp, lâm nghiệp, phát triển nông
thôn và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Tiềm năng của nông lâm kết hợp trong việc cải
tạo đất bảo tồn đa dạng sinh học và nguồn nước nói chung đã được công nhận. Về thực
chất thì nông lâm kết hợp thường được xem như là một hệ thống sử dụng đất có tiềm
năng đem lại các ích lợi về lâm sản, lương thực thực phẩm trong lúc vẫn có khả năng
bảo tồn và khôi phục hệ sinh thái.
2.1.2. Lược sử phát triển nông lâm kết hợp ở Việt Nam
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, các tập quán canh tác nông lâm kết
hợp đã có ở Việt Nam từ lâu đời, như các hệ thống canh tác nương rẫy truyền thống
của đồng bào các dân tộc ít người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái
trên khắp cả nước, v.v. Làng truyền thống của người Việt cũng có thể xem là một hệ
thống nông lâm kết hợp bản địa với nhiều nét đặc trưng về cấu trúc và các dòng chu
chuyển vật chất và năng lượng.
Từ thập niên 60, song song với phong trào thi đua sản xuất, hệ sinh thái Vườn -
Ao - Chuồng (VAC) được nhân dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng
khắp cả nước với nhiều biến thể khác nhau thích hợp cho từng vùng sinh thái cụ thể.
Sau đó là các hệ thống Rừng - Vườn - Ao - Chuồng (RVAC) và vườn đồi được phát
triển mạnh ở các khu vực dân cư miền núi. Các hệ thống rừng ngập mặn- nuôi trồng
thủy sản cũng được phát triển mạnh ở vùng duyên hải các tỉnh miền Trung và miền
Nam. Các dự án được tài trợ quốc tế cũng giới thiệu các mô hình canh tác trên đất dốc
theo đường đồng mức (SALT) ở một số khu vực miền núi. Trong hai thập niên gần
đây, phát triển nông thôn miền núi theo phương thức nông lâm kết hợp ở các khu vực
có tiềm năng là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Quá trình thực hiện
chính sách định canh định cư kinh tế mới, mới đây các chương trình 327, chương trình
5 triệu ha rừng (661) và chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại đều có
13
liên quan đến việc xây dựng và phát triển các hệ thống nông lâm kết hợp tại Việt Nam.
Các thông tin, kiến thức về nông lâm kết hợp cũng đã được một số nhà khoa học,
tổ chức tổng kết được những góc độ khác nhau. Điển hình là các ấn phẩm của Lê
Trọng Cúc và cộng sự (1990) về việc xem xét và phân tích các hệ sinh thái nông
nghiệp vùng trung du miền Bắc trên cơ sở tiếp cận sinh thái nhân văn. Các hệ thống
nông lâm kết hợp điển hình trong nước đã được tổng kết bởi FAO và IIRR (1995),
cũng như đã được mô tả trong ấn phẩm của Cục Khuyến Nông và Khuyến lâm dưới
dạng các "mô hình" sử dụng đất Mittelman (1997) đã có một công trình tổng quan rất
tết về hiện trạng nông lâm kết hợp và lâm nghiệp xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là các
nhân tố chính sách ảnh hưởng đến sự phát triển nông lâm kết hợp. Tuy nhiên các tư
liệu nghiên cứu về tương tác giữa phát triển nông lâm kết hợp với môi trường tự nhiên,
kinh tế xã hội xung quanh (vi mô và vĩ mô) vẫn còn rất ít.
2.2. LỢI ÍCH CỦA CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP VÀ THÁCH THỨC
2.2.1. Các lợi ích của nông lâm kết hợp
Thực tiễn sản xuất cũng như nhiều công trình nghiên cứu trung và dài hạn ở
nhiều nơi trên thế giới đã cho thấy nông lâm kết hợp là một phương thức sử dụng tài
nguyên tổng hợp có tiềm năng thoả mãn các yếu tố của phát triển nông thôn và miền
núi bền vững. Các lợi ích mà nông lâm kết hợp có thể mang lại rất đa dạng, tuy nhiên
có thể chia thành 2 nhóm nhóm các lợi ích trực tiếp cho đời sống cộng đồng và nhóm
các lợi ích gián tiếp cho cộng đồng và xã hội.
2.2.1.1. Các lợi ích trực tiếp của nông lâm kết hợp
• Cung cấp lương thực và thực phẩm: Nhiều mô hình nông lâm kết hợp được
hình thành và phát triển nhằm vào mục đích sản xuất nhiều loại lương thực thực phẩm,
có giá trị dinh dưỡng cao đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình. Điển hình là hệ thống VAC
được phát triển rộng rãi ở nhiều vùng nông thôn ở nước ta. Ưu điểm của các hệ thống
nông lâm kết hợp là có khả năng tạo ra sản phẩm lương thực và thực phẩm đa dạng
trên một diện tích đất mà không yêu cầu đầu vào lớn.
• Các sản phẩm từ cây thân gỗ: Việc kết hợp cây thân gỗ trên nông trại có thể tạo
ra nhiều sản phẩm như gỗ, củi, tinh dầu, v.v. để đáp ứng nhu cầu về nguyên vật liệu
cho hộ gia đình.
• Tạo việc làm: Nông lâm kết hợp gồm nhiều thành phần canh tác đa dạng có tác
dụng thu hút lao động, tạo thêm ngành nghề phụ cho nông dân.
• Tăng thu nhập nông hộ: Với sự phong phú về sản phẩm đầu ra và ít đòi hỏi về
đầu vào, các hệ thống nông lâm kết hợp dễ có khả năng đến lại thu nhập cao cho hộ
gia đình.
• Giảm rủi ro trong sản xuất và tăng mức an toàn lương thực: Nhờ có cấu trúc
phức tạp, đa dạng được thiết kế nhằm làm tăng các quan hệ tương hỗ (có lợi) giữa các
14
thành phần trong hệ thống, các hệ thống nông lâm kết hợp thường có tính ổn định cao
trước các biến động bất lợi về điều kiện tự nhiên (như dịch sâu bệnh, hạn hán, v.v.). Sự
đa dạng về loại sản phẩm đầu ra cũng góp phần giảm rủi ro về thị trường và giá cho
nông hộ.
2.2.1.2. Các lợi ích của nông lâm kết hợp trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
và môi trường
• Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên đất và nước
Hơn 20 năm nghiên cứu nông lâm kết hợp phối hợp với các kết quả nghiên cứu
về sinh thái học, nông nghiệp, lâm nghiệp và khoa học đất đã cho thấy các hệ thống
nông lâm kết hợp - nếu được thiết kế và quản lý thích hợp - sẽ có khả năng giảm dòng
chảy bề mặt và xói mòn đất; duy trì độ mùn và cải thiện lý tính của đất và phát huy
chu trình tuần hoàn dinh dưỡng, tăng hiệu quả sử dụng dinh dưỡng của cây trồng và
vật nuôi. Nhờ vậy làm gia tăng độ phì của đất, tăng hiệu quả sử dụng đất và giảm sức
ép của dân số gia tăng lên tài nguyên đất (Young, 1997).
Ngoài ra, trong các hệ thống nông lâm kết hợp do hiệu quả sử dụng chất dinh
dưỡng của cây trồng cao nên làm giảm nhu cầu bón phân hóa học, vì thế giảm nguy cơ
ô nhiễm các nguồn nước ngầm (Young, 1997).
• Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên rừng và đa dạng sinh học:
Thông qua việc cung cấp một phần lâm sản cho nông hộ, nông lâm kết hợp có
thể làm giảm tốc độ khai thác lâm sản từ rừng tự nhiên. Mặt khác, nông lâm kết hợp là
phương thức tận dụng đất có hiệu quả nên làm giảm nhu cầu mở rộng đất nông nghiệp
bằng khai hoang rừng. Chính vì vậy mà canh tác nông lâm kết hợp sẽ làm giảm sức ép
của con người vào rừng tự nhiên, giảm tốc độ phá rừng (Young, 1997).
Các hộ nông dân qua canh tác theo phương thức này sẽ dần dần nhận thức được
vai trò của cây thân gỗ trong việc bảo vệ đất, nước và sẽ có đổi mới về kiến thức, thái
độ có lợi cho công tác bảo tồn tài nguyên rừng.
Việc phối hợp các loài cây thân gỗ vào nông trại đã tận dụng không gian của hệ
thống trong sản xuất làm tăng tính đa dạng sinh học ở phạm vi nông trại và cảnh quan.
Chính vì các lợi ích này mà nông lâm kết hợp thường được chú trọng phát triển
trong công tác quản lý vùng đệm xung quanh các khu bảo tồn thiên nhiên và bảo tồn
nguồn tiền.
• Nông lâm kết hợp và việc làm giảm hiệu ứng nhà kính:
Nhiều nhà nghiên cứu gợi ý rằng sự phát triển nông lâm kết hợp trên qui mô lớn
có thể làm giảm khí CO2 và các loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác (Dioxon, 1995,
1996; Schroeder, 1994). Các cơ chế của tác động này có thể là: sự đồng hóa khí CO2
của cây thân gỗ trên nông trại; gia tăng lượng cacbon trong đất và giảm nạn phá rừng

15
(Young, 1997).
2.2.2. Tiềm năng và triển vọng phát triển nông lâm kết hợp ở Việt Nam
• Sự đa dạng về sinh thái môi trường ở Việt Nam
- Đa dạng về điều kiện lập địa (đất đai, địa hình và tiểu khí hậu)
- Đa dạng sinh học (cảnh quan và hệ sinh thái, loài và các biến bị di truyền dưới
loài)
• Sự phong phú và đa dạng về các kiên thức kỹ thuật bản địa về nông lâm kết hợp
• Nhu cầu phát triển nông lâm kết hợp của nhân dân
• Chính sách của Đảng và Nhà nước về việc hỗ trợ, ưu tiên phát triển nông lâm
kết hợp
• Sự quan tâm đầu tư cho nghiên có và phát triển nông lâm kết hợp trên thế giới.
2.2.3. Một số hạn chế trong nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp ở Việt Nam
Có thể chia các hiện thống nông lâm kết hợp ở Việt Nam thành 2 nhóm các hệ
thống nông lâm kết hợp bản địa và các hệ thống nông lâm kết hợp mới được đưa vào.
Một thực trạng đã được chỉ ra và phân tích bởi một số nhà nghiên cứu là: trong khi các
hệ thống bản địa hoạt động một cách có hiệu quả, là kế sinh nhai của nông dân từ
nhiều năm nay thì phần lớn các "mô hình" nông lâm kết hợp mới du nhập trong những
năm gần đây bộc lộ nhiều hạn chế về tính hiệu quả, độ bền vững, tính công bằng và sự
chấp nhận của người dân địa phương.
Vấn đề cốt lõi của sự hạn chế này là do các "mô hình" được thiết kế và áp dụng
theo lối suy diễn của người bên ngoài (thường là người miền xuôi), lại thường được áp
dụng một cách đồng bộ nên không phù hợp với các tính huống sinh thái nhân văn đa
dạng và đặc thù của từng địa phương. Việc sử dụng thuật ngữ "mô hình nông lâm kết
hợp" thay vì "hệ thống nông lâm kết hợp: hoặc "tập quán/phương thức nông lâm kết
hợp" có thể là nguyên nhân của lối suy nghĩ phát triển theo lối suy diễn đơn giản -"sao
chép và nhân rộng mô hình" trong phát triển nông lâm kết hợp ở nhiều vùng của nước
ta.
Hơn nữa, phương pháp tiếp cận nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp
thường thiên lệch về kinh tế - kỹ thuật cô lập, chưa phối hợp được các kỹ thuật mới
với các yếu tố kiến thức kỹ thuật, đặc điểm văn hóa và nhân văn truyền thống của các
cộng đồng địa phương.
Công tác phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp nhiều nơi vẫn tiến hành theo lối áp
đặt từ trên xuống, chưa phát huy được nội lực và tính tự chủ của nông dân và cộng
đồng dẫn đến tính bền vững của các chương trình phát triển còn thấp.
Các nghiên cứu phân tích đánh giá các mô hình thường còn quá chú trọng về yếu

16
tố kinh tế kỹ thuật và xem nhẹ khía cạnh xã hội, thể chế cũng như tương tác của các hệ
thống nông lâm kết hợp với môi trường và cảnh quang. Vẫn còn quá ít các kết quả
nghiên cứu so sánh hệ thống nông lâm kết hợp với các hệ thống nông nghiệp, lâm
nghiệp trên các phương diện sinh thái, môi trường và kinh tế do thiếu các dự án nghiên
cứu/điểm nghiên cứu dài hạn.

Việc qui hoạch phát triển nông lâm kết hợp thường được tiến hành một cách độc
lập tách rời với tiến trình qui hoạch sử đụng đất ở nhiều nơi nên thường dẫn đến việc
đưa các "mô hình" nông lâm kết hợp thay thế các loại hình sử dụng đất hiện có. Trong
khi đó về mặt nguyên lý thì việc phát triển nông lâm kết hợp phải được dựa trên cơ sở
chẩn đoán các hạn chế trong sử đụng đất hiện hành và điều chỉnh chúng hơn là thay
thế hoàn toàn (Young, 1987, 1997). Chính vì thế, phát triển nông lâm kết hợp cần phối
hợp và lồng ghép với tiến trình qui hoạch sử dụng đất cũng như qui hoạch quản lý khu
vực đầu nguồn.
Để có thể thúc đẩy quá trình phát triển nông lâm kết hợp trong thực tiễn có hiệu
quả, phù hợp với nông dân, đảm bảo tính bền vững và công bằng, cán bộ kỹ thuật cần
được trang bị các kiến thức và kỹ năng và thái độ có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác
nhau: sinh thái học, sinh thái nhân văn, các khoa học lâm nghiệp, nông học, chăn nuôi,
thủy sản, quản lý bảo tồn đất và nước, phân tích kinh tế nông trại, các phương pháp
nghiên cứu hệ thống và tiếp cận nghiên cứu-phát triển có sự tham gia, v.v… cũng như
sự am hiểu sâu sắc về điều kiện sinh thái và nhân văn cụ thể của từng địa phương.

17
Chương II
NGUYÊN LÝ VỀ NÔNG LÂM KẾT HỢP

1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP
1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Lịch sử phát triển các khái niệm về nông lâm kết hợp
Nông lâm kết hợp là một lĩnh vực khoa học mới đã được đề xuất vào thập niên
1960 bởi Keng (1969). Qua nhiều năm, nhiều khái niệm khác nhau được phát triển để
diễn tả hiểu biết rõ hơn về nông lâm kết hợp. Sau đây là một số khái niệm khác nhau
được phát triển cho đến hiện nay:
Nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý đất vững bền làm gia tăng sức sản
xuất tổng thể của đất đai, phối hợp sản xuất các loại hoa màu (kể cả cây trồng lâu
năm), cây rừng và/hay với gia súc cùng lúc hay kế tiếp nhau trên một diện tích đất, và
áp dụng các kỹ thuật canh tác tương ứng với các điều kiện văn hóa xã hội của dân cư
địa phương (Bene và các cộng sự, 1977).
Nông lâm kết hợp là một hệ thống sử dụng đất trong đó phối hợp cây lâu năm với
hoa màu và/hay vật nuôi một cách thích hợp với điều kiện sinh thái và xã hội, theo
hình thức phối hợp không gian và thời gian, để gia tăng sức sản xuất tổng thể của thực
vật trồng và vật nuôi một cách vững bền trên một đơn vị diện tích đất, đặc biệt trong
các tình huống có kỹ thuật thấp và trên các vùng đất khó khăn (Nan, 1987).
Nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý đất đai trong đó các sản phẩm của
rừng và trồng trọt được sản xuất cùng lúc hay kế tiếp nhau trên các diện tích đất thích
hợp để tạo ra các lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho cộng đồng dân cư tại địa
phương (PCARRD, 1979).
Nông lâm kết hợp là tên chung của những hệ thống sử dụng đất trong đó các cây
lâu năm (cây gỗ, cây bụi, cọ, tre, hay cây ăn quả, cây công nghiệp...) được trồng có suy
tính trên cùng một đơn vị diện tích qui hoạch đất với hoa màu và/hoặc với vật nuôi
dưới dạng xen theo không gian hay theo thời gian. Trong các hệ thống nông lâm kết
Hợp có mối tác động hỗ tương qua lại về cả mặt sinh thái lẫn kinh tế giữa các thành
phần của chúng (Lundgren và Raintree, 1983). Xem hình ở trang 21 để thấy rõ sự phối
hợp của 3 thành phần trên.
Các khái niệm trên đơn giản mô tả nông lâm kết hợp như là một loạt các hướng
dẫn cho một sự sử dụng đất liên tục. Tuy nhiên, nông lâm kết hợp như là một kỹ thuật
và khoa học đã được phát triển thành một điều gì khác hơn là các hướng dẫn. Ngày
nay nó được xem như là một ngành nghề và một cách tiếp cận về sử dụng đất trong đó
đã phối hợp sự đa dạng của quản lý tài nguyên tự nhiên một cách bền vững. Trong nỗ

18
lực để định nghĩa nông lâm kết hợp theo ý nghĩa tổng thể và mang đậm tính sinh thái
môi trường hơn, Leaky (1996) đã mô tả nó như là các hệ thống quản lý tài nguyên đặt
cơ sở trên đặc tính sinh thái và năng động nhờ vào sự phối hợp cây trồng lâu năm vào
nông trại hay đồng cỏ để làm đa dạng và bền vững sự sản xuất giúp gia tăng các lợi ích
về xã hội, kinh tế và môi trường của các nông trại nhỏ. Vào năm 1997, Trung Tâm
Quốc Tế Nghiên Cứu về Nông Lâm kết hợp (gọi tắt là ICRAF) đã xem xét lại khái
niệm nông lâm kết hợp và phát triển nó rộng hơn như là một hệ thống sử dụng đất giới
hạn trong các nông trại. Ngày nay nó được định nghĩa như là một hệ thống quản lý tài
nguyên đặt cơ sở trên đặc tính sinh thái và năng động nhờ vào sự phối hợp cây trồng
lâu năm vào nông trại hay đồng cỏ để làm đa dạng và bền vững sự sản xuất cho gia
tăng các lợi ích về xã hội, kinh tế và môi trường của các mức độ nông trại khác nhau
từ kinh tế hộ nhỏ đến "kinh tế trang trại". Một cách đơn giản, nông lâm kết hợp là
trồng cây trên nông trại. ICRAF đã định nghĩa nó như là một hệ thống quản lý tài
nguyên tự nhiên năng động và lấy yếu tố sinh thái làm chính, qua đó cây được phối
hợp trồng trên nông trại và vào hệ sinh thái nông nghiệp làm đa dạng và bền vững sức
sản xuất để gia tăng các lợi ích kinh tế, xã hội và sinh thái cho người canh tác ở các
mức độ khác nhau.
1.1.2. Các đặc điểm của nông lâm kết hợp
Với định nghĩa trên của ICRAF, một hệ canh tác sử dụng đất được gọi là nông
lâm kết hợp có các đặc điểm sau đây:
• Kỹ thuật nông lâm thường bao gồm hai hoặc nhiều hơn hai loại thực vật (hay
thực vật và động vật) trong đó ít nhất phải có một loại thân gỗ đa niên.
• Có ít nhất hai hay nhiều hơn sản phẩm từ hệ thống.
• Chu kỳ sản xuất thường dài hơn là một năm.
• Đa dạng hơn về sinh thái (cấu trúc và nhiệm vụ) và về kinh tế so với canh tác
độc canh
• Cần phải có một mối quan hệ hỗ tương có ý nghĩa giữa thành phần cây thân gỗ
và thành phần khác.
Trong các hệ thống Nông lâm kết hợp sự hiện diện của các mối quan hệ tương hỗ
bao gồm về sinh thái và kinh tế giữa các thành phần của hệ thống là đặc điểm cơ bản.
Theo Nair (1987), các đặc điểm mấu chết của hệ thống nông lâm kết hợp đã được
đa số các nhà khoa học chấp nhận như sau:
• Nó là tên chung để chỉ các hệ thống sử dụng đất bao gồm việc trồng các cây
lâu năm kết hợp với hoa màu vàlhay gia súc trên cùng một đơn vị diện tích;
• Phối hợp giữa sự sản xuất các loại sản phẩm với việc bảo tồn các nguồn tài
nguyên cơ bản của hệ thống;

19
• Chú trọng sử dụng các loài cây địa phương, đa dụng;
• Hệ thống đặc biệt thích hợp cho điều kiện hoàn cảnh dễ bị thoái hóa và đầu tư
thấp;
• Nó quan tâm nhiều hơn về các giá trị dân sinh xã hội so với các hệ thống sử
dụng đất khác;
• Cấu trúc và chức năng của hệ thống thì phong phú đa dạng hơn so với canh tác
độc canh.
Tóm lại, nông lâm kết hợp với sự phối hợp có suy tính giữa các thành phần khác
nhau của nó đã mang đến cho các hệ thống sản xuất nông nghiệp các điểm chính sau:
• Tạo nên một hệ thống quản lý đất đai bền vững.
• Gia tăng năng suất và dịch vụ trên một đơn vị diện tích sản xuất.
• Sắp xếp hoa màu cách tác phù hợp giữa nhiều thành phần cây lâu năm hoa
màu và/hay vật nuôi theo không gian và thời gian trên cùng một diện tích đất.
• Đóng góp vào phát triển cho các cộng đồng dân cư về các mặt dân sinh, kinh
tế và hoàn cảnh sinh thái mà vẫn tương thích với các đặc điểm văn hoá, xã hội
của họ.
• Kỹ thuật của nó mang đậm nét bảo tồn sinh thái môi trường.
1.1.3. Đặc điểm của hệ thống Nông lâm kết hợp phù hợp
Một hệ thống Nông lâm kết hợp phù hợp khi hội đủ các điều kiện sau đây:
+ Có sức sản xuất cao
• Sản xuất các lợi ích trực tiếp như lương thực, thức ăn gia súc, chất đốt, sợi, gỗ,
cừ cột và xây dựng, các sản phẩm khác như chai, mủ, nhựa, dầu thực vật,
thuốc trị bệnh thực vật...v.v.
• Sản xuất các lợi gián tiếp hay "dịch vụ" như bảo tồn đất và nước (xói mòn đất,
vật liệu tủ đất, v.v..) cải tạo độ phì của đất (phân hữu cơ, phân xanh, bơm
dưỡng chất từ tầng đất sâu, phân huỷ và chuyển hoá dưỡng chất), cải thiện
điều kiện tiểu khí hậu (băng phòng hộ, che bóng) làm hàng cây xanh,..v.v.
• Gia tăng thu nhập của nông dân.
+ Mang tính bền vững
• Áp dụng các chiến thuật bảo tồn đất và nước để đảm bảo sức sản xuất lâu dài .
• Đòi hỏi có vài hình thức hỗ trợ trong kỹ thuật chuyển giao để đảm bảo sự tiếp
nhận các kỹ thuật bảo tồn đặc biệt đối với các nông dân đang ở mức canh tác
tự cung tự cấp (thí dụ các động cơ về quyền sử dụng, canh tác trên đất, các hỗ
trợ về kỹ thuật và tín dụng..v.v.).
20
+ Mức độ chấp nhận của nông dân
• Kỹ thuật phải phù hợp với văn hoá/chấp nhận được (tương thích với phong
tục, tập quán, tín ngưỡng của nông dân).
• Để đảm bảo sự chấp nhận cao, nông dân phải được tham gia trực tiếp vào lập
kế hoạch, thiết kế và thực hiện các hệ thống nông lâm kết hợp.
1.2. VAI TRÒ CỦA NÔNG LÂM KẾT HỢP
Cơ hội đóng góp quan trọng của nông lâm kết hợp được đặt trên hai cơ sở sau:
Hoàn cảnh tự nhiên: nông lâm kết hợp dựa vào các lợi ích của rừng và cây lâu
năm đối với đất và môi trường như:
• Bảo tồn và cải thiện đất đai
• Bảo tồn nước
• Cải thiện điều kiện tiểu khí hậu
• Các lợi ích khác.
Dân sinh kinh tế: Nông lâm kết hợp lấy tiền đề hỗ trợ các điều kiện dân sinh
kinh tế của nông dân nghèo và không có đất canh tác ở vùng cao. Họ là nhóm đối
tượng thiếu tài nguyên và hỗ trợ, thất nghiệp và thường bị đẩy canh tác ở các vùng đất
đai cằn cỗi. Do vậy, Nông lâm kết hợp tập trung giải quyết:
• Công ăn việc làm
• Nguồn nguyên liệu cho tiểu thủ công nghiệp
• Nguồn lương thực, năng lượng (gỗ củi), thức ăn cho gia súc, v.v., và
• Nguồn vật liệu để xây nhà, nông trại, vv.
1.3. PHẠM VI GIỮA NÔNG LÂM KẾT HỢP VÀ LÂM NGHIỆP XÃ HỘI
Nông lâm kết hợp là một ngành kỹ thuật mà mục tiêu chính của nó là phát triển
những hệ thống sản xuất vững bền. Nó trả lời không chỉ cho những vấn đề như loại
hoa màu hay gia súc nào được phối hợp? xen như thế nào trong nuôi trồng? làm sao tài
nguyên đất và rừng được bảo tồn? và vv.. mà còn tìm ra biện pháp để giải quyết các
khó khăn, phục vụ các nhu cầu của nông dân và các cộng đồng vùng cao nhằm cân đối
phát triển và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
Lâm nghiệp xã hội là một cách tiếp cận mới đặt trọng tâm tăng cường năng lực
cho con người để quản lý tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững.
Một hệ thống kỹ thuật nông lâm kết hợp có thể được sử dụng không những cho
dân ở vùng cao mà còn ở vùng đồng bằng, cho các nông dân cá thể lẫn cả một cộng
đồng dân cư. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, nông lâm kết hợp là một trong nhiều ngành
kỹ thuật chính đang được sử dụng trong các chương trình lâm nghiệp xã hội vì đối
21
tượng khách hàng chính của cả hai là cư dân nghèo, thiếu tài nguyên ở vùng cao. Vì
vậy, có thể nói rằng hiện nay nông lâm kết hợp là một trợ thủ kỹ thuật thích hợp nhất
cho chiến lược phát triển lâm nghiệp xã hội ở vùng cao.

2. PHÂN LOẠI CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP


2.1. QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC ĐỂ PHÂN LOẠI CÁC HỆ THỐNG NÔNG
LÂM KẾT HỢP
Nông lâm kết hợp như đã được khái niệm ở trên là một lĩnh vực khoa học mới
đặt cơ sở trên các hiểu biết và phát triển riêng biệt tại mỗi vùng, và dựa vào các nghiên
cứu nhằm bổ sung thêm thành các hệ thống mới. Vì thế, nhiều tác giả đã cố gắng phân
loại các mô hình nông lâm khác nhau vào một bảng sắp xếp thống nhất Nair, 1989 đã
tổng kết các đặc điểm của phương thức nông lâm và nêu ra một số nguyên tắc đặt cơ
sở cho phân loại như sau:
• Cơ sở cấu trúc: dựa trên cấu trúc của các thành phần, bao gồm sự phối hợp
không gian của các thành phần cây gỗ, sự phân chia theo tầng thẳng đứng của các
thành phần hỗn giao với nhau và sự phối hợp theo thời gian khác nhau.
• Cơ sở chức năng: dựa trên chức năng chủ yếu hay vai trò của các thành phần
trong hệ thống, chủ yếu là thành phần thân gỗ (thí dụ nhiệm vụ sản xuất như là sản
xuất thực phẩm, thức ăn gia súc, củi chất đốt hay nhiệm vụ phòng hộ chẳng hạn như
đai cản gió, rừng phòng hộ chống cát bay, bảo vệ đất chống xói mòn,bảo vệ vùng đầu
nguồn nước, bảo dưỡng đất đai.
• Cơ sở kinh tế xã hội: dựa trên các mức độ đầu tư vào quản lý nông trại (thấp
hay cao) hay cường độ hay tầm mức của sự quản trị và mục đích thương mại (tự cung
tự cấp, sản xuất hàng hóa hay cả hai).
• Cơ sở sinh thái: dựa vào điều kiện sinh thái và sự tương thích sinh thái của các

22
hệ thống do nhận định rằng một vài loại hệ thống thích hợp hơn cho một số vùng sinh
thái như vùng khô hạn, bán khô hạn, nhiệt đới ẩm, vv.
Các nguyên tắc phân loại trên rõ ràng có quan hệ lẫn nhau, chẳng hạn như các
nguyên tắc dựa vào cấu trúc tầng và dựa vào chức năng thường được đặt làm cơ sở để
phân chia hệ thống, còn các nguyên tắc khác như là dân sinh kinh tế, vùng sinh thái
được sử dụng làm nền tảng để chia các nhóm theo mục đích.
2.1.1. Phân loại theo cấu trúc của hệ thống
2.1.1.1. Dựa trên tính chất của các thành phần
Trong hệ thống nông lâm điển hình có ba thành phần chính là: cây thân gỗ, cây
hoa màu và vật nuôi. Nó dẫn đến sự phân loại sau đây:
- Phương thức kết hợp cây lâu năm và hoa màu
- Phương thức kết hợp cây lâu năm, đồng cỏ và gia súc
- Phương thức kết hợp hoa màu, đồng cỏ gia súc và cây lâu năm
2..1.1.2. Căn cứ trên sự sắp xếp của các thành phần
- Theo không gian
+ Hệ thống hỗn giao dày (thí dụ như hệ thống vườn nhà)
+ Hệ thống hỗn giao thưa (như hệ thống cây trên đồng cỏ)
+ Hệ thống xen theo vùng hay băng (canh tác xen theo băng)
- Theo thời gian
+ Song hành cả đời sống
+ Song hành giai đoạn đầu
+ Trùng nhau một giai đoạn
+ Tách biệt nhau
+ Trùng nhau nhiều giai đoạn
2.1.2. Phân loại theo chức năng của các hệ thống
Các hệ thống nông lâm kết hợp có thể có các chức năng như:
1. Sản xuất (sản xuất một hay nhiều sản phẩm để tự cung tự cấp hay sản xuất
hàng hoá).
2. Phòng hộ (để che chắn và bảo vệ các hệ thống sản xuất khác).
3. Kết hợp giữa sản xuất và phòng hộ
2.1.3. Phân nhóm theo vùng sinh thái
Các hệ thống nông lâm kết hợp có.thể được phân chia tuỳ theo từng vùng sinh

23
thái khác nhau. Nhiều hệ thống có thể có cấu tạo và sắp xếp các thành phần giống
nhau nhưng được phân loại khác do chúng được bố trí ở các hoàn cảnh sinh thái khác
nhau như vùng đồi núi, vùng cao, vùng thấp; vùng khô, vùng ngập nước; khí hậu và
đất đai khác nhau. Thí dụ: hệ thống VAC được phát triển khắp Việt Nam nhưng chúng
ta có thể phân biệt VAC ở vùng núi hay đồng bằng, miền Bắc, Tây Nguyên hay ở đồng
bằng sông Cửu Long v.v.
2.1.4. Phân nhóm theo tình trạng dân sinh kinh tế
Các hệ thống nông lâm kết hợp còn được phân chia theo tình trạng và mục tiêu
của sản xuất như:
• Sản xuất hàng hóa: khi mà hệ thống cho đầu ra là các sản phẩm khác nhau để
bán ra thị trường để lấy lời.
• Tự cung tự cấp: khi hệ thống sử dụng đất sản xuất cung cấp các sản phẩm dùng
trong gia đình như thỏa mãn các nhu cầu về lương thực thực phẩm cho nông hộ.
• Trung gian cả hai thứ: hệ thống sản xuất để thỏa mãn cả nhu cầu tại chỗ của
nông hộ và sản xuất hàng hóa cho thị trường.
Hơn thế nữa các yếu tố dân sinh xã hội và văn hoá cũng ấn định những nét riêng
lẻ cho từng hệ thống kỹ thuật nông lâm kết hợp. Tại một địa điểm đồng nhất về các
yếu tố tự nhiên, sinh thái, một kỹ thuật như VAC có thể được phân biệt khác nhau do
được áp dụng bởi tình trạng kinh tế (giàu, trung bình hay nghèo) của nông hộ hoặc do
các nhóm dân khác nhau (dân tộc ít người ở địa phương, người kinh ở đồng bằng,
người di cư ở các vùng khác.v.v.)
2.2. PHÂN TÍCH HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP CỦA CÁC HỆ THỐNG NÔNG
LÂM KẾT HỢP NHIỆT ĐỚI
Các loại hệ thống nông lâm kết hợp được xác định ở một vùng riêng biệt nào đó
do các mức độ của yếu tố sinh thái nông nghiệp tại chỗ. Tuy nhiên, nhiều yếu tố dân
sinh kinh tế, chẳng hạn như áp lực dân số, tình trạng lực lượng lao động sẵn có và yếu
tố thị trường cũng đã có tác động tạo nên các biến tướng của các hệ thống phân loại
nông lâm kết hợp như ảnh hưởng của yếu tố khí hậu và sinh thái tự nhiên. Đôi khi các
yếu tố dân sinh kinh tế lại có ảnh hưởng nhiều hơn là các yếu tố sinh thái môi trường.
Ngay cả trong trường hợp nhiều hệ thống điển hình ở các vùng sinh thái địa lý đặc biệt
như hệ thống canh tác nương rẫy và hệ thống taungya, vẫn có rất nhiều hình thái khác
nhau ấn định bởi một vài yếu tố dân sinh kinh tế nào đó.
Một cách tổng quát các yếu tố sinh thái và hoàn cảnh sẽ xác định phân loại chính
các hệ thống nông lâm kết hợp khác nhau cho một vùng địa lý, nhưng sự đa dạng của
hệ thống và mức độ quản lý khác nhau lại tùy thuộc nhiều của áp lực dân số và sức sản
xuất của đất đai tại chỗ. Các hệ thống vườn hộ đa chủng loại nhiều tầng tán là ví dụ
cho nhận định kể trên. Mặc dù các hệ thống này chỉ thường thấy ở vùng đồng bằng

24
ẩm, chúng cũng thấy rãi rác ở các hoàn cảnh đông dân cư ở các vùng sinh thái khác.
Trong phân tích cấu tạo và chức năng của các hệ thống này, Femades và Nair (1986)
đã phát hiện rằng mặc dù diện tích trung bình của các vườn hộ này thường nhỏ hơn 0,5
ha mà chúng vẫn bao gồm một số lượng lớn cây thân gỗ và thân thảo trong cấu trúc
của vườn đã được thiết kế khéo léo tạo thành 3 đến 5 tầng tán khác nhau, chiếm các vị
trí và giữ các chức năng khác nhau trong hệ thống. Các yếu tố dân sinh kinh tế có chi
phối rõ rệt đến các chức năng chính của kỹ thuật nông lâm kết hợp. Thí dụ như nhiệm
vụ chính của kỹ thuật nông lâm kết hợp ở vùng đất dốc là kiểm soát xói mòn và bảo
tồn đất đai; ở nơi có tác hại của gió, chức năng này phải được thể hiện bởi đai chắn gió
và đai phòng hộ; và ở nơi có nhu cầu gỗ chất đốt, chức năng của hệ thống có thể là sản
xuất cây làm chất đất. Còn có một số hệ thống nông lâm kết hợp khác có mục đích cải
tạo đất thoái hóa, bỏ hóa (thí dụ, đất bị bào mòn cằn cỗi đi hay đã được chăn thả gia
súc quá mức, hay đất bị nhiễm mặn hay quá kiềm). Do vậy, sự ưu thế của vườn hộ và
các hệ thống đa tầng ở vùng đồng bằng phì nhiêu hay ở nơi có tiềm năng nông nghiệp
cao là một biến thể một đầu của hệ thống trong khi một đầu khác của hệ thống là kỹ
thuật đồng cỏ phối hợp với gia súc, và vô số các biến thể khác giữa 2 cực đoan này đã
chứng tỏ rằng các biến động về hoàn cảnh sinh thái của một khu vực là yếu tố chính để
xác định sự phân bố và mức độ tiếp nhận của các hệ thống nông lâm kết hợp cá biệt.
Sự phân bố về mặt sinh thái và địa lý của các hệ thống nông lâm kết hợp chính
trên thế giới đã được Nair (1989) tổng kết một cách có hệ thống. Tuy nhiên, cần cẩn
thận khi thể hiện và suy luận các bảng "biểu đồ nông lâm kết hợp" này vì nó chỉ khái
quát giới thiệu các loại hệ thống nông lâm kết hợp ở vùng nhiệt đới tại một số khu vực
chính nhằm phân chia có hệ thống trên phạm vi toàn thế giới, mặc dù khá quan trọng
nó cũng không chỉ rõ toàn cảnh kinh tế của hệ sử dụng đất ở đó. Ngược lại, một vài kỹ
thuật, như : "cây đa dụng trên nông trại", được phát triển khắp mọi điều kiện địa lý và
hoàn cảnh, nhưng rất ít hệ thống này, thí dụ như kỹ thuật trồng Acacia albida và
Prosopis sp. Ở các vùng khô hạn, được
xếp loại như là các hệ thống nông lâm
kết hợp riêng biệt hay trình bày trong
các giản đồ nông lâm trên thế giới. Một
lợi điểm nổi bật của sự phân tích các
yếu tố sinh thái địa lý, hoàn cảnh là
chúng ta có thể phân nhóm dễ dàng các
hệ thống khác nhau thành các nhóm
chính theo điều kiện sinh thái địa lý mà
không xét đến các ảnh hưởng của dân
sinh kinh tế xã hội.

25
Bảng 1. Các biện pháp phân loại các hệ thống và kỹ thuật Nông lâm kết hợp ở
phạm vi thế giới (Nair, 1989)
Phân cấp các hệ thống Chia nhóm các hệ thống
(đặt cơ sở trên cấu tạo và chức năng của chúng) (căn cứ vào phạm vi và cách quản trị của
chúng)
Cấu tạo(tính chất sắp xếp của các thành Chức năng Sự thích ứng với Mức độ quản lý
phần, đặc biệt đối với thành phần cây (nhiệm vụ và/hay điều kiện sinh thái và dân sinh kinh
gỗ). các xuất phẩm nông nghiệp tế
của các thành
phần)
Tính chất của các Sắp xếp của các
thành phần thành phần
Hệ nông lâm Theo không gian Chức năng sản Hệ thống của/vì Căn cứ vào mức
(phối hợp hoa Hỗn giao dày (t.d. xuất Vùng đồng bằng độ của đầu tư kỹ
màu và cây hay vườn hộ) Lương thực nhiệt đới ẩm thuật.
bụi đa niên) Hỗn giao thưa (t.d. Thức ăn gia súc Vùng cao nguyên Đầu tư ít (quảng
Hệ lâm và đồng các hệ thống cây Gỗ chất đốt nhiệt đới ẩm canh)
cỏ (phối hợp đồng trồng trong đồng Các loại gỗ khác (cao hơn 1.200m Đầu tư trung bình
cỏ chăn nuôi với cỏ chăn thả) Các loại sản so với mực nước Đầu tư nhiều
rừng cây lâu năm) Băng (chiều rộng phẩm khác biển thí dụ ở Căn cứ vào tỉ lệ
Hệ nông, lâm và của băng bao gồm Chức năng phòng Andes, Nepal, chi phí/lợi nhuận
đồng cỏ (Phối nhiều hơn một cây) hộ Maylaysia) Sản xuất hàng hóa
hợp hoa màu, cây Trồng cây làm Đai cản gió Vùng đồng bằng Sản xuất tự túc
lâu năm và đồng ranh giới (cây Đai phòng hộ nhiệt đới bán ẩm Sản xuất cho cả
cỏ chăn nuôi) trồng làm ranh giới Bảo vệ đất (thí dụ như ở hai.
Các hệ thống trại hay nhà) Cải tạo đất trảng cỏ ở Phi
khác (nuôi ong Theo thời gian Che bóng (cho châu, Cerrado của
với cây và hoa Trùng nhau hoa màu, gia súc, Nam Mỹ)
màu, kết hợp thủy Xếp lên nhau và con người) Vùng cao nguyên
sản và rừng trồng Chồng lên nhiệt đới bán ẩm
ngập mặn, phèn) Cách đoạn phân (Cao nguyên nhiệt
biệt đới ở Kenya,
Xen vào Ethiopia)

3. VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN CÂY LÂU NĂM TRONG CÁC HỆ THỐNG
NÔNG LÂM KẾT HỢP
3.1. CHỨC NĂNG PHÒNG HỘ CỦA CÂY LÂU NĂM
Nhiều kết quả thí nghiệm đã chứng minh rằng rừng ẩm nhiệt đới là thảm thực vật
thích hợp nhất cho đất ở vùng nhiệt đới đặc biệt là vùng đất dốc. Mặc dù, các hệ thống
nông lâm kết hợp không thể sao chép nguyên bản rừng tự nhiên về mặt bảo vệ điều
kiện sinh thái, việc trồng cây lâu năm vào các hệ thống nông lâm kết hợp sẽ thúc đẩy
mạnh tính chất phòng hộ của các nông trại ở vùng đồi núi.

26
3.1.1. Cây giúp phục hồi và lưu giữ độ phì của đất
Phần hấp dẫn của kỹ thuật nông lâm kết hợp được tìm thấy trong khả năng của
cây trồng lâu năm đối với lưu giữ và phục hồi độ phì của đất đai qua ảnh hưởng đến lý,
hóa tính và chu trình chất dinh dưỡng của đất
3.1.1.1. Ảnh hưởng đến lý tính của đất
Đất dưới cây lâu năm có khuynh hướng phát triển cấu tượng ổn định và giữ nước
tốt do chất hữu cơ tự vật rụng và rễ rã mục của cây (Young, 1987). Nair (1987) trong
bài tổng hợp các hệ thống sử dụng đất nhau đã đề cập rằng "việc đưa cây lâu năm vào
trồng vào nông trại cho kết quả là lý tính đất được cải tạo tết hơn về độ thấm nước, khả
năng giữ nước, cấu tượng, và chế độ nhiệt". Tuy nhiên, lưu ý rằng để đạt được các cải
thiện trên, đất cần thời gian tác động lâu dài của cây lâu năm.
Các kết quả nghiên cứu đã chứng tỏ rằng khả năng giữ nước của đất đã gia tăng
với đất có trồng cây Albizzia albida so với không trồng (Felker, 1976).Các thí nghiệm
khác đã chứng tỏ rằng cây A. albida ở Sahel và Prosopis cineraria ở Rajasthan, Ấn Độ
đã làm gia tăng hàm lượng sét của đất dưới tán các cây này (Jung, 1966; Mann và
Saxena, 1980 được trích dẫn bởi Sanchez, 1987).
Để có thêm chứng cớ rõ ràng về ảnh hưởng của cây trong các hệ thống nông lâm
kết hợp cần thêm nhiều thí nghiệm khác để làm sáng tỏ đặc biệt đối với sự cải thiện lý
tính đất của cây. Tuy nhiên, căn cứ vào các chứng cứ gián tiếp được trình bày ở trên,
cũng như các bằng cớ hiển nhiên của sự gia tăng chất hữu cơ trong đất, nhiều tác giả
đã đưa ra các giả thuyết cho rằng trong các hệ thống nông lâm kết hợp cây lâu năm cải
thiện được sức sản xuất của đất.
3.1.1.2. Ảnh hưởng đến hóa tính của đất
- Giữ gìn được chất hữu cơ trong đất: Cây lâu năm thường được đánh giá là
làm gia tăng hay ít nhất là giữ gìn được hàm lượng chất hữu cơ trong đất (Young, 1986
được chú dẫn bởi Sanchez, 1987). Một sự gia tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất sẽ
là nền tảng cho sự cải tạo độ phì đất trong kỹ thuật nông lâm kết hợp (Avery, 1988).
Hiện tượng này được giải thích chủ yếu đo lượng vật rụng trên không và sự rã mục của
hệ rễ cây dưới đất (Young, 1987). Một thí nghiệm của Kellman (1979) về ảnh hưởng
của các loài cây lâu năm ở vùng trảng khô Savanna ở Belize trên đất litisols bị phong
hóa mạnh và nghèo chất dinh dưỡng đã chứng tỏ ảnh hưởng này của cây đối với hóa
tính của đất. Bảng dưới đây đã chứng tỏ rằng đất dưới cây trồng Byrsohima sp. có hàm
lượng chất hữu cơ cao hơn so với ngoài trảng trống. Một thí nghiệm tương tự khác
được tiến hành ở India đã phát hiện rằng hàm lượng carbon hữu cơ ở đất dưới tán cây
Prosopis sp. cao hơn so với vùng kế cận không có cây (Singh và Lal, 1969).
- Tăng thêm các chất dinh dưỡng vào đất: điều này giải thích tại sao cần lưu ý
vai trò của các cây họ Đậu cố định đạm. Một cách tổng quát, cây lâu năm đã hoàn trả
các chất dinh dưỡng vào đất thông qua vật rụng của chúng (Nair, 1984). Trong một thí
27
nghiệm so sánh đất dưới rừng cây Byrsohima sp. và đất ở trảng bụi, kết quả phân tích
cho thấy do sự đóng góp của vật rụng mà đất dưới rừng cây trên có hàm lượng các
chất Ca, K, Mg, Na, và phần trăm lượng bazơ gia tăng cao hơn so với đất trảng cỏ bụi.
Kellman (1978) cũng đã chứng tỏ rằng các dinh dưỡng Ca, Mg, K, Na, PO4 và N gia
tăng khi khảo sát đất ở vùng dưới tán rừng từ các vùng trống trải xung quanh. Tương
tự như vậy Singh và Lal, 1969 cũng đã có kết quả về tổng số N, P, và K cao hơn ở
dưới tán cây so với các vùng trống trải xung quanh.
Juo và Lal (1977) được trích bởi Sanchez (1987) đã so sánh các ảnh hưởng của
hệ thống hưu canh dùng cây keo dậu so với cây bụi hoang dã trên đất Alfisol ở Tây
Nigeria về một số chỉ tiêu hóa tính của đất. Sau 3 năm, trong đó cây keo dậu được cắt
xén hàng năm để làm chất tủ và bồi dưỡng cho đất, đất hưu canh với cây keo dậu cho
khả năng hoán chuyển cũng như mức độ trao đổi của các chuồn Ca++ và K+ cao khi so
sánh với đất hưu canh bằng cây cỏ bụi hoang dại.
Nhiều khả năng khác của cây lâu năm bổ sung chất dinh dưỡng cho đất đã được
nghiên cứu và tổng hợp thành tài liệu bao gồm sự cố định đạm của các cây họ Đậu và
cộng sinh của nấm mycorrhizae với rễ cây (Young, 1987). Thí dụ, một rừng thuần loại
cây Leucaena leucocephala ở Philippin được cắt tỉa liên tục sau thời gian từ 8 đến 12
tuần có thể cho 10 đến 24 tấn/ha phân xanh tương đương với 70 đến 500 kg Nhìn
(Vergara, 1982).
Các loài cây họ Đậu thường được các nhà khoa học nông lâm lưu tâm như là một
loài cây phù hợp để trồng trong hệ thống. Điều này do vai trò cố định đạm của cây
(Nair, 1984). Felker (1978) cũng đã xác định rằng cây Acacia albida trồng với mè
(vừng) và đậu phụng (lạc) tại Tây Phi đã cố định 21 kg N/ha/năm, trong khi cây
Prosopis tamarugo ở Chi Lê trên đất phù sa mặn cố định đến 198 kg N/ha/năm (Pak và
cộng sự 1977). Trong thí nghiệm của Kellman đã được dẫn chứng trên, tác giả đã quan
sát thấy rằng mức độ chất dinh dưỡng ở đất quanh gốc cây (Byrsohima sp) có thể đạt
được bằng và ngay cả cao hơn mức độ của các vùng rừng trảng khô kế cận. Do các cây
mọc ở trảng thường không có hệ rễ sâu, nên nhiều giả thuyết giải thích rằng hấp thu
chất dinh dưỡng hòa tan trong lượng nước mưa là nguồn chính cung cấp chất dinh
dưỡng cho cây sinh trưởng. Liên hệ với điều này, Buông và Sander (1984) cũng đã cho
rằng ở những lập địa đất nghèo chất dinh dưỡng các nhập lượng chất dinh dưỡng từ
nước mưa trở nên rất ý nghĩa cho cây.
- Làm cho chu trình chất dinh dưỡng trở nên hữu hiệu hơn qua các hiện
tượng cộng sinh của vi khuẩn Rhizobium với rễ cây họ Đậu, bơm chất dinh dưỡng ở
tầng sâu lên đất mặt, và sản xuất phân xanh. Một giả thuyết khác về lợi ích của kỹ
thuật nông lâm đối với sự cải tạo đất là chu trình chuyển hóa hữu hiệu của các chất
dinh dưỡng trong hệ thống. Các cơ chế quan trọng cần chú ý là sự sử dụng các cây cố
định đạm họ Đậu, hiện tượng "bơm" chất dinh dưỡng ở tầng đất sâu lên lớp đất mặt
của cây lâu năm và việc dùng phân xanh trong canh tác.

28
Vai trò của các cây họ Đậu cố định đạm đã được nghiên cứu từ lâu và sự sử dụng
các cây họ Đậu làm gia tăng độ phì nhiêu của đất đã được chứng tỏ bởi nhiều thí
nghiệm của Young, 1987; Vergara, 1982. Nhiều tác giả cũng nhấn mạnh đến tiềm
năng của các loài cây này trong các hệ thống nông lâm kết hợp. Đạm tự do trong
không khí được cố định thành đạm hữu dụng nhờ các loài cây họ Đậu và các loài vi
khuẩn và nấm cố định đạm. Các chất đạm này sẽ cấu tạo sinh khối của thực vật và sẽ
trả lại cho đất qua vật rụng và rễ bị phân hủy để cung cấp dinh dưỡng lại cho các loài
thực vật khác.
Cơ chế quan trọng khác là hiện tượng "bơm chất dinh dưỡng lên" hay di chuyển
chất dinh dưỡng từ tầng đất sâu lên lớp đất mặt (Avery, 1987; Young, 1987. Hiện
tượng này giải thích rằng cây có hệ rễ sâu có thể hấp thu chất dinh dưỡng bị rửa trôi
xuống sâu và chuyển chúng thành hữu hiệu ở tầng đất mặt thông qua vật rụng cho các
loài hoa màu có rễ cạn (nông). Tuy vậy, cần lưu ý rằng chưa có đủ kết quả thí nghiệm
để giải thích cặn kẽ hiện tượng này một cách khoa học (1987). Một số hoài nghi đã
được Avery, 1987 tổng kết như sau:
• Không phải tất cả các cây lâu năm đều có rễ sâu hơn các loài cỏ hay cây tầng
thấp,
• Điều kiện ở rừng tự nhiên và rừng trồng có thể khác so với từng cá thề cây,
• Hiện tượng này có thể có ý nghĩa khi cây được trồng sau một thời gian dài
Cơ chế sau cùng về phân xanh được đề cập nhiều trong các hệ thống trồng xen
hoa màu với cây bụi họ Đậu hay kỹ thuật SALT sẽ được giới thiệu chi tiết trong các
chương sau.
3.1.2. Cây ngăn chặn xói mòn đất và cải thiện bảo tồn nước
Bảo tồn đất và nước là mối quan tâm chính cho vùng cao ở Việt Nam và các
nước nhiệt đới khác Vai trò của cây trong việc bảo tồn nước và kiểm soát xói mòn là
một trong các lợi ích của cây lâu năm khiến phải phối hợp trồng cây vào nông trại
(Nair, 1987). Nhiều thí nghiệm so sánh các vùng có tán cây che khác nhau trên các
diện tích canh tác và người ta đã phát hiện rằng lượng xói mòn đất và nước chảy trên
mặt đất sẽ giảm nhiều đinh tán rừng. Nghiên cứu của Kellman (1969) ở Mindanao
chứng tỏ rằng đất dưới tán rừng chỉ bị mất đi 0,25gam đất/ngày so với 3,2gam/ngày
của đất độc canh cây bắp. Tương tự như vậy, thí nghiệm ở núi Makiling tại Los Banos
đã chứng tỏ rằng đất rừng thứ 'sinh có tỉ lệ xói mòn thấp nhất trong khi đất làm rẫy có
lượng xói mòn cao nhất (Pacardo và Sam son, 1986).

29
Bảng 2. Mức độ xói mòn của các phương thức sử dụng đất khác nhau
(Theo Ohigbo và Lal, 1977)
Mức xói mòn (tấn tha)
Địa điểm Độ dốc (%) Lượng mưa (mm) Rừng Hoa màu Đất trống

Thượng Volga 0,5 850 0,1 0,6 - 0,8 10 - 20


Senegal 1,2 1200 0,2 7,30 21,3
Bờ biển Ngà 4,8 1200 0,1 1,76 18,3
Abidijar 7,0 2100 0,1 90,00

3.1.3. Cây cải tạo tiểu khí hậu và đất đai phù hợp cho trồng xen canh
Cây cải tạo tiểu khí hậu và đất đai của một địa điểm nhờ vào ảnh hưởng che chắn
của tán cây, giảm lượng bốc thoát hơi nước, cung cấp chất hữu cơ cho đất, cải thiện độ
thấm nước của đất, vv. Vì vậy cây thường được trồng để hỗ trợ tạo bóng che thích hợp
cho hoa màu và các cây trồng khác.
3.1.4. Cây chắn gió
Vận tốc gió cao có thể gây ra nhiều tác hại cho hoa màu. Bên cạnh các thiệt hại
cơ giới, gió mạnh sẽ dẫn đến bốc hơi nhiều tạo nên các khủng hoảng thiếu nước cho
cây hoa màu, nhất là ở các vùng khô. Cây có thể làm giảm vận tốc gió do tạo nên các
hàng rào chắn gió.
3.1.5. Cây làm hàng rào sống
Ở vùng nông thôn cây hàng rào sống quanh nông trại, vườn nhà ở.

30
3.2. CHỨC NĂNG SẢN XUẤT CỦA CÂY LÂU NĂM
Mặc dù chức năng chủ yếu của cây lâu năm trong hệ thống nông lâm là bảo tồn
sinh thái môi trường, cây lâu năm cũng cung cấp nhiều sản phẩm kinh tế có giá trị
như:
- Gỗ, gỗ xẻ, gỗ làm bột giấy và củi,
- Quả ăn được,

31
- Lá cây làm thức ăn cho gia súc,
- Nhựa và mủ dùng trong công nghiệp,
- Thuốc chữa bệnh sinh học,
- Thuốc chữa bệnh cho người và gia súc,
- Thực phẩm cho người và gia súc,
- các sản phẩm khác như chất nhuộm, trang trí,
V.v…
4. RỪNG TRONG CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP
4.1. VAI TRÒ BẢO VỆ SINH THÁI CỦA RỪNG
4.1.1. Sự mô phỏng cấu trúc và vai trò của rừng tự nhiên
Một nghiên cứu về hệ thống nông lâm kết hợp ở Philippin bởi Olofson (1993) đã
nêu ra một cấu tạo mà ông ta gọi là "cấu tạo mô phỏng thay thế rừng tự nhiên (AFS:
Altemative Forest-like Structure)". Đây là cấu tạo của những hệ thống nông lâm đã mô
phỏng cấu tạo của rừng tự nhiên. ông ta đã nêu các tính chất của các hệ thống trên như
sau:
• chỉ tiêu đa dạng sinh học cao;
• nhiều tầng tán;
• chu trình chất dinh dưỡng kín và nhanh;
• diễn thế tự nhiên theo từng đám
• có sự cộng hưởng giữa các hệ thống "nông lâm giống rừng tự nhiên" với các
hệ sinh thái rừng tự nhiên xung quanh.
Hệ thống lô rừng nhỏ của dân Ifugao ở Philippin (woodlot) là một thí dụ điển
hình của đặc tính này nơi mà cây gỗ, tre, mây và cây thuốc v.v. đã được trồng chung
với nhau. Sự đa dạng của nó có lúc phong phú hơn cả rừng tự nhiên Kỹ thuật cố gắng
mô phỏng theo các đặc tính của rừng tự nhiên có đặc điểm nổi bật về mặt sinh thái môi
trường. Thực tế, có nhiều trường hợp hệ thống bền vững do có được hỗ trợ phối hợp
lẫn nhau, thích ứng, và đa dạng nhất là khi xen nối tiếp với hệ sinh thái rừng tự nhiên
tại chỗ với các hệ canh tác nông lâm (Oldeman,1983). Hơn nữa, có đề nghị rằng hệ
sinh thái tự nhiên có thể được vận dụng làm cơ sở để chọn lọc xây dựng các kỹ thuật
nông lâm kết hợp từ các kết quả nghiên cứu về kiểu rừng trong đó các tập đoàn thực
vật sống liên kết hỗ trợ với nhau, hoặc lấy hệ sinh thái tự nhiên làm kiểu mẫu cho hệ
thống canh tác hoa màu trong nông nghiệp (Hart, 1980). Lasco,1987 cũng đã nghiên
cứu và nhận định rừng mưa nhiệt đới đã được xem như là cơ sở của việc xây dựng
hệ tị ung nông lâm kết hợp bền vững, đặc biệt là các hệ thống nhiều tầng.

32
Hart, 1980 cũng đã đưa ra một thí dụ về kỹ
thuật canh tác liên tiếp hoa màu dựa vào nguyên tắc
thay thế tự nhiên liên tiếp của rừng. Từ đó tác giả
này đã đề xuất hai giai đoạn tiến hành Giai đoạn thứ
nhất gồm trồng các loại đậu, bắp, khoai mì, và cây
mã đề trên đất mới khai phá. Giai đoạn hai sau đó
bằng trồng dừa, ca cao, và cao su xen với cây mã đề
Kiểu bố trí này được đặc trên cơ sở của các nghiên
cứu kết luận rằng trong quá trình thay thế tự nhiên
của rừng, không bao giờ các loài cây con dạng bình
ổn (climax) xuất hiện ở giai đoạn tiên phong của
rừng (Janzen,1975 được liệt kê bởi Hart, 1980).
Nhận định này tuy còn đang ở giai đoạn phôi thai
nhưng nó chứng tỏ một một hướng phát triển kỹ
thuật nông lâm kết hợp là vận dụng các hiểu biết về
rừng tự nhiên làm cơ sở cho thiết kế cả các hệ thống
nông nghiệp lẫn nông lâm kết hợp. Yêu cầu trước mắt hiện nay là cần nghiên cứu
nhiều thử nghiệm xem nguyên tắc này có tính khả thi không.
4.1.2. Sự tái tạo độ phì đất:
4.1.2.1. Hệ thống hưu canh (bỏ hóa)
Như đã được đề cập ở phần trước, canh tác rẫy được xem như là một hình thức
lâu đời của các hệ thống nông lâm kết hợp (Vergara, 1986) và do vậy được xem như là
khá bền vững trong sử dụng đất (Allen, 1985). Trong hệ thống này, đất được bỏ hóa để
phục hồi lại rừng sau một vài năm canh tác hoa màu nhằm tái tạo lại độ phì của đất.
Vào giai đoạn cuối của hưu canh, rừng lại được phát và đất để gia tăng lượng phân tro
trong đất và giảm công làm cỏ (Wamer, 1981). Cho nên có thể đánh giá là tất cả các hệ
thống hưu canh, nhiệm vụ chủ yếu của rừng tự nhiên là tái tạo lại độ phì và sức sản
xuất của đất. Thêm vào đó, rừng còn là nguồn cung cấp thực phẩm, gỗ, củi thuốc chữa
bệnh, vv...
4.1.2.2. Sử dụng vật rơi rụng của rừng để bón đất nông trại
Ở Nhật, Việt Nam và một số nước khác nông dân có tập quán giữ rừng kế cận
ruộng lúa của họ để thu lượm vật rụng từ rừng và bón chúng vào đất ruộng hàng năm.
Tuy nhiên, cần lưu ý sử dụng vật rơi rụng rừng là nguyên nhân làm kiệt quệ đất rừng
do phá vỡ chu trình biến dưỡng chất trong đất (Olofson, 1983).
Ở Tây Guatemala và Mexico, một kỹ thuật tương tự được áp dụng để chuyển hóa
rừng thành ruộng. Vật rơi rụng thu lượm sẽ được rải lên và vùi vào đất để cải thiện cấu
tượng và khả năng giữ nước của đất, nó còn được sử dụng như là vật liệu che tủ cho
đất (Olofson, 1983).

33
Tại Đông Bắc Thái Lan và vùng Tây Nguyên ở Việt Nam, một hệ thống truyền
thống là cây rừng trong ruộng lúa đã được người dân địa phương áp dụng trong các
rừng khô thưa hay trảng cỏ bụi có cây sao dầu nhằm lợi dụng được nguồn phân từ vật
rụng của cây rừng.
4.1.2.3. Kiểm soát chống xói mòn đất và nước chảy bề mặt
Trong hệ thống canh tác lúa theo bậc thang, người Ifugaos, Dao và Hmong đã
lưu ý bảo vệ đến thành phần rừng bao gồm rừng trồng và các rừng tự nhiên ở các vị trí
xung yếu để giảm lượng nước chảy bề mặt, xói mòn đất và điều tiết nước cần cho sinh
hoạt và canh tác (Olofson, 1980). Khả năng của rừng để bảo vệ đất và nước đã được
nghiên cứu nhiều như đã đề cập bài trước.
4.1.2.4. Rừng phòng hộ và tạo bóng cho cây trồng
Một vài loại hoa màu đòi hỏi bóng che ở trên hay ừ nhất chúng có thể chịu đựng
để phát triển dưới bóng che. Rừng tự nhiên đã được dùng trong các hệ thống nông lâm
kết hợp vì giá trị che bóng của nó Cây cà phê thường dùng được trồng dưới tán rừng
thông (Pinus kesiya) (Penafiel và Botengan, 1985) hay dưới tán rừng thứ sinh
(Ronquillo và nhiều người khác, 1987), (Lasco, 1987c), cây quế cũng được trồng dưới
bóng của cây khác hay rừng thứ sinh thí dụ ở Trà Mi Quảng Nam, Văn Chấn Yên Bái.
Hệ thống Ifugao cũng được trồng xen bằng nhiều loại cây hoa màu và thực vật có lợi
dưới tán rừng.
4.2. VAI TRÒ KINH TẾ, VĂN HÓA VÀ XÃ HỘI CỦA RỪNG
4.2.1. Kinh tế
Rừng là nơi cung cấp các nguồn lợi kinh tế cho người dân và xã hội như gỗ các
loại, các nguyên liệu giấy sợi và nguyên liệu cho công nghiệp. Hơn nữa, rừng còn
cung cấp các loại sản phẩm ngoài gỗ như thực phẩm cho các bộ lạc người dân tộc
khiến rừng trở thành một thành phần cất lõi của hệ thống nông lâm đối với họ. Thí dụ,
người Tagbanua ở đảo Palawan, Philippin đã thu nhặt thực phẩm trong rừng khi họ
khan hiếm gạo hay cây có củ (Wamer, 1981). Tương tự như vậy một số lớn các bản
làng dân tộc ít người ở Việt Nam có nguồn thực phẩm thu hái từ rừng như thu hái quả
hạt cây rừng trong rừng tự nhiên đặt biệt trong những thời kỳ giáp hạt, đói kém Nấm
rừng, cây có củ, ốc, dúi, rắn, trăn, các loại động vật bò sát, mật ong, cá, củi khô, gỗ
mục, thuốc thực và động vật chữa bệnh, ngơ, mây, tre, chai, dầu, vv... là những sản
phẩm từ rừng thường được dân cư sinh sống trong và gần rừng thu hoạch mà không
ảnh hưởng đến sự phát triển của rừng. Ở vùng rừng tràm Đồng Tháp Mười, cây tràm
trong mùa ra hoa được bảo vệ cho phát triển nuôi ong lấy mật, một nguồn thu nhập
quan trọng cho nông dân ở đây.
4.2.2. Văn hóa và xã hội
Nhiều nơi ở vùng núi, rừng được xem là nơi thiêng liêng nơi có các vị thần thiện

34
và ác và họ xem đó là nơi bảo vệ bản làng và nhà cửa của họ tránh sự xâm lấn của các
ác thần. Tín ngưỡng của họ đã chứng tỏ rằng nếu rừng bị chặt hạ, nó sẽ mất giá trị
thiêng liêng cần cho tín ngưỡng của họ. Điều này quan trọng vì nó ảnh hưởng đến sự
hồi phục của các hệ thống hưu canh do các khu rừng thiêng liêng này là nơi cung cấp
hạt giống phát tán đến các vùng đất trống làm rẫy (Olofson, 1983). Một thí dụ khác ở
các tỉnh Đông Nam Bộ, đặc biệt ở Đồng Nai, Bà Rịa, Vũng Tàu, đạo phật đã là một
động lực quan trọng để tái lập rừng ở đất trống đồi trọc một cách thành công.
Như đã trình bày trên, rừng tự nhiên đã đóng vai trò ảnh hưởng đến sản xuất
nông nghiệp và nông lâm kết hợp, tuy nhiên chúng chỉ mới được phát huy trong các hệ
thống truyền thống của các cộng đồng người dân tộc, nhưng các kỹ thuật nông lâm cải
tiến vẫn còn ít chú ý tìm hiểu cặn kẽ đến vai trò của rừng trong hệ thống. Chính vì vậy,
một lượng lớn thông tin có giá trị để phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp đã bị bỏ
quên. Điều này đặt ra một vấn đề cấp thiết là cần phải tìm hiểu, thông tin và phân tích
tỉ mỉ các hệ thống truyền thống để làm cơ sở cho xây dựng và phát triển các hệ thống
nông lâm kết hợp cải thiện.

35
Chương III
MÔ TẢ VÀ PHÂN TÍCH CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP

1. CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG


1.1. KHÁI NIỆM
Hệ thống nông lâm kết hợp truyền thống (bản địa) là những là hệ thống nông lâm
kết hợp đã được phát triển và sử dụng qua nhiều thế hệ, được chứng thực qua thời
gian. Chúng thường phổ biến ở các cộng đồng người dân tộc sống ở gần hay ngay tại
rừng. Một cách đơn giản hơn, hệ thống truyền thống có thể liên hệ đến các kiểu canh
tác nông lâm kết hợp phát triển bởi chính người dân ở tại địa phương nào đó. Trong
phần này các cộng đồng người dân tộc được tách riêng với các nông dân mới đến sinh
sống tại vùng cao. Nhóm thứ nhất bao gồm các dân tộc đã có truyền thống sống ở các
vùng rừng núi và ít bị ảnh hưởng bởi thế giới bên ngoài. Trong khi đó nhóm thứ hai
thường mới di cư từ vùng đồng bằng lên canh tác ở vùng đồi núi.
Mặc dù nông lâm kết hợp là một môn học mới mẻ, nó thực sự là một kiểu canh
tác đã được áp dụng từ lâu. Nhiều dạng nông lâm kết hợp đã tồn tại nhiều nơi trên thế
giới qua hàng nghìn năm. Có thể nói chúng được phát triển lâu bền qua sự thử nghiệm
của thời gian và được chấp nhận bởi cư dân của vùng đó. Thí dụ chúng có thể xác định
về loại cây trồng và sự phối hợp loài thích hợp cho một hoàn cảnh nào đó. Điều nhận
định này sẽ giúp các nước đang phát triển tiết kiệm được công sức và thời gian nghiên
cứu. Cho nên, tổng kết và phân tích các hệ thống nông lâm kết hợp truyền thống là một
điều thiết thực cần làm.
Các yếu tố để xem xét một hệ thống là truyền thốnglbản địa bao gồm:
• Hệ thống được tồn tại từ lâu
• Hệ thống được chấp nhận bởi cư dân địa phương vì nó phù hợp với tập quán,
tín ngưỡng và suy nghĩ của họ.
• Hệ thống có năng suất, vững bền theo thời gian
Tại các nước châu Á cũng như Việt Nam, có rất nhiều các cộng đồng dân cư, dân
tộc ít người đã và đang sinh sống phát triển tại các vùng đồi núi. Dưới áp lực của gia
tăng dân số, phần lớn họ đang sống gần hay trong rừng, nơi xa xôi hẻo lánh, giao
thông liên lạc khó khăn; chính họ là những người tiên phong trong việc hình thành các
kỹ thuật nông lâm kết hợp mang tính truyền thống. Tổng quát, có thể chia làm hai loại
hệ thống nông lâm kết hợp truyền thống thường thấy ở các nước đang phát triển ở
châu Á.

36
1.2. CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG (BẢN ĐỊA):
1.1.1 1.2.1. Hệ thống bỏ hóa/nương rẫy cải tiên
Đây là hình thức lâu đời của nông lâm kết hợp, nhằm khắc phục khó khăn của
canh tác nương rẫy (Vergara, 1982), kiểu canh tác này không thực sự bỏ hóa đất, mà
đất cũng được phát, đất và "trỉa" hạt trong vài năm rồi sau đó được cho "nghỉ" hay tạo
điều kiện thuận lợi để rừng phục hồi độ phì đất. Thật ra họ luân canh từ mảnh đất này
sang mảnh đất khác theo thời gian đã được suy tính trước. Với cách làm này hệ thống
tỏ ra vững bền theo thời gian. Mấu chốt cho sự vững bền của kiểu canh tác này là thời
gian bỏ hóa, ở nơi có áp lực cao về dân số, quỉ đất bình quân trên đầu người càng giảm
thì thời gian bỏ hóa ngày càng ngắn lại, đất không có đủ thời gian để phục hồi. Điều
này dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống. Có khá nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt
Nam có kiểu canh tác nương rẫy có thời gian bỏ hóa khá dài so với thời gian canh tác.
Người Stieng, Chil, Khoe, Muông, Jarai, K'tu… ở cao nguyên thường xem rẫy bỏ hóa
của họ như nơi dự trữ rau, trái cây, lương thực, thuốc trị bệnh... và họ thường xuyên lui
tới để thu lượm sản phẩm trên đất bỏ hóa.

Hệ thống cải tiến bỏ hóa của người Naalad là một ví dụ. Hệ thống đã được thực
hiện hơn 80 năm nay tại một số cộng đồng ở huyện Naga, đảo Cebu, Philippin. Để
khắc phục tình trạng thiếu đất, đất dốc thoái hóa nhanh, giảm thời gian bỏ hóa, tăng
thời gian canh tác người dân đã nhập nội và trồng thành công loài cây keo dậu
(Leucaena leucocephala). Họ thường chia đất canh tác ra nhiều lô để trồng luân canh
cây hoa màu và cây keo dậu để cải tạo đất. Thời gian canh tác thay đổi từ 2 - 4 năm
tùy theo số lô luân canh và tổng diện tích rẫy của hộ gia đình, đặc biệt là phụ thuộc sức
sinh trưởng của keo dậu. Keo dậu được gieo trực tiếp ngay sau khi đất nghỉ canh tác,
thời gian bỏ hóa kéo dài 8 - 10 năm hoặc ngắn hơn. Với cách làm này người dân rút
ngắn được thời gian bỏ hóa và chia đất rẫy ra làm ít lô luân canh hơn, thậm chí có gia
37
đình chỉ ngăn đôi khu rẫy để luân canh, ngoài ra còn khai thác keo dậu lầm cột nhỏ và
củi đun, lá và cành nhánh nhỏ dược giữ lại tại chỗ làm phân xanh và xây dựng các rào
chắn cơ giới theo đường đồng mức gọi là "bagbag", khoảng cách giữa chúng từ 1 - 2 m
để trồng hoa màu. Chức năng chủ yếu của bagbag là chống xói mòn. Kinh nghiệm của
người dân cho thấy hoa màu (ngô, thuốc lá, hành...) được trồng theo kiểu này có sức
sinh trưởng, phát triển tốt và cho năng suất cao hơn.
Lợi ích:
• Đưa loài cây thân gỗ họ đậu, có khả năng cố định đạm vào gây trồng đã rút
ngắn đáng kể thời gian bỏ hóa nhờ vào khả năng phục hồi độ phì đất.
• Xúc tiến vòng tuần hoàn dinh dưỡng khoáng một cách có hiệu quả (không
đốt).
• Hình thành dần các bờ đất, làm ổn định đất dốc.
Hạn chế:
• Gỗ thu hoạch được từ cây keo dậu, được dùng để làm hàng rào "babag" nhiều
hơn để làm chất đốt.
• Công việc rất nặng nhọc, do phải xây dựng và duy trì các hàng rào chắn
"Babag"

1.2.2. Các hệ thống nhiều tầng truyền thống (Indigenous Multistorey Systems)
1.2.2.1. Hệ thống nông lâm kết hợp rừng và ruộng bậc thang
Hệ thống rừng và lúa trồng theo bậc thang được áp dụng một số nơi của vùng
Tây Bắc Việt Nam và ở vùng Banaue, Philipin. Đây là những nơi nổi tiếng về phong

38
cảnh của hàng loạt các bậc thang lúa nước ở sườn dốc. Năng suất lúa ở đây khá cao
(8,2 tấn/ha). Hệ thống này đã tồn tại hàng ngàn năm nay.
Canh tác trên ruộng bậc thang là phương cách hữu hiệu nhất để giảm lượng xói
mòn do điều kiện đất ở đây có tầng đá mẹ bền vững không bị nạn đất lở. Kỹ thuật canh
tác bậc thang thường được cư dân vùng cao áp dụng để canh tác.
Quản lý nước là một yếu tố quan trọng của hệ thống canh tác này, người dân địa
phương thường chú trọng phát triển các hệ thống dẫn nước từ trên cao xuống thấp.
Hơn nữa, người dân còn biết cách dùng nước như là nguồn dẫn nhập các chất dinh
dưỡng cho hệ thống
Thành phần rừng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa nước đầu nguồn để
dẫn về các ruộng bậc thang và cây rừng bảo vệ đất khỏi bị sụp lở. Các mảng rừng đầu
nguồn được điều hành bởi các cộng đồng nhằm thúc đẩy nông dân giữ gìn diện tích và
vị trí rừng thích hợp liên quan đến ruộng bậc thang và họ chọn cây thích hợp để trồng
rừng Các mảng rừng có diện tích từ 0,5 trở lên. Ngoài ra, rừng còn là nơi cung cấp các
sản phẩm cần cho nông dân như gỗ xây dựng, củi, tre, mây, cây thuốc... (Olofson,
1983).
Lợi ích:
• Hệ thống có tính bền vững
• Từng bước biến đất dốc thành vững sản xuất lúa nước.
Hạn chế:
• Rất tốn công lao động trong việc xây dựng và duy trì hệ thống
• Chỉ áp dụng được ở những vùng có nguồn nước tự nhiên.

39
1 2.2.2. Vườn hộ truyền thống
Ở Việt Nam, vườn hộ là một trong những phương thức nông lâm kết hợp truyền
thống rất phổ biến, có thể tìm thấy ở mọi miền đất nước, đặc biệt là ở vùng đồng bằng
và trung du, nơi đất hẹp người đông.
Trong vườn hộ, các hợp phần nông lâm ngư súc có nhiều khả năng và được kết
hợp hài hòa. Không gian dinh dưỡng được tận dụng triệt để và phát huy một cách tối
đa, thời gian và các nguồn lao động trong gia đình được sử dụng có hiệu quả để tạo ra
của cải vật chất và sản phẩm hàng hóa cho gia đình.
Vườn hộ đã đem lại hiệu quả kinh tế xã hội và sinh thái môi trường vô cùng to
lớn nên đã được người dân không ngừng xây dựng, duy trì và phát triển. Các hệ thống
vườn hộ ở Việt Nam. rất phong phú và đa dạng, tùy thuộc điều kiện khí hậu, đất đai và
tập quán truyền thống.
1.1.2.2.1. Vườn rừng
Vườn rừng thường sử dụng để trồng cây lâm nghiệp có áp dụng các biện pháp
thâm canh để sản xuất một hoặc nhiều loại sản phẩm có giá trị hàng hóa cao.
Địa điểm: Vườn rừng thường gặp tương đối phổ biến ở các tỉnh trung du và vùng
núi miền bắc và miền trung Việt Nam
Đặc điểm: Lượng mưa có biến động lớn nhưng phổ biến từ 1500 đến 1800 mm.
Đất đai được hình thành trên nhiều loại đá mẹ khác nhau, chủ yếu là đá macma acít, đá
biến chất, đá trầm tích và các loại đá vôi, phần lớn là đất dốc đã bị thoái hóa.
Diện tích phần lớn 0,3 - 0,5 ha, có khi lên đến vài ha cho mỗi hộ, gắn với đất thổ
cư của gia đình khoảng 200 - 300 m2 để làm nhà, sân và trồng một số cây ăn quả, gia
vị thiết dụng làm thức ăn và tăng nguồn sinh tố cho bữa ăn hàng ngày. Còn lại phần
lớn diện tích được sử dụng trồng cây lâm nghiệp có giá trị sản xuất hàng hóa.
Vườn rừng thường có cấu trúc một tầng cây chính được trồng gần như thuần loài.
Ngoài ra còn có tầng thấp được trồng xen dưới tán hay tầng thảm tươi tự nhiên được
duy trì bảo vệ giữ lại.
Tầng cây chính: tùy theo điều kiện sinh thái, tập quán và kinh nghiệm truyền
thống của từng vùng cũng như nhu cầu của thị trường, người nông dân thường chọn
lựa một trong những loài sau đây để trồng trong vườn rừng của mình.

40
Các loại tre trúc để cung cấp vật liệu làm nhà, đồ dùng và nguyên liệu cho một số
sản phẩm thủ công tre diễn ở Phú Thọ; luồng ở Thanh Hóa, Hòa Bình; Trúc cần câu ở
Cao Bằng, Bắc Cạn; Tre gai và Vầu được trồng ở nhiều nơi.
Các loại cây gỗ hoặc đặc sản có giá trị cao, cung cấp tinh dầu, dầu nhựa phục vụ
công nghiệp và xuất khẩu Quế ở Yên Bái, Thanh Hóa, Quảng Nam; Trám ở Phú Thọ;
Giẻ ở Bắc Giang, Cao Bằng; Cọ và Mỡ ở Phú Thọ, Tuyên Quang; Bời Lời ở Gia Lai;
Trẩu, Sở và Bạch đàn, Giẻ, Trám ; Điều ở Đông Nam Bộ, Dừa ở Bình Định, Cam
Ranh, Bến Tre,… ở nhiều nơi.
Tầng cây thấp: thường được kết hợp để tận dụng đất đai và năng lượng mặt trời
sản xuất thêm lương thực, thực phẩm và các sản phẩm có giá trị khác hay có tác dụng
phù trợ cho cây trồng chính.
- Cây ưa sáng cho lương thực, thực phẩm như sắn, lúa, các loại đậu đỗ.
- Cây chịu bóng ưa ẩm cho được liệu, hoa củ quả như gừng, nghệ, ớt, sa nhân,
dứa…
- Cây phù trợ làm phân xanh, che phủ đất như cất khí, đậu triều, keo dậu…
Lợi ích:
• Vườn rừng tuy có cấu trúc tương đối đơn giản nhưng đã sử dụng các loài cây
bản địa có tính thích ứng cao với điều kiện sinh thái và đất đai của địa phương.
• Duy trì và phát triển được tầng cây thấp có tác dụng phù trợ cho tầng cây
chính.
• Góp phần tạo dựng môi trường sinh thái ổn định cho sự phát triển bền vững
của cây trồng. Bảo tồn được nguồn tài nguyên đất và nước.
• Các hộ gia đình tận dụng được thời gian, nguồn lao động, tạo ra nhiều loại sản
phẩm hàng hóa có giá trị cao, tăng thu nhập cho gia đình và có nguồn đầu tư
trở lại cho cây trồng. Điều hòa được lợi ích trước mắt và lâu dài.

41
Hạn chế:
• Công việc chuẩn bị đất tốn nhiều công lao động. Việc làm đất và trồng cây
lâm nghiệp dễ làm hư hại thực bì tự nhiên. Xói mòn đất dễ xảy ra trong những
năm đầu ảnh hưởng đến sinh trưởng và năng suất cây trồng về sau.
• Cây lâm nghiệp thường cần thời gian dài mới cho sản phẩm, điều này hạn chế
sự chấp nhận của nông dân, đặc biệt là với các hộ nghèo.
• Cần diện tích đất đủ lớn để gây trồng nên khó thích hợp ở vùng có dân số
đông, quỷ đất ít và quy mô nông hộ.
• Vườn rừng thường ở xa nơi dân cư nên khó khăn trong quản lý, dễ bị chặt phá,
lửa rừng và gia súc phá hại.
1.1.2.2.2. Vườn cây công nghiệp:
Vườn được sử dụng để trồng một số loài cây công nghiệp có áp dụng các biện
pháp thâm canh theo kiểu làm vườn.
Vườn thường có diện tích 0,5 đến vài ha. Phần lớn điện tích dành cho cây công
nghiệp kết hợp với cây đa mục đích để che bóng chắn gió và tận dụng các sản phẩm
khác Nhà ở hoặc chuồng trại và vườn rau quả ở nơi thấp hơn, gần hoặc xa vườn nhưng
có điều kiện nước và đường đi lại thuận lợi cho sinh hoạt và giao lưu hàng hóa.
Vườn cây công nghiệp được thiết lập và canh tác theo kiểu nông trại hay rừng
đồn điền để kinh doanh những sản phẩm cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu cao. Kết
cấu của vườn thường gồm một tầng cây để sản xuất hàng hóa có ý nghĩa kinh tế và
một tầng cây có ý nghĩa sinh thái là chính
Tầng cây kinh tế: Một số loài thường được chọn trồng là cà phê, ca cao, chè, cao
su, điều… ở các vùng thấp hơn còn có hồ tiêu, dâu tằm. Cây thương được trồng thành
hàng hoặc băng theo đường đồng mức, được đào hố hoặc rãnh sâu để giữ nước. Giữa
các hàng cây trong những năm đầu thường được trồng lúa, lạc, các loại đậu đỗ, ớt,
gừng... để tận dụng đất, hạn chế cỏ dại và che phủ đất.

42
Tầng cây sinh thái: Được trồng theo hàng hoặc băng hẹp giữa các băng cây cho
sản phẩm chính để che phủ đất, hạn chế dòng chảy bề mặt, che bóng, giữ ẩm và điều
tiết nước cho cây trồng chính, đảm bảo kinh doanh được lâu bền. Các loài cây thường
được sử dụng là muồng đen, các loài keo, đậu trăm, so đũa… Những năm gần đây một
số vườn hộ đã mạnh dạn đưa các loài cây ăn quả có giá trị như sầu riêng, chôm chôm...
cây đặc sản như quế, bời lời… vào trồng kết hợp trong các vườn cây công nghiệp để
vừa phát huy hiệu quả sinh thái, phòng hộ vừa tăng cao đáng kể nguồn thu nhập.
Đặc biệt trong các vườn trồng hồ tiêu, một số loài cây cao, thân thẳng, tán hẹp,
sinh trưởng nhanh như lồng mức, vông, gòn gai, dừa, cau, trám trắng, cóc rừng, so đo
thuyền, muồng rang… được trồng làm cọc sống cho hồ tiêu leo bám vào.
Ngoài ra quanh vườn còn trồng muống đen, keo lá năm, bồ kết... với mật độ dày
hoặc kết hợp với các loài cây đa mục đích khác để làm hàng rào xanh bảo vệ, kết hợp
với đai chắn gió.
Lợi ích:
Việc chọn loài cây và bố trí kết hợp các loài với nhau đã đáp ứng được cả hai nhu
cầu về kinh tế và sinh thái, phát huy được các hiệu quả tích cực.
Kết hợp trồng được các loài cây thân thảo trong những năm đầu của thời kỳ kiến
thiết cơ bản đã giải quyết nguồn lương thực tại chỗ và tăng thu nhập cho người dân,
thực hiện được phương châm "lấy ngắn nuôi dài" đầu tư trở lại cho vườn cây công
nghiệp, đồng thời phát huy được hiệu quả che phủ đất, chống xói mòn.
Hạn chế:
Đòi hỏi có đầu tư lớn và cường độ kinh doanh cao, nông dân phải hiểu biết khoa
học kỹ thuật và thị trường.
Tập trung với quy mô lớn dễ gây ra dịch bệnh trên diện rộng, mức độ rủi ro
tương đối cao do giá cả các mặt hàng xuất khẩu thường biến động.
1.1.2.2.3. Vườn cây ăn quả
Vườn quả là tạo vườn trồng cây ăn quả là chính. Ngoài ra nhiều loài cây khác
như ở hệ thống vườn ao chuồng cũng được trồng kết hợp để tận dụng đất đai và không
gian ở các tầng cao.
Vườn quả thường gặp chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và miền
đông nam bộ. Những năm gần đây cũng đã phát triển ở các tỉnh miền bắc và trung bộ
của Việt Nam.
Mỗi vườn quả phổ biến có diện tích chừng 0,2 ha trở lên. Thường dành 100 - 200
2
m làm nhà ở.
Vườn quả thường có kết cấu 3 tầng cây gỗ cho quả theo chiều thẳng đứng để tận
dụng tối đa nguồn năng lượng mặt trời trên đơn vị diện tích.

43
• Tầng I: Các cây gỗ cao, to, ưa sáng mạnh và cho quả Sầu riêng, dừa, xoài,
mít... cây lâu năm thường được trồng ở tầng cao nhất của hệ thống nhằm che
bóng cho những loài cây bên dưới; cung cấp gỗ, củi có giá trị kinh tế và giữ độ
phì của đất nhờ vật rụng của chúng
• Tầng II: Các cây gỗ có kích cỡ trung bình, ưa sáng trung bình, tán lá rậm, tỉa
cành chậm và cho quả Măng cụt, dâu gia, hồng xiêm, cam quýt, na, chanh...
Chọn cây để trồng ở các tầng trên nên có những đặc điểm sau:
- Đa dụng
- Không che bóng quá nhiều
- Hệ rễ ăn sâu nhưng không phát triển ngang quá mạnh
- Cây cố định đạm càng tết
- Tán nhỏ, thưa, nhẹ
• Tầng III: Các cây có kích thước thấp, nhỏ, luôn nằm ở tầng thấp, có khả năng
chịu bóng như bòng bon, chuối, me rừng…
Một số loài cây ăn quả trên và một số loài cây rừng khác được trồng bổ sung
thêm như thừng mực, vông... được sử dụng để làm trụ cho hồ tiêu, sắn dây leo bám.
Dọc bờ kênh, liếp được trồng các loài cây đa tác dụng như dừa, phi lao, điền
thanh... kết hợp lấy quả, củi đun, làm nấm, lấy hoa làm thức ăn hoặc kết hợp nuôi ong.
Dưới kênh mương thường trồng các loài dọc mùng, khoai nước và nuôi thả các
loại cá ăn tạp như cá tra, cá trôi, rô phi...
Lợi ích :
• Bố trí cơ cấu cây trồng trong vườn mô phỏng cấu trúc rừng mưa nhiệt đới, kín
rậm thường xanh có nhiều tầng, nhiều chủng loại cây chung sống ổn định và
bền vững. Sử dụng triệt để không gian dinh dưỡng. Do vậy đã phát huy tốt
hiệu quả bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, tạo nên được cảnh quan tươi
đẹp.
• Chủng loại cây đa dạng và phong phú, khối lượng sản phẩm và thu nhập mang
lại rất lớn, đã trở thành các mặt hàng buôn bán trao đổi quan trọng trên thị
trường
• Lợi ích nhiều mặt khác khó tính toán chính xác được hết. tuy nhiên, nếu tính
riêng về giá trị kinh tế của hoa quả thu được trên một đơn vị diện tích thường
cao hơn bất cứ hệ thống vườn nhà nào và có thể gấp 2 - 3 lần so với sản xuất
lâm nghiệp hay nông nghiệp đơn thuần
Hạn chế:
• Ảnh hưởng phytonxit, có cạnh tranh về ánh sáng, chất dinh dưỡng và nước,
44
tạo nơi trú ẩn cho sâu bệnh hại và những điểm cần lưu tâm.
• Đòi hỏi đầu tư lớn, kể cả công lao động.
• Kỹ thuật gây trồng khá phức tạp, đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Hạn chế ở vùng
cao.

1.1.2.2.4. Hệ thống vườn ao chuồng (VAC)


Viết tắt VAC theo ba chữ cái đầu của tiếng Việt là làm vườn (V) để trồng cây kết
hợp với đào ao (A) để nuôi trồng thủy sản và làm chuồng (C) để chăn nuôi.
Đây cũng là hoạt động canh tác có tính truyền thống lâu đời, rất gần gũi thân
thuộc đối với mỗi gia đình của vùng nông thôn Việt Nam, mục đích chủ yếu tạo thêm
nhiều sản phẩm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu mang tính tự cung tự cấp cho cuộc
sống hàng ngày của họ.
Hệ thống VAC thường gặp ở cả vùng đồng bằng, trung du và cao nguyên ở Việt
Nam
Đặc điểm:
- Đất phù sa không bị ngập nước hoặc được đắp cao để không bị úng nước trong
mùa mưa
- Đất bằng hoặc dốc nhẹ ở các chân đồi núi, có đủ nguồn nước cho sinh hoạt và
sản xuất
- Diện tích phổ biến là 300 - 500 m2 cho mỗi hộ, có nơi lên đến 1000 - 2000 m2.
Thường được dành 50 - 150 m2 để đào ao, làm chuồng, xây nhà và làm sân, còn
lại là làm vườn.
- Vườn thường có nhiều tầng:
+ Tầng trên thường là các loài cây thân gỗ sống lâu năm kết hợp lấy quả hoặc là
cây ăn quả, tán lá cao, rộng và ưa sáng, có đến 30 - 40 loài, hay gặp nhất là mít, vải,

45
nhãn, xoài chôm chôm, bưởi, vú sữa, tram…
+ Tầng dưới: Có các cây lấy quả, củ hoặc làm dược liệu thường có khả năng chịu
bóng và ưa ẩm. Tầng này có thể có rất nhiều loài, phổ biến nhất có dứa, gừng, nghệ,
ớt, dong riềng…
Ngoài ra, trong vườn nhà nào cũng có dành ra những đam đất nhỏ trồng hàng
trăm loài cây để phục vụ cho bữa ăn và cuộc sống hàng ngày cho gia đình, phổ biến có
ba loại:
Các loài cây rau đậu như rau muống, rau ngót, các loại cải, su hào, bắp cải, xà
lách, cà chua...
Các loài cây gia vị như ớt, tỏi, hành, rau thơm, rau mùi, hứng, mùi tàu, rau ngổ,
thìa lìa, tía tô, kinh giới...
Các loại cây thuốc như đinh lăng, bạc hà, hương nhu...
- Ao cũng được cấu trúc và sử đụng theo nhiều tầng:
+ Dưới nước nuôi các loại thủy sản, có gần 20 loài cá, ếch, tôm, cua đã được sử
dụng, phổ biến nhất là các loài cá trắm, trôi, rô phi, mè…
+ Mặt nước được thả các loài bèo lục bình, bèo cái, bèo hoa dâu và các loài rau
muống.~
+ Bên trên mặt nước được tận dụng làm giàn cho các loại bầu, bí, mướp, đậu ván,
thiên lý… leo bám.
+ Ven bờ ao trồng các rau chịu ngập như rau muống, đọc mùng, khoai nước...
+ Bờ ao trồng các loại củ từ, khoai lang, khoai môn, lạc…

- Chuồng thường có hai loại


+ Chuồng lớn nuôi các loại đại gia súc, phổ biến là heo, trâu, bò, thường có hai
ngăn, một ngăn để nuôi và một ngăn để chứa thức ăn thừa và phân
+ Chuồng nhỏ để nuôi các loại gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng…

46
Đặc biệt xung quanh vườn ao chuồng nhà nào cũng có một hàng rào xanh bao
bọc để bảo vệ. Hàng rào xanh cũng thường có kết cấu hai tầng, gồm những loài cây đa
tác dụng lấy gỗ, củi và các lâm đặc sản khác. Thường gặp cây tầng trên có các loài như
xoan, gạo, phi lao, bạch đàn, bồ kết tầng dưới là các loài mây, dâu…
Lợi ích:
• VAC là một hệ sinh thái hoàn chỉnh và thống nhất. Các khâu và các thành
phần trong trong hệ sinh thái có mối quan hệ qua lại. Vườn trồng cây vừa để
lấy sản phẩm dùng cho người, vừa tạo thức ăn nuôi gia súc, gia cầm và các
loài thủy sản dưới ao. Chuồng để chăn nuôi lấy thịt, lấy phân bón cho cây và
làm thức ăn cho cá. Ao không chỉ để nuôi trồng thủy sản mà còn là nơi dự trữ
nguồn nước tưới cho cây trong vườn và làm vệ sinh cho gia súc.
• VAC là một hệ thống nông lâm kết hợp có hiệu quả nhất về sử dụng không
gian, ở mọi tầng, mọi lớp đều được tận dụng để sản xuất tạo sinh khối lớn hơn
bất cứ bất cứ hệ thống sản xuất nào khác. Nó không chỉ giúp cho mỗi gia đình
sản xuất ra lương thực, thực phẩm tăng nguồn dinh dưỡng cho bữa ăn hàng
ngày mà còn cung cấp củi đun, các nguyên liệu để phát triển các nghề thủ
công truyền thống, tăng nguồn vui, giải trí thông qua lao động và tiếp xúc với
thiên nhiên.
Hạn chế:
Đòi hỏi người gây trồng phải có kinh nghiệm và kỹ năng. Tốn khá nhiều công
sức trong việc xây dựng và duy trì.
1.1.2.2.5. Hệ thống Rừng vườn ao chuồng (RVAC)
Hệ thống này thực chất là hệ thống VAC cải tiến và mới phát triển trong khoảng
10 năm trở lại đây, trong đó có sự kết hợp giữa rừng, vườn cây ăn trái, hồ cá và vật
nuôi. Các nhân tố ảnh hưởng đến các loài cây trồng:
- Điều kiện đất đai, khí hậu nơi gây trồng
- Điều kiện kinh tế, nhu cầu và nguồn lao động của nông hộ.
- Kỹ năng và kiến thức của người dân.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm tại địa phương

47
Lợi ích:
• Ổn định về mặt sinh thái và kinh tế
• Tốn ít công lao động
• Sâu bệnh và thú phá hại ở mức thấp
• Quen thuộc với người dân
Hạn chế:
• Thiếu nguồn và cây giống tốt.
• Tóm lại các hệ thống vườn nhà ở Việt Nam đã đem lại nhiều lợi ích thực tế về
kinh tế xã hội và môi trường sinh thái, thể hiện ở các mặt sau:
• Tăng được sản phẩm cần dùng hàng ngày, đồ dùng, củi đun, thức ăn, sinh tố...
• Tạo thêm việc làm, tận dụng được mọi nguồn lao động ở nông thôn.
• Tăng cường tiếp cận với kỹ thuật, thị trường, nâng cao trình độ hiểu biết của
người dân.
• Tận dụng nguồn năng lượng mặt trời và đất đai, nâng cao được sinh khối trên
đơn vị diện tích.
• Giữ gìn được cân bằng sinh thái đảm bảo cho sự phát triển ổn định lâu bền.
• Góp phần duy trì và bảo vệ được tính đa dạng sinh học, giảm sức ép của việc
gia tăng dân số lên việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

48
1.1.2.2.6. Hệ thống Rừng - hoa màu - lúa nước
Hệ thống này thường được xây dựng ở các khu vực đồi núi. Rừng tự nhiên hay
rừng trồng ở đỉnh đồi được quản lý bởi lâm trường hoặc cộng đồng địa phương. Vài
nơi có hồ nước tự nhiên hay nhân tạo ở các điểm cao dùng để tưới cho những cánh
đồng bên dưới hay tạo năng lượng điện cho cộng đồng Rau và hoa màu được trồng
trên ruộng bậc thang hay dọc theo đường đồng mức.
Ưu điểm :
• Việc sắp xếp theo không gian giữa các thành phần giúp chúng có mối quan hệ
tương hỗ lẫn nhau, do vậy, tối ưu hóa toàn bộ khu vực sản xuất.
• Phân phối đều công việc và thu nhập trong suốt cả năm.
• Đa dạng hóa các sản phẩm địa phương
Hạn chế:
• Hệ thống đòi hỏi các mối liên hệ và hợp tác tết giữa nông dân, hợp tác xã và
cơ quan lâm nghiệp hoặc các nhóm cộng đồng quản lý rừng. Điều này có thể
gặp khó khăn ở những cộng đồng mới định cư.
Nhận định về các hệ thống nhiều tầng truyền thống:
• Các cộng đồng dân tộc địa phương đặt mục tiêu vào rừng chứ không vào cây
gỗ, điều này khác với nhà lâm nghiệp truyền thống thường chú ý vào các loài
cây có giá trị kinh tế dẫn đến độc canh trong trồng rừng và trồng trọt. Chính vì
thế, người dân địa phương quản lý rừng theo giá trị nhiều mặt của nó.
• Các hệ thống sản xuất của người dân thể hiện sự đa dạng sinh học. Đây là
điểm điển hình của các hệ thống canh tác tự cung tự cấp, giải quyết sự sống
còn của học. Nó cũng là biện pháp nhằm làm giảm đi sự rủi ro trong sản xuất.
Điểm yếu của hệ thống trên là thiếu quan tâm đến các loài cây đa dụng. Điều
này cần được chúng ta quan tâm hơn để nghiên cứu, tìm hiểu các loài cây này
để giới thiệu cho các cư dân địa phương.

49
2. CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP CẢI TIẾN
Các hệ thống nông lâm kết hợp cải tiến thường được phát triển và giới thiệu cho
một vùng nào đó bởi các nhà kỹ thuật bên ngoài, vì thế nó khác với các hệ thống
truyền thống được phát triển do chính nông dân tại địa phương. Các hệ thống cải tiến
thường đơn giản hơn về mặt số loài cây trồng và mức độ đa dạng sinh học so với các
hệ thống truyền thống. Hơn nữa, đây là những hệ thống kỹ thuật sử dụng đất mới được
áp dụng tại một địa điểm nào đó chưa trải qua thử nghiệm lâu dài nên sự bền vững của
nó cần được xem xét cẩn thận để phát triển trên diện rộng. Hiện nay tại Việt Nam cũng
như các nước ở vùng ĐNÁ có rất nhiều hệ thống kỹ thuật NLKH sử dụng đất cải tiến
được giới thiệu để áp dụng. Mặc dầu các kỹ thuật này đã và đang chứng tỏ khả năng
phát triển tốt khởi đầu, nhưng chúng ta cần nghiên cứu và theo dõi chi tiết hơn, đặc
biệt là các điểm mạnh, yếu cơ hội và thách thức của chúng để có thể nhân rộng và áp
đụng lâu dài. Một số các hệ thống cải tiến sẽ được phân tích và đánh giá sau
2.1. HỆ THỐNG CANH TÁC XEN THEO BĂNG (ALLEY CROPPING SYSTEM):
Hiện nay canh tác theo băng hay canh tác theo đường đồng mức là hệ thống nông
lâm kết hợp rất phổ biến ở nước ta Đây là một hệ thống nông lâm kết hợp thường phát
triển ở các vùng đồi núi nhiệt đới Kỹ thuật này có tên phổ biến là S.A.L.T (1)
(Slopping Agriculture Lang Technology).
2.1.1. Khái niệm
Canh tác xen theo băng là một hệ thống nông lâm kết hợp bao gồm việc trồng các
hàng ranh theo đường đồng mức và canh tác hoa màu ở đường băng (Alley) giữa hai
50
hàng ranh. Các hàng ranh thường rộng một mét, được cấu tạo bởi một hoặc hai hàng
cây thân gỗ đa niên và định kỳ được cắt tỉa để tránh che bóng cây hoa màu. Đặc điểm
cơ bản của việc trồng hàng ranh theo đường đồng mức là hạn chế xói mòn đất do tạo
ra đường cản nước, lưu giữ lại lượng đất mặt bị cuốn trôi tại chân các hàng cây và làm
giảm vận tốc của dòng chảy bề mặt. Vài năm sau hệ thống sẽ dần hình thành nên các
bậc thang. Thêm vào đó, thân cành, lá của cây trồng trên đai được cắt tỉa và tủ trên mặt
đất để làm phân xanh, nhờ vậy, đất sẽ được bồi bổ trở lại bởi các chất hữu cơ và qua
đó thúc đẩy nhanh quá trình tuần hoàn dinh dưỡng khoáng trong đất.
Lợi ích và hạn chế
Vấn đề bảo vệ đất và nước:
- Xói mòn đất và lượng nước chảy bề mặt: Nhiều thí nghiệm (Cuevas và Samson,
1982 tại Makiling; Lasco R, 1987 tại Jalajala; Rijal và Tepatiya, 1984 tại Bicol) đã
chứng minh rằng sự hiện diện của các đường ranh làm giảm một cách có ý nghĩa mức
độ xói mòn và giảm tương đối hơn đối với lượng nước chảy bề mặt. Các thí nghiệm
khác của Lasco đã chứng minh rằng trong mô hình SALT 1 với cây hàng ranh là keo
dậu thì không có sự khác biệt có ý nghĩa về lượng đất bị xói mòn do ảnh hưởng bởi
các loại hoa màu khác nhau. Điều này đưa đến đề nghị rằng nông dân vùng đất dốc có
thể tự do chọn lựa bất kỳ loại hoa màu nào mà không ảnh hưởng đến mức độ xói mòn
của đất một cách đáng kể. Tuy nhiên Watson và Laquihon đã đề nghị trồng hàng ranh
gồm hai hàng cây nhằm tăng hiệu quả giảm lượng xói mòn.
Một thí nghiệm khác đã nhận định rằng canh tác xen theo băng một mình nó
không đủ để giảm hiệu quả lượng nước chảy trên bề mặt đất cũng như lượng đất bị xói
mòn. Trong phạm vi rộng thì canh tác xen băng theo đường đồng mức một mình
không đủ để bảo vệ có hiệu quả cả vùng lưu vực nước như thảm thực vật rừng nhiệt
đới.
Tuy nhiên, mọi người đều đồng ý cho rằng các dường ranh có khả năng giảm
thiểu lượng xói mòn. Điều này được nhận định thông qua hiện tượng các bậc thang tự
hình thành sau khi mô hình SALT 1 được xây dựng vài năm. Song rõ ràng kỹ thuật
canh tác xen theo băng có hiệu quả bảo vệ đất không thể nào bằng thảm thực vật rừng
nhiệt đới.

51
Đặc điểm hóa tính của đất: Một loạt thí nghiệm canh tác xen theo băng được tiến
hành ở Nigeria thang ẹt ai, 1984, 1985) cho thấy như sau:
+ Sử dụng lá cây Keo dậu làm chất tủ đã gia tăng đáng kể mức giữ nước của đất
mặt, kết quả trên khẳng định nên áp dụng kiểu canh tác này ở những nơi canh tác nhờ
nước trời để gia tăng lượng nước hữu hiệu cho cây trồng góp phần tăng năng suất hoa
màu.
+ Lượng chất hữu cơ gia tăng (gấp 2 lần so với các kiểu canh tác truyền thống
khác) trong canh tác xen theo băng, các hàng ranh đã cung cấp lượng lá và thân non
được cắt tủ vào giữa băng.
+ Với sự đóng góp các lượng cắt tỉa từ hàng ranh cây Keo dậu, nên tầng đất mặt
và cả tầng sâu đều có hàm lượng trao đổi K, Ca và Mg cao hơn.
+ Một hệ thống canh tác xen theo băng với cây keo dậu chủng K - 28 trên đất cát
52
Entisol, khoảng cách hàng ranh 4 m đã sản xuất được 15 đến 20 tấn lá tươi (tương
đương 5 đến 6,5 tấn chất khô) trên một ha, với số lần cắt 5 1ần/năm. Theo Watson và
Laquihon ở Bansalan Minđanao, Philippin vật liệu cắt từ cây Keo dậu trong mô hình
SALT 1 đã sản xuất đến 20,37 tấn/ha/năm cành lá tươi, tương đương với: 292Kg N,
344 Kg P205 và 123 Kg K2O. Ở Visca sử dụng vật liệu tủ từ cây anh đào giả trong mô
hình canh tác xen theo băng với lúa đã gia tăng độ pa đất, hàm lượng chất hữu cơ, lân
và khu (Gonzal và Raros, 1987). Việc sử dụng vật liệu cắt tỉa các loài cây anh dào giả,
keo dậu, so đũa.ở một số khu thử nghiệm đã có ảnh hưởng cải thiện về các tính chất
của đất và năng suất của hoa màu trồng xen (Lasco, 1991).
• Năng suất và thu nhập của nông trại:
Như đã nhìn thấy trước, việc đưa vào gây trồng các hàng ranh trong nông trại
chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến năng suất hoa màu, do chúng chiếm khoảng 20% diện tích
đất canh tác. Hiện tượng cạnh tranh về ánh sáng sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây
hoa màu. Có giả thiết cho rằng cây keo dậu tạo ra các chất kháng hóa học khì vật rụng
của chúng bị phân hủy gây ảnh hưởng lớn đến năng suất hoa màu. Tuy nhiên, về lâu
dài năng suất hoa màu sẽ ổn định và tăng dần. Ở Cebu, năng suất ngô được ghi nhận
tăng từ 300 lên đến 1500kg hạtlha do độ phì của đất được cải thiện và giảm xói mòn
đất. Nhiều kết quả đạt được từ mô hình SALT 1 tại Philippin cho thấy năng suất ngô
tăng lên gấp bốn lần (từ 500 lên 2000kglha). Trong một thí nghiệm khác sử dụng thuần
lá cây keo dậu làm phân xanh đã cho năng suất tăng gấp đôi so với nơi không bón
phân (2,7 tấn/ha so với 1,3 tấn/ha. Tại Jalajala, Rizal, Rodel Lasco, 1987 đã tiến hành
nghiên cứu cho kết quả là năng suất của sắn 7,95 tấn/ha và đậu phụng 810,8 Kg/ha
trong kiểu canh tác xen với các kỹ thuật canh tác quản canh của người dân tộc tương
đương với năng suất bình quân của hai loài hoa màu này tại Philipin.
Xét về thu nhập của nông trại, khởi đầu thu nhập giảm do các hàng ranh chiếm
một số diện tích đất đai, tuy nhiên thu nhập sẽ tăng do sự phì nhiêu của đất đai được
cải thiện theo thời gian. Một nhận định khác về khía cạnh kinh tế là công việc xây
dựng các hàng ranh sẽ tốn kém về chi phí lẫn công lao động. Celestion, 1985 đã ước
lượng rằng cần đến 15 ngày công lao động hay 8 ngày công cho người và 2 ngày công
dùng trâu bò cày cho một tiệc ta để xây dựng hệ thống canh tác theo băng bằng cây
keo dậu. Những đầu tư này cần được đánh giá do thời gian tiến hành xây dựng vào đầu
mùa mưa trùng với thời gian canh tác hoa màu. Việc tốn nhiều công lao động làm nản
lòng nông dân áp dụng kỹ thuật này.
Sự thích ứng của kiểu canh tác này ở nông trại vùng cao:
So với các hệ thống nông lâm kết hợp khác, kỹ thuật canh tác xen theo băng ít
gây thay đổi đến các cách canh tác của nông dân, trừ việc đưa vào gây trồng các hàng
ranh, nông dân vẫn tiếp tục canh tác như cũ.

53
2.1.3. Điều kiện để áp dụng
Canh tác xen theo băng là kỹ thuật khả thi để ổn định và tạo lập sự vững bền của
các nông trại ở vùng cao thích hợp cho sản xuất lúa, ngô, và rau cải. Các nông trại này
đất dễ suy thoái do bị xói mòn. Việc đưa kỹ thuật trồng xen theo băng có thể ngay lập
tức làm giảm lượng xói mòn trong vòng từ một đến vài ba năm và giúp trụ lại sức sản
xuất của nông trại. Mặc dù đạt hiệu quả trên, song không nên xem kỹ thuật canh tác
xen theo băng là bước cuối cùng của sự phát triển nông trại vùng cao. Lý tưởng hơn là
nên tiến đến một hệ thống hỗn giao cây lâu năm và hoa màu như hệ thống nông lâm
kết hợp nhiều tầng để tạo nên sự bền vững lâu dài cho hệ thống sản xuất, dựa trên sự
mô phỏng cấu trúc đa loài, nhiều tầng tán như rừng mưa nhiệt đới. Do vậy, canh tác
xen theo băng được xem như là một kiểu canh tác chuyển tiếp tiến tới một thảm cây
thường trực ở vùng cao. Thời điểm đúng để tiến hành kỹ thuật này sẽ thay đổi tùy theo
điều kiện hoàn cảnh của nông dân ở mỗi địa phương. Trong đa số các trường hợp có
thể phải kéo dài canh tác hoa màu liên tục vì nhu cầu thực tế bức bách của nông dân.
Jane Carter (Agroforestry To day số 211996) đã nhận định: "Trong hai thập niên
vừa qua, có nhiều các nghiên cứu khoa học quan tâm đến canh tác xen theo băng và
xem nó như là một kỹ thuật thâm canh, bền vững nhằm cải thiện tầng lớp nông dân
nghèo ở vùng cao. Mặc dù đã có nhiều công sức và tiền của bỏ ra để nghiên cứu và
chuyển giao kỹ thuật này cho nông dân ở nhiều nước, đến nay phần lớn đã nhận thấy
rằng kỹ thuật này còn có nhiều giới hạn của nó để đạt được các mong ước trên. Các
giới hạn chủ yếu của kỹ thuật này nảy sinh cả trong các điều kiện tự nhiên lẫn dân sinh
kinh tế xã hội. Do vậy, mức độ tiếp nhận của người nông dân đối với nó bị ảnh hưởng
bởi các nhân tố sau:
• Các đặc điểm tự nhiên:
- Ưu tiên cho vùng sản xuất ngô.
- Đất canh tác có độ phì nghèo hay giảm dần, chủ yếu do nông dân tự lượng định.
- Nơi có khí hậu hai mùa mưa và khô, lượng mưa tối thiểu 1000mm/năm.
- Đất có độ pH cao hơn 5,5.
- Nơi khan hiếm cây.
• Các đặc điểm dân sinh kinh tế:
Nơi có áp lực lớn của dân số gia tăng, hậu quả là rút ngắn thời gian bỏ hóa.
Phần lớn nông dân sẽ chấp nhận kỹ thuật này nếu quyền sở hữu đất được thiết lập
một cách cụ thể và chắc chắn.
Nơi quyền sở hữu cá nhân được công nhận và nông dân có phương thức chăn
nuôi có kiểm soát.
Thu nhập chính của nông dân là dựa vào canh tác nông nghiệp.

54
2.2. CÁC KỸ THUẬT CẢI TIẾN KHÁC CỦA HỆ THỐNG TRỒNG XEN THEO
BĂNG
2.2.1. Hệ thống lâm-nông-đồng cỏ (SALT 2) (Simple Agro-livestock Technology)
Đây là kỹ thuật sử dụng đất tổng hợp dựa trên kỹ thuật canh tác nông nghiệp trên
đất dốc (SALTI ) nói trên bằng cách dành một phần đất để chăn nuôi theo phương thức
nông súc kết hợp. Ở Philippin, người ta chú trọng ứng dụng việc nuôi dê trong hệ
thống để lấy thịt và sữa. 1/4 ha đất dành để trồng cây lương thực, có hàng rào xanh
trồng theo đường đồng mức để chống xói mòn, bảo vệ đất và ngăn chặn súc vật phá
hại hoa màu 1/4 ha đất khác trồng cỏ để làm thức ăn cho dê. Bằng cách đó mỗi nhà
nuôi được 14 con dê, có thể thu được 2 lít sữa/con/ngày nếu có đủ thức ăn. Cơ cấu sử
dụng đất của kỹ thuật là 40% dành cho sản xuất nông nghiệp, 20% dành cho trồng cây
lâm nghiệp và 20% dành cho chăn nuôi, phần đất còn lại để làm nhà và chuồng trại.
Lợi ích
• Thu được nguồn phân chuồng dùng để bón lại cho cây trồng.
• Có tác dụng phòng chống xói mòn bảo vệ đất.
• Ngoài nông lâm sản, còn thu được sữa, thịt... nên việc canh tác, sử dụng đất
được tổng hợp và lâu bền hơn
Hạn chế
Nguồn thức ăn, cỏ trong mùa khô là một trở ngại của hệ thống này.

55
2.2.2. Hệ thống canh tác nông lâm bền vững SALT3 (Sustainable Agroforestry
Lang Technology)
Kỹ thuật này dựa trên cơ sở kết hợp trồng rừng quy mô nhỏ với việc sản xuất
lương thực, thực phẩm. Người nông dân dành phần đất ở nơi thấp hơn là phần sườn
dưới và chân đồi núi để trồng các băng cây lương thực xen với các hàng rào xanh cây
cố định đạm theo kiểu SALT 1. Phần đất cao ở bên trên, thường là sườn trên hoặc đỉnh
đồi núi thì trồng rừng hoặc để rừng tự nhiên phục hồi. Cây lâm nghiệp được chọn để
trồng theo thời gian thu hoạch được chia ra thành các loại từ 1 - 5; 6 - 10; 11 - 15; 16 -
20 năm sao cho để có thu được sản phẩm cao nhất và đều đặn ở Philippin thường sử
đụng các cây mọc nhanh và cho gỗ nhỏ để làm củi, cột, bột giấy... vừa có tác dụng cải
tạo đất như keo dậu, bản xe lá phượng, lỗi thọ, tếch và được trồng theo băng hoặc theo
đám xen kẽ nhau. Cơ cấu sử dụng đất ở đây là 40% dùng cho nông nghiệp và 60%
dùng cho lâm nghiệp.
Lợi ích:
Đất đai được bảo vệ có hiệu quả hơn
Vẫn thu được lương thực, thực phẩm, gỗ củi và nhiều sản phẩm phụ khác.
Tăng được thu nhập cho người nông dân.
Khả năng sinh lợi cao, không chỉ cho trước mắt mà cả lâu dài nhờ vào tác dụng
hỗ trợ nhiều mặt của rừng.
Hạn chế:
Kỹ thuật này đòi hỏi đầu tư tương đối cao cả về vốn cũng như hiểu biết.
Cần thời gian dài mới thu hoạch được sản phẩm lâm nghiệp.

56
2.2.3. Hệ thống sản xuất nông lâm nghiệp với cây ăn quả quy mô nhỏ SALT 4
Đây là kỹ thuật' sử dụng đất tổng hợp được xây dựng và phát triển từ năm 1992
đưa trên cơ sở hoàn thiện các kỹ thuật SALT nói trên. Trong kỹ thuật này, ngoài đất
đai để trồng cây lương thực, cây lâm nghiệp, cây hàng rào xanh còn dành ra một phần
để trồng cây ăn quả. Tại Philippin, trong các kỹ thuật canh tác nông nghiệp (SALT)
người ta thường dành 0,3 - 0,4 ha hoặc 0,5 - 0,7 ha để trồng cây ăn quả như đu đủ,
chuối, cam, chanh, xoài, dứa, dừa và cả một số cây công nghiệp có giá trị như cà phê,
ca cao, chè. Phần lớn đây là những loài cây quen thuộc của nông dân, chỉ cần giúp họ
hiểu biết khoa học kỹ thuật thông qua thăm quan trình diễn là họ có thể ứng dụng
được.

Lợi ích:
• Tập đoàn cây ăn quả nhiệt đới được chú ý gây trồng do sản phẩm của chúng
có thể bán để thu tiền mặt và cũng là cây lâu năm có thể duy trì được sự ổn
định và lâu bền về môi trường sinh thái so với cây hàng năm.
• Cây cố định đạm cũng được đặc biệt chú trọng, ngoài những tác dụng đã biết,
nó còn có tác dụng hỗ trợ che bóng, phủ đất giữ ẩm cho cây ăn quả và cây
công nghiệp.
• Sử dụng nhiều loài cây bản địa để gây trồng, duy trì được tính đa dạng của tự
nhiên.
Hạn chế:
• Đầu tư thâm canh cao hơn về các biện pháp cày đất, chọn giống, bón phân,
chăm sóc.

57
2.3. TRỒNG CÂY RANH GIỚI/HÀNG RÀO CÂY XANH:
Trồng cây phân ranh giới chung quanh nông trại hay vườn cây là một kỹ thuật rất
phổ biến ở vùng nông thôn. Các cây họ đậu như anh đào giả, keo dậu, so đũa, keo
ngọt, chùm ngây... thường được chọn trồng.
Cây được chọn trồng trong kỹ thuật này cần phải có những đặc điểm sau: Chịu
hạn - chịu đựng với tổn thương nhỏ - mọc nhanh - có quan hệ tết với những loại cây và
hoa màu khác lá cây có thể làm thức ăn gia súc, chống lửa - Có gai hay có mủ ngứa
phù hợp để trồng làm hàng rào ngăn cản súc vật - tái sinh dễ dàng bằng cành giâm -
không xâm chiếm dễ dàng đến đồng cỏ và đất canh tác.
Lợi ích:
• Nhằm phòng hộ, ngăn chặn lửa, tạo ranh giới sở hữu rõ ràng giữa các diện tích
đất.
• Cung cấp gỗ, củi và các giá trị đa dụng khác.
Hạn chế:
• Tốn kém một diện tích đất nhất định
• Có cạnh tranh ít nhiều về ánh sáng, dinh dưỡng, nước với những cây trồng
chính ở cạnh đường ranh.

2.4. HỆ THỐNG ĐAI PHÒNG HỘ CHẮN GIÓ


Cây cũng có thể được trồng để phòng hộ chắn gió cho nông trại. Đai phòng hộ
chắn gió là những băng thực vật bao gồm cây gỗ, cây bụi, dây leo để bảo vệ đất canh
tác khỏi bị gió hại và hiện tượng xói mòn do gió. Cấu tạo của đai chắn gió bao gồm
65% cây bụi và dây leo, 35% cây cao và tạo nên một đai hơi kính. Hướng của đai nên
vuông góc với hướng gió hại chính.

58
Loài cây được chọn trồng chắn gió có
những đặc điểm sau:
Chịu được gió mạnh - hệ rễ sâu rộng - tán
thưa và nhỏ - dễ dàng tái sinh và dễ sống - nẩy
chồi dễ dàng - sản xuất các sản phẩm đa dụng -
không rụng lá trong mùa có gió hạn.
2.4.1. Điểm quan tâm khi xây đựng đai phòng
hộ chống gió
- Đai phòng hộ phải thiết kế thẳng góc với
hướng gió chính
- Số hàng cây trồng trong đai phòng hộ tuỳ
thuộc vào vận tốc của luồng gió. Tốc độ gió
càng lớn càng xây dựng nhiều hàng cây. Thường
một đai chắn gió bao gồm từ 1 đến 5 hàng cây.
- Ngoài ra để tăng cường cho đai cây trung bình, thấp và dây leo bụi thấp cần
được trồng vào đai theo tỷ lệ đã trình bày trên.
- Nên bố trí cây trồng theo hàng chữ ngũ với khoảng cách trồng là 1 m.
- Tại nơi có gió mạnh thường xuyên nên xây dựng một hệ thống đai cản gió và
khoảng cách giữa 2 đai biến đổi từ 30 m đến 200m tuỳ theo tốc độ gió mạnh đến bình
thường.

2.4.2. Các loại cây thường được trồng trong đai phòng hộ chắn gió
Cây cao (> 15m) Cây trung bình (5 - 15 m)
Phi lao Casuarina equisetifolia Keo gai Pithecelloblum dulce

59
Dáng hương Pterocarpus indicus Điều lộn hạt Anacardium occidentale
Tếch Tectona grandis Săng đen, lọ nồi Diospyros spp
Lõi thọ Gmelina arborea Thao lao Lagerstroemia speciosa
Bình linh Vitex parviflora Keo dậu Leucoena leucocephala
Mít Artocarpus spp Anh đào giả Gliricidia sepium
Vú sữa Chrysophyllum cainito Albizzia procera
Santol Sandoricum ketjape Casuarina rumphiana
Me Tamarindus indica Syzygium cusini
Cây bụi và tre (cao đến 5 m)
Tre vàng sọc Bambusa blumeana Tre tàu Bambusa vulgaris
Tre gai Bambusa spinosa Bõng giấy Bougainvillea spectabilis
Keo lá tràm Acacia auculiformis Tre tầm vông Schizostachyum lumampao
Vông Erythrina spp. Đậu triều Cajanus cajan
2.5. HỆ THỐNG TAUNGYA
Theo Blanford (1958), Taungya là một từ địa phương của ngôn ngữ Myanma:
Taung nghĩa là canh tác, ya là đồi núi. Đây là một phương thức canh tác được phát
triển dựa trên cơ sở hệ thống "Waldfeldbau" nổi tiếng của người Đức, trong đó bao
gồm canh tác các cây nông nghiệp ở ngay tại rừng. Vào khoảng những năm 50 của thế
kỹ XIX, ở Ấn Độ đã sử dụng hệ thống này để tái sinh, phục hồi lại rừng trên đất đã
khai quang bằng cánh gieo hạt Tếch kết hợp với trồng hoa màu của nông dân. Một
cách khái quát, Taungya là một hệ thống canh tác mà trong đó bao gồm sự kết hợp
đồng thời của hai thành phần (cây nông nghiệp và cây lâm nghiệp) trong những giai
đoạn đầu tiên của quá trình hình thành rừng trồng. Người dân được phép trồng kết
hợp hoa màu trong những năm đầu của rừng trồng, đổi lại họ phải giữ gìn rừng non,
sau vài năm khi rừng khép tán, hoa màu không thể trồng được nữa, họ sẽ di chuyển
sang khu vực khác nếu quỉ đất còn cho phép. Như vậy,sản phẩm gỗ là mục tiêu cuối
cùng trong Taungya nhưng động lực thúc đẩy trước mắt với thực tiễn là sản xuất lương
thực.
2.5.1. Đặc điểm của hệ thống
Hệ thống NLKH theo phương thức Taungya được triển khai thành công với một
số đặc điểm và yêu cầu cần có như sau:
• Được áp dụng cho cả cộng đồng dân cư mà đa số học chỉ sống nhờ vào rừng
để canh tác (chủ yếu là canh tác nương rẫy).
• Khoảng cách từ chỗ ở của các nông hộ đến các mảnh rừng xa nhất có giới hạn

60
để nông dân có đủ thời gian đi bộ đến trồgn và chăm sóc.
• Phải có quỹ đất đủ rộng liên quan đến dân số của cộng đồng và phải quy
hoạch đất phù hợp với chu kỳ khai thác của cây rừng để tránh mâu thuẫn trong
sử dụng đất để trồng trọt hay trồng rừng.
• Nên gia tăng sự tham gia của cộng đồng trong việc trông, quản lý và phân chia
lợi ích từ rừng trồng mặc dầu các quy định ràng buộc hai bên vẫn được thực
hiện dưới dạng một hợp đồng rõ ràng.
• Cần sử dụng vốn trồng rừng để xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn, xây dựng
các phúc lợi xã hội để tạo dựng một làng lâm nghiệp vững bền.
• Giáo dục, dạy nghề hướng nghiệp cho dân số trẻ để làm giảm sự phụ thuộc
của cộng đồng dân cư đối với rừng và đất rừng trong tương lai.
Ưu điểm :
• Giải quyết các hậu quả của việc cách tác nương rẫy.
• trồng rừng ít tốn kém với sự tham gia tích cực của nông dân nên chất lượng
rừng khả quan hơn.
• tận dụng được đất đai giữa các hàng cây rừng để trồng cây lương thực, hoa
màu... phục vụ cho đời sống người dân làm nghề rừng.
• phát huy được quan hệ cộng sinh có lợi, thúc đẩy sinh trưởng của các loài cây
trồng. Việc chăm sóc cây thân thảo có tác động tích cực đến cây thân gỗ
• phần nào hạn chế được hiện tượng xói mòn đất trong những năm đầu trồng
rừng, nhờ sự có mặt của lớp phủ cây thân thảo.
• Phục vụ để phát triển nông thôn vùng sâu vùng xa, tạo nên mối quan hệ gắn bó
giữa cán bộ lâm nghiệp và nông dân.
Hạn chế:
• Nông dân không thể trồng hoa màu lâu dài và cố định bởi vì họ phải rời đi
ngay sau khi cây rừng khép tán (sau 3- 5 năm).
• Có thể làm nản lòng nông dân vì càng chăm sóc tết hơn vùng đất canh tác (làm
cỏ bón phân cho hoa màu và cây trồng chính), cây rừng càng phát triển nhanh
thì họ càng sớm rời khỏi đất canh tác.
• Chiến thuật này chỉ cung cấp tạm thời để bổ sung nguồn lương thực và thu
nhập trong 3 - 5 năm đầu sau khi trồng lại rừng.
• Vấn đề tái định cư của gia đình nông dân sau khi rừng trồng đã khép tán cũng
rất nan giải.
• Để dẫn chứng cho các điểm nhận định trên, hay ví dụ dưới đây về hệ thống

61
NLKH kiểu Taungya áp dụng tại Châu Phi được trình bày để giải thích cho kỹ
thuật này hơn là để làm một mô hình mẫu được áp dụng cho mọi nơi.
2.5.2. Các kinh nghiệm canh tác Taungya ở châu Phi:
2.5.2.1. Hệ thống vòng tròn ở Nigeria
Mục đích để trồng gỗ lớn có chu kỳ khai thác là 70 năm, phát triển cụm dân cư
tối đa là 400 hộ, đất được cấp làm thổ cư cho mỗi hộ là 0,5 ha và dết canh tác rẫy trong
hai năm là 0,5 ha, điều kiện cự ly đi làm không vượt quá 4,8 khi từ trung tâm dân cư.
Như vậy diện tích lối đa của vòng tròn là 7200 ha. Hệ thống đặt nặng ở sự du canh
theo vòng tròn. phù hợp với điều chế rừng và nhu cầu thiết thực, tập quán của người
dân.

2.5.2.2. Hệ thống hành lang ở Zaiir


Mục đích để trồng rừng cung cấp gỗ nguyên liệu giấy với chu kỳ 20 năm trở lại.
Hệ thống xây dựng dọc theo một con đường chính, tết nhất là theo hướng đông tây Các
hộ gia đình dược định cư dọc theo đường cách nhau 100m. Mảnh đất rừng sau nhà
được chia làm 20 vô kích thước 40 x 100m với tổng diện tích là 8 ha. Lô đất sát sau
nhà sẽ được giao cho nông dân lập vườn, 19 lô còn lại được lần lượt luân canh cây hoa
màu theo thứ tự: lúa rẫy, bắp, khoai mì giữa hai hàng cây lâm nghiệp, tuy nhiên người
làm rẫy không được là do canh tác hoa màu theo ý riêng của mình mà phải canh tác
theo qui định về loài hoa màu và thời điểm họp đồng. Cứ sau 19 năm vòng canh tác sẽ
quay lại lô cũ. Giai đoạn ngắn 19 năm trên mỗi ô chỉ cho phép kinh doanh loài cây
mọc nhanh làm giấy sợi, kinh doanh gỗ chất đốt, gỗ nhỏ, cột. Phương án này có mục
tiêu chủ yếu là sản xuất lương thực kết hợp với sản xuất lâm nghiệp.
Lợi điểm :
• Tổ chức bố trí định canh nhưng vẫn kết hợp dược canh tác rẫy truyền thống

62
với trồng rừng.
• Có diều kiện cơ giới hóa.
• Độ phì của đất được duy trì, tái tạo do thời gian bỏ hóa kéo dài 15 đến 20
năm…
• Giảm bớt tác hại của việc làm rẫy đồng thời có điều kiện thực hiện công tác
khuyến nông lâm.
• Không phá vỡ tập quán canh tác truyền thống, giúp giao đất định cư, định
canh cho dân để canh tác lâu dài.
Áp dụng:
Nhiều nơi đã tìm hiểu và áp dụng hệ thống này với nhiều loài cây rừng khác nhau
và đã rút ra một giới hạn của hệ thống như sau:
• Hầu hết các hệ thống Taungya đều khó thuyết phục nông dân vì họ càng chăm
sóc tốt cho cây rừng mọc nhanh thì càng nhanh nông dân phải rời khỏi phu
vực do tán rừng khép nhanh. Do vậy hệ thống này chỉ áp dụng được ở nơi nó
chỉ là một hoạt động để bổ túc thêm thu nhập cho nông dân mà thôi.
• Hệ thống chỉ thành công nếu đơn vị quản lý sử dụng đất có phương án quy
hoạch tổng thể đất lâu dài và kinh phí hỗ trợ để phát triển vùng sâu vùng xa.

63
2.5.3. Kinh nghiệm canh tác Taungya ở các nước Đông Nam Á:
Nhiều nơi đã tìm hiểu và áp dụng hệ thống này với nhiều loài cây rừng khác nhau
và đã rút ra một giới hạn của hệ thống như sau:
Hầu hết các hệ thống Taungya đều khó thuyết phục nông dân vì họ càng chăm
sóc tết cho cây rừng mọc nhanh thì càng nhanh nông dân phải rời khỏi khu vực do tán
rừng khép nhanh. Do vậy hệ thống này chỉ áp dụng được ở nơi nó chỉ là một hoạt động
để bổ túc thêm thu nhập cho nông dân mà thôi.
2.6. CÁC HỆ THỐNG RÙNG VÀ ĐỒNG CỎ PHỐI HỢP: (SILVOPASTORAL)
Tại các nước nhiệt đới hệ thống này không phổ biến vì chỉ ở các vùng khô và
bán khô hạn thì đồng cỏ mới cần thâm canh Tuy nhiên, một vài nơi đã nghĩ đến việc
chăn thả gia súc dưới các rừng khác nhau vì có nguồn cỏ dưới tán rừng. Một vài điểm
cần được lưu ý như: phải xác định thời điểm tết để thả gia súc trên các cấp rừng có tuổi
khác nhau và theo mùa chăn thả, mối quan hệ giữa số đầu gia súc và khả năng của
đồng cỏ phải được lưu tâm để tránh hiện tượng gia súc giẫm đạp quá mức làm chai
cứng đất nhất là trong mùa khô, chú trọng phương án luân canh chăn thả theo nhiều lô
rừng có quan hệ với khả năng tái sinh của cỏ trong mỗi lô.
Ưu điểm:
• Có được nguồn phân hữu cơ từ gia súc, sản phẩm thịt sữa cho người dân, rừng
trồng được làm vệ sinh, đầu tư nông trại được gia tăng tối đa và dễ thu hoạch
hạt giống hơn (Bareron, 1983)
• Hệ thống này giảm bớt lớp bồi khô dưới tán rừng nên góp phần làm giảm nguy
cơ cháy rừng trong mùa khô.

64
Hạn chế:
• Các loại cây ăn quả, hoa màu và những thực vật khác không thể trồng được
dưới tán rừng vì dễ bị gia súc ăn, phá.
• Nếu không quản lý thích hợp về số vật nuôi trên đơn vị diện tích chăn thả,
mùa chăn thả… đất có thể bị nén chặt và hư hại do gia súc giẫm đạp.
Một hệ thống khá thành công là hệ thống phối hợp hỗ tương giữa thành phần gia
súc và kỹ thuật canh tác theo băng. Thay vì sử dụng vật liệu cắt được từ các hàng ranh
làm phân xanh hay vật liệu tủ trên mặt đất, chúng được cho gia súc ăn như đã được
thực hiện bởi trung tâm Tin lành phát triển đời sống nông thôn tại Mindanao,
Philippin. Tại đây vật liệu cắt được cho dê ăn nuôi nhốt trong chuồng. Phân dê được
bón cho các hàng ranh và hoa màu. Lợi điểm của hệ thống là cung cấp cho nông trại
nhiều loại sản phẩm. Tuy nhiên, nông dân phải đầu tư lớn cho các con giống và phân
bón hóa học cho sự sinh trưởng cần phải nhanh của các hàng ranh.
Trong rừng cao su, thông, rừng khớp việc chăn thả súc vật đặc biệt là bò, dê, cừu
rất có tiềm năng phát triển vì có cỏ chiếm ưu thế dưới tán rừng. ước lượng rằng mỗi ha
rừng có khả năng nuôi cừu, dê sản xuất được 250 Kg thịt trong thời gian 7 đến 8 tháng
(Penafiel, 1979)
Các mô hình khác được đề nghị như:
• Keo dậu + cỏ nuôi gia súc (cỏ Guinea, stylo, cỏ voi Keo dậu trồng với khoảng
cách 5x2m, có thể nuôi 6 đến 10 gia súc trên mỗi ha, cỏ trồng với khoảng cách
50x50cm hay 75x75cm sẽ cung cấp thức ăn cho gia súc khi cây keo dậu cao
hơn 3m.
• Dừa + cỏ hay cỏ họ đậu: các loài thực vật cung cấp thức ăn gia súc có thể
được trồng dưới cây dừa Có thề nuôi 3 gia súc trên mỗi ha (Lastimosa, 1985).
2.7. HỆ THỐNG LÂM NGƯ KẾT HỢP (SILVOFISHERY HOẶC AQUAFORESTRY):
Rừng ngập mặn (Mangrove) là hệ sinh thái chuyển tiếp giữa hệ sinh thái đất liền
và hệ sinh thái biển. Tiềm năng sinh học của hệ sinh thái này rất lớn và phong phú.
Đã có các nông lâm trường, người dân ở một số vùng thuộc các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long gây dựng thành công các hệ thống nông lâm kết hợp ở rừng ngập mặn
và rừng tràm trên đất chua phèn. Tại đồng bằng sông Cửu Long nông dân đã xây dựng
nhiều hệ thống NLKH lấy rừng sác và rừng tràm làm trung tâm để phát triển trồng trọt
và nuôi trồng thuỷ sản. Ngoài các sản phẩm chính các hệ thống này còn cung cấp cho
người dân vô số các lâm sản ngoài gỗ có giá trị như rễ mấp từ cây mấp (Alstonia
spathulata) dùng để làm mủ, phao cứu sinh, đánh cá, nút chai..v.v. lá và dây làm
nguyên liệu từ dương xỉ, dây choài (Stenochianena palustris), mật cắt (Licuala
spinosa).

65
Nuôi cá, tôm và nuôi ong là các hoạt động kết hợp trong các hệ thống này trên
đất ướt vì trong các kiểu rừng này có vô số điều kiện thuận lợi về thức ăn phù du cho
tôm cá, hoa cung cấp mật hoa cho ong..v.v.
Lợi ích:
• Những loài cây ngập mặn như trạm, được, mắm, sú, vẹt, bần có giá trị cung
cấp gỗ củi và tác dụng phồng hộ, mở mang thêm diện tích nhờ có quá trình cố
định và lắng đọng phù sa bởi cấu tạo đặc biệt của hệ rễ "cà kheo".
• Các kiểu rừng ngập mặn là môi trường thích hợp để nuôi trồng các loại thủy
sản như tôm, sò, cá, một số loại bò sát.
• Các hệ thống kênh mương được xây dựng để dẫn nước ngọt rửa chua phèn cải
tạo được đất để sau đó có thể sử dụng vào việc sạ lúa và trồng các loài cây ăn
qủa.
• Một số loài cây rừng ngập mặn có nguồn hoa phong phú, người dân có kinh
nghiệm nuôi ong để tận dụng được nguồn mật hoa này.
Hạn chế:
• Đòi hỏi phải có kinh nghiệm, hiểu biết nhất định về kỹ thuật.
• Tốn nhiều công lao động và đầu tư tương đối cao, đặc biệt là nuôi trồng các
loài thủy sản xuất khẩu

66
Chương IV
KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP

1. GIỚI THIỆU CÁC KỸ THUẬT BẢO TỒN ĐẤT VÀ NƯỚC


1.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BẢO TỒN ĐẤT VÀ NƯỚC
1.1.1. Tính cấp bách của việc chống xói mòn bảo vệ đất
• Xói mòn là một hiện tượng tự nhiên ảnh hưởng đến đất đai và gián tiếp đến
sức sản xuất của một địa điểm, đặc biệt là trên đất dốc. Sự thành lập của lớp dết mặt,
nơi chứa đựng các quá khứ, tiềm năng và tương của con người, diễn ra rất chậm cả đến
hàng trăm năm do quá trình phong hoá của lớp đá mẹ. Tuy nhiên, hàng tấn đất mặt dễ
dàng bị xói mòn trôi ra sông, ra biển trong một thời gian ngắn nếu con người không
biết giữ gìn quan tâm đến sự sử dụng đất của mình. Cho nên bảo tồn dết để kiểm soát
sự xói mòn cần được quan tâm vì:
• Xói mòn diễn ra trên hầu hết các vùng đất dốc. Đất càng dốc khả năng xói
mòn càng mạnh, xói mòn phụ thuộc vào chế độ mưa và các hoạt động sử dụng đất của
con người.
• Xói mòn đang là nhân tố quan trọng nhất làm suy thoái tài nguyên đất, làm
hoang hoá các vùng đất dốc nhiệt đới, làm đói nghèo đời sống của người dân ở nhiều
vùng trên thế giới.
• Xói mòn càng mạnh thì khả năng phục hồi của đất và tài nguyên sinh vật càng
khó khăn, vật liệu bào mòn làm cạn hồ tích nước, gây lũ lụt hạn hán. Chống xói mòn
để bảo vệ vốn đất là một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất và là sự tồn tại lâu bền
của con người trên hành tinh.
1.1.1. 1.1.2. Tính cấp bách của việc bảo tồn nước
Nước là một tài nguyên quan trọng cho cuộc sống của con người trên quả đất.
Tuy nhiên nước cũng là một tai hoạ cho chúng ta nếu quá thừa hay quá thiếu vì nó sẽ
là những nguyên nhân gây ra các thiên tai như lũ lụt và hạn hán. Xét đến tài nguyên
nước chúng ta nên quan tâm đến số lượng, sự điều hoà phân phối theo thời gian và
chất lượng của nó. Khi xã hội loài người phát triển như cầu về nước càng tăng lên vì:
• Nhu cầu nước của con người ngày càng tăng lên đó là nhu cầu nước tưới cho
trồng trọt, nước cho chăn nuôi, nước cho công nghiệp và nước cho sinh hoạt hàng
ngày.
• Nguồn nước đang ngày càng khan hiếm và mất ổn định dẫn đến hoang hoá đất
đai, lũ lụt, hạn hán…
• Nguồn nước đang bị ô nhiễm (ô nhiễm hữu cơ, chất độc hoá học…)

67
• Sự sử dụng đất đai bị chi phối bởi lưu vực nước của các hệ thống sông ngòi và
càng ngày người ta càng nhận thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ của thượng lưu, hạ lưu
một con sông và vùng biển cận duyên của một khu vực.
1.2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CHÍNH CỦA VIỆC PHÒNG CHỐNG XÓI MÒN ĐẤT
1.2.1. Phân loại xói mòn đất
Đất bị xói mòn do nhiều yếu tố và đó cũng là cơ sở để phân thành các loại xói
mòn khác nhau như sau:
• Xói mòn do gió: gió làm khô và rời rạc các phần tử đất, cát và bị gió thổi đi
đến nơi khác.
• Xói mòn do trọng lực: Đất di chuyển do chính trọng lượng của nó, có thể là
đất bị trôi theo khe, rãnh, cũng có thể do lở đất đá.
• Xói mòn do nước: đây là loại xói mòn do sự công phá của giọt mưa đối với
lớp đất mặt và sức công phá, cuốn trôi của dòng chảy đây là loại xói mòn nguy hiểm
cho vùng đất dốc khi không có lớp phủ thực vật, gây ra các hiện tượng xói mặt, xói
rãnh, xói khe...

68
1.2.2. Các yếu tố chi phối đến xói mòn đất
1.2.2.1. Khí hậu
Quan hệ giữa điều kiện khí hậu với tình hình xói mòn đất hết sức mật thiết và
phức tạp. Ví dụ ở nơi có độ ẩm cao do mưa nhiều dễ gây ra xói mòn. Nhưng ở đâu có
điều kiện khí hậu thuận lợi thì cây, cỏ sinh trưởng tết và như vậy sẽ làm hạn chế xói
mòn. Ngược lại ở nơi khô hạn, lượng mưa ít, cây cỏ khô cằn thì khả năng ngăn cản lực
công phá của giọt mưa kém dễ xói mòn. Nơi có gió mạnh làm tăng cường tốc độ rơi
của giọt mưa và dễ gây xói mòn.
Trong các yếu tố khí hậu thì lượng mưa ảnh hưởng trực tiếp đến xói mòn mạnh
nhất, nó thể hiện qua sự phân bố mưa theo mùa trong năm và cường độ mưa. Khi
cường độ mưa càng lớn thì sức gõ của hạt mưa xuống mặt đất càng mạnh và làm tăng
dòng nước mặt, độ xốp của đất giảm, sức thấm nước của đất giảm và làm tăng khả
năng xói mòn đất.
1.2.2.2. Địa hình
Địa hình là cơ sở của xói mòn đất là điều kiện gây ra dòng chảy, làm cho thế
năng của nước trên mặt đất biến thành động năng. Những yếu tố địa hình làm ảnh
hưởng tới xói mòn đất là: độ dốc, chiều dài dốc và hình dạng mặt dốc.
• Đất càng dốc, sườn dốc càng dài thì xói mòn càng mạnh.
• Ngoài ra hướng dốc khác nhau thì điều kiện tiểu khí hậu cũng khác nhau vì
điều kiện chiếu sáng, nhiệt độ, ẩm độ, chế độ gió khác nhau ảnh hưởng đến sinh
trưởng, độ che phủ của thực vật và gián tiếp ảnh hưởng đến xói mòn.
1.2.2.3. Địa chất và đất
Đất là đối tượng của xói mòn, sự phong hoá trên mỗi loại đá mẹ khác nhau sẽ
hình thành các loại đất với các tính chất khác nhau, và như vậy tính chất và cường độ
xói mòn ở mỗi loại đất là không giống nhau.
• Hình thức xếp lớp của đá mẹ cũng ảnh hưởng tới xói mòn
• Thành phần cơ giới của đất có ảnh hưởng rất lớn chế độ nước của đất và xói
mòn; đất cát có sức thấm nước tết nhưng kết cấu rời rạc nên sức đề kháng với xói mòn
kém, còn đất sét có sức liên kết lớn nên sức đề kháng xói mòn mạnh nhưng thường bí
chặt khó thấm nước dễ tạo ra dòng chảy bề mặt mạnh gây xói khe…
• Độ xốp của đất nói lên số lượng lỗ hổng trong đất nhiều hay ít do đó nó ảnh
hưởng lớn tới tốc độ thấm nước và sức chứa nước của đất và như vậy có ảnh hưởng
đến xói mòn.
• Tính chất hoá học của đất ảnh hưởng tới xói mòn đất: chẳng hạn hàm lượng
chất hữu cơ cao sẽ thúc đẩy sự thấm nước vào đất; các con Ca+, Mg có ảnh hưởng tốt
đến cấu tượng đất.
69
• Lượng ion Na+ làm gia tăng nước chảy bề mặt làm xói mòn đất.
1.2.2.4. Thảm thực bì
Thảm thực bì sẽ ngăn cản tết chống lại xói mòn đất: tán lá ngăn cản lực xung
kích của giọt mưa, làm tăng lượng nước thấm vào đất, hạn chế dòng chảy bề mặt mặt
khác bộ rễ thực vật làm thành mạng lưới dày đặc trong đất có tác dụng giữ đất, làm
tăng độ xốp của đất, làm tăng khả năng giữ nước của đất.
1.2.2.5. Các hoạt động sử dụng và quản lý đất của con người.
Nhịp độ tăng trưởng trong cả hai mặt dân số và phát triển kinh tế xã hội trong
nhiều thập kỷ qua đã làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài
nguyên đất. Con người với các hoạt động sử dụng và quản lý đất khác nhau đã góp
phần gây ra xói mòn đất và xói mòn đất đóng vai trò chủ yếu trong việc làm suy thoái
đất.
Các hoạt động sử dụng và quản lý đất dẫn đến xói mòn đất như sau:
• Khai thác rừng không hợp lý
• Phá rừng làm nương rẫy.
• Canh tác nông nghiệp không bền vững
• Lửa rừng
• Chăn thả gia súc quá mức
• Xây dựng đường, cầu cống, nhà cửa, đường điện ở vùng đồi núi không hợp lý.
• Khai thác khoáng sản không hợp lý
• Trồng rừng quy mô lớn nhưng không chú ý đến hỗn loài và chọn loại cây
trồng hợp lý.
1.2.3. Sử dụng các biện pháp kỹ thuật để kiểm soát xói mòn
1.2.3.1. Biện pháp cơ học và quản lý để kiểm soát xói mòn
• Xây dựng các hệ thống tiêu nước
• Xây dựng bờ tường đá
• Xây dựng các bậc thang để canh tác
• Kè đá trên bề mặt dốc
1.2.3.2. Biện pháp dùng thảm thực vật để kiểm soát xói mòn
Xây dựng một thảm thực vật bảo vệ,
Xây dựng đai cây xanh phòng hộ

70
1.2.3.3. Các biện pháp chống xói mòn truyền thống để kiểm soát xói mòn
• Làm đất và canh tác theo đường đồng mức
• Luân canh, xen canh hoa màu
• Che tủ mặt đất, làm đất hạn chế.
1.2.4. Một số nguyên tắc chính để bảo tồn đất và nước
Bảo tồn đất và nước là một công việc cần thiết và hết sức cấp bách hiện nay
nhằm sử dụng đất bền vững, do vậy cần phải tuân thủ một số nguyên tắc sau:
• Sức sản xuất của đất bị mất đi thì quan trọng hơn nhiều so với chính lớp đất bị
bào mòn mất đi. Do vậy, bảo vệ đất phải là một sự phối hợp các chiến thuật phát triển
nông nghiệp tổng thể có trọng tâm cải thiện kỹ thuật làm sức sản xuất gia tăng. Thông
thường, các kỹ thuật bảo vệ đất chống xói mòn được thiết kế và triển khai trước một
bước đối với kỹ thuật cải thiện năng suất cây trồng để chống xói mòn đất. Tuy nhiên
cả hai đều quan hệ tương hỗ với nhau và phải được triển khai đồng bộ và phối hợp.
• Xói mòn là kết quả của việc sử dụng đất như thế nào và chính nó không là
nguyên nhân chính trực tiếp của sự thoái hoá đất. Sự thoái hoá của đất phải được ngăn
chặn trước khi xảy ra, hơn là phát triển một phương án cứu chữa.
• Đất đã được nghiên cứu quá nhiều bởi các chương trình và dự án bảo vệ đất
chống xói mòn trong khi đó nông dân là người sử dụng đất lại ít tìm hiểu vấn đề này.
Do vậy, một dự án có mục tiêu bảo tồn đất và nước, giải quyết sự thoái hoá của đất
phải dùng biện pháp triển khai "từ dưới lên", lấy nền tảng từ các hiểu biết của nông
dân và nông trại tại chỗ như là một hệ thống tổng thể để xem xét sự sử dụng đất. Trái
lại biện pháp áp đặt "từ trên xuống" thường chỉ chú trọng giải quyết các triệu chứng
của xói mòn đất qua việc phân chia đất thành các bậc thềm để canh tác xen băng hay
các kỹ thuật khác chỉ thành công nhất định do sự tác động của các tổ chức bên ngoài
hệ thống.
• Ở các vùng đồi núi cao, năng suất cây trồng bị giảm sút nhiều do thiếu hay
thừa nước, hơn là đất bị xói mòn mất đi. Do vậy cần quan tâm hơn việc quản lý nguồn
nước mưa, nhất là các kỹ thuật bảo tồn nước hơn là chỉ chú tâm vào bảo tồn đất. Kết
quả là, các kỹ thuật canh tác như cây bừa, tủ lớp mặt có tiềm năng và ý nghĩa cao hơn
so với các biện pháp cơ giới để bảo vệ đất và nước chống xói mòn.
• Các nỗ lực bảo vệ đất và nước sẽ thành công hơn khi được áp dụng một cách
lâu dài hơn là chỉ áp dụng trong các hoạt động ngắn hạn theo từng dự án nước cố định.
• Nông hộ và trang trại cụ thể là trọng tâm cho các chương trình bảo vệ đất và
nước.
• Nông dân cần được thuyết phục bởi các lợi ích trước mắt, kết quả của các thay
đổi canh tác. Điều quan trọng là phải giải quyết ngay các nhu cầu cấp thiết của nông
71
dân qua việc giới thiệu các kỹ thuật canh tác sản xuất mang cả lợi ích kinh tế nhanh
lẫn có ý nghĩa phòng hộ lâu dài.
1.3. MỘT SỐ KỸ THUẬT BẢO TỒN ĐẤT VÀ NƯỚC CÓ THỂ ÁP DỤNG TRONG
TRANG TRẠI NÔNG LÂM KẾT HỢP
1.3.1. Canh tác theo đường đồng mức
1.3.1.1. Đặc điểm
Canh tác theo đường đồng mức trên đất
dốc là để giảm sự xói mòn đất và lượng nước
chảy bề mặt. Đường đồng mức là đường
tưởng tượng nối các điểm cùng cao độ với
nhau trên một mặt dốc và nó thường trực
giao với đường nước chảy xuống. Thông
thường để hạn chế xói mòn người ta trồng
các loại cây bụi hay xây dựng các rào chắn
dọc theo các đường đồng mức của mặt dốc.
Trồng trọt theo đường đồng mức bao gồm
việc xây dựng bẫy đất, bậc thang hay mô đất
đồng mức, hay trồng các hàng cây đồng
mức, làm đất, cày bừa theo đường đồng mức
là kỹ thuật đang được khuyến khích phát
triển ở vùng Đông nam Á để mang lại sự bền vững cho các nông trại ở vùng cao. Có
nhiều cách phối hợp hoa màu với nhau, với gia súc và cây rừng trên cùng một diện tích
canh tác theo đường đồng mức. Hệ thống SALT đã được phát triển và áp dụng tại
Philippin là một dẫn chứng về canh tác theo đường đồng mức.
1.3.1.2. Lợi ích
• Giảm xói mòn và nước chảy bề mặt.
• Giảm sự mất mát chất dinh dưỡng
1.3.1.3. Giới hạn
• Đo đạc và định hướng các đường đồng mức sai sẽ khiến cho đất bị xói mòn
mạnh hơn.
• Đòi hỏi lao động cho chăm sóc và giữ gìn.
• Cần các kỹ năng chuyên môn để xác định các đường đồng mức.
1.3.1.4. Điều kiện áp dụng
• Yếu tố sinh học tự nhiên:
- Cải thiện năng suất cây trồng và điều kiện đất là các điểm thuyết phục.

72
- Giữ nước cho các mương tiêu nước sẽ làm gia tăng độ thấm nước vào đất và
sản xuất hoa màu.
• Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
- Nhiều nơi xây dựng các công trình quy mô trên đất dốc không được luật pháp
cho phép, nên trong trường hợp đó canh tác theo đường đồng mức sẽ là một kỹ thuật
phù hợp để thay thế.
- Một số vùng nông dân có tập quán canh tác lên xuống theo dốc vì dễ thao tác
các công cụ và sử dụng trâu bò hay máy cơ khí để làm đất.
1.3.2. Canh tác theo bậc thang
1.3.2.1. Đặc điểm
Canh tác theo bậc thang là một kỹ thuật
canh tác bảo vệ đất, thường được sử dụng trên
đất dốc, sườn núi để giữ nước và kiểm soát
chống xói mòn. Chúng được xây dựng bằng
cách đào và đắp đất tạo nên các bậc thềm giống
như bậc thang đi lên xuống. Cấu tạo này giúp
nước thấm từ từ vào đất. Các hệ thống bậc
thang có thể được củng cố bằng các mô đất hay
các hàng đá xếp ở mép mỗi bậc thang, cũng có
thể trồng cỏ ở giữa 2 bậc thang kế tiếp nhau
hoặc trồng thêm cỏ và cây bụi thấp ở mép bậc
thang. Hệ thống này rất phổ biến để trồng lúa
và các loại hoa màu khác ở vùng cao.
1.3.2.2. Lợi ích
• Kiểm soát hiệu quả xói mòn đất.
• Các vật liệu bào mòn được giữ lại ở đáy các mương tiêu nước được đào dọc
theo bậc thang.
• Giảm chiều dài dốc. Cứ mỗi 2 - 3m chiều dài dốc lại được biến đổi thành bậc
thang. Do vậy vận tốc nước chảy xuống sẽ giảm.
• Cải thiện được độ phì của đất lâu dài.
1.3.2.3. Các giới hạn
• Có tác động lớn đầu tiên đến đất nên sẽ làm giảm năng suất ít ra là trong 2 - 3
năm đầu.
• Cần lao động và vốn nhiều để xây dựng và bảo trì bậc thang.
• Cần có kỹ năng xây dựng và bảo trì bậc thang.

73
• Bậc thang cải thiện với mặt dốc cách khoảng chiếm nhiều đất canh tác.
1.3.2.4. Điều kiện áp dụng
• Yếu tố sinh học và tự nhiên:
- Không thích hợp cho các loại đất cạn và dễ lở.
- Không thích hợp để trồng khoai tây vì các bậc thang sẽ bị úng nước.
- Loại bậc thềm cải tạo với các bờ dốc ở giữa hai bậc thang chỉ áp dụng nơi mưa
ít.
• Yếu tố dân sinh kinh tế và xã hội
- Ở vài nơi nông dân không chấp nhận kỹ thuật này vì thiếu lao động và thu nhập
của họ thấp.
- Thiếu sự an toàn về quyền canh tác trên đất là một nhân tố khiến các kỹ thuật
canh tác bảo vệ lâu dài như hệ thống bậc thang không được nông dân chấp nhận.
- Trên các loại đất nghèo, hệ thống bậc thang cho tỉ lệ thu hồi vốn và lợi nhuận
tháp so với kinh phí đầu tư ban đầu.
1.3.3. Hoa màu che phủ đất
1.3.3.1. Đặc điểm
Người ta trồng các loại hoa màu phủ đất
để bảo vệ đất giảm xói mòn và để cải tạo đất
nhờ vào lượng phân xanh của chúng (cày vùi
các loại thân lá còn xanh hay các phẩm vật dư
thừa hoa màu canh tác). Các loài thực vật này
thường là các loại có đời sống ngắn (ít hơn 2
năm) và được trồng ngoài đất đồng ruộng hay
dưới tán các cây trong giai đoạn bỏ hoá. Các
loài hoa màu phủ đất này cũng được trồng xen
hay trồng sau khi gieo trồng phân loài các loài cây lấy hạt như ngô hay được trồng một
lần vào chu kỳ canh tác hoa màu. Kỹ thuật trồng hoa màu phủ đất thường được áp
dụng ở Việt Nam và các nước khác ở vùng châu Á để loại trừ cỏ dại dưới rừng cao su
hay dừa và nhằm mục đích cung cấp thức ăn cho gia súc. Hoa màu phủ đất còn được
trồng trong các hệ thống bỏ hoá để cải tạo độ phì của đất nhanh chóng và rút ngắn
được giai đoạn bỏ hoá.
Phần lớn các loại hoa màu che phủ đất để làm lớp che phủ và tạo phân xanh. Thí
dụ như
Sắn dây dại (Pueraria tokinensis)
Đậu bướm (Clitoria tematea)

74
Đậu xanh (Vigna radiata)
Cỏ kudzu (Pueraria phaseoloides)
Đậu triều (Cajanus cajan)
Cốt khí (Tephrosia candida)
Điền thanh (Sesbania sp.)
1.3.3.2. Lợi ích
• Cải thiện độ phì và lý hoá tính của đất
• Giảm xói mòn và thất thoát nước
• Cản trở cỏ dại phát triển
• Giảm dùng phân hoá học và thuốc diệt cỏ.
• Cung cấp lương thực cho người và cỏ nuôi gia súc.
• Tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất.
• Giúp giữ độ ẩm của đất và bảo vệ đất khỏi bị khô hạn.
• Một vài hoa màu phủ đất có thể cho thu nhập.
1.3.3.3. Các giới hạn
• Có thể cạnh tranh nước và chất dinh dưỡng với cây lâu năm
• Có thể phát triển thành cỏ dại.
• Có thể làm nơi trú ẩn cho sâu bệnh hại.
• Một vài loài có thể tiết ra các chất hoá học cản trở gây trồng cho các loài hoa
màu tiếp sau.
• Chuột và rắn có thể trú ẩn trong lớp che phủ đất.
1.3.3.4. Điều kiện áp dụng
• Yếu tố sinh học tự nhiên
- Không thể áp dụng ở những nơi đất quá dốc.
- Góp phần và cải tạo độ phì của đất
- Một vài loại hoa màu che phủ ra hoa kết quả rất nhiều do đó rất khó kiểm soát;
trong khi các loài khác lại không ra hạt đều đặn và tết do các điều kiện khí hậu của nơi
trồng.
• Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
- Làm giảm dùng thuốc diệt cỏ và lao động làm cỏ.

75
- Nông dân có đất thuộc diện chỉ sử dụng đất đai ngắn hạn sẽ không thích chấp
nhận kỹ thuật này
- Hoa màu che phủ tạo nên thu nhập ngắn hạn thấp.
- Hoa màu che phủ thường không sản xuất các lợi ích thiết yếu (như lương thực,
hạt giống v.v..)
- Nhiều loại hoa màu che phủ rất thích hợp cho gia súc ăn. Chúng là nguồn cung
cấp cỏ tươi hữu hiệu cho trâu bò, gia súc khác nhưng rất khó bảo vệ với nơi có tập
quán thả rông gia súc để kiếm cỏ ăn.
1.3.4. Luân canh hoa màu
1.3.4.1. Đặc điểm
Căn cứ vào việc áp dụng một cách phổ biến của nông dân, luân canh hoa màu
được đánh giá là một kỹ thuật bảo vệ đất và nước quan trọng nhất ở vùng Đông Nam
Á. Rất nhiều loại hoa màu được canh tác liên tiếp nhau, loài này kế loài kia, trên cùng
một diện tích. Sự bố trí canh tác này thay đổi theo thời gian, nhưng tất cả đều được xây
dựng để: cải tạo lý hoá tính và tình trạng màu mỡ của đất canh tác.

Mỗi loại hoa màu đòi hỏi một cách khác nhau về đặc điểm đất đai nơi mà nó
được canh tác. Mặt khác, mỗi loại lại phải để lại vài lợi ích cho đất như các phế phẩm
còn lại hay có vài ảnh hưởng tích cực cho kết cấu của đất. Một hệ thống luân canh tốt
sẽ quan tâm đến các đặc điểm này của từng loại hoa màu được trồng - cái gì mất đi và
được trả lại cho đất - làm sao cho tổng thể thay đổi sẽ có một ảnh hưởng cải thiện đất
nói chung. Trong các hệ thống nông lâm kết hợp, thành phần cây lâu năm có thể được
biến đổi sau một thời gian dài, thường không dưới một năm. Kỹ thuật nông lâm kết
hợp cần một phương án lâu dài để áp dụng luân canh, triển khai một loạt nhiều loại
hoa màu, mỗi thứ được bố trí thống nhất trong một chu kỳ canh tác.
Một kiểu canh tác luân canh thường thấy là lúa - đậu xanh - ngô - đậu ma hay các
loại dậu khác. Một vài loại hoa màu được trồng như bộ đậu làm gia tăng đạm của đất,
như đậu xanh (Vigna sinensis) được trồng với lúa (oriza sativa), để cung cấp đạm trở
lại cho dết mà đã bị lúa hấp thu Tương tự đậu ma (cowpea: Vigna radiata) với khả

76
năng định đạm và ảnh hưởng tốt đối với đất của nó, thường được trồng sau cây ngô
(Zea mays) là một cây hấp thụ nhiều đạm từ đất.
1.3.4.2. Lợi ích
• Rất hiệu quả để cải thiện độ phì của đất
• Giảm sự thất thoát chất dinh dưỡng.
• Giúp giữ năng suất của hoa màu
• Làm đa dạng các loài canh tác.
• Giúp kiểm soát sâu bệnh hại.
1.3.4.3. Các giới hạn
• Có thể khó khăn nơi nguồn nguyên liệu sản xuất nghèo nàn.
• Ít được áp dụng cho những cây hoa màu lâu năm.
• Đôi khi đòi hỏi người nông dân phải trồng những loại cây không hợp với sở
thích của họ.
1.3.4.4. Điều kiện áp dụng
• Yếu tố sinh học tự nhiên
- Trong khi một vài yếu tố dinh dưỡng vẫn còn đòi hỏi bón thêm, luân canh vẫn
tiếp tục sử dụng loại này để cố định sức sản xuất của việc canh tác.
- Luân canh hoa màu có thể được xây dựng để phát huy hiệu quả tốt của nó trên
đất nghèo kiệt.
• Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
- Có thể tăng thu nhập lâu dài, nhưng có thể cho thu nhập thấp trước mắt.
- Có thể cung cấp bữa ăn thay đổi cho người.
- Chính sách đất đai không rõ ràng sẽ làm nản lòng người áp dụng các kỹ thuật
canh tác bảo vệ đất.
- Có thể đòi hỏi lao động cao - một khó khăn nơi có sự tâm canh theo mùa.

77
1.3.5. Trồng cỏ theo băng

1.3.5.1. Đặc điểm


Trồng cỏ theo đường đồng mức sẽ tạo ra trướng ngại để làm giảm xói mòn và
nước chảy bề mặt. Nó thúc đẩy tạo ra các bậc thang tự nhiên trên đất đồi dốc ngay cả ở
năm thứ nhất, vì đất bị bào mòn được giữ lại phía trước các rào cản này.
Cỏ có thể được trồng dọc theo đáy và sườn của đê để cố định đất và để ngăn
ngừa xói mòn ở phần dốc trên cao. Cỏ cũng thường được trồng ở mô đất đắp ven bậc
thang để cố định giảm xói mòn và ổn định bậc thang.
Cỏ được cắt tỉa định kỳ (sau 2 - 4 tháng) để ngăn chúng ra hoa, che bóng hay
phát triển ra vùng đất canh tác giữa 2 băng cỏ. Do vậy kỹ thuật trồng các băng cỏ
chống xói mòn là rất thích hợp cho nông dân có hệ thống nuôi gia súc tại chỗ và cắt cỏ
cho chúng ăn. Cỏ cũng có thể được sử dụng làm vật liệu tủ gốc cho các loại hoa màu.
Trên đất đồi dốc, hạt cỏ, cành hoặc bụi cỏ được trồng thành hàng đôi dọc theo
đường đồng mức với khoảng cách là 50cm. Trồng trên bờ đê mật độ của cỏ dầy hơn,
còn ở trên mép bậc thang cỏ được trồng theo hình nanh sấu có khoảng cách 30cm x
20cm. Các loài cỏ thường dùng để cản xói mòn là cỏ Setana (Setaria ancaps), cỏ ruzi
(Brachiaria ruziiensis), cỏ voi (Pennisetum purpureum), NB21 cỏ vơi lai, sả
(Cymbopogon citratus), và cỏ Vetiver (Vetivena zizannoides).
1.3.5.2. Lợi ích
• Hạn chế xói mòn đất và nước chảy bề mặt.
• Cung cấp cỏ cho gia súc.
• Cỏ được dùng vật liệu tủ.

78
1.3.5.3. Các giới hạn
• Cần công lao động để chăm sóc các băng cỏ.
• Dùng vật liệu cỏ để tủ bề mặt có thể tạo nên cỏ dại phát triển.
• Trồng cỏ cạnh tranh diện tích đất dành để trồng cây lương thực.
1.3.5.4. Điều kiện áp dụng
* Các yếu tố sinh học tự nhiên
- Không được áp dụng trên đất quá dốc hay các vùng đất có mưa kéo dài.
- Cỏ không thể sống ở các vùng khô hạn.
* Các yếu tố dân sinh kinh tế xã hội s
- Nông dân có thể không có đủ thời gian để quản lý thâm canh cỏ nên dễ để thành
cỏ dại.
- Trong các hệ thống truyền thống nông dân có tập quán thả rông gia súc, nên họ
sẽ không chấp nhận hệ thống chăn nuôi một chỗ và cắt cỏ đem về.
- Nông dân sợ khu trồng cỏ một số loài gậm nhấm sẽ trú ẩn và phá hoại hoa màu
lương thực kế cận
- Nguồn giống cỏ để trong không sẵn cho một số nơi ở vùng cao.
- Nếu nông dân không nuôi gia súc, họ không quan tâm đến kỹ thuật này.
1.3.6. Trồng cây xanh thành các băng theo đường đồng mức
1.3.6.1. Đặc điểm
Các băng cây xanh là kỹ thuật trồng
đơn giản để giảm xói mòn trên đất dốc. Các
loại cây hay bụi cố định đạm, cỏ, cây ăn quả,
hay các loại hoa màu như dứa, chuối được
trồng theo đường đồng mức. Rất nhiều loài
cây và hoa màu được đưa vào trồng thêm
trong băng để tăng thêm thu nhập và đa dạng
sản phẩm của nông trại. Các băng sẽ giảm
dòng chảy của nước mưa và giữ đất lại để
dần dần tạo thành các bậc thang tự nhiên.
Chúng cũng cải thiện độ phì của đất và
sức sản xuất hoa màu các đường đồng mức trên đất dốc là các kỹ thuật canh tác phổ
biến tại Việt Nam, Philippin, Indonesia và Thái Lan và hiện nay chúng đang được phát
triển thêm ở các nước khác

79
1.3.6.2. Lợi ích
• Hạn chế xói mòn.
• Cải thiện độ phì và độ ẩm đất.
• Cung cấp sinh khối làm phân xanh.
• Tạo bóng che thích hợp cho cây khác.
• Nguồn thức ăn cho gia súc, củi và các vật liệu khác
• Cải thiện được cấu tạo và độ thấm nước của đất.
• Cung cấp vật liệu tủ bề mặt đất.
1.3.6.3. Các giới hạn
• Mất một phần đất canh tác do trồng các băng cây đồng mức (ít nhất là 10% đất
canh tác bị mất).
• Băng cây cạnh tranh với hoa màu trồng trong băng giữa về ánh sáng, dinh
dưỡng và nước. Cắt xén rễ và tỉa lá và cành nhánh có thể hạn chế sự cạnh tranh.
• Các loài cây trên các băng có thể là nơi ký gởi và phát triển của sâu bệnh hại.
- Sự giữ nước hiệu quả các lượng nước mưa lớn có thể gây cho đất ngập úng và
lở nhất là ở các triền dốc.
1.3.6.4. Điều kiện áp dụng
* Các yếu tố sinh học tự nhiên
- Nhiệt độ cao hay thấp quá có thể làm hư hại các băng đã trồng.
- Rất khó khăn để trồng các băng đồng mức trên đất dốc (> 50%).
- Phần lớn các cây bộ đậu cố định đạm đều không thích ứng phát triển trên đất a
xít.
* Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
- Thiếu hạt giống của cây trồng làm băng.
- Thiếu tiền để mua hạt giống cần thiết.
- Thiếu thời gian và lao động để xây dựng các băng cây đồng mức.
- Không có chủ quyền hay sử dụng đất lâu dài
- Nông dân sợ các băng cây không sản xuất lương thực, thực phẩm
- Nông dân nghĩ rằng các băng sẽ cạnh tranh mạnh đến hoa màu và là cây chủ
cho dịch bệnh.
- Nông dân canh tác theo lối truyền thống sử dụng phương pháp và dụng cụ đơn

80
giản để làm việc, họ không thích băng cây và canh tác theo đồng mức vì bất tiện
1.3.7. Đai đổi hướng chảy theo đường đồng mức
1.3.7.1. Đặc điểm
Các đai đổi hướng nước chảy được đào dọc theo các đường đồng mức ngang qua
đồi với mục đích thu lượng nước chảy trên bề mặt đất và chuyển hướng nước chảy về
các hướng nhất định. Các đai đổi hướng này xây dựng đất chính để bảo vệ đất và nước
ở vùng đất đồi dốc. Các kênh và đê này được đào và đắp theo nhiều khoảng cách khác
nhau tuỳ theo độ dốc của đất; độ dốc càng lớn, thì khoảng cách càng gần. Kích thước
của đai và kênh là rộng im ở mặt đai, rộng 0,5m ở đáy kênh và sâu 0,5m.

1.3.7.2. Lợi ích


• Bảo vệ đất canh tác khỏi bị ảnh hưởng của nước tràn chảy từ đồi núi cao
xuống.
• Kiểm soát xói mòn theo khe lở
• Làm giảm lại ảnh hưởng bào mòn của nước chảy bề mặt.
1.3.7.3. Các giới hạn
• Nếu không được xây dựng đúng và phù hợp, các đai và kênh có thể bị nước
chảy tràn qua để vào đất canh tác nhất là khi có mưa lớn.
• Cần hỗ trợ thêm cho đai đổi hướng bằng cách xây dựng như hố giữ nước, ngăn
giữ đất
• Cần bảo trì và chăm sóc nạo vét liên tục.
1.3.7.4. Các điều kiện áp dụng
* Yếu tố sinh học tự nhiên
- Để hiệu quả, đai và kênh phải được xây dựng theo đúng các đường đồng mức
chính xác. Nông dân phải biết dùng khung chữ A hay ống nước thăng bằng để xác
định các đường chính xác này.
81
* Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
Một phần đất canh tác bị mất để dành xây dựng các đai và kênh.
- Đổ nước vào đường nước chảy ở nông trại kế cận có thể gây ra một tranh chấp
về mặt xã hội.
1.3.8. Rào cản cơ giới

1.3.8.1. Đặc điểm


Các rào cản cơ giới xây dựng trên mặt đất dốc để hạn chế tốc độ nước chảy trên
bề mặt và giữ đất bị bào mòn bởi hiện tượng xói mòn bề mặt. Các kiến tạo này có thể
được làm bằng gỗ hay đá; theo thời gian, chúng có thể tạo thành hàng rào cản cây
sống. Ở Philippin và Papua New Guinea các rào cản được làm bằng khúc gỗ và cành
nhánh xếp dọc theo đường đồng mức của đất đồi dốc. Thường người ta đóng các cọc
gỗ để giữ chúng lại. Phía trên của rào cản cỏ và các vật liệu hữu cơ khác được xếp dọc
theo để giữ đất bị cuốn trôi theo dòng nước.
Khoảng cánh của giải đất giữa hai rào cản thay đổi tuỳ theo độ dốc của đất,
nhưng thường chỉ biến động từ 4 đến 8m. Các loại hoa màu như ngô, khoai lang và
thuốc lá được trồng trên các giải đất ở giữa.
1.3.8.2. Lợi ích
• Giảm lượng nước chảy tràn bề mặt
• Giữ các phẩm vật bào mòn lại.
• Nếu bảo vệ thích hợp có thể phát triển thành các bậc thang trong một thời
gian.
• Cho phép nông dân canh tác trên đất dốc nơi mà thường không thích hợp để

82
canh tác.
1.3.8.3. Các giới hạn
• Các rào cản bằng gỗ không bền do bị mục trong vòng 2 đến 5 năm.
• Xây dựng rào cản đòi hỏi công lao động.
1.3.8.4. Điều kiện áp dụng
* Yếu tố sinh học tự nhiên
- Để được nông dân chấp nhận nếu đất có độ dốc trung bình ít hữu hiệu để canh
tác hoa màu.
* Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
- Đôi khi nông dân không có đủ lao động để làm rào cản.
Nông dân chỉ chấp nhận làm rào cản để
trồng loài hoa màu có giá trị kinh tế cao như
trường hợp thuốc lá ở Philippin.
1.3.9. Bờ tường đá
Ở những vùng đất có nhiều đá, bờ
tường đá là thích hợp.
• Dọc theo đường đồng mức và phía
trên hàng đám cây bụi đồng mức, cắt ngang
mặt dốc làm bề mặt để đặt và giữ chặt các
hòn đá lên nhau.
• Nếu có đủ đá, chất bờ tường đá cao
ngang với điểm giữa của hai đường đồng mức.
• Trồng cây bụi đa dụng ở đáy của bờ tường đá chúng sẽ cố định và giữ chắc bờ
tường cũng như sẽ cung cấp lá cây cho gia súc.
Điều kiện áp dụng: Nơi có đá lẫn vào đất, nông dân kết hợp dọn đái xếp trên
đường đồng mức Đầu tư lao động để xây dựng ban đầu khá lớn.
1.3.10. Các bẫy đất
1.3.10.1. Đặc điểm
Các bẫy đất là các kiến tạo để giữ đất bị bào mòn từ đầu nguồn lại. Các kiểu
thông thường nhất là hố và hào giữ nước được thiết kế trong lòng các kênh đổi hướng
hay đường tiêu nước.
Một hố nước làm giảm tốc độ của dòng chảy và giúp các phần tử đất bị bào mòn
lắng lại tại chỗ Kích thước của hố tích nước tuỳ thuộc vào tầm cỡ của đường nước
chảy và các kênh tiêu cần được bảo vệ. Các rào cản chặn đất có thể được làm bằng cọc
83
thân, cành của cây đỗ mai (Gliricidia sepium), tre, đá tảng, lóng gỗ hay các vật liệu có
sẵn tại địa phương. Hào là những hố giữ nước lớn và dài dọc theo mô cản để bổ sung
thêm cho các kiến tạo khác Một hào thường có kích thước chừng im dài 0,5m; rộng
0,8m sâu và bố trí nằm phía trên một mô đất đồng mức chừng 1m đến 2m. Mục đích
của các kiến tạo bẫy đất là giữ đất và giữ nước lại thời gian ngắn để tăng khả năng
thấm nước.
Đất giữ lại trên các hố và hào
nước được nạo vét thường xuyên và
chuyển đến đồng ruộng bên cạnh.
1.3.10.2. Lợi ích
• Ngăn chặn sự phát triển và mở
sâu rộng các khe xói.
• Tạo điều kiện tết để các vật
liệu bị bào mòn giàu chất dinh dưỡng
lắng đọng lại.
• Giảm tốc độ nước chảy ở các
khe xói mòn và đường nước chảy.
• Nơi đất lắng tụ có thể canh tác
hoa màu.
1.3.10.3. Các giới hạn
Đòi hỏi nạo vét thường xuyên để
tránh nước tràn vào bờ trong các trận mưa lớn. Các đập chắn đòi hỏi bảo trì và sửa
chữa thường xuyên.
1.3.10.4. Điều kiện áp dụng
• Yếu tố sinh học tự nhiên
- Vật liệu để xây dựng các bẫy đất có thể không có sẵn tại địa phương.
- Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội.
- Cần sửa chữa các hư hại của đập chắn và phải nạo vét hố tích nước thường
xuyên.
- Các bẫy đất được xây dựng riêng lẻ không có các hỗ trợ bảo vệ khác sẽ không
hiệu qua.

84
1.3.11. Tích chứa nước ở vùng cao
1.3.11.1. Đặc điểm

Nguồn nước tưới cho canh tác nông nghiệp ở vùng cao có thể được tăng cường
bằng cách xây dựng các hồ tích nước nhỏ ở đất canh tác để lưu giữ nước mưa.
Xây dựng các hồ chứa nước nhỏ sẽ hiệu quả nếu được phối hợp với các yếu tố
như: Lưu vực nước nơi hứng nước mưa và tạo nước chảy tràn bề mặt, các hồ tích nước
hứng nước mưa và nước chảy bề mặt, và khu vực canh tác cần tưới nước trong kiểu đê
thẳng mùa khô.
Lưu vực nước phải có diện tích đủ lớn để gom nước vào hồ tích nước. Số lượng
nước tích được tuỳ thuộc vào tính chất và diện tích của vùng lưu vực nước và chế độ
mưa của vùng. Ở các nơi có lượng mưa biến động từ 1200 đến 1500mm/năm, một diện
tích lưu vực nước canh tác theo hệ thống ruộng bậc thang rộng 0,2 đến 0,5 ha là đủ cho
một lượng nước khoảng 1000m3 tích trong hồ chứa nước biến động từ 0,6 đến 1,0 ha
là đủ để tạo ra một thể tích nước như trên. Đối với các nơi khô hạn có lượng mưa hàng
năm thấp hơn, sự tích chứa nước vẫn tiến hành được với điều kiện khu vực lưu vực
nước phải có diện tích lớn hơn.
Địa điểm để xây dựng các hồ tích nước nhỏ có thể ở chỗ cao hay ở vùng đất thấp,
thung lũng nơi có thể lợi dụng lượng nước chảy thiên nhiên. Các nơi thuộc nước chảy
của cộng đồng nên quản lý thích hợp để chia xẻ lợi ích cho tất cả thành viên. Nếu chọn
lựa nơi có các mạch nước chảy quanh năm càng tết để có nước tưới quanh năm. Nên
chọn ở những nơi có độ dốc với các đồi dốc biến động từ 2 đến 18% là thích hợp nhất.
1.3.11.2. Lợi ích
• Để cải thiện được sự sản xuất lương thực, thực phẩm.
• Thúc đẩy sự cân bằng bảo tồn sinh thái.
• Đầu tư thấp trên mỗi diện tích canh tác có thu nhập cao.
• Hạn chế tác hại của khô hạn
• Giúp dẫn nước tưới bằng trọng lượng

85
• Phần lớn xây dựng và quản lý cá thể nên tránh được các tranh chấp xã hội.
1.3.11.3. Các giới hạn
• Đòi hỏi lao động nhiều để xây dựng.
• Khả năng thất thoát nguồn nước do bốc hơi và rò rỉ (tuỳ theo loại đất).
• Các loài thực vật thuỷ sinh và bèo nổi có thể xâm nhiễm hồ tích nước.
• Không thể kiểm soát lượng nước chảy tràn trong các trận mưa lớn có thể gây
hư hại cho hồ và đê tích nước.
• Thiết kế và xây dựng kém dẫn đến xói mòn và lụt.
1.3.11.4. Điều kiện áp dụng
* Yếu tố sinh học tự nhiên
- Các loại đất không giữ được nước và có độ thấm thoát cao cần được tráng đáy
hồ bằng giấy plastic hay sét nặng.
* Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
- Nông dân có thể không ưng thuận để dành một diện tích đất làm hồ chứa nước.
- Chính sách sử dụng đất đai có ảnh hưởng quyết định của nông dân
- Không có đủ lao động.
- Vốn vay hay vốn của nông trại có thể không sẵn có
- Đòi hỏi các kiến thức và kỹ năng để xây dựng và quản lý hồ và hệ thống thuỷ
lợi nhỏ.
1.3.12. Canh tác nương rẫy không đất
1.3.12.1. Đặc điểm

Đây là kiểu canh tác quảng canh rất phổ biến ở các nước Đông Nam á, đặc biệt là
để canh tác lúa nương và khoai sọ, hệ canh tác lấy cây sắn là cơ bản. Nó còn được gọi

86
là kiểu canh tác du canh, phát chọc lỗ bỏ hạt. Tuy nhiên phần lớn là sau khi phát để
khô rồi đất và chọc lỗ, bỏ hạt, còn phương thức canh tác nương rẫy không đất có nhiều
ưu điểm hơn đất (nông dân ở Papua New Guinea sau khi chặt phát cây thì không đất
mà dọn xếp theo đường đồng mức, sau đó chọc lỗ và bỏ hạt một cách đơn giản).
1.3.12.2. Lợi ích
• Sử dụng các chất dinh dưỡng chứa trong sinh khối của thảm thực vật.
• Kiểm soát cỏ dại trong 3 tháng đầu và hoa màu mọc nhanh giữ được độ ẩm
của đất. Đây là một phương pháp đơn giản để chuyển hoá đất rừng thành đất canh tác.
• Lớp thực vật không đất che phủ đất ngăn cản lực xung kích của giọt mưa tăng
lượng nước thấm vào đất hạn chế dòng chảy mặt.
• Phối hợp để canh tác hoa màu có của
• Không gây khả năng cháy rừng.
1.3.12.3. Các giới hạn
• Dễ làm xói mòn đất và thất thoát dinh dưỡng của hệ sinh thái.
• Chỉ có thể dùng khi làm đất có giới hạn hay canh tác không cần làm đất, nhất
là khi lớp phủ thực vật nhiều.
1.3.12.4. Điều kiện áp dụng
* Yếu tố sinh học tự nhiên
- Không thể trồng hoa màu dày tối đa do đất dốc khó canh tác
* Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
- Cần nhiều công lao động để phát rừng
- Chỉ phù hợp nơi có dân số ít
- Không áp dụng được nếu thời gian bỏ hoá ngắn hơn 10 năm và đất chưa phục
hồi và còn bị xâm nhiễm bởi cỏ dại.
- Yếu tố tâm lý của nông dân vẫn tin tưởng rằng đất sẽ cải thiện được độ phì của
đất.
Ngoài các kỹ thuật trên còn có thể áp dụng các kỹ thuật đơn giản khác như: Sử
dụng phân hữu cơ.
- Kỹ thuật làm đất tối thiểu (như cuốc hố, trọc lỗ để tra hạt, trồng cây
- Kỹ thuật chăn nuôi gia súc gia cầm trong chuồng...
Các kỹ thuật này đơn giản và cũng có thể áp dụng trong trang trại nông lâm kết
hợp góp phần sử dụng đất bền vững.

87
1.4. KỸ THUẬT LÀM THƯỚC CHỮ A VÀ XÁC ĐỊNH ĐƯỜNG ĐỒNG MỨC
BẰNG THƯỚC CHỮ A
1.4.1. Cách làm một khung chữ A
Khung chữ A là một dụng cụ tự làm,
đơn giản cho nông dân ít có điều kiện hiểu
biết và trang thiết bị đo đạc đắt tiền để xác
định các đường đồng mức. Bất kì một nông
dân cá thể nào cũng có thể tự làm khung chữ
A bằng các vật liệu có sẵn tại địa phương.
Để làm một khung chữ A, cần dùng các
vật liệu và thực hiện các bước sau:
1. Dùng các vật liệu:
- 3 cây tre hay gỗ có đường kính 3 - 4
râm (2 thanh phải có chiều dài 2,1m và thanh
còn lại dài 1,2m).
- Dây bền, chắc để buộc hay đóng đinh
- Một viên đó bằng nắm tay hay bất kỳ
vật nào nặng tương tự.
2. Buộc hay đóng đinh 2 thanh dài ở 1
đầu cách phân cuối chừng 10 cái. Phải đảm
bảo chúng được buộc chắc chúng vào nhau tạo thành chân của một khung chữ A. nên
tạo các khấc ở tại nơi tiếp xúc để cho 2 thanh cây không được lên nhau.
3. Kéo hai chân và buộc chắc với thanh cây ngắn hơn còn lại để tạo thần khung
chữ A. Buộc hay đóng đinh chắc thanh ngang (khoảng kiếm từ mỗi đầu thanh làm
chân) vào điểm giữa của mỗi chân chữ A. Thanh ngang sẽ đỡ và giữ cho chân của
khung và sẽ dùng để hướng dẫn trong công việc xác định mặt ngang của vị trí.
4. Cột một đầu sợi dây vào đỉnh của khung.
5. Đầu dây còn lại được buộc vào một viên gạch, đá làm dây dọi, viên đá phải đủ
nặng để khi cân bằng nó sẽ không bị lay động bởi gió. Vị trí của viên đó phải ở dưới
thanh ngang khoảng 20cm.
1.4.2. Cân bằng khung chữ A
1. Tìm một bề mặt đất có mặt bằng hộp lý và đặc khung chữ A ở vị trí ngay
thẳng. đánh dấu 2 vị trí nơi các chân (A và Bị của khung chạm mặt đất (hình 1). Sau
đó đánh dấu thanh ngang nơi dây dọi cắt qua.
2. Đổi ngược vị trí của các chân khung chữ A sao cho chân A tiếp xúc mặt đất ở
điểm đã đánh dâu B và ngược lại. Một lần nữa, đánh dấu lại thanh ngang nơi dây dọi
88
cắt qua. Nếu 2 điểm làm dấu chồng lên nhau, điều
đó có nghĩa là đã tìm ra điểm giữa của thanh ngang
và rằng khung chữ A đã được đặt trên mặt đất bằng.
Nếu 2 điểm làm dấu cách nhau, đánh dấu điểm cân
bằng ở giữa 2 dấu trên (xem hình 2).
3. Để chính xác, di chuyển 1 chân vòng quanh
cho đến khi dây dọi cắt qua lại ở điểm giữa Đánh
dấu vị trí của chân tại vị trí này và hoán chuyển
chân của khung, nếu dây dọi vẫn cắt qua cùng điểm
thì điểm cân bằng khung chữ A đã được xác định.
1.4.3. Xác định đường đồng mức
1. Cắt cỏ mọc cao và dời các chướng ngại vật
giúp chúng ta đi lại dễ dàng, hai người thực hiện
công việc này là nhanh và dễ làm, một người dùng
khung chữ A trong khi người kia đánh dấu vị trí của
đường đồng mức.
2. Bắt đầu từ điểm cao nhất của đất canh tác, dẫn các cọc đầu tiên ở rìa khu vực
và đặt vị trí của khung chữ A ở gần sát và ngay ở trên cọc
3. Điều chỉnh chân phải của khung chữ A sao cho dây dọi đi ngang qua điểm
giữa của than ngang (điều này có nghĩa là chúng ta đã xác định được đường đồng
mức). Đánh dấu điểm này bằng cách đóng một cọc khác ngay ở sát trên chân phải
khung chữ A.
4. Di chuyển khung chữ A sang bên phải bằng cách đặt chân trái của khung chữ
A ở vị trí chân phải của khung ở lần cân bằng trước. Điều chỉnh lại khung để khung
cân bằng, 1 lần nữa đánh dấu vị trí chân phải
bằng 1 cọc Tiếp tục làm cho đến ranh giới đối
diện của khu vực.
5. Lập lại các bước 2 - 4 cho đến khi chúng
ta vạch được đường đúng mức đến chân của đồi
dốc. Khoảng cách thẳng đứng giữa các đường
đồng mức nên là 1,5 m (khoảng cách sẽ thay đổi
tuỳ theo độ dốc của đồi) mà chúng ta có thể xác
định dễ dàng như ở hình 3 bằng tầm vóc của
một người cao 1,6 m.
6. Sau khi các đường đồng mức đã được
xác định, nên điều chỉnh một vài cọc mốc để tạo nên đường cong hợp lý, thẩm mỹ cho
đường đồng mức tránh ảnh hưởng của thế đất bất đều. Để thực hiện, đơn giản chỉ dịch
lại các cọc lệch quá xa đường đồng mức.
89
1.5. KỸ THUẬT CANH TÁC NÔNG LÂM KẾT HỢP TRÊN ĐẤT DỐC
Tàn phá rừng, xói mòn đất và kỹ thuật trồng không thích hợp là ba nguyên nhân
chính yếu gây ra sản lượng thấp trong canh tác nông lâm đưa lại tình trạng nghèo đói
triền miên ở vùng cao. Kỹ thuật nông lâm kết hợp đang ngày càng trở nên một trong
các kỹ thuật bền vững cho một nền sản xuất cung cấp lương thực đầy đủ và tạo thêm
thu nhập cho vùng này SALT-3 là một kỹ thuật nông lâm kết hợp trên đất đồi núi mà
sau đây là cách thức để xây dựng nó:
Bước 1: Tạo dựng vườn ươm nông lâm
Bảo đảm cung cấp đầy đủ vật liệu gây trồng cho trang trại nông lâm bằng cách
xây dựng vườn ươm tại chỗ. Một vườn ươm có kích thước 5m x 10m có thể đáp ứng
đủ nhu cầu về vật liệu gây trồng cho 2 ha đất.
Hãy xây dựng vườn ươm ở nơi thuận tiện cho việc đi lại với các khu sản xuất
như: luống đặt bầu, nơi cấy cây con, luống gieo hạt v.v.. Các thiết bị cơ bản cần có là
vòi tưới phun, xẻng, thuổng, cuốc, mai bóng cây, cào v.v..
Bước 2: Chăm sóc nuôi dưỡng cây con
Để cây con sinh trưởng tốt và có tỉ lệ sống cao sau khi trồng, phải tạo cây con
khoẻ mạnh và chất lượng cao.
- Gieo hạt: Phần lớn các hạt cây của lâm nghiệp thường có vỏ cứng khó nảy mầm
nên cần xử lý trước bằng biện pháp cơ học hay nước nóng Trở ngại thông thường cần
được quan tâm khi hạt nảy mầm là bệnh rạp cây hay bệnh lở cổ rễ và côn trùng ăn lá
cây Do vậy phải khử trùng đất trước khi gieo hạt để tránh bệnh rạp. Chỉ dùng thuốc sát
trùng khi cần.
Luống gieo hạt và luống cây, cây con phải được giữ ẩm thường xuyên, phải tủ bề
mặt liếp và che bóng cho cây con
* Cấy cây con: Cắt xén rễ các loài cây được trồng theo cách trồng cây con rễ trần
(Nhạc ngựa, Tếch...). Không để cỏ dại cạnh tranh với cây cấy. Bón phân được tiến
hành song song với tưới nước trong thời gian cách xa thời điểm xuất cây đi trồng. Hoà
tan phân hỗn hợp (14 - 14 - 14 hay 15 - 15 - 15 ) với nước theo một tỷ lệ 10g cho một
lít nước. Huấn luyện cây con cứng cáp từ từ bằng cách để cây con chịu đựng với các
điều kiện khó khăn tương tự nơi trồng. Nên việc thực hiện điều này từ 3 - 6 tháng
trước khi trồng cây. Cây con đủ tiêu chuẩn xuất vườn phải có khả năng chịu đựng tốt,
tán phát triển tết và hệ rễ phát triển dày với nhiều rễ lông hút mịn.
Bước 3: Trồng cây lương thực và hoa màu trên nửa phần dưới của nông trại
Nên trồng cây hằng năm ở các băng thứ nhất và thứ hai. Băng là giải đất rộng từ
4 - 5m chạy theo đường đồng mức. Tuỳ theo điều kiện hoàn cảnh của nông trại, chọn
trồng các loài cây lâu năm như Chanh, Cà phê, Ca cao, Chuối, Tiêu… ở tất cả các
băng thứ 3. Sau đó, trồng xen với chúng các loài cây ăn quả lâu năm như: Chôm chôm,
90
Sầu riêng, Dâu da, ổi, Nhãn, Vải, Na, Cam, Quýt, Hồng xiêm, Quất hồng bì… theo các
khoảng cách thích hợp. Càng trồng sớm cây lương thực hoa màu, sẽ càng được nhanh
chóng thoả mãn các nhu cầu thiết thực theo các bước của SALT - Để trồng cây hoa
màu hàng năm.
Bước 4: Chuẩn bị địa điểm trồng cây gỗ lâu năm
Chọn địa điểm trồng cây rừng ở nửa phần trên cao của trang trại nông lâm, dành
phần dưới thấp cho canh tác hoa màu được hưởng các lợi ích phát sinh ra từ ảnh hưởng
của cây gỗ như: Chất dinh dưỡng, độ ẩm được bảo vệ. Ở những nơi đất quá dốc và bị
xói mòn mạnh, phải chú ý tránh thúc đẩy xói mòn do khai quang khu vực. Có thể xử lý
thực bì từng phần hay toàn diện sao cho phù hợp với điều kiện của thực tế, tránh đất
thực bì.
Bước 5: Phân lô và cự ly trồng cây gỗ nhằm đạt 3 mục tiêu như cải tạo đất, cung
cấp chất đất sản xuất gỗ xây dựng có thể sử dụng khoảng cách cây trồng gần băng kỹ
thuật trồng cây với mật độ lớn trong các lô trồng rừng nhỏ.
Bước 6: Trồng cây
Việc này tiến hành càng sớm càng tết với các tỉnh phía bắc nên trồng vào vụ
Xuân hoặc Thu còn ở các tỉnh phía Nam nên tiến hành từ đầu mùa mưa đến giữa mùa
mưa để cây trồng có thể sống được trong mùa khô kế tiếp.
Nên trồng cây theo đường đồng mức mặc dù điều này không bó buộc chặt chẽ.
Lưu ý không làm vỡ bầu đất khi đặt cây con trồng. Mặt bầu phải hơi thấp hơn hoặc
bằng với miệng hố trồng. Đất phải được lấp vào hố và được nén chặt quanh cây con.
Để giúp cây con hồi phục tại đất thoái hoá, nên bón lót từ 50 đến lòng phân hỗn
hợp (14-14-14) trộn với phân me (46-0-0) theo tỷ lệ 50:50. Nên tủ gốc để đảm bảo cây
con hồi sức nhanh.
Bước 7: Trồng xen cây và hoa màu
Các loài cây hoa màu và cây thu hoạch nhanh và trung bình được xen trong phần
đất trồng cây lâm nghiệp trong 2 năm đầu. Các loài cây thu hoạch lâu dài như tiêu đen
và mây song có thể được trồng từ năm thứ hai Có thể nuôi thêm gia cầm như : ngỗng,
gà tây, vịt và gà cũng như các loại gia súc nhỏ như dê, cừu dưới tán cây trồng lâm
nghiệp trong những năm kế tiếp.
Để quản lý đất hiệu quả, luân canh trồng cây ngắn ngày bằng các loài cây bộ đậu
với các loài cây không phải bộ đậu trong từng khu vực canh tác.
Bước 8: Cải thiện quần thụ cây rừng
Ngoài chăm sóc, làm cỏ quanh gốc cây định kỳ và chặt tu bổ để cải thiện quần
thụ trồng phải tỉa các cá thể dị dạng và trồng dặm lại những nơi trống nếu cảm thấy
cây trồng dặm có thể phát triển theo kịp.

91
Tuy nhiên, trồng dặm là một công việc mất thì giờ và tốn kém nên chỉ thực hiện
khi cần giữ mật độ cao cho rừng cây. Công tác này nên làm khi tỷ lệ cây chết của quần
thụ cao hơn 30%, trồng dặm cũng phải tuân thủ thời vụ và kỹ thuật như khi trồng
chính.
Bước 9: Thu hoạch sản phẩm nông lâm thường xuyên
Định kỳ thu hoạch sản phẩm để làm vệ sinh cho trang trại nông lâm kết hợp. Tất
cả sản phẩm có ích và dùng được trong nông trại đều được thu hoạch, chế biến và tiếp
thị. Với lâm nghiệp, lá cây làm thức ăn gia súc, gỗ chất đất và gỗ tròn lấy ra từ tỉa thưa
là các sản phẩm thu hoạch bắt đầu từ năm thứ hai. Phải tỉa thưa làng trồng thường
xuyên cho đến khi rừng cây đạt đến mật độ đòi hỏi sau cùng
2. CÁC KỸ THUẬT ÁP DỤNG TRONG TRANG TRẠI NHỎ NÔNG LÂM KẾT
HỢP
2.1. KHÁI NIỆM VỀ TRANG TRẠI
Trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội dựa trên
cơ sở hợp tác và phân công lao động xã hội bao gồm một số người lao động nhất định
được chủ trang trại tổ chức và trang bị tư liệu sản xuất để tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế quốc doanh phù hợp với yêu cầu
của sử dụng đất và lao động theo các quy định của nhà nước.Về mặt xã hội, trang trại
là một tổ chức cơ sở của xã hội trong đó có các quan hệ xã hội đan xen nhau, quan hệ
giữa các thành viên của hộ trang trại, quan hệ giữa chủ trang trại và lao động thuê
ngoài. Về mặt môi trường có thể hiểu như sau: trang trại là một không gian sinh thái
trong đó diễn ra các quan hệ sinh thái đa dạng. Không gian sinh thái trang trại có quan
hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại trực tiếp với hệ sinh thái của vùng, môi trường bao
quanh trang trại là môi trường vật lí đó là khí hậu, đất, địa hình, nước, thực vật, cơ sở
hạ tầng, đó là môi trường văn hoá xã hội, đó là môi trường chính sách thể chế.
Quy mô của một trang trại có thể thay đổi tuỳ theo diện tích sản xuất của nó và
nguồn lao động được huy động để sản xuất cũng như mục đích sản xuất như trang trại
kinh tế lớn, trắng vừa và nhỏ của gia đình, trang trại để sản xuất theo hướng hàng hoá,
sản xuất tự cung tự cấp hay cả hai. Đặc biệt ở các vùng cao thì các trang trại nhỏ là rất
phổ biến và cần thiết vì các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, và chế biến nông sản ở
đây đã góp phần cung cấp việc làm, lương thực, thực phẩm và thu nhập cho các hộ
nông dân
2.2. QUẢN LÝ TRANG TRẠI NLKH
2.2.1. Quản lý các nguồn tài nguyên trong trang trại NLKH
Một trang trại là một hệ thống canh tác đa dạng và tổng hợp để sử dụng đất theo
một mục đích nào đó. Norman đã định nghĩa một hệ thống là: "bất kì một tập hợp gồm
các phần tử hay thành phần mà khi hoạt động chúng quan hệ ràng buộc với nhau". Do

92
vậy một hệ thống trang trại NLKH được xem như là một sự dàn xếp chi ly của đất,
nước, tài nguyên, hoa màu, vật nuôi, công lao động và các tài nguyên khác trong một
môi trường do chủ hộ quản trị theo các kinh nghiệm, khả năng và kỹ thuật có sẵn.
2.2.1.1. Quản lý tài nguyên đất
Đất là tài nguyên thiết yếu để sản xuất trong nông nghiệp. Để có thể xây dựng và
quản lý một trang trại sản xuất bền vững chủ trang trại cần quan tâm:
- Các đặc điểm của đất: Do các trang trịa ở vùng cao thường bị ảnh hưởng bởi
cách canh tác nương rẫy, đất đai ở đây thường thoái hoá, nghèo và thiếu các kỹ thuật
bảo tồn thích hợp nên năng xuất cây trồng và vật nuôi thấp.
Địa hình và địa mạo của đất trang trại chi phối đến sự sản xuất của trang trại đặc
biệt ở vùng cao như độ dốc, hướng phơi, vùng tụ thuỷ, sườn dông..v.v. Quan tâm đến
các đặc điểm này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các sản xuất trong trang trại nhằm hạn
chế hiện tượng xói mòn đất đai.
2.2.1.2. Quản lý nguồn tài nguyên nước
- Khí hậu: Bao gồm nhiều yếu tố nhưng ở vùng nhiệt đới yếu tố mà trang trại cần
quan tâm hơn hết là vũ lượng và sự phân bố mưa trong năm vì đa số các trang trại
NLKH đều dựa vào nước trời để canh tác. Chế độ mưa phần nào đã xác định loại hoa
màu cũng như thời gian canh tác
- Nguồn nước: là yếu tố quan trọng để sản xuất nên chủ trang trại cần:
• Tận dụng triệt để các điều kiện thuận lợi về nguồn nước cho sản xuất và sinh
hoạt.
• Có phương hướng sử dụng một cách hợp lý và tiết kiệm.
• Xây dựng các công trình thuỷ lợi đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm chi phí xây
dựng, lợi dụng triệt để tài nguyên bảo vệ đất.
• Chú ý bảo vệ các nguồn nước không bì độc hại.
2.2.1.3. Quản lý tài nguyên sinh học
- Hoa màu: Một trang trại NLKH bao gồm 2 loại hoa màu chính là cây nông
nghiệp ngắn ngày và cây lâu năm kể cả cây rừng. Các trang trại này hiện nay có năng
suất kém so với các trang trại ở đồng bằng do loại hoa màu, kỹ thuật canh tác còn thấp,
đầu tư ít và có khuynh hướng sản xuất tự cung cấp. Tuy nhiên, chúng lại mang tính đa
dạng, bảo tồn cao, và sản xuất kết hợp với nhau giữa các thành phần.
- Vật nuôi: Là thành phần đóng góp cho thu nhập của trang trại ở vùng cao, nhất
là trong mùa khô, là điều hoà sự lao động và thu nhập của trang trại NLKH ở vùng khí
hậu gió mùa. Hơn nữa, vật nuôi cũng đóng góp đáng kể cho trồng trọt qua việc cung
cấp phân hữu cơ cho canh tác bền vững.

93
- Sâu bệnh, côn trùng và cỏ dại: là các thành phần sinh học mà chủ trang trại phải
xem xét do không thể tránh khỏi sự xuất hiện của các sinh vật có hại này trong canh
tác. Do hệ canh tác ở vùng cao đa dạng hơn nên bảo vệ thực vật ở đây ít phức tạp như
ở vùng đồng bằng canh tác tham canh. Các kỹ thuật bảo vệ thực vật bằng biện pháp
phòng trừ sâu bệnh hại tổng hợp (IPM) thường được các chủ trang trại quan tâm do nó
dễ phù hợp với điều kiện tại chỗ.
2.2.1.4. Quản lý tài nguyên con người
Tài nguyên con người thường được phân chia làm 2 loại căn cứ vào các yếu tố
nội tại hay ngoại vi.
- Các yếu tố từ bên ngoài (ngoại vi): Là các yếu tố mà chủ trang trại không thể
kiểm soát chúng được thí dụ như cấu trúc của làng, xóm, cộng đồng, các phong tục tập
quán. Cây trồng và vật nuôi được sản xuất trong trang trại có thể bị ảnh hưởng bởi các
yếu tố này mà chủ trang trại không thể can thiệp được như vài loại vật nuôi thiêng
liêng ở một số tôn giáo. Ngoài ra ảnh hưởng của các luồng đào tạo, quê hương nôi
trưởng thành, các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài, v.v.v. cũng chi phối đến quyết định và
hành động của người canh tác. Ví dụ tín dụng hỗ trợ làm thay đổi hàng loạt về loại và
quy mô sản xuất của một thành phần canh tác nào đó trong trang trại.
- Các yếu tố bên trong (nội vi): Đây là những yếu tố nằm dưới sự kiểm soát của
chủ trang trại gồm: đất đai, lao động và vốn liếng. Quyết định về diện tích sẽ canh tác,
sự dụng lực lượng lao động phù hợp cho cả năm, và nguồn vốn để sản xuất là những
điểm mà chủ trang trại phải dự kiến và quản lý
2.2.2. Quản trị trang trại Nông lâm kết hợp
Đối tượng chính của kỹ thuật NLKH là các trang trại nhỏ và vừa ở vùng sâu vùng
xa Do vậy, tìm hiểu tình trạng hiện tại và môi trường sinh sống của các trang trại là
quan trọng để hỗ trợ các kỹ thuật NLKH đồng thời khuyến cáo chủ trang trại có các
quyết định phù hợp để sản xuất bền vững.
Một nông trại nhỏ và vừa có các đặc điểm thường thấy sau:
- Nông trại trước hết là nhà hơn là nơi kinh doanh. Các quyết định để sản xuất
loài gì và như thế nào bị chi phối bởi các suy nghĩ của các thành viên đang sống trong
trang trại. Lưu ý là nông hộ nhỏ thường sản xuất để thoả mãn nhu cầu cho gia đình
trước khi chuyển thành sản xuất hàng hoá.
- Nông hộ nhỏ có khuynh hướng tiêu thụ các nông sản mà họ sản xuất nên loài
cây trồng vật nuôi được chọn lựa theo sở thích của họ.
- Lao động trong gia đình là chín hơn là thuê mướn lao động bên ngoài
- Thị trường của các sản phẩm không rõ ràng, nhập liệu để sản xuất bấp bênh,
thời tiết khí hậu bất thường, và năng suất và thu nhập kém đã gia tăng mức độ rủi ro
trong sản xuất ở trang trại nhỏ và vừa.
94
- Tài nguyên của các trang trại nhỏ bị hạn chế. Vốn hạn chế, quyền sử dụng đất
không rõ ràng và các dịch vụ khuyến nông, thị trường, giao thông liên lạc không đầy
đủ đã làm cho sản xuất ở đây trở nên rất kém và tụt hậu.
- Tuy nhiên sản xuất ở trang trại nhỏ rất đa dạng vì
+ Sản xuất đủ loại để tự cung cấp
+ Giảm các rủi ro
+ Điều hoà thu nhập, và
+ Tận dụng tối đa công lao động của gia đình
Do thiếu tài nguyên, vốn sản xuất ít, giá cả nông sản thấp, sự sản xuất trong các
trang trại nhỏ và vừa thường ở mức thấp hay trung bình. Lao động thường theo thời vụ
vì có nhiều công việc trong canh tác. Quản trị trang trại kém do thời gian bị giới hạn.
Kết quả này đã chỉ rõ sự phức tạp của các trang trại nhỏ và vừa. Tại đây, sự sản xuất
hoa màu không thể được xét riêng lẻ mà phải tìm hiểu mối liên hệ với các thành phần
khác trong hệ thống. Ngay cả sản xuất cây nông nghiệp ngắn ngày cũng phức tạp vì
trồng nhiều loài xen với nhau. Tóm lại cần nghiên cứu các trang trại này dưới góc độ
hệ thống vì chỉ giới thiệu cho họ một kỹ thuật tân tiến như giống lai có năng suất cao
là không đủ mà còn xét đến các yếu tố khác như phẩm chất sản phẩm, vốn liếng, phân
bón, thuốc sâu bệnh, thị trường, giá cả…
Trang trại là nơi cung cấp lao động, kỹ thuật, tiền bạc và các tài nguyên khác
trong hệ thống sử dụng đất để sản xuất. Khi được quy thành tiền, giá trị của sự tiêu thụ
trong nông hộ cung cấp các thông tin về sự sinh sống của cộng đồng và khi phân tích ở
mức độ cộng đồng, người ta có thể nhận xét mức độ của cộng đồng chi tiêu hay dành
dụm. Kinh tế của một trang trại bao gồm thu nhập, cũng như các tài sản và các khoản
nợ. Mô tả sơ lược về kinh tế trang trại bao gồm một tiến trình xác định sức lao động,
hàng hoá và thu nhập chia sẻ bởi một nhóm người sống trong cùng một gia đình và xác
định các tài nguyên đầy đủ liên hệ đến các nhu cầu của họ. So với các vấn đề khác, mô
tả này là một bảng cân đối giữa chỉ tiêu và thu nhập của mỗi thành viên trong nông hộ
kèm theo giới tính để phân tích đặc điểm của từng đầu tư về sự quyết đặt, đóng góp,
ảnh hưởng và chi tiêu.
Một bản sơ lược về trang trại có thể được phát triển nhờ vào sự sử dụng của 3
công cụ đơn giản: Kiểm kê nông hộ (bảng cân đối), tình trạng thu nhập ròng của nông
hộ và ngân sách của nông hộ. Tất cả thành viên của nông hộ đều phải tham gia trong
quá trình sử dụng các công cụ trên nhằm đảm bảo rằng tất cả công cụ trên đảm bảo
rằng tất cả các suy nghĩ của họ đều được ghi nhận và có cùng quyết định. Trước khi
bắt đầu dùng các công cụ trên, xác định mỗi thành viên của nông hộ bằng con số, tuổi
và giới tính. Ngoài ra, cũng phải xác định sử dụng lao động của tất cả thành viên nông
hộ ai làm gì, khi nào, ở đâu? chịu trách nhiệm gì?

95
Bảng 3. Thí dụ về bản kiểm kê trang trại
Thí dụ:
Kiểm kê nông hộ (bản cân đối)
Tài sản
A. Tài sản nông trại
Số Giá hiện Tổng số * Kiểm kê tài chính của trang trại (bản cân
lượng hành đối)
Diện tích đất 1 10.000 10.000 Kiểm kê tài chính của một nông trại (hay
(ha) lập bản cân đối tài chính) sẽ chứng tỏ rằng tài
Nhà của NT: sản thuần hiện nay của nông trại. Tổng số giá trị
của tiền nợ (như nợ, vốn vay, tín dụng.v.v...)
- Kho 2 5.000 10.000
được cân đối trừ cho tổng số giá trị tài sản hiện
Gia súc: nay của nông trại (bao gồm đất đai, gia súc, tiền
- Trâu 2 6.000 12.000 để dành...)
- Dê 3 1.000 3.000 1. Lập danh sách tài sản nông trại:
Dụng cụ: - Đất đai (giá trị của đất đang sử dụng
- Cày 2 1.500 3.000
- Các cơ sở xây dựng để canh tác
- Bừa 2 700 1.400
- Tổng số gia súc và gia cầm
Hoa màu dự trữ
- Trang thiết bị và dụng cụ của nông trại
Ngô (kg) 200 5 1.000
Tổng số tài sản 40.400 - Hoa màu dự trữ trong kho
- Các nguyên vật liệu dự trữ trong kho
B. Tài sản nông hộ (như phân bón, thuốc…)
Số Giá hiện Tổng số 2. Lập danh sách tài sản nông hộ
lượng hành
- Nhà cửa
Nhà 1 50.000 50.000
- Xe cộ
Đồ gỗ 12.000
Tiền để giành 1.000 - Đồ gỗ gia dụng và các tài sản khác
Tổng số tài sản 63.000 - Tiền để dành
Tồng tài sản: 103.400
3. Ước lượng giá trị hiện tại của mỗi tài
Tiền nợ sản.
Tiền nợ ngắn hạn 10.000 4. Lập danh sách tiền nợ của nông hộ
30.000
Tiền nợ dài hạn - Nợ ngắn hạn
Tổng số tiền nợ 40.000
- Nợ dài hạn
Hiện trạng cân đối: 63.400
5. Trừ tổng nợ vào tổng giá trị tài sản của
(Chênh lệch giữa giá trị tài sản và tiền nông hộ để xác định số tồn thuần vốn liếng của
nợ). nông hộ đang có.

96
Bảng 4: Thí dụ về bản thu chi của trang trại
Thí dụ: Thu nhập hàng năm của trang trại Tình trạng thu nhập hàng năm của trang
Thu nhập từ hoa màu/gia súc trại
Công cụ này diễn tả nguồn và tổng số thu
Số Giá
Tổng số nhập của nông hộ. Đó là một dụng cụ rất hữu
lượng đơn vị
1. Trái cây ích cho nông hộ để phân biệt tầm quan trọng
- Khoai (số củ) 200 5 1.000 của các hoạt động tạo thu nhập cho họ.
- Đu đủ (số quả) 1.000 2 2.000 1. Liệt kê các thu nhập do bán hoa màu và
2. Rau màu vật nuôi quanh năm:
- Ngô cải (kg) 1.000 4 4.000 - Số lượng của sản phẩm tính bằng đơn vị
- Đỗ ngọt (kg) 1.000 7 7.000 cái, con hay khô cho từng thứ.
3. Vật nuôi - Ước lượng giá hiện thời của từng sản
- Bán dê 1 1000 1.000 phẩm.
Tổng số: 15.000 2. Liệt kê các nguồn thu nhập khác
3. Điền thêm vào các khoản thu nhập từ
nông trại và các nguồn khác đóng góp vào tổng
Thu nhập khác:
thu nhập của nông hộ. Để tính thu nhập thuần,
Số Giá Tổng sô
các chi phí cho mỗi nguồn thu nhập phải được
lượng đơn vị
trừ đi. Đây là chi phí để sản xuất (như phân
1. Bán củi (siết) 500 10 5.000 bón, hạt giống, thức ăn gia súc...).
2. Gỡ tiền, hàng 10 50 4.000 Cân đối thu chi của nông hộ
3. Làm thuê 500 Ngân sách hàng năm của nông hộ dùng cho
(ngày) nhiều mục đích:
Tổng số: 9.500 1- Nó giúp gia đình so sánh chi tiêu của họ
đối với thu nhập, 2 - Giúp họ thảo luận và đồng
ý khoản nào hay hoạt động nào họ sẽ chi tiêu và
Thí dụ: (cân đối thu chi) 3 - Giúp họ lập nên giới hạn (trên cơ sở tháng
Ngân sách hàng năm của nông hộ: hay năm) để chi tiêu trong gia đình. Cho các
1. Lương thực 1.200 x 12 14.400 nhà phát triển nông thôn, thông tin này có thể
2. Gaz 50 x 12 600 rất ích lợi để xác định ai là người cần được hô
3. Xà phòng 50 x 12 600
trợ một kỹ thuật cá biệt nào đó (cho một lượng
4. Học phí 150 x 12 1.800
lao động cố định nào đó) và khả năng của nông
5. Phí đi lại 20 x 12 240
6. Thuốc men 200 x 12 1.500
hộ đầu tư vào các hoạt động mới với các giả
7. Thuốc lá 100 x 12 2.400 định may rủi của chúng
8. Rượu, bia 50 x 12 1.200 1. Mời toàn thành viên của gia đình liệt kê
9. Giải trí 600 các khoản chi tiêu của họ từ thu nhập.
10. Chi phí khác 500 2. Liệt kê chi tiêu bình quân hàng tháng.
3. Nhân với 12 tháng để tính được chi tiêu
Tổng số: 23.840
hàng năm của mỗi khoản.
4. Cộng tổng số các chi tiêu hàng năm của
mỗi khoản chi để có được tổng chi tiêu hàng
năm của nông hộ.

97
2.2.3. Kỹ thuật quản lý trang trại giúp tăng cường bảo vệ đất và nước
Cần quan tâm đến các kỹ thuật sau:
1. Áp dụng các kỹ thuật luân canh tết như luân canh cây lương thực với các hoa
màu họ đậu.
2. Nên trồng xen cho vụ canh tác thứ hai. Gieo các loại hoa màu thứ 2 khi loại
thứ nhất còn đang phát triển, tránh làm đất them. Trồng xen như trên giúp bảo vệ đất
nhờ một lớp che phủ tiếm sau vụ thu hoạch đầu.
3. Luôn luôn canh tác và trồng hoa màu dọc theo đường đồng mức để nước chảy
qua các công trình phòng hộ tốt như các bờ tường đá hay đai cây bụi sống ở băng cây
đồng mức.
4. Sử dụng toàn bộ chất hữu cơ có sẵn để bón cho đất. Chất hữu cơ giúp cải thiện
cấu tượng đất, làm đất tơi xốp hơn và tăng khả năng giữ ẩm của đất. Không nên đốt
các bã cây sau thu hoạch dọn vệ sinh đồng ruộng.
5. Dùng các sản phẩm thân cành nhánh của cây và hoa màu để tạo các rào cản cơ
giới giảm xói mòn.
6. Đa dạng hoá cây trồng ở nông trại về cấu trúc và chức năng để phòng hộ đất
giảm xói mòn. Chú ý đến cây lâu năm trong trang trại đặc biệt ở các điểm nhạy cảm
của đất trang trại.
7. Bảo vệ rừng ở phần cao nhất của nông trại. Các khu rừng này vừa phòng hộ
vừa cung cấp gỗ củi và các sản phẩm có ích khác nhằm tăng thu nhập cho nông trại 8.
Bảo vệ đất trong giai đoạn bỏ hoá. Sử dụng các chất liệu che phủ mặt đất để bảo vệ đất
khỏi phơi ra nắng gắt, bị bào mòn do gió và các trận mưa lớn…
9. Nuôi gia súc trong chuồng hay buộc tại chỗ. Chăn thả tự do có thể là một trong
những nguyên nhân chính gây ra xói mòn ở vùng cao. Nuôi gia súc trong chuồng để
tận dụng nguồn phân cải tạo đất đai.
2.2.4. Kiểm soát lửa rừng trong trang trại Nông lâm kết hợp
Lửa là một tai hoạ chính trong suốt mùa khô ở các rừng mới trồng, đặc biệt là các
nơi tiếp giáp với các vùng có cỏ tranh, cỏ Mỹ. Sự hiện diện của cỏ khô và các loài cây
che phủ ở rừng trồng trong suất mùa khô làm tăng nguy cơ cháy. Hơn nữa do bất cẩn,
một mẩu thuốc lá cháy dở vất bừa bãi cũng dễ gây cháy ở những vùng trên. Để giảm
nhiều nhất khả năng gây cháy trong rừng trồng, cần điều phối cỏ khô và các loài cây
che phủ trong canh tác. Các biện pháp kiểm soát lửa trong trong trang trại nông lâm
kết hợp nhỏ có thể là:
1. Đai ngăn lửa tự nhiên: là các băng không có thực vật tự nhiên để ngăn lửa
cháy lan. thí dụ sông, suối, kênh đào, và đường xá là các đường ngăn lửa tự nhiên hiệu

98
quả. Xử lý sạch hay làm giảm thực bì quanh các đai cản lửa trong mùa khô cũng làm
tăng khả năng phòng lửa của chúng.
2. Đường cản lửa: là các băng xử lý sạch thảm cây rộng khoảng 10m tạo nên ranh
giới của rừng trồng. Có thể dùng cày để tạo nên các băng cản lửa này hoặc dùng biện
pháp đất trước các thực bì, bồi khô nằm trên băng vào đầu mùa khô.
3. Đốt lửa chặn đầu: để loại trừ các bồi khô và thực bì tránh lửa có thể cháy đến
Nếu một đám cháy được phát hiện đủ sớm và gió chuyển hướng thổi đến nơi cháy thì
nên tạo các đám lửa cháy lan từ ngoài đến điểm cháy để loại trừ khả năng phát triển
rộng của lửa nhờ đó ngọn lửa có thể được ngăn cháy lan đến rừng. Đất sửa chặn đầu ở
phần cao của một sườn dốc trên ngọn lửa chính để cháy lan lên phía trên.
2.2.5. Quản lý dịch bệnh tổng hợp trong trang trại Nông lâm kết hợp (IPM)
Quản lý dịch bệnh tổng hợp (Integrated Pest Management) là một lĩnh vực khoa
học hướng về sinh thái một biện pháp quản lý quần thể loài dùng phương pháp phối
hợp tất cả các biện pháp phòng trừ thành một hệ thống quản lý sâu hại. Trong thực tế
IPM là một chiến lược có nhiều chiến thuật nhưng trong những chiến thuật đó khuyến
khích lợi dụng các nhân tố phòng trừ tự nhiên, lúc cần thiết mới dùng phương pháp
phòng trừ nhân tạo.
IPM cần phải chú ý:
• Phải phòng trừ sâu hại trên nguyên tắc sinh thái học
• Không nên tiêu diệt hết sâu hại mà chỉ làm cho số lượng sâu hại duy trì ở mức
không gây tổn thất cho kinh tế.
• Phải coi trọng nhân tố khống chế tự nhiên, đặc biệt chú ý đến khống chế tự
nhiên của các thiên địch, ít hoặc không dùng thuốc hoá học.
Như vậy phòng trừ sinh học là một bộ phận quan trọng trong IPM và khi thực
hiện IPM cho trang trại nông lâm kết hợp cần phải xem xét quyết định các biện pháp
phòng trừ theo thứ tự ưu tiên như:
• Xác định loài sinh vật gây hại có cần thiết phòng trừ không và quyết định biện
pháp phòng trừ.
• Tăng cường biện pháp phòng trừ sinh học
• Coi trọng các biện pháp nông lâm nghiệp chọn các loài cây trồng xen bố trí
khoảng cách giữa các loài, tăng tính đa dạng sinh học trong trang trại nông lâm kết
hợp...
• Chọn lọc các loại thuốc hoá học có thể phòng trừ sâu bệnh (ví dụ các chế
phẩm sinh học, vi sinh... ức chế côn trùng)
• Xác định ngưỡng gây hại của sâu bệnh.

99
• Tính toán các chi phí và lợi ích để xác định hiệu quả kinh tế.
2.3. KỸ THUẬT GÂY TRỒNG CÁC LOÀI CÂY TRONG TRANG TRẠI NHỎ
NÔNG LÂM KẾT HỢP
2.3.1. Xây dựng và quản lý vườn ươm cây cho trang trại và cộng đồng
Khó khăn trong cung cấp hạt giống và chi phí hạt giống ngày càng cao khiến cho
cần phải tìm các cách khác nhau làm tăng tỷ lệ sống còn và sinh trưởng của cây con.
Vườn ươm đưa lại sự kiểm soát cần có về độ ẩm, ánh sáng, đất và các yếu tố khác, do
đó cho phép sản xuất với tỷ lệ cao cây con khoẻ mạnh và cứng cáp. Sau đây là một số
bước công việc để xây dựng một vườn ươm thành công.
* Chọn địa điểm tốt cho vươn ươm:
Địa điểm lý tưởng là một nơi gần nhà (Do vậy, vườn ươm thường được kiểm tra,
chăm sóc tốt), đất tốt gần nguồn nước hữu hiệu, không bị che bóng và không bị đọng
nước. Nên tránh chọn địa điểm vườn ươm gần nơi đang sản xuất cây cùng loài để khỏi
lây lan bệnh tật và côn trùng.
* Bố trí các luống, các khu vực ươm cây
* Xây dựng các cơ sở tại vườn ươm
* Chuẩn bị luống gieo hạt, luống cấy cây.
Nếu cần nhiều cây con cho trồng rừng làm chất đốt hay làm gỗ, sản xuất cây con
rễ trần và trồng rừng bằng phương pháp cây con rễ trần sẽ dễ dàng hơn và rẻ tiền hơn
so với các biện pháp và phương pháp trồng rừng khác. Kỹ thuật này thích hợp nhất đối
với các loài cây con khoẻ, chịu đựng tốt, có rễ cọc khoẻ như Nhạc ngựa hay Phi lao.
Vận chuyển và trồng cây con rễ trần đơn giản hơn so với cây con nuôi dưỡng trong
bầu tạo sẵn. Hạt giống các loài có tỷ lệ nảy mầm hay có xuất xứ không rõ ràng nên, tết
hơn, gieo trong luống hay hộc gieo, khay gieo sau đó cấy cây mạ vào bầu đất tạo sẵn,
nếu cần.
Luống gieo hạt
• Làm tơi đất và tạo luống nổi có chiều rộng vừa đủ để làm cỏ mà không cần
dẫm lên mặt luống.
• Trộn thêm phân chuồng và cát, nên trộn đều. Cát cần cho đất thoát nước tết
hơn và giúp rễ cây con phát triển sâu.
• Làm bằng mặt luống Dùng dao hay cây nhọn để tạo các rãnh cạn gieo hạt.
• Gieo hạt (có xử lý nếu cần) theo các rãnh phải để đủ khoảng trống cho cây con
sinh trưởng nếu được nuôi thành cây con rễ trần tại luống. Nếu cây con còn ở dạng mạ
ra bầu hay luống, có thể gieo hạt dày hơn.
• Tủ rãnh gieo mỏng bằng đất không dày quá bề dày của hạt gieo

100
• Rải đều tro trên khắp mặt tiếp để phòng ngừa kiến và ốc sên ăn cây mới nảy
mầm.
• Tưới nước cho luống gieo Tránh làm hạt gieo bị cuốn trôi bởi các trận mưa lớn
bằng cánh phủ nên mặt luống các mảnh ngon mỏng, cách mặt luống 5-10 cm.
Hộp gieo hạt
Dùng hộp để gieo hạt trong trường hợp hạt nhỏ như hạt Bạch đàn và Phi lao Nó
là một hộp gỗ hay chậu có đục lỗ nhỏ ở đáy được kê cao cho dễ thoát nước. Chuẩn bị
hỗn hợp gieo gồm các phần đều nhau đất mặt, cát và phân chuồng. Nếu được nên sàng
hỗn hợp qua rây lỗ mịn và phải đập vỡ các cục đất lớn. Cho vào đáy hộp một lớp sỏi
và đá nhỏ trước khi đổ hỗn hợp vào hộp. Rót nước sôi vào hộp và hỗn hợp đất để khử
trùng tránh bệnh rạp cây và các loại bệnh cây khác.
Nhiều loại cây con ăn quả thông thường được nuôi trong bầu để tạo gốc cho ghép
mắt hay ghép ngọn. Phải chuẩn bị bầu đất cho cây con khi hạt giống bắt đầu nẩy mắn
như chọn vỏ bầu, đục lỗ, đổ hỗn hợp vào đến mép của túi, xếp túi bầu ngay thẳng và
sát nhau trên liếp đặt bầu. kích thước túi bầu chất dẻo nhỏ (kích thước 10cm x 15cm)
dành cho cây con lâm nghiệp và các loại cây con sẽ được nuôi dưỡng trong vườn ươm
từ 4 đến 6 tháng. Đối với cây con được nuôi lâu hơn 6 tháng trong vườn ươm hay các
loại cây ăn quả được sản xuất làm gốc ghép, nên sử dụng các túi bầu lớn ( 1 5cm x
20cm) và bền hơn. Vỏ bầu làm ống tre cũng thường được dùng bằng cách cưa đôi ống
tre theo chiều dài và đục lỗ ở vách ngăn giữa hai lóng tre cho thông nước. Hai mảnh
ống tre sẽ được ghép và cột để tạo thành bầu để cấy cây mạ. Lợi điểm của bầu ống tre
là tháo vỏ bầu khi trồng cây và dừng lại được. Một loại vỏ bầu không đáy làm bằng
các lon thiếc cũng được sử dụng bằng cách nén đất ở đáy lon tạo đáy sau đó cho hỗn
hợp ruột bầu vào. Vỏ bầu lá chuối và một số lá cây khác cũng được dùng để tạo bầu
đất nuôi cây con, nhưng phải thay thế thường xuyên vì chúng dễ bị mục.
* Cấy cây mạ vào túi bầu:
Cây con đủ tiêu chuẩn để cấy vào túi bầu riêng lẻ khi đã phát triển ít nhất hai lá
thật. Phải tưới nước cho cây cấy và bầu đất trước khi cấy cây sau đó hai giờ sẽ cấy cây
con. Dùng một que nhọn gọi là que cấy để khoan một lỗ nhỏ trong bầu đất. Cấy cây
mạ cho một bầu đất, chú ý giữ cẩn thận hệ rễ của cây mạ thẳng và không bị tổn thương
khi cấy. Nên cấy ngay lập tức sau khi cây mạ được nhổ ra khỏi liếp gieo. Cuối cùng
dùng ngón tay ấn nhẹ quanh gốc cây cấy để đảm bảo cây con dược cấy ổn định.
* Chăm sóc cây con trong vườn ươm bằng các biện pháp kỹ thuật sau tưới nước
vừa đủ, làm cỏ phá váng khi cần thiết, xén tỉa rễ cây con hay đảo bầu và sau cùng làm
cứng cáp cây con một thời gian trước khi đem ra trồng bằng giảm lượng nước và phân
bón.

101
2.3.2. Kỹ thuật trồng cây bản địa, đa dụng trong trang trại nhỏ nông lâm kết hợp
• Bố trí vị trí trồng
Tuỳ đặc điểm đất của trang trại mà bố trí vị trí trồng cây gỗ đa tác dụng, có thể
chúng được bố trí trồng ở phần đỉnh đồi hay những sườn quá dốc, cũng có thể trồng
thành các hàng ranh cây, hành rào xanh với mục đích phòng hộ là chính cũng có khi
được trồng rải rác với mục đích là che bóng và cải tạo đất, cũng có thể trồng thành
từng khu với mục đích sản xuất gỗ, củi. Ở các tỉnh miền Bắc các cây bản địa đa tác
dụng được chọn trồng. Ở phần đỉnh đồi như Lát hoa, Mỡ, Trám, Sấu, với mật độ 1000
- 1500 cây/ha còn ở phần chân được trồng các loài cây như Trám, Tai chua, Dọc, Tre
luồng. Ở các tỉnh miền Trung và miền Nam phần đỉnh đồi thường được trồng các loài
cây như Bời Lời đỏ, Tếch, long não, sến, mật, giỏi. Các cây trồng làm hàng rào xanh
thường được bố trí trồng với mật độ dày từ 2 -3 hàng cây, các băng xanh thường cách
nhau từ 5 - 10 m, các cây thường được sử dụng là các cây thuộc họ đậu như Keo dậu,
keo lá năm, Keo tai tượng, Cốt khí, Đậu triều, keo lá phượng.
• Chọn loại cây trồng
Phải căn cứ vào mục đích kinh doanh đó là sản xuất hay phòng hộ hay kết hợp che
bóng, cải tạo đất cùng điều kiện sinh thái nơi trồng để chọn loài cây trồng. Tuy nhiên
còn một vấn đề quan trọng nữa là trong trang trại NLKH còn bố trí trồng nhiều loài
cây công nghiệp, cây thân thảo, do đó khi chọn cây thân gỗ đa tác dụng cần phải chú ý
đến khả năng trồng xen này. Nếu loài cây được chọn trồng để chắn gió, cần có hệ rễ ăn
sâu, có tán lá phù hợp với yêu cầu chắn gió, dễ tái sinh, không rụng lá về mùa có gió
hại, không cạnh tranh với cây trồng xen và có khả năng tận dụng các sản phẩm ngoài
gỗ để tăng thu nhập cho người dân. Nếu loài cây được chọn làm hàng rào xanh trên đất
dốc, làm hàng ranh cho nông trại phải có đặc điểm mọc nhanh có khả năng tái sinh
chồi tốt, có khả năng chịu hạn, cải tạo đất, cho nhiều giá trị sử dụng. Ở đây các loài
cây được chọn thường là cây họ đậu như Keo dậu, Keo lá tràm, Keo tai tượng. Các
loài cây bản địa thường được trồng tập trung trên đỉnh đồi và rải rác trên sườn dốc với
mục tiêu phòng hộ kết hợp với tận thu các sản phẩm ngoài gỗ như Trám, sấu, Dọc,Tai
chua, Mỡ, Giẻ, long não, Sến mật, Giới, vì các loài cây này có tán lá rộng, bộ rễ sinh
trưởng mạnh, ngoài sản phẩm gỗ củi còn cho nhựa, lá, hoa…
• Xác định thời vụ trồng
Tuân thủ thời vụ trồng rừng, tuy nhiên mức độ nghiêm ngặt còn tuỳ thuộc vào
đặc tính vi sinh vật học của từng loài cây và vật liệu trồng (cây con, hạt, hom…), ở các
tỉnh phía Bắc nên trồng vào vụ Xuân và vụ Thu, nơi có ảnh hưởng gió tây khô nóng
nên trồng vào vụ Thu, các tỉnh phía Nam nên trồng vào mùa mưa. Tuy nhiên trong kỹ
thuật nông lâm kết hợp, cần chú ý sự phối hợp cây thân gỗ với cây ngắn ngày là rất
mềm dẻo, tuỳ điều kiện tự nhiên và đặc điểm các loài cây trồng phối hợp, có thể cùng
trồng một thời vụ, cũng có thể trồng kế tiếp sau một vụ hay vài vụ. Ở các tỉnh miền

102
Bắc cây Quế được trồng sau khi trồng các loài cây che bóng l vụ. Cây che bóng có thể
là Sắn, keo dậu, đậu triều, hoặc cốt khí, loài cây sến mật được trồng sau khi trồng cây
tạo bóng là các loại keo hoặc cốt khí, đậu triều 1 năm…
• Xác định mật độ trồng
Khi xác định mật độ trồng cần xem xét đến mục đích trồng các loài này trong
trang trại NLKH và đặc điểm đất trồng. Nếu mục đích là phòng hộ và đất xấu thì nên
trồng dày, nếu là trồng che bóng, hay thực hiện Taungya thì mật độ nên thưa, hơn nữa
còn tuỳ thuộc vào việc trồng thuần loài hay hỗn loài, phương thức hỗn loài ở các nông
trại của nông dân miền Bắc Việt Nam các loài cây thân gỗ đa tác dụng được trồng ở
phần đỉnh đồi với mật độ khá dày vì thế chỉ nên trồng cây ngắn ngày trong 1 - 3 năm
đầu. Tuy nhiên tuỳ mục đích kinh doanh nếu mục tiêu chính là nguyên liệu giấy với
các loài cây như Thông, Mỡ, Keo, Bồ đề thì mật độ 1500 - 2500 cây/ha. Nếu với mục
tiêu gỗ lớn thì mật độ thưa hơn như loài cây Sến mật, Lát hoa, Tếch, mật độ từ 800 -
1500 cây/ha và như vậy khả năng trồng xen cây ngắn ngày (lúa nương, ngô, đậu, dong
riềng, sả…) có thể kéo dài 5 -6 năm. Nếu với mục tiêu phòng hộ và tận thu sản phẩm
ngoài gỗ, các cây bản địa đa tác dụng được trồng rải rác trên đất nông trại, như các loài
Trám, Sấu Dọc, Tai chua xen với cây ăn quả và cây công nghiệp mật độ xác định chỉ
200 - 300 cây/ha và như vậy sẽ tạo ra được hệ thống nhiều tầng tán.
Nhân giống vô tính cây ăn quả
Trong vườn ươm NLKH nông dân có thể nhân giống vô tính cho cây ăn quả bằng
nhiều cách khác nhau. Mục đích của nhân giống vô tính là tạo ra một lượng cây con có
phẩm tính di truyền tương đương với một cây có phẩm tính tốt gọi là cây đầu dòng.
Nhân giống vô tính cây ăn quả hay cây rừng tuỳ thuộc vào sự phong phú có sẵn của
vật liệu ghép tháp của các cây có phẩm tính tết và vào khả năng phát triển giữ được
các phẩm tính này sau khi ghép hay tháp Có nhiều kỹ thuật nhân giống vô tính như
sau:
1 . Tách chồi non cho chuối và dứa

103
2. Tách gốc chuối

3. Giâm cành và rễ cây rừng và cây ăn quả

4. Chiết cây áp dụng cho các loại cây như chanh, cam, xoài, ổi, bưởi, vải, quýt và
nhiều loại cây rừng khác.

5 . Ghép nhánh: dùng cho các loài cam, chanh bưởi, quýt, vải, ổi, xoài,…

104
6. Ghép mắt hình chữ nhật hay hình thuẫn được áp dụng cho nhiều loại cây ăn quả

2.4. KỸ THUẬT HẠN CHẾ CẠNH TRANH CỦA HOA MÀU TRONG TRỒNG
XEN THEO BĂNG TRONG TRANG TRẠI NLKH
Khuyết điểm của trồng xen theo băng là sự cạnh tranh giữa cây/bụi và hoa màu
lương thực về ánh sáng, không gian sinh trưởng, nước, và khoáng dinh dưỡng.
+) Các biện pháp làm giảm cạnh tranh về ánh sáng
- Thiết kế hàng trồng, canh tác theo hướng Đông - Tây để tránh cây trồng che
bóng trên hoa màu.
- Sử dụng loài cây gỗ, cây bụi có đặc tính tự rụng cành nhánh sau những kì tỉa
cành thường xuyên (ví dụ: Keo dậu, và loài keo dậu chịu đất acít).
- Sử dụng các loài cây gỗ/cây bụi có tán nhỏ và ít cành nhánh cản ánh sáng
như,(Cassia spectabilis, Sesbania grandiflora- so đũa, Moringa olelfera- chùm ngây) -
Sử dụng các loài cây gỗ/cây bụi có tán thưa cho phép ánh sáng xuyên qua hay các loài
rụng lá theo mùa (sống rắn, Anh đào giả, Lõi thọ)

105
- Sử dụng các loài cây gỗ/cây bụi có thể chịu được bóng che trong giai đoạn đầu.
- Canh tác các loài hoa màu không che bóng rộp nhiều ảnh hưởng xấu đối với
sinh trưởng của cây mới trồng.
- Chọn hoa màu trồng không phải là loài dây leo.
+) Biện pháp làm giảm cạnh tranh về nước và dưỡng chất
- Sử dụng loài cây gỗ/bụi và hoa màu mà vật rụng của chúng có lợi cho đất (dễ
phân huỷ, lá chứa nhiều chất dinh dưỡng) như Albizzia lebbek, A. lebbeckoides, Alnus
spp, Cassia siamea.
- Dùng các loài cây gỗ/bụi và hoa màu có thể cố định được đạm tự do (Leucaena
spp, Albizzia spp, Alnus spp).
- Trồng các loài cây gỗ/bụi có hệ rễ ăn sâu hơn rễ các loài hoa màu nhờ vậy
chúng có thể hấp thu nước và dưỡng chất ở tầng đất sâu hơn (Calliandra calothyrsus,
Cassia siamea, Pithecellobium dulce, Flemingia macrophyllal).

106
- Tránh trồng các loại hoa màu (như mía, sắn) làm kiệt đất
- Áp dụng biện pháp luân canh.
+) Biện pháp làm giảm sự cạnh tranh về không gian dinh dưỡng
- Trồng các loại cây đa dụng (ví dụ vừa làm thức ăn gia súc vừa cung cấp củi
đốt).
- Trồng phối hợp cây gỗ và cây bụi để
sản xuất thêm lương thực (Cajanus cajan:đậu
triều, Sesbania grandiflora: so đũa, Spondlas
purpurea).
- Chọn khoảng cách thích hợp để trồng
các hàng cây gỗ/bụi tạo khoảng sống đầy đủ
cho cây hoa màu (ít nhất 5m).
- Cắt rễ ngang của cây trồng quá phát
triển cạnh tranh vào vùng đất canh tác hoa
màu bằng cày hay dùng xẻng xén rễ.
2.5. KỸ THUẬT CẤT TỈA MÉ NHÁNH CÂY

+) Mục đích của tỉa nhánh


- Cắt bỏ các nhánh cây và bộ phận khác của cây không cần thiết.
- Tạo và giữ hình dạng mong muốn của cây.
- Tái sinh lại cho cây đã già (đối với các loài có khả năng tái sinh chồi gốc).
- Tạo điều kiện cho không khí và ánh sáng xâm nhập xuyên qua tán cây.
- Thúc đẩy cây ra hoa và cải thiện chất lượng của quả hạt.

107
- Giúp đỡ thực hiện các kỹ thuật canh tác (tưới phun, thu hoạch, kiểm tra cây).
- Cải tạo cấu trúc của cây nhằm gia tăng sức chịu đựng của cây đối với gió bão.
+) Thời điểm thích hợp để tỉa cành
- Sau mùa thu hoạch - đối với cây cho quả hạt.
- Trước mùa mưa, cắt tỉa nhẹ hay mé nhánh nên tiến hành.
- 2 - 3 tháng trước mùa mưa tới, để tái sinh mới lại.
- Khi cây bị nhiễm bệnh, phải tỉa bỏ cành nhánh và bộ phận bị nhiễm.
+) Các kỹ thuật chính trong cắt tỉa mé nhánh

2.6. KỸ THUẬT CHĂN NUÔI


Vật nuôi trong các trang trại NLKH đóng góp lớn cho sự bền vững của hệ thống
vì nó cung cấp nguồn thu nhập điều hoà cho trang trại đặc biệt vào thời kì giáp hạt và
nguồn phân hữu cơ để phục hồi lại đất đai. Ngoài ra, thành phần vật nuôi còn tận dụng
hết các nguồn nguyên liệu sẵn có trong hệ thống để nâng cao sức sản xuất của đất đai.
Trong kỹ thuật NLKH quyết định dựa thành phần vật nuôi là điểm quan trọng hơn cả.
Chăn nuôi trong trang trại NLKH là một hoạt động sản xuất có quan hệ tương hỗ với
108
các hoạt động khác để cho sức sản xuất của trang trại được phát huy tối đa cả về khía
cạnh điều kiện tự nhiên lẫn lao động trong trang trại. Ngoài các kỹ thuật chăn nuôi cơ
bản cho vật nuôi các loại, kỹ thuật NLKH còn bổ sung thêm một số kỹ thuật chăn nuôi
phối hợp có tiềm năng như sau:
Kỹ thuật ép gia súc ăn để vỗ béo
Ép gia súc ăn để vỗ béo trước khi đem bán thịt chúng từ 60 đến 90 ngày là một
kỹ thuật được nông dân nhiều nơi áp dụng. Thành phần thức ăn thêm sẽ làm tăng trọng
gia súc do tỉ lệ hoán chuyển thức ăn cao và làm chất lượng thịt tốt hơn.
1. Dùng khoảng 20 kg lá tươi cây keo dậu các loại (Leaucaena glauca, L.
leucocephala hay L. diversifolia) băm nhỏ và lấy các xơ ra khỏi hỗn hợp.
2. Giã hỗn hợp trong cối
3. Trộn thêm 1 - 2 kg cám nhuyễn, 15 - 19 lít nước sạch và 0,1kg muối sau đó
trộn đều. Hỗn hợp trên được ép cho gia súc ăn bằng 1 một ống tre như hình trên từ 1
đến 2 lần trong một ngày. Bên cạnh đó cũng cung cấp đầy đủ bánh liếm và nước uống
cho gia súc nhai lại tại chuồng. Kinh nghiệm của nông dân - chủ triết gia súc nên được
cho ăn 6 lần một ngày trong đó có 3 lần ép ăn xen kẽ là có kết quả nhất.

Đối với gia súc kém ăn kỹ thuật này cũng được áp dụng với thành phần như sau:
lá keo dậu xay nhuyễn (15-20kg) + nước (15 lít) + muối (0,1 kg) hay bột khoai mài
(15-20kg) + nước (15 lít) + muối (0,1kg) hay cám (2-3kg) + nước (15 lít) + muối
(0,1kg).
Lưu ý: khi cho gia súc ăn phải giữ chúng ở vị trí đứng bình thường, đầu gia súc
phải ngang bằng với lưng nếu sai vị thế gia súc bị ăn có thể bị tổn thương hay chết.

109
Trị bệnh thông thường cho gia súc bằng dược thảo
Giá cả các loại thuốc trị bệnh cho gia súc ngày càng cao và đi lại khó khăn từ
nông thôn đến nơi mua thuốc chữa trị là các vấn đề của nông dân đang chăn nuôi. Tuy
vậy, các loài dược thảo có thể tìm thấy khắp nơi tại nông thôn nên có thể sử dụng
chúng để bổ sung cho các loại thuốc thú y làm giảm chi phí chăm sóc và chữa từ các
bệnh thông thường ở gia súc.
Bảng 5: Các loài dược thảo có có công dụng để chữa từ các bệnh
thông thường ở gia súc.
Tên địa Bộ phận sử
Tên khoa học Cách bào chế Liều lượng Trị bệnh
phương dụng
Ổi Psydium guava Lá Nấu để uống 1- 2 ly cho 2 -3 lần Tiêu chảy
Sát trùng vết mỗi ngày Cầm máu và
thương 3 lần một ngày sát trùng vết
thương
Dứa dại Pandanus tectonus Rễ trên Nấu sắc để tắm 4 lít để tắm 3 lần Khó tiểu
không và hay uống trong 1 ngày
dưới đất
Chùm ngây Moringa oleifera Lá Trộn với thức Trộn 1 -2 lần/ngày Thiếu sữa
ăn
Me Tamarindus indica Lá Nấu sắc dùng để 1 lít cho 3 lần một Ho, cảm lạnh
tắm ngày
Tre gai Bambusa spinosa Lá, măng Trộn với thức Không giới hạn Tiêu chảy
ăn
Dừa Cocos nuclfera Nước dừa Trộn thêm 5 trái dừa và 0,5 kg Mất nước do
non đường đường, cho uống 3 sốt cao, kiết
lần 1 ngày
Bằng lăng Lagerstriemia Lá, vỏ, Nấu sắc lại để 0,5-1 lít chia làm 3 Khó tiểu, đau
nước speciosa quả khô uống lần trong 1 ngày dạ dày

Gừng Zingeber ofrcinale Cả cây Dã nát trộn với 2 - 3 lần dán trong 1 đau bắp thịt,
dầu để dán ngày bong gân
Anh đào Gliricidia sepium Lá Dã lá và trích Xoa 2 lần một ngày Chữa vết
giả bằng nước sôi thương

Điều lộn Anacardium Dầu hạt Bôi lên vết Bôi một lần một ngày trị các ký
hột occidentale thương sinh trùng
ngoài da

110
Chương V
ÁP DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP

1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN KỸ


THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP CÓ SỰ THAM GIA
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP
CÓ SỰ THAM GIA
1.1.1. Tại sao những hoạt động nghiên cứu và khuyến nông quy ước chưa mang
lại hiệu quả ở vùng cao?
Hệ thống nghiên cứu và khuyến nông quy ước hoạt động tốt ở vùng thấp, nơi mà
các tiếp cận về nhập lượng và dịch vụ hỗ trợ tương đối dễ dàng và kỹ thuật "trọn gói"
rất thích hợp với các điều kiện đồng nhất, nguồn lực dồi dào. Nhưng ngược lại, do các
điều kiện phức tạp và nguồn lực rất giới hạn ở vùng cao, hệ thống nghiên cứu và phát
triển quy ước ít có hiệu quả vì các nguyên nhân sau đây:
• Không chú ý đến kiến thức và nguồn lực tại địa phương
• Quá tập trung vào việc nghiên cứu ở các trạm với các điều kiện lý tưởng.
• Nghiên cứu đặc trưng chỉ chú trọng nhiều vào một loại hàng hóa, trái ngược
với hệ thống có tương tác.
• Quên các khu vực canh tác nhờ nước trời.
• Quên các ảnh hưởng của sinh thái (đặc biệt là hệ sinh thái)
• Có thành kiến về giới
• Ưu tiên tập trung cho việc sản xuất theo thị trường.
• Các kỹ thuật khuyến nông chưa thích hợp.
• Các phương pháp khuyến nông nghèo nàn (ví dụ như quá "hình thức", thời
gian bố trí không phù hợp, nhân viên khuyến nông không quen thuộc với các điều kiện
và ngôn ngữ địa phương.
1.1.2. Nguyên tắc phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp có sự tham gia
Người dân tham gia các hoạt động nghiên cứu và khuyến nông (còn được gọi là
"phát triển kỹ thuật có sự tham gia") kết hợp kiến thức và năng lực nghiên cứu của
cộng đồng địa phương với việc nghiên cứu và phát triển của các tổ chức trong quá
trình học hỏi hai chiều. Nó liên quan đến việc xác định, tạo dựng, kiểm tra và thích
nghi cho các kỹ thuật mới và để giúp đỡ giải quyết các vấn đề của địa phương. Mục
đích cuối cùng là nhằm tăng cường kinh nghiệm và năng lực quản lý kỹ thuật của dân
và cộng đồng địa phương, do đó, người dân đóng vai trò chủ chốt trong toàn bộ quá

111
trình. Chữ “P” trong PTD cũng có thể hiểu là "lấy con người làm trung tâm" trong các
chiến lược và quá trình phát triển.
Các nguyên tắc chính thực hiện phát triển kỹ thuật có sự tham gia
• Quan tâm tới nhu cầu của người nông dân, kiến thức bản địa, các nguồn tài
nguyên hiện có và mạng lưới của cộng đồng Tạo điều kiện để phát triển các nguồn lực
trên.
• Tăng cường liên kết để hiểu những đặc điểm chính với/và những thay đổi
trong hệ sinh thái nông nghiệp.
• Hỗ trợ nông dân và các tổ chức của họ để tăng cường sự nhận thức, tự tin, kiến
thức và kỹ năng của họ. Đồng thời khuyến khích họ tiếp tục tham gia tiến trình nghiên
cứu và khuyến nông sau khi chấm dứt các hỗ trợ từ bên ngoài.
• Bảo đảm cho nông dân và những người hỗ trợ bên ngoài cùng xác định được
những vấn đề ưu tiên.
• Cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn cho những nông dân được chọn lựa để
họ có thể lựa chọn phát triển các kỹ thuật và chuyển giao chúng cho những người
khác.
• Sử dụng các đầu vào thấp, nghiên cứu và mở rộng việc sử dụng các nguyên
liệu sản xuất tại chổi Hãy để người dân và những tổ chức của họ phổ biến chúng. Điều
này bảo đảm rằng người dân tự tin và sử dụng các đầu vào hợp lý.
• Khuyến khích các nông dân hoặc nhóm nông dân trình diễn trên nông trại của
họ. Việc trình diễn có thể được các nông dân khác nhân lên.
• Thúc đẩy vai trò nghiên cứu và khuyến nông cho nông dân. Nông dân sẽ thực
hiện các chức năng trên theo tập quán và không bỏ công việc này để những người
ngoài cộng đồng, những người thường ít hiểu biết về các điều kiện của cộng đồng,
làm,
• Cung cấp thông tin về thay đổi hiện trạng để tạo sự quan tâm.
• Thử nghiệm tại đồng ruộng với các kỹ thuật khác nhau thu được từ nông dân ở
địa phương (kiến thức bản địa hay các kinh nghiệm khác) và từ khoa học chính thống.
Đề nghị các lựa chọn kỹ thuật cho nông dân để họ quyết định thực hiện và kiểm tra
trên đồng ruộng của họ và đồng thời cũng khuyến khích nông dân đề nghị các kỹ thuật
để thử nghiệm.
• Tổ chức các diễn đàn để nông dân đánh giá và mở rộng các kết quả nghiên
cứu cho những nông dân khác.

112
1.2. QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT
HỢP CÓ SỰ THAM GIA
1.2.1. Quá trình phát triển phát triển kỹ thuật có sự tham gia
Áp dụng và phát triển nông lâm kết hợp có nghĩa là đưa những kỹ thuật nông lâm
kết hợp vào cho cộng đồng địa phương và nông dân. Việc áp dụng kỹ thuật mới cần
đáp ứng nhu cầu của cộng đồng địa phương, phù hợp với các điều kiện về địa lý, tự
nhiên, kinh tế - thị trường chính sách - xã hội - văn hoá. Như vậy, áp dụng và phát
triển nông lâm kết hợp có hiệu quả là một quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề của
cộng đồng địa phương có sự tham gia của nhiều bên có liên quan. Các phương pháp
tiếp cận từ trên xuống trước đây đối với các hoạt động nông lâm kết hợp coi trọng vai
trò của các chuyên gia thuộc các cơ quan chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các
cơ quan đào tạo khác coi nhẹ sự tham gia của người dân địa phương. Điều này đã dẫn
đến thiếu hụt thông tin chính xác, trao đổi thông tin hai chiều giữa các nhà chuyển
giao, nghiên cứu và người dân địa phương, gây ra sự thiếu hiểu biết, không tin tưởng
và ít phù hợp của các kỹ thuật đưa vào áp dụng. Các hoạt động nông lâm kết hợp tiên
tiến lôi cuốn sự tham gia hợp tác đàm thoại giữa người dân và các bên có liên quan
vào chu trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, đổi mới và đánh giá kết quả nghiên cứu
nhằm đưa ra các giải pháp và đáp ứng các lỗ hổng về kiến thức.
Các giai đoạn phát triển nông lâm kết hợp có sự tham gia có thể mô tả như sau:

• Mô tả điểm, chẩn đoán và thiết kế


Đây là giai đoạn mô tả hiện trạng, chẩn đoán các vấn đề và thiết kế các hoạt động
nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp phù hợp (C,D & D).
• Thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp
có sự tham gia là giai đoạn nhằm tạo những kỹ thuật mới cho phát triển và chuyển giao
các kỹ thuật nông lâm kết hợp, có xem xét đến vai trò của các tổ chức cơ quan, chính
sách.
113
• Giám sát và đánh giá có sự tham gia phản ánh một quá trình đánh giá năng
xuất, tính ổn định và tính bền vững của các hoạt động nông lâm kết hợp, các hoạt động
nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp.

1.2.2. Kinh nghiệm của vùng Đông Nam Á về quá trình phát triển kỹ thuật có sự
tham gia
1.2.2.1. Đánh giá có sự tham gia
Các nhà nghiên cứu và nhân viên khuyến nông hướng dẫn đánh giá về điều kiện
tự nhiên và kinh tế xã hội của cộng đồng và các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến nó.
Các chủ đề xác định như sau:

114
• Kiến thức bản địa.
• Các mạng lưới thông tin truyền thống
• Tiềm năng và giới hạn của hệ thống canh tác ở địa phương và sự quản lý tài
nguyên tự nhiên cùng với thay đổi của điều kiện bên ngoài.
• Các lựa chọn kỹ thuật để giải quyết các giới hạn đó.
1.2.2.2. Thiết kê nghiên cứu
Điều khiển các cuộc họp với nông dân để thiết kế nghiên cứu. Những chủ đề thảo
luận:
• Những thay đổi bên ngoài
• Các lựa chọn kỹ thuật được các nhà nghiên cứu và khuyến nông đề nghị liên
quan đến kiến thức và kinh nghiệm của nông dân.
• Các lựa chọn để kiểm tra trên đồng ruộng.
• Thiết kế các thí nghiệm.
• Quản lý các nghiên cứu (được thực hiện theo nhóm hay từng cá nhân?) Kế
hoạch để triển khai nghiên cứu.
1.2.2.3. Kiểm tra kỹ thuật và trình diễn
Các nhà nghiên cứu và nhân viên khuyến nông trợ giúp nông dân hoặc nhóm
nông dân thực hiện các thí nghiệm và theo dõi tiến độ.
Nông dân ghi nhận các hoạt động, ví dụ như ngày trồng, làm cỏ và thu hoạch,
ngày và số lượng các nguyên liệu đầu vào được sử dụng, năng suất.
Tổ chức các buổi thăm viếng hiện trường, gặp gỡ nhau để cho phép nông dân
giới thiệu các thí nghiệm trình diễn và kết quả tạm thời của họ với các nông dân khác
1.2.2.4. Liên kết đánh giá
Các nhà nghiên cứu, các nhân viên khuyến nông, và nông dân cùng tham gia
trong việc đánh giá các thí nghiệm và xây dựng kế hoạch cho những nghiên cứu mới.
Các câu hỏi thảo luận:
• Kết quả của thí nghiệm là gì? Tích cực hay tiêu cực?
• Chúng ta học hỏi được gì từ những thí nghiệm đó ?
• Các thí nghiệm tiếp theo nên được thiết kế như thế nào?
• Các thí nghiệm tiếp theo nên được quản lý như thế nào?
1.2.2.5. Mở rộng các kết quả và kinh nghiệm của nông dân
Tập huấn, hội họp, đi thăm quan để học và thăm hiện trường.

115
• Sản xuất ở địa phương, cung cấp và thị trường nguyên vật liệu sản xuất.
1.2.2.6. Nông dân như là người huấn luyện
Ưu điểm:
• Cải thiện những khả năng đặc biệt của người nông dân để phổ biến các bí
quyết, kinh nghiệm sản xuất.
• Tránh được các trở ngại do ngôn ngữ.
• Việc tập huấn diễn ra ở địa điểm và thời gian thích hợp, thường tại nơi ở của
học viên.
• Các chủ đề được điều chỉnh cho thích hợp với bối cảnh của người dân, ý tưởng
và nguồn lực của địa phương.
• Không khí thoải mái cho phép trao đổi các ý tưởng.
• Tăng cường mạng lưới thông tin ở địa phương.
1.2.2.7. Các mối quan tâm
• Nông dân tập huấn phải có tin tưởng về kinh nghiệm, nỗ lực và đạo đức. Việc
tập huấn không nên là một gánh nặng cho họ.
• Những chuyên gia còn trẻ, không có kinh nghiệm trong việc trình bày nên làm
việc như một người trợ lý tập huấn trước.
• Việc lựa chọn nông dân làm người tập huấn là một vấn đề tế nhị, có thể gây ra
các mâu thuẫn trong dân làng hay các làng.
• Việc tập huấn nên tổ chức trong từng nhóm nhỏ với các kỹ thuật ở hiện
trường. Mỗi nhóm nên có một người trợ lý để trả lời các câu hỏi và hướng dẫn kỹ
thuật.
• Nông dân thường sẵn sàng trả tiền bồi dưỡng cho những người nông dân tập
huấn.
1.2.2.8. Gặp gỡ
Các cuộc gặp gỡ trong làng và giữa các làng với nhau cũng như những chuyến đi
học tập kinh nghiệm thực tế và thăm hiện trường là những cách để nông dân trao đổi
kinh nghiệm, ý kiến và cách làm trong sản xuất. Những chuyến đi học tập kinh nghiệm
thực tế và thăm hiện trường cho phép nông dân nhìn thấy các kinh nghiệm thực tế
trong những điều kiện cụ thể. Nó kích thích thảo luận về những vấn đề mà họ có thể áp
dụng trong điều kiện của họ. Thăm viếng cũng tăng cường mạng lưới thông tin và hỗ
trợ về kỹ thuật.
Những điều quan tâm:
• Ở nhiều nơi, những buổi thăm viếng trong làng và giữa các làng được tổ chức
116
kết hợp theo luật làng hay các lễ hội truyền thống.
• Những chuyến đi học tập kinh nghiệm thực tế ở các làng khác nhau nên tổ
chức giữa những người cùng dân tộc để dễ dàng trao đổi bằng một ngôn ngữ.
• Nông dân luôn luôn quan tâm với việc nhìn thấy (không chỉ nghe) những gì
diễn ra trên đồng ruộng. Thăm viếng hiện trường là một phương tiện hiệu quả để trao
đổi kiến thức và ý kiến.
2. MÔ TẢ ĐIỂM, CHẨN ĐOÁN VÀ THIẾT KỀ KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT
HỢP CÓ SỰ THAM GIA
2.1. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH MÔ TẢ ĐIỂM, CHẨN ĐOÁN VÀ THIẾT KẾ
Để có được một kế hoạch nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp có tính khả
thi cần phải mô tả, chẩn đoán các vấn đề, có liên quan ở cộng đồng và hộ gia đình.
Mô tả điểm là mô tả và phân tích các hệ thống sinh thái nông nghiệp nhằm phát
hiện ra những điểm gắng và khác nhau về không gian và thời gian trong các hệ thống
sinh thái nông lâm nghiệp. Một hệ thống sinh thái nông nghiệp là một tập hợp các yếu
tố vật lý, môi trường, kinh tế và xã hội có ảnh hưởng đến canh tác.
Quá trình mô tả, chẩn đoán và thiết kế có thể chia ra theo thứ tự 4 bước
Bước 1: Thu thập và phân tích thông tin đưa ra các giả định (nhận định)
- Những thông tin cần thu thập:
Thông tin liên quan đến môi trường - vật lý - Sinh vật
• Đất đai, địa hình và dạng đất - độ dốc và độ cao, hướng phơi và hướng gió và
ảnh hưởng
• Khí hậu - thuỷ văn
• Sinh vật - cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật, thuỷ sản
• Các hoạt động sử dụng đất và hệ thống canh tác.
• Những thông tin về kinh tế xã hội và văn hoá
• Các thông tin về dân tộc học: Dân số, phân nhóm hộ, các nhóm dân tộc, các
thành phần dân cư.
• Kết cấu hộ gia đình và khả năng lao động
• Thu nhập của hộ gia đình và phân loại kinh tế hộ
• Tín ngưỡng, tập tục, truyền thống
• Các yếu tố kinh tế: Cơ sở hạ tầng, thị trường, dịch vụ hỗ trợ (tín dụng, cung
cấp vật tư, nghiên cứu/khuyến nông).
• Hệ thống cây trồng và lịch mùa vụ
117
• Sở hữu và tình trạng đất đai, các vấn đề tranh chấp
• Các vấn đề xã hội (y tế, giáo dục, khả năng tiếp cận) hoà bình và an ninh, vi
phạm pháp luật, canh tác nương rẫy
• Các tổ chức, cơ quan địa phương.
- Sử dụng các công cụ chẩn đoán có sự tham gia để chẩn đoán các vấn đề. Những
câu hỏi trong canh tác hộ gia đình:
1. Phỏng vấn bán cấu trúc
2. Các sơ đồ
2.1. Các bản đồ

a) Bản đồ hiện trạng sử dụng đất


b) Bản đồ về giới
2.2. Lát cắt
a) Lát cắt về địa hình không gian
b) Lát cắt về lịch sử sử dụng đất
2.3. Nông lịch
a) Lịch thời vụ
b) Khả năng về thực phẩm
c) Khả năng về thức ăn gia súc.
d) Các hoạt động mùa vụ theo giới và lứa tuổi.
2.4. Biểu đồ về lao động và các nguồn
a) Phân chia lao động theo giới và tuổi

118
b) Giản đồ tuyến phân tích lợi ích
2.5. Sơ đồ nguyên lý giả định
a) Kiểu hệ thống canh tác
b) Hệ sinh thái nông nghiệp của nông hộ
3. Phân cấp
4. Các công cụ khác
Thu thập thông tin và số liệu về hệ thống canh tác nhằm tìm ra các vấn đề và cản
trở trong canh tác hộ gia đình và xác định các giải pháp giả định để giải quyết các vấn
đề.
Sử dụng phỏng vấn bán định hướng phù hợp và các công cụ chẩn đoán khác để
thu được những thông tin và số liệu phù hợp về hệ thống canh tác và tổng hợp thông
tin.
Thông tin, số liệu cung cấp phải rõ ràng và thích hợp với mục tiêu, chiến lược,
nguồn, kinh doanh, quản lý các vấn đề và những rủi ro.
Bước 2. Xác định các giả định và thử nghiệm các giả định
Đưa ra các giả định có liên quan đến các bộ phận then chốt của hệ thống canh tác
như:
- Các vấn đề và cản trở của nông dân
- Các chiến lược quản lý của nông dân
- Các tác động giúp cho nông dân đạt được mục tiêu của họ.
Các giả định và biện pháp tác động về nông lâm kết hợp cũng có thể không phải
nông lâm kết hợp cần được xếp thứ tự ưu tiên theo mức độ quan trọng. Các tiêu chí để
xếp thứ tự ưu tiên cho các giả định và các biện pháp tác động cần được thảo luận cùng
người dân.
- Kiểm tra các giả định về các vấn đề và cản trở của nông dân và những giải pháp
nông lâm kết hợp có tiềm năng phát triển đã được đưa ra và thu thập các tài liệu thông
tin bổ sung cần thiết cho việc xác định các biện pháp tác động nông lâm kết hợp có ưu
tiên.
Việc kiểm tra tập trung vào phỏng vấn, đối thoại trực tiếp ngoài đồng ruộng với
nông dân, trước hết là kiểm chứng các giả thiết cùng với người dân sau đó là xếp thứ
tự ưu tiên các vấn đề và cản trở theo mức độ quan trọng (số người dân chịu ảnh hưởng
và các ưu tiên của người dân).
Bước 3. Thiết kê các biện pháp tác động và xếp thứ tự ưu tiên các hoạt động
nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp.

119
Dựa vào số liệu và thông tin phản hồi từ nông dân về các biện pháp tác động
nông lâm kết hợp.
- Tìm ra các lỗ hổng về kiến thức và các vấn đề có liên quan đến những biện
pháp tác động.
- Xếp thứ tự ưu tiên các nhu cầu nghiên cứu để đáp ứng các lỗ hổng về kiến thức.
- Xác định và xếp thứ tự ưu tiên các nhu cầu phát triển, xem xét tất cả những
thông tin, tài liệu có thể có, phân tích những gì đã biết rõ về biện pháp tác động trong
bối cảnh cụ thể, xác định các lỗ hổng về kiến thức, các dạng nghiên cứu (sinh học,
kinh tế - xã hội, chính sách..) cần có để giải quyết vấn đề, xây dựng và xếp thứ tự ưu
tiên các mục tiêu nghiên cứu.
Bước 4. Thiết kế nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp
Căn cứ vào các vấn đề và những hạn chế đã phát hiện, thiết kế các hoạt động
nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp nhằm giải quyết các vấn đề và hạn chế
trong phát triển nông lâm kết hợp của cộng đồng và hộ gia đình. Bước 3 chúng ta đã
xác định và xếp thứ tự ưu tiên các hoạt động nghiên cứu và phát triển nông lâm kết
hợp. Ở bước này cán bộ nghiên cứu và cán bộ khuyến nông cần thúc đẩy và tham gia
cùng người dân thiết kế các hoạt động nghiên cứu.

120
121
3. THỰC HIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
LÂM KẾT HỢP
3.1. CÁC BƯỚC PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP CÓ SỰTHAM
GIA
Tiến trình nghiên cứu về nông lâm kết hợp gồm 5 giai đoạn như sau:

3.1.1. Phân tích tình hình


Các nhà nghiên cứu và nhân viên khuyến nông, cùng người dân, cộng đồng địa
phương phân tích tình hình về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và các yếu tố ngoại
cảnh có ảnh hưởng:
• Những tiềm năng, thuận lợi cho phát triển nông lâm nghiệp
• Những vấn đề và những cản trở, nguyên nhân hạn chế phát triển nông lâm kết
hợp
• Các ý tưởng và các kỹ thuật nông lâm kết hợp dự kiến để giải quyết vấn đề và
những cản trở.
• Mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của nông trại.
3.1.2. Xác định chủ đề nghiên cứu
Các ý tưởng, các chủ đề nghiên cứu được người dân địa phương cùng cán bộ
nghiên cứu khuyến nông đưa ra trong giai đoạn phân tích tình hình cần được phân tích

122
kỹ hơn về các mặt sau:
• Mục tiêu của các chủ đề nghiên cứu
• Các lựa chọn kỹ thuật nông lâm kết hợp liên quan đến kiến thức, kinh nghiệm
của nông dân.
• Các lựa chọn để kiểm tra trên đồng ruộng.
• Các kết quả mong đợi của chủ đề nghiên cứu.
• Xếp thứ tự ưu tiên các chủ đề nghiên cứu.
3.1.3. Lập kế hoạch nghiên cứu
Các nhà nghiên cứu và khuyến nông đóng vai trò thúc đẩy, hỗ trợ nông dân lập
kế hoạch, triển khai các hoạt động nghiên cứu trên đồng ruộng. Giai đoạn lập kế hoạch
rất quan trọng, nó khuyến khích nông dân suy nghĩ sâu hơn về chủ đề nghiên cứu,
trách nhiệm của họ trong các hoạt động, khai thác kinh nghiệm kiến thức bản địa cũng
như tiềm năng khác của địa phương.
Trình tự lập kế hoạch:
- Thiết kế thử nghiệm:
+ Phân khu thử nghiệm
+ Xác định loài cây trồng, vật nuôi
+ Các kỹ thuật
+ Các nguồn đầu tư cần thiết
- Xác định các hoạt động của chủ đề nghiên cứu: Sắp xếp theo trật tự logic, có
tham khảo nông lịch, các vấn đề về giới, tài chính.
- Xác định thời gian tiến hành các hoạt động thử nghiệm: Trả lời câu hỏi làm khi
nào?
- Xác định nguồn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu: cố gắng tận dụng nguồn đã
có ở địa phương, khi phải sử dụng các nguồn lực từ bên ngoài cần phải chỉ rõ nguồn
đó lấy ở đâu trách nhiệm là ai, khả năng cung cấp.
3.1.4. Tổ chức thực hiện các hoạt động nghiên cứu
3.1.5. Tổ chức giám sát và đánh giá
3.1.5.1. Hệ thống giám sát và đánh giá có sự tham gia của người dân (PMOE)
PMOE là một phương pháp được áp dụng để ghi nhận và phân tích thông tin
định kỳ mà những nhà thực hiện dự án và người hưởng lợi đã liên kết để quyết định
cho việc phát triển bền vững (SD) và nông nghiệp bền vững (SA).
Sự giám sát có tham gia (PM) là việc ghi nhận các thông tin có ích nhằm theo kịp

123
các hoạt động và/hay các tiến trình hướng đến các mục tiêu một cách liên tục. Mỗi một
cộng tác viên của dự án tại địa phương phải có kế hoạch thu thập tất cả các thông tin
về hoạt động của dự án xuyên suất các giai đoạn thực hiện.
PMOE thích ứng với toàn bộ quá trình đánh giá có sự tham gia, giám sát và đánh
giá ý tưởng của dự án một cách xuyên suốt, nó chỉ ra các thông tin phản hồi từ các
hoạt động và mục tiêu liên hệ với những phương pháp khác của thẩm định nhanh nông
thôn. (Phân tích các vấn đề cộng đồng và đánh giá sự kiện). Tại mỗi điểm, dự án có
nhiều thời điểm đánh giá sự thay đổi. Có thể lúc khởi đầu không có gì là bất thường,
theo kế hoạch, nhưng sau khi được kiểm tra có những vấn đề cần thay đổi.
3.1.5.2. Phương pháp thực hiện PMOE ở một địa điểm
Sau đây là các bước làm việc cho PMOE. Các bước này được thực hiện bởi
người hưởng lợi. Cán bộ hiện trường nên thúc đẩy và giúp đỡ họ thực hiện:
* Mục đích của PMOE:
Mục đích của PMOE rất khác nhau tùy thuộc vào các hoạt động của dự án.
Nó cung cấp các thông tin giúp thực hiện các quyết định như:
"Chúng ta có thỏa mãn với tiến trình hướng đến mục đích?"
"Chúng ta có nên thay đổi chiến lược hay hoạt động ?"
"Chúng ta có nên đánh giá lại mục tiêu ?"
PMOE được thực hiện cho bất cứ hay tất cả những mục đích dưới đây:
• Xem xét tất cả các kế hoạch hoạt động có tiếp tục dẫn đến việc đạt được mục
tiêu phát triển bền vững và nông nghiệp bền vững.
• Đánh giá hướng đến việc đạt được mục tiêu, kế hoạch làm việc và các hoạt
động
• Xác định thời gian có còn đủ để hoàn thành các hành động
• Bảo đảm các tiêu chuẩn tết được duy trì
• Cung cấp các thông tin và phản hồi về những kỹ thuật mới
• Bảo đảm việc sử dụng phương tiện và nhân lực một cách hiệu quả
• Đo lường các tác động môi trường.
• Cung cấp một hệ thống báo động sớm có thể xác định các vấn đề ở giai đoạn
đầu để có thể thực hiện các thay đổi khi cần thiết (có hay không có thông tin bổ sung
từ việc đánh giá sự kiện)
• Cung cấp hệ thống phản hồi liên tục trong suốt quá trình thực hiện dự án.
• Bổ sung và cụng cấp dữ liệu cho cộng đồng đánh giá sự kiện cũng như các

124
đánh giá của người ngoài.
* Cái gì được giám sát
Có nhiều nhân tố và các thay đổi có thể được giám sát ở mỗi điểm dự án. PMOE
sẽ được thực hiện chủ yếu ở 2 mức độ: mức nông hộ và mức cộng đồng. Ở cả hai mức
độ, cả hai dữ liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đều cần thiết. Các yếu tố
này sẽ được phân loại và xác định những nhân tố chủ chốt và mô tả trong các bảng
dưới đây.
* Giám sát như thế nào
Các chỉ tiêu giám sát rất khác nhau từ địa điểm này đến địa điểm khác, và thậm
chí trong từng cộng đồng.
* Ai sẽ giám sát:
Việc giám sát được thực hiện bởi những nhân viên hiện trường của dự án trong
những cuộc thăm viếng có những nhân viên của điểm dự án, người đảm trách những
hoạt động cụ thể (ví dụ như người quản lý vườn ươm, kế toán viên, khuyến nông viên,
v.v…) và các nông dân chọn từ một vài người chủ chốt và những đại diện cho cộng
đồng. Sự chắc chắn của thông tin trong giám sát có thể được khuyến khích bởi những
nhân viên đáng tin cậy của mỗi địa điểm.
* Việc giám sát được thực hiện khi nào?
Một lần nữa, điều này sẽ rất khác nhau trong những cộng đồng, giữa địa điểm
này và địa điểm khác và tùy theo các điều kiện tự nhiên Sau khi đã quyết định lúc nào
sẽ tiến hành việc giám sát, thời điểm để đánh giá tiến triển có thể được lập kế hoạch.
Việc giám sát đánh giá có thể thực hiện hàng quý, hàng tháng.
Việc đánh giá tiến trình đòi hỏi một bổ sung thông tin, thu thập, phân tích và
trình bày cho người dân, người sẽ ra các quyết định. Việc đánh giá tiến trình có thể
được thực hiện bởi các nhóm nhỏ, những người được giao trách nhiệm để thực hiện
việc này (ví dụ một nhóm người ngoài).
* Các công cụ giám sát và đánh giá tiến trình:
Các công cụ phải được nhóm nghiên cứu đề nghị dựa trên dựa trên yêu cầu phát
triển bền vững của mỗi điểm. Tất cả các yếu tố sinh học vật lý, kinh tế xã hội, kỹ thuật
và văn hóa đều được chú ý.
* Ai có thể được trả lời trong khi thực hiện các buổi trên đây.
Khi thực hiện PMOE nó sẽ mang lại, trong suốt quá trình của dự án các điểm sau
đây:
Những yếu tố chỉ thị chủ chốt sẽ giám sát các hoạt động/mục tiêu dựa rên các nền
tảng vững chắc; những công cụ mà cộng đồng có sử dụng để giám sát. Một kế hoạch
định kỳ để phân tích bình thường và thảo luận thông tin được thu thập trong suốt quá
125
trình giám sát; Thông tin hướng dẫn dự án. Nó sẽ chỉ ra các thông tin nếu như dự án
nên thay đổi, tổ chức lại, suy nghĩ lại hủy bỏ một hoạt động, hay tiếp tục duy trì.
3.2. CÁC TIÊU CHÍ, CHỈ BÁO TRONG GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ KỸ THUẬT
NÔNG LÂM KẾT HỢP
3.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá
Một điều quan trọng của quá trình thẩm định là phải xác định các chỉ tiêu thích
hợp, đúng chỗ, xác minh được, định lượng được để có thể đo lường được các định
mức nổi bật nhất. Khi phê phán các chỉ tiêu về sa mạc hóa, Krugmann (1996) đã ghi
chú rằng các chỉ tiêu phải được xây dựng theo cấp vi mô đến vĩ mô, phản ảnh các suy
nghĩ, kinh nghiệm, tiến trình và các hành động (câu hỏi) ở các tầm mức khác nhau.
Các chỉ tiêu có thể định lượng hay định tính các chỉ tiêu định lượng thì dễ đo lường và
tổng hợp, trong khi đó các chỉ tiêu định tính thì ưu việt hơn về nắm bắt sự phức tạp của
các tình trạng thay đổi. Các chỉ tiêu có thể trực tiếp hay gián tiếp, mô tả (tình trạng của
hoàn cảnh), hay dựa vào kết quả thực hiện (đo lường vài điểm chuẩn). Chỉ tiêu cũng có
khung thời gian của nó, mộ vài chỉ tiêu có giá trị trước mắt, trung hạn hay dài hạn. Tùy
theo loại dự án. chương trình, theo dõi vài chỉ tiêu nào đó có thể là cần thiết ngay từ
khi khởi đầu dự án cho dấn khi dự án chấm dứt để một thời gian cần thiết để có thể
đánh giá ảnh hưởng đầy đủ của dự án. Các chỉ tiêu cũng có thể phản ánh sự thay đổi
hay các dấu hiệu thay đổi của các biến số.
3.2. Các chỉ tiêu từ nông dân
Các cộng đồng thường có hàng loạt các chỉ tiêu mà họ dùng để theo dõi và đánh
giá chất lượng của môi trường họ đang sống và tiên đoán các thay đổi về sinh thái.
Thông thường, các cộng đồng định các giá trị khác nhau với các chỉ tiêu thay đổi; họ
dùng các chỉ tiêu mà họ cho là nổi bật nhất để lập kế hoạch và thời khóa biểu của các
hoạt động sản xuất cũng như giúp họ quyết định vượt qua các khó khăn để sống còn.
Mwadime (1996) đã ghi nhận rằng một cộng đồng ở Kenya, người dân đã phối hợp
các chỉ tiêu ảnh hưởng kế hoạch và quyết định của họ.
Một vài thí dụ về các chỉ tiêu của nông dân là sự xuất hiện và tập tính của thực
vật và động vật (chẳng hạn, sự ra hoa hay đâm chồi của vài loài cây chính và sự xuất
hiện và hoạt động của chim, côn trùng, ếch nhái), đặc điểm của gia và sự thay đổi
hướng gió, và vị trí của vài chòm sao. Chính các chỉ tiêu này đã giúp người dân phát
hiện các thay đổi theo mùa, tiên đoán mưa hay chấm dứt mùa, xác định độ phì của đất,
và theo dõi tình trạng của môi trường (Oduol 1996). Tập tính của gia súc và động vật
rừng có thể chỉ thị cho sự hữu hiệu của thức ăn hay chất lượng của nó. Nhịp độ phối
giống của súc vật; thành phần và màu sắc của phân, hay tình trạng của lông thú có thể
phản ảnh chất lượng của môi trường (Kipuri).
Các chỉ tiêu của nông dân thường cá biệt cho một điều kiện được ảnh hưởng bởi
các yếu tố sinh thái, văn hóa, xã hội, kinh tế và ảnh hưởng của giới tính và tuổi tác

126
(Krugmann 1996). Sự xác định các chỉ tiêu của nông dân thường kế thừa một quá trình
hợp tác lâu dài. Sự chọn lựa các chỉ tiêu của người bên trong và bên ngoài sẽ tùy thuộc
vào mức độ rõ ràng của các chỉ tiêu thể hiện các định mức trong nội dụng của câu hỏi
làm thế nào để các dữ kiện được thu thập. Quá trình thẩm định có thể phối hợp cả hai
loại chỉ tiêu của người bên trong và bên ngoài.
3.2.3. Đặc điểm để xác định chỉ tiêu cho hệ sinh thái nông lâm kết hợp

127
Bảng 6. Biểu sàng lọc tiêu chí cho sự vững bền của các kỹ thuật nông lâm kết hợp
Sự đa dạng Nước
• Đa dạng của động vật rừng • Khả năng tiếp cận với nước
• Sự hiếm hoi của động vật quý hiếm • Nguồn nước
• Sự phong phú loài • Lượng nước
• Đa dạng của thực vật tự nhiên • Sự thoát nước
• Đa dạng của hoa màu • Chất lượng
Sự dẫn nhập của các loài ngoại lai (nếu có thì
điều này có ảnh hưởng âm (-).

4.2.2. Đất đai


• Môi trường cho động vật hoang dã 4.3. Không khí
• Thảm thực bì 4.4. Chất lượng không khí
• Cấu tạo đất 4.5. Sự sử dụng tài nguyên
• Hiện tượng tái sinh dưỡng chất • Sử dụng đất
• Độ phì của đất • Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
• Cấu tượng của đất • Sử dụng tài nguyên

128
Các nhu cầu của con người • Các ranh giới văn hóa của cộng
• Các xuất liệu khác nhau (sức sản xuất) đồng Các hoạt động giải trí của cộng
đồng Tình trạng đất đang sử dụng
• An toàn lương thực
Công bằng Ai là người hưởng lợi?
• Năng suất (hiệu quả)
• Đàn bà Đàn ông
• Rủi ro
• Con gái Con trai
• Thu nhập và phân bố thu nhập
• Già Trẻ
• Các đòi hỏi về vốn
• Nghèo Giàu
• Quay hồi vốn, lợi tức biên tế
• Không học Có học
• Các đòi hỏi về lao động
Câu hỏi (Có: ảnh hưởng dương +)
• Các đòi hỏi về giữ gìn/huấn luyện
• Kỹ thuật hệ thống có giải quyết
• Tự tin (dùng các nguyên liệu tại chổ)
các khó khăn và vướng mắc do dân
• Kiểm soát trên xuất liệu và tiến trình làng vạch ra không?
• Điều kiện sống (thí dụ cho trú ngụ) • Dân làng có tham gia hoàn toàn
• Sức khỏe (thí dụ vệ sinh, độc hại) vào các giai đoạn lập kế họach/phát
• Nguồn năng lượng (củi, dầu v.v) triển của dự án không?
Tự xác định về mặt xã hội • Hệ thống hay kỹ thuật có liên hệ
• Thành phần cấu tạo gia đình với các kỹ thuật có sẵn, kinh nghiệm
và động cơ của dân không?
• Các vai trò về giới
• Hệ thống hay kỹ thuật có phát
• Phát triển dân số
triển dựa trên các kiến thức bản địa
• Giáo dục và hiểu biết của dân không?
• Các tổ chức tại địa phương • Kỹ thuật hay hệ thổi có được hỗ
• Văn hóa tại chỗ trợ bởi các chính sách hay chương
• Các quyền hạn của cộng đồng trình khác không? (thí dụ: quyền đất
đai, tín dụng, v.v)
• Sức khỏe của cộng đồng
• Kinh tế của địa phương/các luồng vốn
• Đầu tư và tái đầu tư của địa phương
• Cơ sở hạ tầng của địa phương (thí dụ đường
xá)
• Thu hoạch của cộng đồng
• Khả năng tiếp cận của cộng đồng đến các tài
nguyên tự nhiên (nước, đồng cỏ, rừng v.v)

129
CHÚ GIẢI VỀ CÁC TỪ NGỮ

A Bón đủ: Biện pháp bón phân vô cơ có đủ


Ẩm độ tương đối "relative humidity" thành phần cả 3 chất dinh dưỡng chính là
là tỉ lệ phần trăm giữa hàm lượng hơi đạm, lân và kali cho cây.
nước hiện tại với lượng hơi nước tối đa Bón lót: Biện pháp bón phân cho cây trồng
có thể có dưới cùng một điều kiện nhiệt cùng với việc cày bừa, làm đất trước khi
độ và áp suất. trồng, cấy cây hay gieo giống…
B Bón thúc: Biện pháp bón phân cho cây
Bậc thang "tenaces" là một cấu tạo vật trồng trong thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng
lý để bảo tồn đất và nước trên vùng đất cây nhằm bổ sung chất dinh dưỡng, tăng sức
dốc nhằm hạn chế lượng nước chảy bề đề kháng và thúc đẩy sinh trưởng và phát
mặt và nước chảy xuống dốc. triển cho cây bằng các loại phân có hiệu lực
cao và nhanh.
Bán ẩm "subhumid" chỉ một vùng ở
nhiệt đới có khí hậu với vũ lượng hàng Biện pháp nông lâm kết hợp trên cơ sở
năm từ 900 đến 1500mm. rừng tự nhiên "forest-based agroforestry"
trong đó cây hoa màu hằng niên hay lâu
Bán khô "semiarid" là từ ngữ để gán năm được xen trồng trong các hệ sinh thái
cho một vùng hay khí hậu một nơi có rừng tự nhiên.
độ ẩm lớn hơn vùng khô tuy nhiên vẫn
giới hạn khả năng sinh trưởng của thực Bố trí công việc "staggered (planting,
vật. Thực vật tự nhiên ở đây thường là harvesting)" công việc được bố trí ở các thời
cỏ thấp, cây bụi và tiểu mộc. điểm hay địa điểm khác nhau, thay vì cùng
lúc xãy ra.
Bản địa "indigenous" chỉ một địa điểm,
một kiến thức, loài cây tại chỗ. Trái Bỏ hoá, hữu canh "Fallow" là để cho đất
ngược là ngoại lai (exotic). nghỉ không canh tác, chỉ để hoang hay chăn
thả gia súc, sau đó đất sẽ bị thực vật tự
Băng bậc thang "bench terrace" là các nhiên xâm chiếm dần.
bậc thềm được xây dựng dọc theo
đường đồng mức của đất dốc có bờ ta Bảo tồn đất "Son conservation" là một sự
lấy về phía thấp. phối hợp của các biện pháp quản lý và
phương pháp sử dụng đất để bảo vệ đất
Bảo vệ đất: Hệ thống các biện pháp đề chống lại sự thoái hóa cạn kiệt đất gây ra do
ra để ngăn chặn các tác động làm hư hại tác động của tự nhiên và con người.
đất, xói mòn, nhiễm bẩn, sụt lở…
Bón phân hữu cơ "Manuring" là việc bón
Biện pháp chống xói mòn đất: Những phân hữu cơ từ phân gia súc, phân hữu cơ
biện pháp làm giảm dòng chảy của nước hay các vật liệu hữu cơ khác để làm tốt đất.
mưa bằng cách tăng bề mặt giữ nước
hoặc làm tăng sức thấm nước vào đất. Bờ tường đất "Ridging" là các cấu tạo mô
đất hay liếp nổi dọc theo đường đồng mức,
130
nơi mà hạt được gieo trồng. Cảnh quan "Landscape" là một khu vực đất
Bụi, khóm "Clump" là một nhóm thân đai, thường có diện tích giữa 10 đến 100 cây
cây bụi hay cỏ mọc gần nhau. số vuông, bao gồm thực vật, các kiến trúc và
các đặc điểm tự nhiên, nhìn từ một góc độ
C riêng biệt.
Cải tạo đất: Cải thiện một cách cơ bản
những tính chất của đất và những điều
kiện hình thành đất với mục đích nâng
cao độ phì của đất.
Canh tác xen "Mixed intercropping" là
kỹ thuật canh tác 2 hay nhiều hơn hoa
màu cùng lúc mà không bố trí hàng
trồng rõ rang.
Canh tác nhiều vụ "Sequential
cropping" Canh tác nhiều vụ trong năm
với nhiều loại hoa màu khác nhau. Hoa
màu kế được gieo trồng ngay khi hoa
màu vụ trước vừa mới được thu hoạch. Cắt cỏ đem về "cut-and-carry" hay phẩm
vật cắt từ cây làm thức ăn để đem về nuôi
Canh tác nương rẫy "Shiftmg
gia súc hay chế biến để làm thức ăn gia súc.
cultivation" là một hình thức canh tác
nông nghiệp trong đó độ phì của đất Cây bụi "shrub" là loại thực vật lâu năm có
được gìn giữ bằng cách luân chuyển chiều cao thấp hơn 10 mét và có khả năng
đồng ruộng hơn là luân canh hoa màu. nẩy chồi gốc hay cành từ dưới thấp (xem
Các mảnh đất mới canh tác được “phát bush).
và đốt" và tỉa hạt cho đến khi đất cằn Cây bụi thấp thân gỗ " bush" (xem shrub).
cỗi đi. Lúc này đất sẽ được bỏ hóa hưu
Cây con "seedling" là một cây vừa mới phát
canh cho tái sinh tự nhiên hồi phục đất
triển từ hạt.
dần khi canh tác được chuyển qua một
mãnh khác. Cây ngắn ngày "annual plant” là các hoa
màu phát triển chỉ trong một mùa vụ (hay
Canh tác theo băng "Strip cropping"
một năm) sau đó sẽ thoái hoá, trái ngược với
là xen canh từng băng cỏ, hoa màu theo
cây lâu năm sống nhiều hơn một năm.
đường đồng mức để bảo vệ ẩm độ và
giảm xói mòn. Cây ngũ cốc "cereal" là một loại cỏ được
trồng để thu hoạch hạt làm lương thực hay
Cành, hom vô tính "Cutting" cắt từ
thức ăn gia súc.
cành hay rễ cây nhằm tạo rễ và tự phát
triển như một cây riêng lẽ có tính chất Cây sống 2 năm "biannual plant" là các loại
di truyền như là cây cho cành vô tính thực vật chỉ kéo dài đời sống đến 2 năm.
(tạo ra một dòng vô tính). Các loại cây này thường sinh trưởng ra lá và
phát triển rễ trong năm đầu tiên sau đó thân,

131
hoa, và hạt giống vào năm thứ hai rồi là một dụng cụ để chẩn đoán các khó khăn
thoái hóa chết đi. về quản lý đất và đề ra các biện pháp nông
Cây đa dụng "multipurpose-tree lâm kết hợp.
species" là cây lâu năm được trồng Chất hữu cơ trong đất "soil organic
không những để lấy sản phẩm chính là matter" bao gồm các phẩm vật từ thực vật và
gỗ mà còn để cung cấp các sản phẩm động vật ở các mức độ phân huỷ khác nhau,
hay dịch vụ khác. các tế bào và mô của sinh vật đất và chất
Cây lâu năm "perennial plant" là thực tổng hợp bởi sinh vật đất.
vật có đời sống dài hơn 1 năm, trái với Chất tủ "Mulch" là các vật liệu từ thực vật
thực vật hằng niên có đời sống trong 1 hay các vật liệu vô sinh dùng để tủ lên bề
năm (hay 1 mùa vụ) trước khi chết. mặt đất canh tác để bảo vệ đất khỏi bị dẽ
Cây che bóng: cây tự nhiên hoặc trồng chặt do mưa lớn, ngăn cản cỏ dại phát triển,
ở hai bên hoặc xâm quanh cây khác có giữ ẩm cho đất và trong vài trường hợp cung
tác dụng che chắn làm giảm độ chiếu cấp thêm chất dinh dưỡng cho đất.
sáng của mặt trời đối với cây được che Chặt chọn "selective cutting" là thu hoạch
bóng. loại cây hay cá thể cây riêng biệt trong rừng
Cây cố định đạm: Những cây có khả và chừa lại các cây khác.
năng thu hút đạm trong không khí hay Chi "genus" là một mức độ phân loại giữa
trong đất và chuyển đổi thành đạm hữu họ và loài. Một chi gồm một hay nhiều loại
cơ có thể sử dụng trong quá trình sinh có liên hệ với nhau, và đối với thực vật chi
học nhờ hoạt động cộng sinh của vi thường được xác định trên đặc điểm của hoa
sinh vật cố định đạm ở rễ cây thể hiện hay/và quả.
bằng các nốt sần. Thông qua quan hệ Chi phí cơ hội "opportunity cost" là một giá
cộng sinh cây và vi sinh vật cố định trị kinh tế thực của một cơ hội khác khi
đạm đã tạo ra đạm có thể sử dụng được chúng ta quyết định cho một hành động nào
để cung cấp cho cây và cây cung cấp đó.
hydrat - cacbon cho các vi sinh vật.
Chịu được hạn "drought tolerance" là khả
Cây ưa bóng: Cây có thể sinh trưởng năng của cây sống vượt qua khô hạn, đặc
và phát triển bình thường trong điều biệt là thích ứng làm giảm các hiệu ứng của
kiện được che bóng dưới tán rừng hay hạn hán.
tán cây khác hoặc dưới dàn che.
Chồi rễ "root sucker" là chồi tái sinh từ rễ
Cây rụng lá "deciduous plant" là cây cây
rụng hết lá thẹo mùa. Trái ngược là cây
luôn luôn xanh (evergreen). Chồi nốt rễ "sucker" là chồi ở rễ của một
cây tạo ra từ một nốt rễ tiền định.
Chẩn đoán và thiết kế "Diagnosis and
Design" là một phương pháp khảo sát Chu trình đạm "nitrogen cycle" là tiến
đã được phát triển bởi ICRAF trong trình kín của các thay đổi về hóa và sinh học
những năm đầu của thập niên 1980 như của chất đạm từ lúc nó chuyển hóa từ không

132
khí vào nước, đất và vi sinh vật sống thấp hơn 7.0. Thường áp dụng cho tầng đất
và, sự chết và thoái hoá của các sinh vật mặt hay cho các tầng khác của trắc diện đất.
này được tái chế qua nhiều phần của Đất kiềm "alkali soil” là đất chứa quá nhiều
tiến trình. chất kiềm đến nỗi ảnh hưởng đến sự sinh
Cố định đạm "nitrogen fixation" là sự trưởng của đa số cây trồng.
chuyển hóa sinh học của đạm tự do Đất phù sa "alluvial soil” là đất mới được
trong không khí thành đạm hữu cơ bằng bồi tụ ven sông suối, chưa thể hiện rõ trắc
sự cộng sinh giữa rễ cây họ đậu và diện đất.
khuẩn Rhizobium sp hay
Actinomycesfrankla. Địa hình "topography" là đặc điểm vật lý
của đất đai, các thay đổi về cao độ như đồi,
Cùi "Stover" của bắp hay lúa miến. thung lũng và các đặc điểm khác.
D Đồng cỏ "pasture" là mãnh đất che phủ bởi
Dàn che: loại dàn có tác dụng che chắn cỏ hay cỏ xen cây họ đậu dùng để chăn thả
để hạn chế độ chiếu sáng của ánh nắng gia súc.
mặt trời và tác hại của các yếu tố khí Độ dốc "slope" là độ nghiêng của mặt đất
hậu thời tiết khắc nghiệt khác. được đo theo % hay độ hay grade.
Dòng chảy (nước chảy bề mặt) "run- Độ pH "pH" là trị số logarít âm của lượng
off” là phần nước mưa chảy tràn bề mặt lớn hydrogen (H+) hoạt động trong đất. Độ
đất tạo nên mạng lưới sông suối. Đó là pH đất trung hòa bằng 7, nhỏ hơn thì đất
phần nước mất đi không thấm vào đất, acít, lớn hơn đất kiềm.
gọi là nước chảy tràn bề mặt khác với
lượng nước thấm vào đất để tạo mạch Độc canh "monoculture" là biện pháp canh
nước trong đất gọi là nước mạch. tác trồng lập đi lập lại một loại hoa màu đơn
độc trên cùng một mãnh đất.
Đ
Canh tác riêng rẽ "sole cropping" là canh
Đa canh "Multiple cropping" là kỹ tác một loại hoa màu duy nhất trên một
thuật canh tác nhiều loại hoa màu trên đồng ruộng với mật độ bình thường. Trái
cùng một đồng ruộng trong 1 năm cùng ngược là intercropping (trồng xen) hay trồng
một lúc hay trồng loại này kế tiếp loại hỗn giao (mixed).
kia.
Đường đồng mức "Contour" là đường
Đa tầng "Multistoried" liên quan đến tưởng tượng nối liền các điểm có cùng độ
sự bố trí cây theo chiều thẳng đứng và cao trên bề mặt một khu đất. Một bậc thềm
phân ra nhiều tầng. đồng mức được xây dựng trên một sườn dốc
Đai cây hàng ranh "Hedgerow or theo một góc dốc. Một đê đồng mức đôi khi
hedge" là một hàng cây hay bụi trồng cũng được xây dựng dọc theo đường đồng
dầy thường để tạo ra một ranh hay hàng mức để lưu giữ và bảo tồn nước.
rào cản. G
Đất chua "Acid soil” là đất có độ pH Giá trị thực quay về hiện tại “Nét Present

133
Value (NPV)" là một chỉ tiêu cho giá trị Hệ thống sử dụng đất "land-use system" là
lâu dài của một dự án được dự đoán phương cách sử dụng đất của một nhóm
vào lúc đang tiến hành, nó được tính người ở một địa điểm nào đó.
bằng cách cộng tất cả chi phí và tất cả Hoa màu che tủ "cover crop" là một loại
lợi tức thuần các năm trong toàn bộ giai hoa màu được trồng để bảo vệ và cải thiện
đoạn nhiều năm của một dự án, khấu đất giữa các giai đoạn canh tác hay giữa
hao giá trị để tính giá trị của chúng tại khoản trống các cây, dây leo trong vườn cây
thời điểm hiện tại theo lãi suất thích ăn quả và rừng trồng.
hợp để đầu tư vốn cho công việc.
Họ "family” là một mức phân loại thực vật
H giữa ngành và chế. Thực vật và động vật có
Hạ tán cây "Pollarding" là cắt tán cây cùng một họ sẽ có một đặc điểm cơ bản
để thu hoạch gỗ củi và lá cho gia súc ăn giống nhau.
nhằm tạo chồi tái sinh cao hơn tầm với Thành phần hoa màu hay vật nuôi "farm
của gia súc và/hay giảm tán che ảnh enterprise" giữ các chức năng khác nhau
hưởng đến hoa màu trồng xen. trong hệ thống canh tác.
Hạn hán "Drought" là hiện tượng thiếu K
mưa trong một thời gian dài đủ để gây
nên sự thiếu nước và ẩm độ khiến cây Khả năng sản xuất của đất "soil
trồng bị tổn hại hay chết. productivity" là khả năng của một loại đất
trong sản xuất một hay nhiều loại hoa màu
Hệ sinh thái "ecosystem" bao gồm tất liên tiếp. Khả năng sản xuất của đất đặt
cả thực vật và động vật trong một vùng trọng tâm về sản lượng của thực vật trồng
và điều kiện hoàn cảnh của chúng, kể tại đó và thường được biểu thị bằng năng
cả sự liên hệ qua lại giữa các phần tử suất của hoa màu.
trong hệ thống.
Khả năng tồn tại "Viability" là khả năng
Hệ thống canh tác "fanning system" sống và phát triển được ở một hoàn cảnh
gồm tất cả các thành phần của một hay, trong trường hợp một kỹ thuật, nó được
nông trại có liên hệ hỗ tương với nhau chấp nhận để áp dụng một cách lâu dài.
như là một hệ thống, nó bao gồm con
người, hoa màu, vật nuôi, các loại thực Khấu hao giá trị "discounting" là quá trình
vật, động vật hoang dã, điều kiện sinh xác định giá tự tiền hiện tại so với tương lai.
thái, dân sinh kinh tế và xã hội. Khe xói "gully" là một tầng sâu, hẹp bị xói
Canh tác xen "fixed farming" là canh mòn tạo nên.
tác xen nhiều thành phần như hoa màu, Khí hậu khô cằn "arid climate" là khí hậu ở
vật nuôi và/hay cây lâu năm. những vùng thiếu nước để canh tác hoa
Hệ thống lâm đồng cỏ "silvopastoral màu. Ở vùng lạnh, lượng thủy sa hàng năm
system" là một hệ thống nông lâm kết ở đây nhỏ hơn 25cm. Nhưng đôi khi vùng
hợp bao gồm thành phần cây lâu năm nhiệt đới ẩm độ của vùng khí hậu khô có thể
và đồng cỏ chăn nuôi. là 50 cm. Tại đây thực vật tự nhiên thuộc

134
loại cỏ bụi sa mạc và thường có gai. tài nguyên tự nhiên để phục vụ các mục tiêu
Khoáng hóa "mineralization" là tiến xã hội, thường để hỗ trợ thành phần dân
trình chuyển hóa một phân tử từ dạng nghèo, thông qua sự phân bố các lợi ích đến
hữu cơ sang vô cơ do tác động sự phân cho dân địa phương.
hóa của các vi sinh vật. Lát cắt đi bộ "transect walk" là một hoạt
Khuẩn Rhizobia có khả năng sống động đi có hệ thống xuyên qua một khu vực
cộng sinh với các thực vật bậc cao, với một nhóm nông dân để xác định sự sử
thường ở trong các nốt sần trên rễ cây dụng đất cũng như các khó khăn và để cùng
họ đậu, ở đó chúng nhận được năng thảo luận tiềm năng phát triển sử dụng đất
lượng từ cây chủ để chuyển hóa đạm tự của khu vực
do trong không khí thành đạm hữu cơ. Loài "species" là một mức độ phân loại thực
Kiến thức bản địa "indigenous vật dưới chi hay giống. Một nhóm cá thể
knowledge" là sự hiểu biết của địa sinh vật có đặc điểm tương tự nhau tạo nên
phương truyền thống của một địa điểm, một đặc điểm, tên và phân loại riêng dựa
một cộng đồng dân tộc. trên các đặc tính di truyền.

Kỹ thuật/hệ thống trồng xen theo Loại cây thành phần "component species"
băng "Alley croppinglfarming" là hệ là các phần tử cây trồng của một hệ thống
thống trong đó hoa màu được trồng NLKH.
giữa các hàng cây lâu năm, thường là Loài cây bản địa: Cây có nguồn gốc địa
những cây họ đậu đa dụng. Vật liệu cắt phương.
tỉa từ những hàng cây này dùng để tủ Luân kỳ "rotation" đối với nông nghiệp có
gốc hoa màu, cho súc vật ăn và làm củi. nghĩa là sự thay đổi hoa màu trồng trên một
L mãnh đất (còn được gọi là vụ hay luân canh)
Làm đất theo hàng "in-row tillage" là từ mùa vụ này sang mùa vụ khác. Trong lâm
kỹ thuật canh tác liên tục hoa màu trên nghiệp nó có ý nghĩa là thời gian giữa khi
một băng đất hẹp (hay theo hàng). trồng và thu hoạch của một loài cây trồng
rừng.
Lâm nghiệp cộng đồng "community
forestry" là một dạng Lâm nghiệp xã M
hội, nơi đó quản lý cây và rừng được Mặt phân cách "interface" là ranh diện tích
thực hiện bởi một cộng đồng dân cư giữa 2 đối tượng có sự liên hệ tích cực hay
trên đất của cộng đồng hay đất công tiêu cực như giữa các hàng cây và hoa màu.
cộng. Mô đất "bund" ở đường đồng mức để ngăn
Lâm nghiệp nông trại "farm forestry" cản nước chảy trên mặt và cản xói mòn đất,
là phương án đưa cây trồng trong nông đôi khi dùng để phân ranh lô hay với mục
trại. đích khác.
Lâm nghiệp xã hội "social forestry" là Hệ thống nông, lâm và vật nuôi kết hợp
ngành phát triển lâm nghiệp và quản lý "agrosilvopasture" bao gồm 3 thành phần

135
cây, hoa màu và vật nuôi/đồng cỏ. trại vừa nhà ở, từ đó các quyết định canh tác
N được thực hiện bởi các thành viên trong gia
đình và dựa vào nhu cầu cũng như quan tâm
Nẩy chồi "coppicing" là tạo ra các chồi của họ.
non từ gốc bằng cách cắt thân cây gần
gốc. Hiện tượng này cũng xảy ra tự Nuôi ong "apiculture" là kỹ nuôi ong lấy
nhiên nếu cây bị gãy đổ. mật trong các hệ thống nông lâm kết hợp.

Nghiên cứu hệ canh tác "fanning Nước ngầm "groundwater" là lớp nước ở
system research" là một phương án áp dưới đất sâu. Nước này có thể được bơm lên
dụng giải quyết các khó khăn tiến hành mặt đất hay rễ cây có thể tiếp cận đến.
bởi một nhóm liên ngành, được người P
dân tham gia có mức độ. Nó đã xuất Phế phẩm từ hoa màu "crop residue" là
hiện từ các nghiên cứu hệ canh tác và các bộ phận của hoa màu được bỏ lại đồng
khuyến nông. ruộng sau khi thu hoạch sản phẩm chính, thí
Ngoại lai "exotic" cây hay thú ngoại lai dụ rạ lúa.
được nhập vào điều kiện tự nhiên tại Phân bón "fertilizer" bao gồm hữu cơ và vô
chỗ trái lại với cây địa phương hay cây cơ được cung cấp vào đất để gia tăng một
bản địa (indigenous). hay nhiều chất dinh dưỡng khác nhau cho
cây trồng.
Phân tích dựa trên đặc điểm riêng biệt
của địa điểm "situation-specific analysis" là
một biện pháp chẩn đoán và đánh giá phát
triển bởi đại học Chiang Mai ở Tây Bắc
Thái Lan để khảo sát sự quan hệ hỗ tương
giữa hệ thống quản lý tài nguyên tự nhiên ở
đìa phương và sự thay đổi của hệ thống dưới
điều kiện cá biệt của địa điểm.
Phân tích hệ sinh thái nông nghiệp
“agroecosystem analysis” được Gordon
Nông lâm kết hợp "agroforestry" là Conway và các nhà nghiên cứu của Đại học
trồng cây lâu năm trong các hệ thống Khon Kaen (Thái lan) phát triển vào những
canh tác. (xem chương 2). năm đầu của thập kỷ 1980. Nó thường được
sử dụng trong chẩn đoán hay thiết kế và áp
Nông lâm kết hợp cho các trang trại
dụng các công cụ để phân cấp trong phân
nhỏ "fann-based agroforestry" là một
tích.
phương án nông lâm kết hợp nông trại
trong đó cây lâu năm được xen trồng Phân xanh "green manure" là phân hữu cơ
trong hệ sinh thái canh tác nông trại bao gồm cành, lá và xác của thực vật được
cày vùi vào đất hoặc ủ hoài thành phân để
Nông trại nhỏ "small farm" là trang
cải thiện độ phì của đất.
136
Phần gặm "browse" là chồi, ngọn non, công tác khuyến nông, trong đó nông dân tự
lá và hoa của cây gỗ được thú vật (gia vẽ các sơ đồ về tình trạng sử dụng đất hiện
súc và động vật rừng) chọn để ăn. tại của họ và cả các ý định của họ muốn
Phủ xanh: Việc trồng cây với mục đích thay đổi.
che phủ là chính, mà mục đích khác Sự bốc hơi "evaporation" là hiện tượng mất
như lấy gỗ, lấy quả, lấy củi… chỉ là nước qua hiện tượng bốc hơi từ các mặt tiếp
phụ. xúc của các vật thể khác với thực vật.
Sự bốc thoát hơi "evapotranspiration" là
tổng hợp lượng nước mất từ một địa điểm
trong một thời gian nhất định bao gồm sự
bốc hơi từ mặt đất và sự thoát nước từ thực
vật.
Q
Sự khử nitrít "Denitrification" là một phản
Quảng canh "extensive" để chỉ tình ứng sinh hóa học biến đổi các chất nitrát và
trạng canh tác trên một diện tích rộng nitrít thành các chất khí nitrogen bao gồm
với sự đầu tư đầu vào nhỏ trái với thâm khí N2 hay oxít nitrogen.
canh (intensive).
Sự mất rừng "deforestation" do các tác
Quyền "tenure" được quy định bởi tập động khác nhau đã chuyển đổi, hay phá đất
quán hay luật pháp bao gồm đất, cây, rừng một cách phung phí.
các loại thực vật khác, động vật và tài
Sự thấm nước "infiltration" là hiện tượng
nguyên nước.
nước chuyển động thấm vào đất.
R
Sự thoát nước của thực vật "transpiration"
Rửa trôi "leaching" là hiện tượng di là sự mất nước và ẩm độ từ thực vật dưới
chuyển của các chất liệu hòa tan trong dạng hơi nước thoát ra từ mô tế bào.
nước từ lớp đất mặt trực di xuống tầng
Sự sụt đất: Sự phá huỷ cân bằng của khối
đất dưới.
đất xảy ra đột ngột cùng với sự sụt khối đất
S sự mất cân bằng này gọi là sự sụt.
Sinh khối "biomass" là trọng lượng T
chất hữu cơ sinh ra được của một sinh
Tài nguyên di truyền "genetic resources"
vật hay một tập hợp sinh vật. Từ ngữ
nguồn gene của động và thực vật với các
này thường bao gồm cả toàn bộ phận
đặc điểm di truyền có tiềm năng sử dụng
của cây hay chỉ cho một số bộ phận
trong hệ sinh thái nông nghiệp.
chẳng hạn sinh khối trên không được
biểu thị bởi trọng lượng tươi hay trọng Tái sinh "regeneration" hay tái sinh lại cây
lượng khô. và rừng.

Sơ đồ về sử dụng đất "land-use-map Tán cây "crown" hay toàn bộ cành lá trên
sketch" là một bản vẽ sử dụng đất trong không của một cây, thực vật riêng lẽ.

137
Tán lá "foliage" là tàn lá của cây áp Thân cây chính "bole" là khúc thân dưới
dụng cho cả cây hay bụi. cành cho gỗ chính của cây.
Tán rừng cây "canopy" toàn bộ tán lá Thân gỗ "woody" để chỉ thực vật thân gỗ
của rừng hay một đám cây. khác với thân thảo.
Tầng lâm hạ "understory" là tầng thấp Tháp "graning" là một kỹ thuật nhân giống
nhất của thảm thực bì thường gồm cỏ, cây vô tính bằng cách lấy một chồi nhỏ ra
bụi hay hoa màu mọc ở dưới các tầng khỏi một cây và tháp nó với một cây khác
thực vật cao hơn. để cho tầng sinh mô của cả hai tiếp xúc với
Tầng vượt tán "overstory (or nhau và chồi tháp sẽ trở thành như là một bộ
overstorey)" là tầng tán cao nhất của phận của cây. Điều này thường được áp
một thực bì, thường là tán cây mọc cao dụng để có được loài cây có chất lượng cao
hẳn lên trên tầng cây cây bụi ở dưới. từ các cây con đã sản xuất tốt, chịu đựng
(cây gốc tháp root-stock).
Taungya là hệ thống nông lâm kết hợp
trồng xen hoa màu trong những năm
đầu của rừng trồng còn non.
Thảm che trên mặt đất "groundcover"
là các vật chất có sự sống hay không
che tủ trên đất mặt.
Thâm canh "intensive" là kỹ thuật
canh tác đầu tư nhiều và đầy đủ (đầu
vào lớn) trên một diện tích giới hạn.
Trái ngược là quảng canh (extensive).
Thẩm định nhanh nông thôn "Rapid
Rural Appraisa (RRA)" một loạt các kỹ Tháp chồi "budding" là kỹ thuật xén chồi từ
thuật được phát triển vào đầu thập niên một cây để tháp vào vỏ của một cây khác để
80 bởi các nhà nghiên cứu và tổ chức có một cá thể cây có chất lượng cao mà chịu
phi chính phủ để cải thiện cách thu thập được điều kiện khắc nghiệt khô cằn.
số liệu nhanh trong các chương trình
Thuộc về cỏ "herbaceous" để chỉ một thực
quản lý tài nguyên tự nhiên.
vật không phải là thân gỗ và không phát
Thẩm định nhanh nông thôn dựa vào triển trên không quá một mùa Thức ăn cho
sự cộng tác của dân "Participatory gia súc "folder" gồm các bộ phận của thực
Rural Appraisal (PRA)" là một loạt các vật mà gia súc ăn được. Chúng bao gồm cả
hỗ trợ và kỹ thuật có sự hợp tác của dân lá cây, thân cây, quả, nang, hoa, phấn và mật
được phát triển từ thập niên 1980 do hoa.
các nghiên cứu viên và các tổ chức phi
Thức ăn cho gia súc đã sơ chế "forage" là
chính phủ xây dựng nên để tăng cường
phần của thực vật ở dạng tươi, khô hay ủ
năng lực cho dân địa phương trong quá
trong xô để cho gia súc ăn (rơm rạ, đồng cỏ,
trình cũng cố sức mạnh của họ.
138
cỏ ủ). một số điều kiện riêng biệt, kể cả sự hiện
Thường xanh "evergreen" là hiện diện của lượng nước thừa.
tượng thấy ở các thực vật giữ tàn lá Tỉa cành nhánh "lopping" là việc cắt (mé
luôn luôn xanh suốt cả năm. Trái lại nhánh) một hay nhiều cành của một cây cao
một số cây khác rụng lá theo mùa hay cây bụi.
(deciduous). Tỉa "pruning" là cách làm giảm sự sinh
Thực vật họ đậu "legume" là các loài trưởng của cây bao gồm cắt cành cây và rễ
thực vật của họ đậu (như đậu, đỗ) trong bên.
đó đa số các loài này có khả năng cố Tỉa thưa "thinning" là kỳ chặt tỉa trung gian
định đạm tự do qua hoạt động của các chủ yếu để kiểm soát sự tăng trưởng của
vi sinh vật trong đất trên hệ rễ của quần thụ bằng cách điều chỉnh mật độ của
chúng. nó.
Thực vật tự nhiên "natural vegetation" Tích chứa nước "water harvesting" là thu
là lớp thực vật che phủ tại một vùng và giữ nước trong các bồn chứa hay trong
không được gieo trồng bởi con người. đất (gồm nước chảy bề mặt và nước sông
Tỉ lệ C/N "carbonlnitrogen rang là tỉ lệ suối) để canh tác hoa màu, chăn nuôi và sinh
giữa trọng lượng chất hữu cơ (C) với hoạt.
lượng đạm toàn phần (N) trong một loại Tiến trình diễn thế theo loài "succession"
đất hay một chất hữu cơ. là một tiến trình thay đổi của một cộng đồng
Tỉ lệ đất tương đương "lang thực vật, động vật thể hiện bởi sự xuất hiện
equivalent ratino (LER)" là tỉ lệ đất cần các cá thể khác nhau tiến tới tình trạng cực
để canh tác độc canh tương đương với đỉnh của sự thay đổi môi trường sinh thái
một khu vực trồng xen canh để cho một tiến (climax).
sản lượng như nhau. Tiểu khí hậu "microclimate" là nhiệt độ,
Tỉ lệ quay hồi nội bộ "intemal nhe of năng lượng mặt trời, độ ẩm và các yếu tố khí
retum (IRR)" là tỉ lệ tối đa quay hồi vốn hậu khác trong một khu vực nhỏ riêng biệt
mà một dự án có thể hoàn tra trên vốn (thí dụ trong cánh đồng hay một rừng cây).
đã đầu tư kể cả việc thanh toán các chi Tiểu khu vực giữ nước "microcatchment"
phí và phí cơ hội (opportunity costs); là các công việc xử lý đất cục bộ dùng để
hay, khả năng thu lợi của đồng vốn bỏ giữ và hướng dẫn nước mưa dẫn đến khu
ra trong một phương án kinh doanh. canh tác hoa màu hay cho gia súc.
Tỉ lệ tăng trưởng của hoa màu "crop Tình trạng căn thẳng "Stress" để chỉ bất kỳ
growth rate" là trọng lượng đạt được yếu tố nào làm rối loạn chức năng bình
của một thực vật trên một đơn vị diện thường của một sinh vật.
tích trong một khoản thời gian nhất
định. Trồng lại rừng "Reforestation" rừng được
trồng lại trên đất rừng vừa khai thác hay bị
Tỉ lệ thấm nước "infiltration rate" là tỉ cháy.
lệ nước tối đa có thể thấm vào đất dưới
139
Trồng trực tiếp bằng hạt "direct X
seeding" là kỹ thuật gieo hạt để chúng Xói mòn cơ giới "splash erosion" do tác
có thể phát triển thành cây hay rừng dụng của hạt mưa. Sau đó các phần tử đất đã
non. bị hạt mưa tác kích sẽ bị lôi cuốn đi bởi
Trồng xen "intercropping" là kỹ thuật nước tràn bề mặt.
trồng 2 hay nhiều hơn các loại hoa màu
khác nhau trên cùng một đồng ruộng
cùng một thời điểm theo kiểu hỗn giao.
Trồng xếp lên nhau "relay cropping"
là kỹ thuật canh tác hai hay nhiều loại
hoa màu mà đời sống của chúng có thể
trùng nhau trong một giai đoạn, thí dụ
hoa màu vụ 2 được gieo trồng trước khi Xói mòn "erosion" (1) là sự mất đi của lớp
hoa màu vụ 1 được thu hoạch. đất mặt bởi nước, gió, băng hà, hay các tác
Trượt đất: Hiện tượng trôi trượt cả nhân khác, kể cả các hiện tượng ảnh hưởng
mảng sườn dốc trong những điều kiện bởi các sự sụp lỡ do trọng lượng (2) bào
thuỷ văn, địa chất và đất nhất định theo mòn đất hay đá do nước, gió, băng hà, hay
qui mô lớn do tác dụng của nước mưa do trọng lượng.
và dòng chảy gây nên. Xói mòn nhanh "accelerated erosion"
V nhanh hơn bình thường so với các xói mòn
Vật rụng "litter" là lớp thảm lá cành tự nhiên, địa lý chủ yếu là do hoạt động của
nhánh rụng của cây trên bề mặt đất, nó con người hay trong vài trường hợp do súc
bao gồm vật rụng từ lá, nhánh, và hoa vật.
quả tươi mới rụng hay đã rã mục phần Xói mòn rãnh "gully erosion" là kết quả xói
nào. mòn tạo nên các khe xói sâu.
Vùng ẩm "humid area" để chỉ một khí Xói mòn theo mảng "sheet erosion" là hiện
hậu có vũ lượng cao hơn độ bốc hơi tượng bào mòn lớp đất mặt do nước chảy
tiềm năng ít nhất là trong 9 tháng của tràn bề mặt.
năm và vũ lượng thường cao hơn 1500 Xói mòn theo mạng "rill erosion" là một
mm hàng năm. tiến trình xói mòn với vô số các rãnh xói
Vườn hộ "homegarden" là một kiểu mạng lưới nhỏ sâu chỉ vài cm. Hiện tượng
canh tác truyền thống quanh nhà ở, này thường thấy ở đất mới được canh tác
thường cấu tạo bởi cây ăn quả hay cây nông nghiệp.
cho củi, rau xanh, hoa màu có củ, gia Xói mòn tự nhiên "natural erosion" là hiện
cầm và vật nuôi nhỏ cũng như thả cá tượng gây ra bởi nước, gió, băng hay các tác
nuôi. nhân tự nhiên khác dưới các điều kiện khí
hậu, thực bì và các yếu tố khác mà không bị
con người tác động trực tiếp.
140
Xói mòn đất: Toàn bộ quá trình bào Mitchell. 1985. Physiology of crop plants.
mòn, vận chuyển và bồi tụ lớp đất mặt Iowa State University Press, Ames, Iowa,
dưới tác dụng của nước, gió và trọng USA.
lực. Smith, D.M. (ed.) 1986. The practice of
TÀI LIỆU THAM KHẢO silviculture. 8th edition. John Wiley, New
(Dựa theo "Quản lý tài nguyên vùng York, USA.
cao ở Đông Nam Á) Soil Science Society of America. 1987.
Delorit, R.J., L.J. Greub, and ILL Glossary of soi science terms. Soil Sci. Soc
Ahlgren. Am., Madison, WI, USA.

(eds) 1974. Crop production. Prentice- Soul, J. (ed) 1985. Glossary ofhorticulture
Hall, Englewood Cliffs, New Jersey, crops. John Wlley, New York, USA.
USA. Wilson, T.C. 1978. Researcher's guide to
Gardner, F.P., R.B. Pearce, and R.L. statistics Glossary and decision map. Univ.
Press of America, Washington, D.C., USA.

141
TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT
1. Bùi Thế Dạt - Vũ Khắc Nhượng, 1998. "Kỹ thuật gieo trồng chế biến chè và cà phê”. NBX NN Hà nội.
2. Cải, H.H. 1999. “Lâm nghiệp xã hội ở Việt Nam dưới góc nhìn của cán bộ đào tạo". Trong Chương trình
Hỗ trợ Lâm nghiệp Xã hội: Chuyên đề về đào tạo lâm nghiệp xã hội Sổ 1 . Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà
Nội. Trang 9 - 11.
3. Cục Khuyến Nông và Khuyến Lâm. 1996. "Sử dụng đất tổng hợp và bền vững”. Nhà xuất bản Nông
nghiệp, Hà Nội. 151 trang.
4. Cục khuyến nông và khuyến lâm, 1998. “Tập bài giảng khuyến nông cho nhóm tín dụng và quỹ tiết kiệm
thôn bản".
5. Đậu Quốc Anh, 2000. "Sổ tay lưu giữ kiến thức bản địa". NXB NN HÀ NỘI.
6. Đoàn Thị Thanh Nhàn - Các tác giả, 1996. "Giáo trình cây công nghiệp". NXB NN HÀ NỘI.
7. FAO, 1994. "Lâm nghiệp và an toàn lương thực". NXB NN HÀ NỘI
8. Hoàng Trương - Cao Vĩnh Hải, 1998. "Kỹ thuật trồng điều", NXB NN Tp. HCM
9. Lê Thạc Cán, Nguyễn Quang Mỹ, 1982. “Quan sát về xói mòn đất ở Việt Nam" - Báo cáo khoa học
10. Lê Thanh Phong - các tác giả. 1999. “Cây sầu riêng" NXB NN, Tp. HCM
11. Lê Thanh Phong - Võ Thanh Hoàng. 1999. "CÂY XOÀI NXB NN, Tp.HCM
12. Nguyễn Hữu Vinh – Nguyễn Xuân Quát. 2000. “Vườn ươm hộ gia đnh”. NXBNN- Hà Nội
13. Nguyễn Quang Mỹ. "ảnh hưởng của yếu tố địa hình đến xói mòn đất ở Việt Nam"
14. Nguyễn Văn Trương, 1983. "Kiến tạo các mô hình nông lâm kết hợp" NXBNN Hà Nội
15. Nguyễn Xuân Quát, 1994. "Sử dụng đất dốc bền vững - kinh tế hộ gia đình miền núi" NXBNN
16. Nhiều tác giả, 1999. "Nông nghiệp và môi trường" NXB giáo dục Hà nội
17. Nhiều tác giả. 1999. "Những điều nông dân miền núi cần biết NXB NN"
18. Tống Đức Khang - Nguyễn Tuấn Anh, 1998. "Một số biện pháp thuỷ lợi cho vùng đồi núi" NXB NN
19. Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm. 1998. "Canh tác bền vững trên đất dốc ở Việt Nam" NXBNN Hà Nội
20. Trần Văn Tường - các tác giả. "Giáo trình chăn nuôi chuyên khoa"
21. Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, 1993. "NN trung du và miền núi hiện trạng và triển vọng" NXB
NN
22. Vũ Công Hậu. 1996. "Trồng cây ăn quả ở Việt Nam" NXB NN
23. Vũ Triệu Mân -Lê Lương Tề, 1998. "Giáo trình bệnh cây Nông nghiệp" NXBNN HÀ NỘI

ANH NGỮ
24. Allen, B.J. 1985. "Dynamics of Fallow system and introduction of robusta coffee in shifting cultivation
areas in the lowlands of Papua New Guinea". Agroforestry Systems 3: 227-238.
25. Alan Rogers and Peter Taylor. 1999. "Participatory curriculum development in agriculture
education" FAO Rome, 1999
26. Avery, M.E. 1987. "Soil fertility and conservation in agroforestry systems". In, Proceedings of
International Agroforestry Short Course. Colorado State University, Fort Collins, Colorado.

142
27. Bass, S. and Morrison, E. 1994. "Shifting cultivation in Thailand, Laos and Vietnam: regional
overview and policy recommendation." IIED, London. 47 pp.
28. Balocena, R.B. 1984. "A case study of an agroforestry farm in Mt. Makiling, College, Laguna". A
research problem conducted in partial fulfilment of the requirements in SFI 290 (Special Problem).
UPLBCF.
29. Bannagen, P.L. 1983. "The practice of swidden cultivation (Philippines country report)". In, Swidden
cultivation in Asia, Vol. II. Bangkok: UNESCO, pp 254 -264.
30. Bene, J.G., Beall, H.W. and Cote, A. 1977. Trees, food and people". IDRC, Ottawa, Canada.
31. Borlaug, N.E. and Dowswell, C.R. 1988. "World revolution in agriculture". 1988 Britanica Book of
the Year. Encyclopedia Britanica Inc., Chicago, USA. pp. 5 -14.
32. Bravo, A. 1986. "Economics of interplanting agricultural crops during the establishment of Benguet
pine stand". Terminal Report. PCARRD.
33. Brunig, E.F. and N. Sander. 1984. "Ecosystem structure and functioning: some interactions of
relevance to agroforestry". In, Plant Research in Agroforestry. ICRAF. Nairobi, Kenya.
34. Chin К Ong and Peter Huxley. 1996. "Tree-Crop interactions/A physiological approach- CAB
International and ICRAF, 1996
35. Capistrano, A.D. and S. Fujisaka. 1984. "Tenure, technology and productivity of agroforestry
schemes". Paper for PIDS seminar-workshop " Economics for Forest Resources Management", Feb.
8-11, 1984.
36. Celestino, A.F. 1986. "Hillyland farming systems in the Philippines : an assessment". FSSRI,
UPLBCA.
37. Cruz, R.V.0.1982. "Hydrometeorological characterization of selected upland cropping systems in Mt.
Makiling". Unpublished M.S. Thesis, UPLB.
38. Cue, L.T., Gillogly, K., and Rambo, T.A. 1990. "Agroecosystems of the Midlands of Vietnam". East-
West Center, Environment and Policy Institute Occasional Paper No. 12. Honolulu, Hawai.
39. Cuevas, C.C. and B.K. Samson. 1982. "The effects of biological contour strips composed of ipil-ipl
(Leucaena leucocephala) and kakawate (Gliricidia sepium) in the productivity and rate of erosion of
rice-based kaingin systems". Annual report of the Mt. Makiling Cropping Systems Research Team.
PESAM, UPLB.
40. Dacawi, R. 1982. "The Ifugao way of forest ecosystem conservtion". Phil. Upland World 8(2): 14-15.
41. Dalmacio, M.V. 1977. Agroforestry and reforestation. Canopy Intl 3(8): 6-7.
42. Ditablan, E.C. and L.M. Astete. 1985. "The coconut-based multistorey cropping system". Coconuts
Today June 23, 1985, pp. 108-115.
43. Dixon, R.K. 1995. "Sources or sinks of greenhouse gasses?" Agroforestry Systems 31, 99 -116.
44. Dixon, R.K. 1996. "Agroforestry systems and greenhouse gasses". Agroforestry Today 8(1), 11-14.
45. FAO. 1976. "Forests for Research and Development". FAO, Rome, Italy.

46. FAO and IIRR. 1995. "Resource management for upland areas in Southeast Asia". FARM field
Document 2. FAO, Bangkok, Thailand and IIRR, Silang, Cavite, Philippines. 207 pp.
47. Felker, P. 1978. "State of art: Acacia albida as a complementary permanent intercrop with annual
crops". Univ. of California. Riverside.
48. Ganapin, D. J. 1983. "Livelihood and appropriate technology in the uplands". Integrated Research
Center. DLSU. Manila.

143
49. Hart, R.D. 1980. "A natural ecosystem anlog approach to the Design of a Successional crop system
for Tropical Forest Environment". Centra Americano, Topical de Investigacion у Ensenanza (CATIE),
Turrialba, Costa Rica.
50. Hans Ruthenberg. 1980. "Farming systems in the tropics" Elarendon press, Oxford, 1980
51. Huxley, P. and van Houten, H. 1997. "Glossary for agroforestry". IRCRAF, Nairobi, Kennya. 108pp.
52. Jansen D.H. 1975. "Ecology of Plants in the Tropics". London: Edward Arnold (Publishers) Ltd.86 pp.
53. Jamieson, N.L.; Le Trong Cue; and Rambo, A.T. 1998. "The development crisis in Vietnam's
mountains". East-West Center Special Report No. 6. Honolulu, Hawai.
54. Juo, A.S.R. and R.Lai. 1977. "The effect of fallow and continuous cultivation on the chemical and
physical properties of an Alfisol in Western Nigeria". Plant Soil 47: 567-584.
55. Kang, B.T., G.F. Wilson, and T.L. Lawson. 1984. "Alley cropping: a stable alternative to shifting
cultication". IITA. Ibadan, Nigeria.
56. Kang, B>T., H. Grimme and T.L. Lawson, 1985. "Alley cropping sequentially cropped maize and
cowpea with Leucaena on a sandy soil in Southern Nigeria". Plant and Soil 85: 267-277.
57. King, K.F.S. 1987. "The history of agroforestry". In Steppler, H.A. and Nair, P.K.R. (Eds.):
Agroforestry: A decade of development. ICRAF, Nairobi, Kenya, pp. 1-11
58. Kellman, M. 1973. Soil enrichment by neotropical savanna trees. J. Ecology 87:565-577.
59. Lasco, R. D. 1991. "Herbage decomposition of some agroforestry species and their effects as mulch
on soil properties and crop yield". Unpublished PhD Dissertation. UPLB.
60. Lundgren, B.O. and J.B. Raintree. 1982. "Sustained agroforestry". In Agricultural research for
development: otentials and challenges in Asia. ISNAR, The Hague, pp 37-49.
61. MacDicken, K.G. and N.T. Vergara. 1990. "Agroforestry: classification and management". New york:
John Wiley and Sons. 382 pp.
62. Mittelman, A. 1997. "Agro- and community forestry in Vietnam": Recommendations for development
support. The Forest and Biodiversity Program, Royal Netherlands Embassy, Hanoi, Vietnam.
63. Nair, P.K.R. 1987. "Soil productivity under agroforestry". In, Agroforestry: Realities, possibilities, and
Potentials (H.L. Gholtz, ed.) Netherlands: Martinus Nijhoff Publishers.
64. Nair, P.K.R. 1985. "Classification of agroforestry systems". Agroforestry Systems. 3: 97-128.
65. Nair, P.K.R. 1984. "Soil productivity aspects of agroforestry". ICRAF. Nairobi, Kenya. 85 pp.
66. Nair, P.K.R. 1993. "An introduction to agroforestry". Kluver Academic Publishers in cooperatio with
International Centre for Research in Agroforestry, the Netherlands. 499pp.
67. Okigbo, B. and R. Lai. 1977. "Role of cover crops in soil and water conservation". In, Soil
Conservation and Management in Developing Countries. Soil Bulletin 33:97-108. FAO. Rome.
68. Oldeman, R.A.A. 1983. "The design of ecologically sound agroforest". In plant research and
Agroforestry (P.A. Huxley, ed.). Nairobi: ICRAF. Pp. 173-217.
69. Olofson, H. 1980. "An ancient social forestry". Sylvatrop 5(4): 255-262.
70. Padilla, H. 1991. "The Bontoc rice terraces: high and stable yields". ILEIA Newsletter 1/2 : 4-6.
71. Papendick, R.I., Sanchez, P.A., and Triplett, G.B. (eds.). 1976. "Multiple cropping". Special
Publication No. 27. American Society of Agronomy, Madision, Wl, USA.
72. Penafiel, S.R. and E.N. Bautista. 1987. "Succesful establishment of bagras in open grasslands
through taungya system". Canopy Intl 13(2): 1,8.
73. Peters, W.J. and L.F. Neuenschwander. 1988. "Slash and burn: farming in the third world forest".

144
Idaho: Univ. of Idaho Press.
74. Quy, C.H. 1995. "Overview of highland development in Vietnam: General Characteristics,
socioeconomic situation and development challenges." In Rambo, AT., Le Trong Cuc and
Digregorio, M.R. (eds.): The challenges of highland development in Vietnam. East - West Center,
Honolulu, Hawai.

75. Rambo, A.T. 1995. "Perspectives on defining highland development challenges in Vietnam: New
frontier or cul-de-sac?" In Rambo, A.T., Le Trong Cue and Digregorio, M.R. (eds.): The challenges of
highland development in Vietnam. East - West Center, Honolulu, Hawai.
76. Rao, Y.S. 1983. "Extent of shifting cultivation in the Asia Pacific region". Unpub. Report.
77. Rao, Y.S. 1989. "Forest resources in tropical Asia". In, Environment and Agriculture: Environmental
problem affecting agriculture in the Asia Pacific region. Would Food Day Symposium. 11 October
1989. FAO, Bngkok, Thailand. Pp. 1-20.
78. Ronquillo, S.P., F.T. Tangan and S.R. Penafiel, 1987. "Ifugao traditional agroforestry systems : a
case of second growth rainforest-rattan-coffee assoc." The Highland Express 7(2):5t.
79. Sanchez, P.A. 1987. "Soil productivity and sustainability in agroforestry systems". In, Agroforestry: A
Decade of Development (H.A. Steppler and P.K.R. Nair eds). ICRAF. Nairobi, Kenya.
80. Do Dinh Sam.1994. "Shifting cultivation in Vietnam: its social, economic and environmental values
relative to alternative land use". IIED Forestry and Land Use No. 3, London. 65pp.
81. Schroeder, P. 1994. "Carbon storage benefits of agroforestry systems". Agroforestry Systems 27,
89-97.
82. Singh, K. and R. Lai. 1969. "Effect of Prosopis spicegera (or cineraria) and Acacia arabica trees on
soil fertility and profile characteristics". Ann Arid Fona 8:33-36.
83. So, N.V. 1999. "Agroforestry education in Vietnam." In P. Rudebjer and R.A. del Castillo (Eds.): How
agroforestry is taught in Southeast Asia: A status and needs assessment in Indonesia, Lao PDR, the
Philippines, Thailand and Vietnam. Training and Education Report No. 48, International Centre for
Research in Agroforestry, Bogor. pp. 117 -129.
84. Young, A. 1987. "The potential of agroforestry for soil conservation and sustainable land use".
ICRAF Reprint No. 39, Nairobi, Kenya.
85. Young, A. 1987. "Soil productivity, soil conservation and land evaluation". Agroforestry Systems
5:277-291.
86. Young, A. 1997. "Agroforestry for Soil Management "[Second edition]. CAB International in
association with International Centre for Research in Agroforestry, United Kingdom. 320pp.

87. Vergara, N. 1982. "New Directions in Agroforestry: the potential of tropical tree legumes". Honolulu:
East-West Center. 52 p.
88. Vergara, N. 1982. "Integrated agroforestry: a potential strategy for stabilizing shifting cultivation and
sustaining productivity of the natural environment" Canopy Intl 8(3): 10-11.
89. Warner, K. 1991. "Shifting cultivators". In Molnar, A., Warnner, K. and Raintree, J.B.: Community
forestry, shifting cultivators, socioeconomic attributes of trees and tree planting practices. FAO
Community Forestry Note, Rome 1991. [Vietnamese version]
90. Watson, H. and W. Laquihon. 1985. "Sloping agricultural land technology (SALT) as developed by
the Mindanao Baptist Rural Life Center". Paper presented at the workshop on Site Protection and
Amelioration Roles in Agroforestry. IFC, UPLBCF. Sept. 4-11, 1985.

145
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU .........................................................................................................................................2


CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................................................................3
Chương I: MỞ ĐẦU ................................................................................................................................4
1. CÁC VẤN ĐỀ THÁCH THỨC TRONG QUẢN LÝ BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN4
1.1. CÁC VẤN ĐỀ TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MIỀN NÚI ................................................4
1.2. CÁC THAY ĐỔI MANG TÍNH THÁCH THỨC CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG
THÔN MIỀN NÚI ...................................................................................................................................5
1.3. NHU CẦU VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG THÔN MIỀN NÚI
..................................................................................................................................................................8
2. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN NÔNG LÂM KẾT HỢP NHƯ LÀ MỘT PHƯƠNG THỨC QUẢN
LÝ SỬ DỤNG ĐẤT BỀN VỮNG...........................................................................................................9
2.1. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG LÂM KẾT HỢP ........................................9
2.2. LỢI ÍCH CỦA CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP VÀ THÁCH THỨC.........................14
Chương II: NGUYÊN LÝ VỀ NÔNG LÂM KẾT HỢP .......................................................................18
1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP ....................................18
1.1. KHÁI NIỆM....................................................................................................................................18
1.2. VAI TRÒ CỦA NÔNG LÂM KẾT HỢP .......................................................................................21
1.3. PHẠM VI GIỮA NÔNG LÂM KẾT HỢP VÀ LÂM NGHIỆP XÃ HỘI......................................21
2. PHÂN LOẠI CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP................................................................22
2.1. QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC ĐỂ PHÂN LOẠI CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP
................................................................................................................................................................22
2.2. PHÂN TÍCH HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP CỦA CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP
NHIỆT ĐỚI............................................................................................................................................24
3. VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN CÂY LÂU NĂM TRONG CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT
HỢP........................................................................................................................................................26
3.1. CHỨC NĂNG PHÒNG HỘ CỦA CÂY LÂU NĂM .....................................................................26
3.2. CHỨC NĂNG SẢN XUẤT CỦA CÂY LÂU NĂM......................................................................31
4. RỪNG TRONG CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP ...........................................................32
4.1. VAI TRÒ BẢO VỆ SINH THÁI CỦA RỪNG ..............................................................................32
4.2. VAI TRÒ KINH TẾ, VĂN HÓA VÀ XÃ HỘI CỦA RỪNG ........................................................34
Chương III:MÔ TẢ VÀ PHÂN TÍCH CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP.............................36
1. CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG ......................................................36
1.1. KHÁI NIỆM....................................................................................................................................36
1.2. CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG (BẢN ĐỊA):..............................37
2. CÁC HỆ THỐNG NÔNG LÂM KẾT HỢP CẢI TIẾN ....................................................................50
2.1. HỆ THỐNG CANH TÁC XEN THEO BĂNG (ALLEY CROPPING SYSTEM):.......................50
2.2. CÁC KỸ THUẬT CẢI TIẾN KHÁC CỦA HỆ THỐNG TRỒNG XEN THEO BĂNG...............55
2.3. TRỒNG CÂY RANH GIỚI/HÀNG RÀO CÂY XANH:...............................................................58
2.4. HỆ THỐNG ĐAI PHÒNG HỘ CHẮN GIÓ...................................................................................58
2.5. HỆ THỐNG TAUNGYA................................................................................................................60
2.6. CÁC HỆ THỐNG RÙNG VÀ ĐỒNG CỎ PHỐI HỢP: (SILVOPASTORAL).............................64
2.7. HỆ THỐNG LÂM NGƯ KẾT HỢP (SILVOFISHERY HOẶC AQUAFORESTRY): .....................65
Chương IV: KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP ...............................................................................67
1. GIỚI THIỆU CÁC KỸ THUẬT BẢO TỒN ĐẤT VÀ NƯỚC.........................................................67
1.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BẢO TỒN ĐẤT VÀ NƯỚC...........................................................67
1.2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CHÍNH CỦA VIỆC PHÒNG CHỐNG XÓI MÒN ĐẤT.........................68
1.3. MỘT SỐ KỸ THUẬT BẢO TỒN ĐẤT VÀ NƯỚC CÓ THỂ ÁP DỤNG TRONG TRANG TRẠI
NÔNG LÂM KẾT HỢP.........................................................................................................................72
1.4. KỸ THUẬT LÀM THƯỚC CHỮ A VÀ XÁC ĐỊNH ĐƯỜNG ĐỒNG MỨC BẰNG THƯỚC
CHỮ A ...................................................................................................................................................88
1.5. KỸ THUẬT CANH TÁC NÔNG LÂM KẾT HỢP TRÊN ĐẤT DỐC .........................................90
2. CÁC KỸ THUẬT ÁP DỤNG TRONG TRANG TRẠI NHỎ NÔNG LÂM KẾT HỢP ..................92
2.1. KHÁI NIỆM VỀ TRANG TRẠI ....................................................................................................92
2.2. QUẢN LÝ TRANG TRẠI NLKH..................................................................................................92
146
2.3. KỸ THUẬT GÂY TRỒNG CÁC LOÀI CÂY TRONG TRANG TRẠI NHỎ NÔNG LÂM KẾT
HỢP......................................................................................................................................................100
2.4. KỸ THUẬT HẠN CHẾ CẠNH TRANH CỦA HOA MÀU TRONG TRỒNG XEN THEO
BĂNG TRONG TRANG TRẠI NLKH...............................................................................................105
2.5. KỸ THUẬT CẤT TỈA MÉ NHÁNH CÂY ..................................................................................107
2.6. KỸ THUẬT CHĂN NUÔI ...........................................................................................................108
Chương V: ÁP DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP .............................111
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT NÔNG LÂM
KẾT HỢP CÓ SỰ THAM GIA ...........................................................................................................111
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP CÓ SỰ THAM
GIA.......................................................................................................................................................111
1.2. QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP CÓ SỰ
THAM GIA..........................................................................................................................................113
2. MÔ TẢ ĐIỂM, CHẨN ĐOÁN VÀ THIẾT KỀ KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP CÓ SỰ
THAM GIA..........................................................................................................................................117
2.1. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH MÔ TẢ ĐIỂM, CHẨN ĐOÁN VÀ THIẾT KẾ ...............................117
3. THỰC HIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG LÂM KẾT HỢP..122
3.1. CÁC BƯỚC PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT HỢP CÓ SỰTHAM GIA ............122
3.2. CÁC TIÊU CHÍ, CHỈ BÁO TRONG GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ KỸ THUẬT NÔNG LÂM
KẾT HỢP .............................................................................................................................................126
CHÚ GIẢI VỀ CÁC TỪ NGỮ ............................................................................................................130
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................................142

147

You might also like