Professional Documents
Culture Documents
NHÓM GIÁO VIÊN TẬP HUẤN PHỤC HỒI SINH THÁI VÀ PHÁT
TRIỂN VƯỜN RỪNG
GIÁO ÁN
HUẤN LUYỆN
Bài: Các kỹ thuật chống sói mòn trên đất dốc và mô hình canh tác vườn
rừng tương hợp năng lượng
(Dùng trong lớp tập huấn cán bộ TP Kon Tum tháng 7/2021)
GIÁO VIÊN
GIÁM ĐỐC
Phần một: Ý ĐỊNH TẬP HUẤN
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích: Nhằm giới thiệu cho cán bộ lớp tập huấn nắm được Các kỹ thuật chống
sói mòn trên đất dốc và mô hình canh tác vườn rừng tương hợp năng lượng và áp dụng
cho thực tế công tác, sản xuất của mình và địa phương.
2. Yêu cầu: Nắm được Các kỹ thuật chống sói mòn trên đất dốc và mô hình canh tác
vườn rừng tương hợp năng lượng và áp dụng cho thực tế công tác, sản xuất của mình và
địa phương.
II. NỘI DUNG
1. Đặt vấn đề.
2. Giới thiệu chung về thiết kế quy hoạch Nông nghiệp bền vững.
3. Các kỹ thuật chống sói mòn trên đất dốc.
4. Áp dụng và phát triển kỹ thuật canh tác bền vững.
5. Giới thiệu Mô hình vườn rừng tương hỗ năng lượng.
III. THỜI GIAN
1. Thời gian chuẩn bị tập huấn
- Thời gian thông qua giáo án: 07.00- 08.00 ngày tháng 7 năm 2021
- Thời gian thục luyện giáo án: ngày 14, 15 tháng 7 năm 2021
- Thời gian hoàn thành mọi công tác chuẩn bị: ngày 16 tháng 7 năm 2021
2. Thời gian thực hành tập huấn
- Tổng thời gian: 08 giờ
- Lên lớp lý thuyết: 04 phút
- Tham quan, kiểm tra: 04 phút
IV. TỔ CHỨC - PHƯƠNG PHÁP
1. Tổ chức : Lấy lớp tập huấn là đơn vị để huấn luyện
2. Phương pháp
a. Đối với giáo viên: Giới thiệu bằng phương pháp thuyết trình và giới thiệu trực tiếp
trên thực địa.
b. Đối với cán bộ tập huấn: Theo dõi ghi chép nội dung, tham quan thực địa.
V. ĐỊA ĐIỂM
- Lý thuyết tại hội trường xã Đak Rơ Va, tham quan tại vườn ở Đak Rơ Va.
VI. BẢO ĐẢM
1. Tài liệu: Giáo án, Bài Giảng.
2. Vật chất: Bút, vở ghi chép.
Phần hai: THỰC HÀNH TẬP HUẤN
Bài: Các kỹ thuật chống sói mòn trên đất dốc và mô hình canh tác vườn rừng
tương hợp năng lượng
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. NHỮNG VẤN ĐỀ MANG TÍNH CHẤT TOÀN CẦU
Trái đất là một không gian hữu hạn với nguồn tài nguyên hữu hạn và do các hoạt
động của con người mỗi ngày có ít rừng, nước sạch hơn, đất kém màu mỡ và ít đa dạng
sinh học hơn ngày trước. Mặt khác, mỗi ngày có nhiều người hơn, nhiều xe hơn, nhiều
nhà máy hơn, sông, hồ và biển ô nhiễm hơn, nhiều rác thải hơn, nhiều khí nhà kính hơn,
v.v. so với ngày trước. Về mặt logic, kết quả tất yếu của quá trình này là cuối cùng
chúng ta sẽ đạt đến điểm mà hành tinh sẽ bị bao phủ bởi con người, rác thải và ô nhiễm,
trong khi các nguồn lực cơ bản cần thiết cho việc duy trì sự sống của con người sẽ trở
nên khan hiếm giảm số lượng dân số.
Để hiểu rõ hơn về tình huống này, chúng ta hãy tập trung vào những gì đang diễn
ra với hai trong số những tài nguyên thiết yếu nhất đối với cuộc sống của con người:
nước và đất.
1. Nước
Tài nguyên thiết yếu nhất cho cuộc sống cũng là một trong những mối đe dọa
nghiêm trọng nhất bởi nền văn minh của chúng ta. Do sự kết hợp của một số yếu tố,
nguy cơ khủng hoảng nước toàn cầu được nhiều người coi là một trong những mối đe
dọa chính đối với nhân loại trong tương lai gần.
Nước bị đe dọa bởi:
• Gia tăng dân số, liên quan đến tăng trưởng tiêu thụ nước bình quân đầu người.
• Ô nhiễm nước do nước thải sinh hoạt và công nghiệp, dòng chảy nông nghiệp,
bồi lấp các dòng sông do xói mòn đất, v.v., dẫn đến giảm lượng nước sạch có sẵn.
• Tăng cường thực hành nông nghiệp với việc tưới tiêu bừa bãi, gây ra sự cạn kiệt
của nước mặt (sông hồ) và nước ngầm (mực nước ngầm).
• Phá rừng và thực hành nông nghiệp không bền vững, nén đất bằng trâu bò và
chống thấm đất do áp lực về phát triển đô thị, dẫn đến giảm sự xâm nhập của nước vào
đất và tăng dòng chảy, làm giảm mực nước, làm khô suối và giảm dòng nước trong
sông.
• Biến đổi khí hậu, làm giảm lượng và lượng mưa đều đặn, góp phần gây ra tình
trạng khan hiếm nước ở nhiều nơi trên thế giới, đồng thời gây ra các sự kiện thời tiết
khắc nghiệt như bão và lũ lụt ở những nơi khác.
2. Đất
Đất là nền tảng cho sự sống trên cạn, bao gồm cả cuộc sống của con người. 95%
thực phẩm của chúng ta đến từ nó.
Phần đất có khả năng hỗ trợ sự sống (và do đó sản xuất thức ăn) là lớp bề mặt
(lớp đất mặt), nói chung là lớp trên cùng 5 đến 20 cm. Đây là khu vực tập trung hầu hết
các chất hữu cơ, vi sinh vật và chất dinh dưỡng.
Lớp đất mặt được hình thành qua hàng thiên niên kỷ và do đó, vì lý do thực tế,
được coi là một nguồn tài nguyên không tái tạo. Bây giờ vấn đề là lớp đất mặt đang bị
mất với tốc độ nhanh trên toàn thế giới, do nạn phá rừng tiến bộ và thực hành nông
nghiệp không bền vững, như đã thảo luận. Hiện tại, khoảng 80% đất nông nghiệp trên
toàn thế giới đã bị suy thoái ở mức độ vừa phải, và các nhà khoa học ước tính rằng
trong vòng 60 năm tới, nhân loại có thể cạn kiệt đất màu mỡ. Điều đó có nghĩa là khả
năng sẽ giảm đáng kể. để sản xuất thực phẩm, kết hợp với tăng trưởng dân số (theo dự
đoán của Liên Hợp Quốc, chúng ta sẽ đạt dân số 11 tỷ người trong thế kỷ này), sẽ có
nghĩa là một cuộc khủng hoảng cung cấp thực phẩm không thể đảo ngược (nói cách
khác là nạn đói), ở quy mô toàn cầu.
Mặc dù phân bón hóa học cho phép sản xuất lương thực trong đất bị thoái hóa,
nhưng điều đó sẽ không giải quyết được vấn đề, bởi vì chúng cũng là tài nguyên hữu
hạn, không thể tái tạo đang được khai thác và tiêu thụ với tốc độ ngày càng tăng của
nông nghiệp công nghiệp, do đó, một ngày nào đó chúng sẽ xâm nhập một cách nguy
hiểm thiết bị đầu cuối suy giảm. Trong số đó, đáng chú ý nhất là phốt pho và nitơ.
Phốt pho là một yếu tố thiết yếu cho sự sống, cần thiết cho quá trình chuyển hóa
năng lượng tế bào, hình thành màng, sản xuất DNA và một số phân tử quan trọng khác
trong tất cả các sinh vật được biết đến. Nó cũng là một chất dinh dưỡng đa lượng đất
(cần thiết ở nồng độ tương đối cao cho sự phát triển của cây). Tuy nhiên, nó có sẵn với
số lượng hạn chế trên Trái đất. Nguồn phốt pho nông nghiệp quan trọng nhất là đá phốt
pho, vốn chỉ có rất nhiều ở một số quốc gia, nổi bật nhất là Morocco, nơi chứa 70% trữ
lượng toàn cầu của chất dinh dưỡng này. Người ta ước tính rằng trữ lượng đá phốt phát
có thể tiếp cận về mặt kinh tế sẽ đi vào suy giảm giai đoạn cuối và cạn kiệt tuyệt đối
trên toàn cầu trong vài thập kỷ qua, cái gọi là phốt pho đỉnh.
Nitơ, một chất dinh dưỡng đa lượng đất khác, cũng đặt ra một thách thức lớn.
Nitơ ở dạng phân urê là loại phân hóa học được sử dụng nhiều nhất trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, sản xuất urê đòi hỏi khí tự nhiên (nhiên liệu hóa thạch), một nguồn tài
nguyên cũng đang cạn kiệt, như sẽ được thảo luận thêm.
Sự phá hủy độ phì nhiêu của đất tự nhiên và sự cạn kiệt của trữ lượng phân
khoáng và hóa chất và sự suy giảm năng lực sản xuất lương thực, liên quan đến dân số
quá mức, sẽ tạo ra một áp lực lớn đối với việc chuyển đổi đất mới sang sử dụng nông
nghiệp, nói cách khác là phá rừng nhiều hơn , vì mọi người sẽ thấy đây là cách duy nhất
để sản xuất thực phẩm và thoát khỏi nạn đói trong thời gian ngắn. Trong một kịch bản
như vậy, các khu rừng còn lại của hành tinh này đã giành chiến thắng trước bất kỳ cơ
hội nào, nó sẽ là sự kết thúc của đa dạng sinh học trên cạn. Bây giờ, hãy thử đoán xem
điều gì sẽ xảy ra khi những mảnh đất cuối cùng bị mất?
3. Sự nóng lên toàn cầu / biến đổi khí hậu
Sự nóng lên toàn cầu là sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu đang diễn ra chủ
yếu do các hoạt động của con người liên quan đến sự phát thải của cái gọi là khí nhà
kính, trong đó quan trọng nhất là carbon dioxide (CO2), metan (CH4) và nitơ oxit
(N2O).
Phát thải khí nhà kính do con người gây ra (chủ yếu là do con người) có nguồn
gốc chủ yếu từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch (than, dầu mỏ và khí tự nhiên) để sản xuất
điện, sưởi ấm, xử lý công nghiệp và vận chuyển (nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là xăng
và dầu diesel, chiếm 95% năng lượng được sử dụng trong vận tải trên toàn cầu) và sử
dụng đất, bao gồm nông nghiệp, chăn nuôi, phá rừng, đốt có chủ ý và suy thoái đất.
Các loại khí như vậy được tạo ra bởi các hoạt động của con người đã được tích
lũy trong khí quyển kể từ Cách mạng Công nghiệp, và ngày càng nhiều hơn trong Thời
đại Dầu mỏ của chúng ta, do đó nồng độ hiện tại của chúng cao hơn nhiều so với mức
tự nhiên.
Các khí nhà kính hấp thụ bức xạ gián tiếp từ Mặt trời do Trái đất phản xạ và cung
cấp năng lượng đó dưới dạng nhiệt, gây ra sự gia tăng trong khí quyển và do đó cũng là
nhiệt độ trên đất liền và đại dương. Cho đến gần đây, hậu quả của hiệu ứng nhà kính
không được chú ý rõ ràng, nhưng ngày nay rõ ràng ở khắp mọi nơi trên thế giới rằng khí
hậu đang thực sự thay đổi: tất cả các khu vực đang ấm lên và ở nhiều nơi đã giảm đáng
kể lượng mưa hàng năm . Các khu vực từng ẩm ướt bây giờ khô và các khu vực khô
trước đây đã trở thành sa mạc thực sự, v.v.
Kể từ năm 1900, nhiệt độ bề mặt trung bình của Trái đất đã tăng khoảng 1°C và
Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) dự đoán trong báo cáo năm 2013 về
khả năng tăng lên tới 4,8° C trước cuối thế kỷ 21. Công ước khung của Liên hợp quốc
về biến đổi khí hậu (UNFCCC) đã kết luận rằng để tránh hậu quả thảm khốc, sự nóng
lên toàn cầu phải được giới hạn ở 1,5 hoặc 2°C so với nhiệt độ tiền công nghiệp và để
đạt được mục tiêu đó cần phải có giảm đáng kể và ngay lập tức phát thải khí nhà kính
toàn cầu. Mặc dù 195 đảng quốc gia đã ký thỏa thuận để đạt được mục tiêu đó, khí thải
toàn cầu vẫn tiếp tục tăng sau khi các nhà khoa học dự đoán một loạt các tác động tiêu
cực từ sự nóng lên toàn cầu trong tương lai, bao gồm cả mực nước biển tăng (do sự giãn
nở nhiệt và băng tan và băng băng cực ), thay đổi mô hình mưa, mở rộng sa mạc, tăng
cường độ và tần suất của các sự kiện thời tiết khắc nghiệt như sóng nhiệt, hạn hán, bão,
lũ lụt, bão, v.v. và cũng tăng cường axit hóa đại dương (dẫn đến tử vong do san hô) và
sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật và thực vật khỏi mất môi trường sống.
Sự nóng lên toàn cầu sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nhân loại: mực nước
biển dâng cao sẽ buộc hàng trăm triệu người sống ở vùng ven biển rời khỏi nhà của họ,
vì nhiều thành phố sẽ bị nhấn chìm. Nhiệt độ tăng có thể làm cho hầu hết các vùng nhiệt
đới không thể ở được. Hơn nữa, vì những thay đổi trong mô hình mưa và sự mở rộng sa
mạc, các khu vực rộng lớn trên toàn cầu sẽ phải đối mặt với khủng hoảng nước và lương
thực nghiêm trọng, gây ra nạn đói lan rộng. Áp lực như vậy sẽ tạo ra một cuộc khủng
hoảng di cư toàn cầu chưa từng có. Tất cả những yếu tố đó sẽ gây căng thẳng lớn cho
các mối quan hệ quốc tế, dẫn đến việc củng cố biên giới để ngăn chặn dòng chảy của
những người đói khát và khát nước, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nhân đạo.
QUY LUẬT TỰ NHIÊN
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ THỂ 1. ĐaCỦA
dạngCANH
sinh thái.
TÁC NÔNG NGHIỆP MIỀN NÚI
2. Vận hành theo các chu
1. Sự gia tăng áp lực dân số gây ra các vấn đề bức xúc về đất canh tác và an
trình:
toàn lương thực, và sức ép lên tài nguyên thiên nhiên miền núi
+ Quang hợp.
+ Tuần hoàn nước.
+ Chu trình các bon.
+ Chu trình ni tơ
Ở các khu vực nông thôn miền núi, mật độ dân cư không cao như các khu vực đô
thị ở vùng đồng bằng nhưng lại có tốc độ tăng dân số rất nhanh. Theo Đỗ Đình Sâm
(1995), tốc độ tăng dân số ở miền núi Việt Nam biến động trong khoảng 2,5 - 3,5%
trong khi tốc độ bình quân của cả nước ở dưới mức này nhiều. Tình trạng này một phần
chủ yếu do phong trào di dân tự do từ các khu vực đồng bằng quá đông đúc lên các
vùng đồi núi, đặc biệt là các tỉnh khu vực Tây Nguyên (Đán Lan, Gia Lai, Kon Tum).
Dân số tăng trong điều kiện khan hiếm đất có tiềm năng nông nghiệp ở miền núi đã dẫn
đến bình quân đất canh tác đầu người giảm. Tuy miền núi Việt Nam được xem là khu
vực dân cư thưa thớt với mật độ bình quân 75 người/km2 nhưng bình quân diện tích đất
canh tác đầu người rất thấp (vào khoảng 1200 - 1500 m2/người) (FAO và IIRR, 1995),
trong khi đó mức đất canh tác để đáp ứng nhu cầu lương thực tối thiểu là
2000m2/người. Ở khu vực miền núi của 11 tỉnh phía Nam, diện tích canh tác bình quân
đầu người ở dưới 1000m2/người, còn thấp hơn cả ở miền núi ở các tỉnh phía bắc miền
Trung như Nghệ An và Thanh Hóa (Jamieson và cộng sự, 1998). Trong lúc đó khả năng
tăng diện tích lúa nước - là hệ thống sản xuất ngũ cốc có năng suất cao và ổn định nhất
Việt Nam - ở khu vực miền núi rất hạn chế, chỉ diễn ra ở các khu vực phân tán nhỏ hẹp
có thể tưới tiêu được Vì vậy có thể nói rằng mật độ dân số đang tiến gần đến hoặc thậm
chí đã vượt quá khả năng chịu đựng của đất đai ở phần lớn khu vực miền núi (Jamieson
và cộng sự, 1998).
Sự gia tăng dân số đã tạo ra áp lực lớn lên tài nguyên thiên nhiên miền núi là
rừng, đất và nguồn nước, làm các nguồn tài nguyên quí giá này suy giảm nhanh chóng.
2. Sự suy thoái về tài nguyên thiên nhiên và môi trường Văn hóa và xã hội
Sự suy giảm nhanh chóng tài nguyên rừng: Độ che phủ rừng cả nước giảm từ từ
40,7% vào 1940 xuống chỉ còn 27,7% vào 1993 (Đỗ Đình Sâm, 1994). Cách đây 50
năm, rừng tự nhiên bao phủ phần lớn khu vực đồi núi nhưng trong những năm gần đây
đã giảm xuống dưới 20% ở phần lớn khu vực đồi núi phía Bắc, thậm chí có nơi giảm
còn 10% như ở khu vực miền núi vùng Tây Bắc. Các diện tích rừng còn lại phần lớn là
rừng nghèo kiệt, trữ lượng gỗ thấp và hiếm có loài cây có giá trị kinh tế.
Sự suy thoái của đất đai là điều dễ thấy ở khắp miền núi Việt Nam. Do thiếu rừng
che phủ, xói mòn đất và rửa trôi chất dinh dưỡng diễn ra mạnh làm giảm độ màu mỡ
của đất. Canh tác nương rẫy vốn là phương thức canh tác truyền thống của các dân tộc
miền núi, tỏ ra khá phù hợp trong điều kiện mật độ dân cư thấp và tài nguyên rừng còn
phong phú trong những thập kỷ gần đây, do áp lực dân số và sự suy giảm diện tích rừng,
giai đoạn canh tác kéo dài hơn và giai đoạn bỏ hóa bị rút ngắn lại, dẫn đến sự suy giảm
liên tục của độ phì đất và cỏ dại phát triển mạnh. Kết quả dẫn đến giảm năng suất cây
trồng một cách nhanh chóng.
Sự suy giảm về đa dạng sinh học. Nhiều loài động thực vật đã bị biến mất hoặc
trở nên khan hiếm. Nạn phá rừng, việc phát triển trồng rừng thuần loài và nông nghiệp
độc canh đã làm suy giảm đa dạng sinh học, trong đó chủ yếu bao gồm đa dạng di
truyền, đa dạng chủng loài và đa dạng về hệ sinh thái.
3. Tình trạng đói nghèo
Vào năm 1994, khi GDP bình quân của cả nước là 270 USD thì ở miền núi phía
Bắc chỉ là 150 USD và ở Tây Nguyên là 70 USD. Rất nhiều nơi ở miền núi có thu nhập
tiền mặt bình quân đầu người dưới 50 Usd/năm. Hộ nghèo đói chiếm 34% ở miền núi
phía Bắc và hơn 60% ở Tây Nguyên, với thu nhập bình quân đầu người dưới
50.000đ/tháng, rất thấp so với tỉ lệ hộ nghèo đói bình quân là 27% của cả nước. Hơn
56% hộ gia đình ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên ở tình trạng suy dinh dưỡng
nghiêm trọng, có tiêu thụ năng lượng dưới l,500kcals/người/ngày trong lúc phải cần
2200-2500kcals/người/ngày (Jamieson và cộng sự, 1995). Tình trạng đói nghèo không
chỉ thể hiện ở thu nhập thấp mà còn ở không đảm bảo các nhu cầu cơ bản khác như giáo
dục, y tế, thông tin văn hóa xã hội, v.v.
Sự phát triển theo các mô hình canh tác rập khuôn, áp đặt và phụ thuộc vào bên
ngoài.
Trái ngược với điều kiện đa dạng về sinh thái - nhân văn và sự phong phú về kiến
thức canh tác truyền thống ở miền núi, các chương trình phát triển miền núi của chính
phủ thường thực hiện theo các "mô hình" quản lý kỹ thuật đồng bộ, hình thành theo
cách nghĩ của người vùng đồng bằng. Các nhà nông nghiệp và lâm nghiệp được đào tạo
chính thống thường có định kiến về sự lạc hậu của các phương thức sản xuất truyền
thống, hay nghĩ đến việc tăng cường thực hiện pháp luật nhà nước và áp đặt các mô
hình kỹ thuật sản xuất từ bên ngoài hơn là hình thành các và phát triển các hệ thống
quản lý kỹ thuật thích ứng, phối hợp giữa kiến thức bản địa và kỹ thuật mới phù hợp với
các điều kiện cụ thể của nông dân và thúc đẩy phát huy tính tự chủ của họ trong quản lý
tài nguyên (Hoàng Hữu Cải, 1999). Chính điều này đã làm giảm hiệu quả và tác dụng
của nhiều các chương trình phát triển miền núi mặc dù có đầu tư rất lớn.
4. Xu hướng giao thoa giữa lâm nghiệp, nông nghiệp và các ngành khác
trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế.
Khái niệm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp một cách thuần túy và tách biệt theo
quan niệm trước đây đã trở nên không còn phù hợp ở nhiều khu vực dân cư ở miền núi.
Phát triển sử dụng đất thuần nông hoặc thuần lâm đã bộc lộ nhiều hạn chế lớn, chẳng
hạn canh tác thuần nông trên đất dốc cho năng suất thấp và không ổn định trong khi
phát triển thuần lâm lại có khó khăn về nhu cầu lương thực trước mắt. Thực tiễn sản
xuất đã xuất hiện các phương thức sử dụng đất tổng hợp, có sự đan xen giữa nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
III. THỰC TIỄN
1. Độc canh cây công nghiệp và vòng luẫn quẩn nuôi con gì, trồng cây gì.
2. Diện tích trồng sắn mở rộng quá mức và hệ quả của nó.
3. Đất đai ngày cành bị sói mòn, thoái hóa, không thể trồng các loại cây có
giá trị kinh tế, đất đai rất rộng nhưng lương thực ăn hàng ngày cơ bản là nhập từ
tỉnh khác.
IV. GIẢI PHÁP NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
- Quy hoạch bền vững dựa vào các điều kiện cụ thể của tự nhiên – xã hội, tôn
trọng các quy luật, quy trình của Tự Nhiên và dựa vào các điều kiện đó để tạo thành thế
mạnh thay đổi nền nông nghiệp không bền vững, sang bền vững. Đạt đủ 3 tiêu chí: Sinh
Kế, Sinh Thái, Và Sức khỏe con người.
B. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THIẾT KẾ QUY HOẠCH
NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG.
Có hai bước cơ bản phải tiến hành trong một nền nông nghiệp bền vững hoàn
chỉnh. Bước thứ nhất liên quan đến các quy luật và nguyên tắc phải áp dụng ở bất cứ
chế độ khí hậu và chế độ canh tác nào; bước thứ hai gắn với các biện pháp kỹ thuật phải
thay đổi theo các chế độ khí hậu và điều kiện canh tác khác nhau.
Những nguyên tắc thảo luận ở đây nằm trong thiết kế của hệ thống nông nghiệp
bền vững (NNBV), ở bất cứ chế độ khí hậu nào với bất cứ quy mô nào, những nguyên
tắc chọn từ các bộ môn: sinh thái học, bảo vệ năng lượng, thiết kế cảnh quan, khoa học
môi trường, được tóm tắt như sau:
Định vị tương đối: mỗi yếu tố (như các công trình kiến trúc, nhà ở, ao, hồ, đường đi
v.v.) được xếp đặt trong mối quan hệ hỗ trộ cho nhau.
Mỗi yếu tố thực hiện nhiều chức năng.
Mỗi chức năng quan trọng được nhiều yếu tố hỗ trợ.
Xây dựng kế hoạch năng lượng có hiệu suất cho nhà ở, vùng, khu vực.
Ưu tiên sử dụng tài nguyên sinh học.
Tái chu kỳ năng lượng tại chỗ.
Sử dụng và tăng vụ cây tự nhiên để làm cho đất tốt và xanh tươi.
Đa canh và đa dạng hóa các loài cây cối để tăng sản lượng và tăng mức độ tương tác
trong hệ thống.
Tìm cách sử dụng bờ rìa và mô hình tự nhiên có lợi nhất.
I. ĐỊNH VỊ TƯƠNG ĐỐI
Xác định liên hệ giữa các vật thể là vấn đề cốt lõi trong thiết kế một hệ thống nông
nghiệp bền vững. Đây không phải đơn thuần là việc một dòng nước, một con gà, một
cái cây, mà là vấn đề: dòng nước, con gà đó và cái cây đó liên kết với nhau như thế nào
trong hệ thống. Cách đặt vấn đề trái với những điều người ta thường dạy chúng ta ở nhà
trường. Học đường tách riêng từng thứ cây không hề đả động đến liên kết giữa các vật
thể. Nông nghiệp bền vững sẽ tạo ra sự liên hệ, vì khi cái cây và con gà đã liên hệ với
nhau thì cây có thể nuôi sống được con gà. Để một hợp phần lập ra có thể vận hành có
hiệu quả, hợp phần đó phải được đặt vào đúng vị trí.
Thí dụ: Phải bảo vệ vùng rừng phía trên để tạo nguồn nước cho hệ thống, đập và hồ
giữ nước phải đặt ở vị trí cao hơn nhà ở và vườn thì mới có thể tạo ra một luồng nước
sử dụng trọng lực dẫn được nước mà không phải dùng bơm. Hàng cây chắn gió cho nhà
ở phải thiết kế để làm chệch hướng gió nhưng không che mất ánh mặt trời sưởi ấm
trong mùa đông, vườn ở khoảng gần giữa nhà và chuồng gà, cỏ rác trong vườn thu lại
rải dưới chuồng gà, phân gà rải bón cho cây trong vườn. Ta thiết lập mối liên hệ của
từng yếu tố, sao cho những yêu cầu một yếu tố có thể thoả mãn bằng sản lượng của một
yếu tố khác (Kinh tế tuần hoàn). Để làm việc đó, phải nghiên cứu đặc trưng cơ bản, nhu
cầu, sản phẩm của từng yếu tố.
Những yếu tố trong một vùng canh tác nhỏ điển hình gồm có: Khu nhà ở, nhà rẫy,
đường đi lại, các khu vườn, chuồng trại, bể chứa nước, các hố ủ phân,vườn ươm cây,
rừng tự nhiên, đập nước, sông suối, ao nuôi trồng thủy sản, đai cây chắn gió, đồng cỏ,
hàng rào …. Các hợp phân kể trên cần phải sắp xếp để mọi yếu tố vận hành có lợi nhất.
Đối với mỗi yếu tố, cần phân tích để xây dựng chiến lược nhằm mục đích:
"Sản phẩm của một yếu tố đặc biệt có thể sử dụng cho nhu câu của các yếu tố khác như
thế nào?”
"Các yếu tố khác đã cung cấp cho nhu câu của yếu tố này những gì?"
"Một yếu tố có thể không phù hợp vói các yếu tố khác ở những mặt nào?"
"Một yếu tố có thể có lợi cho nhũng yếu tố khác ỏ những mặt nào?"
Áp dụng: Xã ta đang thiếu hợp phần nào, những hợp phần đó đặt đúng vị trí chưa,
Vườn mì độc canh đang trồng tận trên đỉnh núi có hợp lý không, Các con đường dân
sinh đã có hệ thống chống sói mòn bảo vệ chưa, Hệ thống cây xanh để chắn gió, điều
hòa khí hậu, đã chủ động sản xuất phân bón hửu cơ cung cấp cho vùng từ những
nguyên liệu có sẳn của địa phương hay chưa.
II. MỖI YẾU TỐ ĐẢM BẢO NHIỀU CHỨC NĂNG
Mỗi yếu tố trong hệ thống phải được chọn lọc và đặt vào vị trí để có thể bảo đảm
được nhiều chức năng nhất. Hồ ao, sông suối có thể dùng để tưới nước, cung cấp nước
uống cho gia súc, dự trữ nước cứu hoả, cũng có thể là nơi nuôi trồng thủy sản, Mặt đập
nước có thể dùng làm đường đi, trồng cây chắn lửa, trồng tre.
Các cây cỏ ích khác có thể được chọn, trồng vào những vị trí thích hợp để được sử
dụng vào một hoặc nhiều mục đích khác nhau: chắn gió, chống cháy, giàn cây, làm rác
tủ cây, thực phẩm, lương thực, thức ăn gia súc, nhiên liệu, chống xói mòn, làm nơi trú
ngụ cho vật nuôi, điều hòa khí hậu ….
Áp dụng: Xã ta đang có những yếu tố nào có sẳn, nhưng chưa tận dụng hết các chức
năng (Ao hồ, ruộng bậc thang, vườn ươm, đập thủy lợi, Sông suối, Hệ thống cây
xanh…)
III. MỖI CHỨC NĂNG QUAN TRỌNG ĐƯỢC NHIỀU YẾU TỐ HỖ TRỢ
Những nhu cầu cơ bản quan trọng là nước, thức ăn, năng lượng, phòng hoả cần
được giải quyết bằng nhiêu cách. Thí dụ: xây dựng kế hoạch chu đáo phải có đồng cỏ
hàng năm, đồng cỏ lưu niên, cây thân gổ cho gia súc hoặc cây là thức ăn (Dự trữ, cho
gia súc ăn lá, quả và cành thấp trong thời kỳ khan hiếm.
Áp dụng: Xã ta đã tận dụng các diện tích trồng cỏ cho gia súc ăn vào mùa khô
chưa, đã áp dụng các kỹ thuật trống sói mòn, bẫy nước và canh tác nhiều tầng để
hạn chế hạn hán vào mùa khô hay chưa…)
IV. KẾ HOẠCH SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG CÓ HIỆU QUẢ CAO
Chìa khoá của kế hoạch sử dụng năng lượng có hiệu quả cao (thực chất là một kế
hoạch tiết kiệm năng lượng hữu hiệu) là các vùng và các khu đặt các cây con, hàng lối,
và cấu trúc của hệ thống. Những yếu tố duy nhất làm thay đổi vị trí đặt cây con là các
nhân tổ thị trường ở địa phương, điều kiện thông thường, độ dốc, điều kiện khí hậu địa
phương, những địa bàn đặc biệt trong vùng (đồng bằng ngập lụt, suờn đồi đá gập
ghềnh), những điều kiện thổ nhưởng đặc biệt (như đồi đá, đầm lầy). Dưới đây là bàn
thiết kế mẫu cho một địa bàn "lý tưởng", đát dốc thoải. Tuy vậy, trên địa hình "thực tế"
không dể dàng như vậy, công việc xây dựng kế hoạch còn phức tạp khó khăn rất nhiều.
Quy hoạch vùng theo cường độ sử dụng từ gần đến xa khu dân cư
Vùng 0 là trung tâm hoạt động (nhà ở, nhà kho, hoặc thôn xóm nếu thiết kế có quy
mô rộng). Vùng này được đặt nhằm mục tiêu bảo toàn năng lượng và đáp ứng nhu cầu
dân cư.
Vùng I ở gần nhà, là vùng được kiểm tra kỹ, có giá trị sử dụng cao, có thể gồm
vườn, xưởng, những cơ sở nuôi súc vật nhỏ, chứa nhiên liệu, phân ủ, rác tủ. Gia súc lớn
không nuôi trong vùng này, có thể trồng một vài cây to bóng mát hoặc cây nhỏ thí dụ
cây chanh.
Vùng II có mật độ trồng cao (cây bụi cao, cây ăn quả loại nhỏ, vườn cây ăn quả
trồng hỗn hợp, cây chắn gió, cấu trúc có thể gồm: thềm, hàng rào, giàn cây, ao. Cây
trồng nhiều tầng, có một số cây cao to, dưới có tầng cây nhỡ, và thảm cỏ. Cây và con
cần được chăm sóc và khảo sát để được nuôi trồng ỏ khu vực này; có máng nước tưới
đều khắp, có diện tích được chọn riêng nuôi gà (vườn cây ăn quả, và cây thân gổ) để gà
có thể kiếm ăn tự do; diện tích dành cho bò có rào ngăn với vùng bên cạnh.
Vùng III gồm vườn cây ăn quả không tỉa cành và cũng không tủ rác, đồng cỏ rộng,
nuôi gia súc thả đàn. Có diện tích nước cho gia súc uống. Gia súc nuôi là trâu, bò, dê….
Các loại cây gồm cây chắn gió, rừng thấp, rừng cây thân gỗ, và cây lớn (như giẻ và sồi)
lấy lá cho gia súc ăn, vùng này phù hợp với mô hình vườn rừng tương hỗ năng lượng,
làm du lịch trải nghiệm nông nghiệp.
Vùng IV bán hoang dại để trồng cây không tỉa cành, quản lý, sản phẩm quản lý có
thu hoạch là dược liệu trồng dưới tán, mật ong rừng, du lịch sinh thái.
Vùng V là khu vực không quản lý, để phát triển tự nhiên. Công tác thiết kê ngừng
lại ỏ Vùng V. Ở vùng V là nơi khoanh nuôi bảo vệ rừng tự nhiên, là nơi ổn định sinh
thái cho cả vùng, hạn chế đi lại, bảo tồn các giống cây quý. (Đối với địa hình Kon Tum
thường vùng này là các nơi núi cao, địa hình hiểm trở).
Áp dụng: Xã ta đã quy hoạch các vùng một cách hợp lý hay chưa, khu gần nhà đã
tận dụng trồng cây rau, chăn nuôi gia súc nhỏ, nguồn thức ăn dự trữ cho động vật
vào mùa khô chưa, Khu ở xa đã tận dụng và phát triển vườn rừng, dược liệu dưới
tán, khoanh nuôi bảo vệ rừng hay vẫn đang canh tác cây ngắn ngày, giá trị kinh tế
thấp, vận chuyển vất vả và tốn kém
V. SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN SINH HỌC
Chúng có thể thực hiện được hệ thống nông nghiệp bền vững sử dụng tài nguyên
sinh học để tiết kiệm năng lượng và làm mọi công việc trong trang trại, tái chu kỳ chất
dinh đưồng cải thiện môi trường sống, làm đất tơi xốp, chống hoả hoạn, chống xói mòn
v.v...
Xây dựng tài nguyên sinh học trên một địa bàn là một công việc đầu tư lâu dài, cân
được suy tính, và quản lý qua các bước của kế hoạch, coi việc tái chu kỳ năng lượng và
phát triển năng lượng là chiến lược then chốt phát triển một hệ thống bền vững. Thay
cho phân đạm ta dùng phân xanh và các cây họ đậu, thay cho máy cắt cỏ, thuốc diệt cỏ
ta dùng ngỗng vặt cỏ và trồng các giống cỏ ngắn cây, thay cho thuốc trừ sâu ta dùng các
phương pháp kiểm tra sâu bệnh bằng sinh học, và các giống vật như gà, lợn ăn cỏ có thể
thay cho máy cắt cỏ và như vậy là khống phải dùng thuốc trù cỏ và phân hóa học.
Vậy, việc áp dụng thận trọng hợp lý những tài nguyên phi sinh vật (máy móc vận
hành bằng nhiên liệu hóa thạch, phân hóa học, và các trang thiết bị kỹ thuật), trong bước
đầu của nông nghiệp bền vững là việc có thể chấp nhận được, nếu những yếu tố này
được dùng để tạo ra những hệ thống sinh học bền vững và một hạ tầng cơ sở vững
mạnh.
Ví dụ: Đun nước bằng năng lượng mặt tròi, các loại ống bằng chất dẻo chế tạo từ
các nguồn tài nguyên không tái sinh được, đều có thể dùng để sản xuất ra năng lượng tại
chỗ cho chúng ta. Ta có thể thuê máy ủi đất để làm đường, đắp đập, ủi vũng, đào
mương chuyển hướng thoát nước, máy kéo phá những tảng đất cứng không có giá trị
sản xuất, dùng bừa đĩa đào đất khô để có đất phù sa gieo hạt, dùng xe vận chuyển phân
và rác mùn ở các khu lân cận để triển khai hệ thống mới của ta.
Phân hóa học bón cho đất nghèo kiệt có thể sản xuất cây phân xanh để tạo ra độ phì
sinh học. Vấn đề đặt ra là lượng phân hàng năm sản xuất ra bị hạn chế hoặc do thói
quen phụ thuộc vào máy móc nên chúng ta không sử dụng được nhũng tài nguyên đó
một cách khôn ngoan để xây dựng những hệ thống sinh học trên mảnh đất của ta hoặc
cùa cộng đồng.
Bằng mọi cách: thận trọng sử dụng những nguồn tài nguyên sẵn có, và sử dụng xác
đáng nhất, đồng thời phát triển giải pháp mới càng sớm càng tốt.
Áp dụng: Xã ta đã có giải pháp gì cho vấn đề này, người dân đã biết tận dụng các cây
họ đậu cải tảo đất, Nuôi cấy vi sinh để cung cấp dinh dưỡng, làm các thuốc trừ sâu
sinh học, làm phân bón vĩnh cửu từ các ao hồ trồng bèo, nuôi ốc….Hay dùng quá
nhiều phân hóa học và các loại thuốc hóa học dẫn đến tình trạng thoái hóa đất, ô
nhiểm môi trường, năng xuất cây trồng giảm và chỉ trồng được các loại cây giá trị
thấp.
VI. CHU KỲ NĂNG LƯỢNG
Trong hệ thống cung cấp lương thực hiện đại, nhu cầu dinh dưỡng đầy đủ và nhiều
thức ăn hàng ngày được một mạng lưới thị trường, kho tàng vận chuyển bảo đảm trên
khắp toàn cầu. Mạng lưới thực phẩm toàn cầu này tất nhiên tiêu tốn rất nhiều năng
lượng so với các nền sản xuất nông nghiệp đa dạng ở các địa phương, và mạng lưới này
chi có thể hoạt động nhờ vào sự trợ cấp nhiên liệu. Tuy vậy, giá phải trả cho mạng lưới
thực phẩm không thể nào kiềm chế được, và đã tác động trở lại đổi với các trang trại.
Những biện pháp "hữu hiệu" đã phải áp đặt lâu dài đối với người sản xuất, gây hại cho
đất đai và giảm chất lượng nông sản. Thuốc trừ sâu, phân hóa học dùng liều lượng cao,
những phương pháp canh tác và kỹ thuật làm đất thiển cận đã trở thành một giải pháp
thông thường, vô vọng, hạ giá thành, tăng năng suất bảo đảm cho nền kinh tế ổn định.
Áp dụng: Việc cân đối giữa các sản phẩm tự cung tự cấp, bán tại địa phương (Chi
phí vận chuyển trên giá trị hàng hóa cao), sản phẩm đặc sản giá trị cao (chi phí vận
chuyển trên giá trị hàng hóa thấp) bán ở địa phương đồng chí thế nào.
Một cộng đồng được hổ trợ bởi một nền nông nghiệp bền vững đa dạng không bị
ảnh hưởng của sự phân phối của thị trường, bảo đảm nhiều loại thức ăn phong phú, đáp
ứng yêu cầu dinh dưỡng, mà không hy sinh chất lượng và hủy diệt đất canh tác. Tiết
kiệm năng lượng lớn nhất là ở chỗ xoá bỏ cước phí vận tải tốn kém, đóng gói, và tiếp
cận thị trường.
Các hệ thống nông nghiệp bền vững không để cho nguồn chất dinh dưỡng và nguồn
năng lượng thất thoát, mà chuyển chúng thành chu trình tại chỗ. Ví dụ: phế liệu trong
bếp chuyển thành phân ủ; phân gia súc dùng để sản xuất sinh khí hoặc bón cây; nước
rác thải (sử lý bằng công nghệ thực vật, vi sinh) ra tưới cho vườn cây; phân xanh vùi
vào đất; lá rụng được cào thu lại tủ cho cây. Ở những vùng quy mô lớn, nưỏc cống rãnh
được xử lý sản xuất phân bón dùng trong vùng.
Một đồ án hợp lý sử dụng năng lượng tự nhiên đem đến cùng với năng lượng sinh ra
tại chỗ để bảo đảm một chu kỳ năng lượng hoàn toàn.
Quy luật thứ hai của nhiệt động lực học chứng minh rằng nhiệt lượng luôn luôn bị
thất thoát hoặc mất dần công dụng trong hệ thống. Tuy vậy, chính nhờ quay vòng liên
tục mà sự sống tồn tại trên trái đất. Do tác dụng tương hổ giữa cây và súc vật, năng
lượng sử dụng được tăng tại chổ. Mục đích của nông nghiệp bền vững không phải chỉ
nhằm tái chu kỳ để tăng năng lượng, mà còn nhằm tích trữ và sử dụng mọi yếu tổ trước
khi chúng giảm xuống mức năng lượng thấp nhất trở thành vô dụng và mất đi. Công
việc của chúng ta là sử dụng tối mức cao nhất nguồn năng lượng (mặt trời, nước, gió,
phân bón).
Nước được hứng, trữ từ trên đồi cao để được sử dụng qua một hệ thống phức tạp
(ao, chuôm, vũng nhỏ, ruộng bậc thang), nhằm sản xuất ra năng lượng, cho đến khi có
thể để nước chảy ra ngoài nơi chứa.
Nếu ta không quan tâm bảo vệ rừng và phát triển vườn rừng, thiết kế hệ thống nước
ở đồi cao mà chỉ lo xây dựng đập nước ở dưới thung lũng, ta sẽ bỏ lợi thế nước chảy từ
cao xuống có trọng lượng, phải cần đến năng lượng chạy máy bơm để đưa nước trở lại
trên cao. Thực tế, lượng nước mưa chưa phải là nhân tố quan trọng nhất, mà chính là
những mô hình ta xây dựng nên để sử dụng nước một cách thuận lợi nhất. Cần bảo vệ
rừng đầu nguồn và có nhiều điểm dự trữ hữu ích để điều khiển nước.
Áp dụng: Người đồng bào Kon Tum rất dõi trong việc lấy nước và điều khiển nguồn
nước, hiện nay do phá rừng và quy hoạch không hợp lý khiến văn hóa giọt nước
đang có nguy cơ mai một dần.
VII. HỆ THỐNG THÂM CANH QUY MÔ NHỎ
Hơn là các máy nông nghiệp lớn (như máy gặt đập, xe vận tải lớn, hệ thống nông
nghiệp bền vững thích hợp với các dụng cụ thủ công (phát cỏ, cắt cỏ, sửa cành, rìu, xe
cút kít) ỏ các xí nghiệp nhỏ; với cái máy đơn giản chạy bằng nhiên liệu (máy kéo, cát
cỏ, cào cỏ, cưa dây) ỏ các xí nghiệp lớn hơn.
Mặc dù hệ thống nông nghiệp bền vững lúc bắt đầu triển khai, là một hoạt động tổn
sức lao động, nhưng nó không phải là mô hình nông nghiệp trở lại chế độ trồng cây
hàng năm của nông dân vất vả cục nhọc suốt năm, phụ thuộc hoàn toàn vào sức người.
Nông nghiệp bền vững tập trung vào đồ án thiêt kế trang trại (hoặc vườn tược, hoặc địa
phương) có lợi nhất, sử dụng một lượng sức lao động (Các tổ chức cộng đồng, bạn bè
và láng giềng có thể cùng tham gia), từng bước xây dựng vườn cây lâu năm có sản
lượng, dùng rác lá tủ gốc để diệt cỏ, áp dụng những công nghệ có khả năng cung cấp và
tiết kiệm năng lượng sử dụng máy móc trong trường hợp thích hợp và ở mức độ vừa
phải.
Hệ thống thâm canh quy mô nhỏ yêu cầu hai điều kiện: rác lá mục được tủ trên khắp
diện tích và địa điểm thường xuyên được kiểm tra. Ở một địa điểm nhỏ thường không
có vấn đề đặt ra, nhưng trên một địa điểm lớn người ta thường mắc sai lầm mở quá rộng
diện tích vườn rau, vườn cây ăn quả, vườn cây thân gổ, và sân thả gà. Việc đó gây lãng
phí thời gian, năng lượng và nước. Nếu bạn thấy một trang trại cỏ mọc từ trước cửa nhà,
và lan ra khắp ranh giới, bạn có thể kết luận diện tích đất đã quá lớn so với thời gian bỏ
ra, sức lao động, vốn đầu tư và sự quan tâm của chủ nhân.
Áp dụng: Việc dùng quá nhiều diện tích để trồng các cây giá trị kinh tế thấp,
nhân công khó khăn nên phải lạm dụng máy mọc, xe cộ đi lại gây áp lực lên hệ
thống giao thông, thuốc diệt cỏ, phân hóa học để chỉ đủ kinh tế sống ở mức thấp.
Thay vào đó liệu có giải pháp canh tác ít đất hơn phù hợp với nhân công có sẳn, còn
vùng còn lại khoanh nuôi giữ rừng, phát triển du lịch địa phương.
VIII. GIA TỐC DIỄN THẾ VÀ TIẾN HÓA
Các hệ thống sinh thái tự nhiên phát triển và biến diễn qua một thời gian tạo nên
một chuỗi kế tiếp các loài thực vật và đống vật khác nhau. Ví dụ: một đồng cỏ không
chăn thả sẽ lân lượt bị những thảm cỏ và cây dại mọc chiếm đất. Cuối cùng những loài
cây cao đỉnh, thích hộp điều kiện đất đai khi hậu, chiếm ưu thế. Mỗi giai đoạn tạo ra
điều kiện tối ưu cho giai đoạn nổi tiếp.
Loài cây tiên phong chiếm đất phải cố định đạm làm cho đất tơi xốp, ổn định đất có
độ đổc cao, hút độ ẩm dư thừa, là nơi trú ngụ cho động vật. Cây tiên phong cải thiện và
tạo ra môi trường thuận lợi cho những loài kế tiếp ở giai đoạn sau.
Trong nền nông nghiệp hiện nay, đổi với cây trồng được giữ ở độ cao của cỏ (rau,
cây ăn hạt, cây họ đậu, đồng cỏ chăn thả) năng lượng được sử dụng để cắt, làm cỏ, xáo
xới, kể cà để đốt. Điều đó có nghĩa là ta luôn luôn đẩy lùi hệ thống, bỏ công sức và năng
lượng để ngăn cản sự diễn thế phát triển tự nhiên.
Đáng lẽ ngăn cản quá trình đó, ta có thể hướng dẫn và tăng cường quá trình để thiết
lập những loài cây cao đinh của chúng ta trong một thời gian ngắn hơn, bằng cách :
Sử dụng cây đã mọc, thưòng là một thảm cỏ, để tạo độ phì cho đất. cỏ mềm có thể
phủ một lớp hoặc băm nhỏ tủ quanh gốc cây khác. Cây bụi lưu niên thân gổ băm nhỏ tủ
đất có thể tạo ra tầng mùn và được tủ cho cây.
Những cây có khả năng tồn tại trong điều kiện môi trường và tạo độ phì cho đất.
Tuỳ theo loại đất phải khai thác (đất bị xói mòn, đất chua mặn, đất sình lầy, đất bạc
màu, đất kiềm, đất chua, đất sét, đất cát) ta có thể trồng các loài cây họ đậu hàng năm
hay lâu năm thích nghi với địa phương (làm phân xanh, sản xuất nguyên liệu tủ, và
trồng những loài cây bụi lâu năm có khả năng tồn tại phát triển ỏ địa phương). Ta phải
đợi một thời gian mới có thể trồng những cây cao đỉnh khi điều kiện đất đai đã được cải
thiện.
Có kế hoạch nâng cao tỷ lệ chất hữu cơ trong đất bằng phương pháp tủ đất, trồng
cây phân xanh, dùng phân xanh ủ, và nhiều loại phân để thay đổi môi trường đất. Với
phương pháp này, ta có thể trồng sớm hơn hoặc, kết hợp với các biện pháp kể trên, có
thể trồng những hạt giống cây cao đỉnh ở ngoài lề khu vực nếu được chăm sóc tốt.
Dùng những loại cây truyền thống có ích (cỏ, cây tiên phong chiếm đất, các loài cây
cao đỉnh) thay thế những cây tự nhiên sẵn có khó nhưng có ích. Ví dụ: cây bầu bí bản
địa, mọc nhanh và che phủ đất và có thu hoạch ngay năm đầu.
Áp dụng: Liệu hiện nay chúng ta đang coi cỏ dại, cây bụi bản địa là kẻ thù và tìm
mọi cách tiêu diệt nó.
IX. TÍNH ĐA DẠNG
Mặc dù đối với một loại cây nào đó năng suất trong hệ thống độc canh có thể cao
hơn, nhưng năng suất tổng số của các hoa màu trong hệ thống nông nghiệp bền vững
vẫn cao hơn. Trong hệ thống độc canh, một hécta rau cho sản lượng rau trong suốt năm.
Trong hệ thống nông nghiệp bền vững rau chỉ là một phần nhỏ trong tổng sản lượng trái
cây, cây có dầu, dược liệu, gỗ, củi đun, các loại hạt, thịt động vật, gà, cá.
Về yêu cầu tự túc, một gia đình được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng (quả, rau,
protein và chất khoáng). Về mặt kinh tế có nhiều loại sản phẩm được bán ra, gia đình
nông dân tránh được những biến động của thị trường, thất bát do sâu bệnh và khí hậu,
nếu gặp năm thịt bò xuống giá, bà con nông dân sẽ giữ đàn bò lại đợi thời cơ thuận lợi
mà chỉ đem bán trái cây, hạt cốc. Nếu sương giá làm rụng quả thì cũng đã có sản phẩm
khác để ăn hoặc bán.
Mục đích của chúng ta là phân phối sản phẩm thu hoạch trong thời gian để mùa nào
cũng sẵn có sản phẩm tiêu dùng. Mục đích đó có thể đạt được bằng nhiều cách:
- Chọn một tập đoàn giống chín sớm, chính vụ, chín muộn.
- Trồng cùng một giống với kỹ thuật khác nhau để cây chín sớm, chín muộn khác
nhau.
- Chọn những giống có vụ thu hoạch kéo dài.
- Tăng cường tính đa dạng và tính kiêm dụng của các loài trong hệ thống để lá, quả,
hạt, rễ đều là sản phẩm thu hoạch.
- Sử dụng những loài cây có thể tự dự trữ sản phẩm trong thòi gian dài như các loại
củ - hạt cứng - quả - rễ thân, để thu hoạch khi cần.
- Áp dụng các kỹ thuật bào quản: phơi khô, cất giữ.
- Trao đổi buôn bán trong và giữa các cộng đồng.
Tính đa dạng thường được liên hệ với tính ổn định của nông nghiệp bền vững. Tuy
vậy tính ổn định chỉ thực hiện được giữa các loài có thể hợp tác được vói nhau, hay giữa
các loài không gây hại cho nhau. Không phải chỉ đơn giản là công việc trồng hoặc nuôi
một số cây con trong hệ thống theo ý muốn của mình; vì chúng có thể cạnh tranh nhau
về ánh sáng, nước, và chất dinh dưõng. Một số loài cây, như cây óc chó và cây bạch
đàn, qua bộ rễ tiết ra những chất hóa học ức chế sự sinh trưỏng của cây kia. Có loài cây
là nơi trú ẩn qua đông cho các loài sâu bệnh hại. Ngựa và bò cùng chăn thả trên đồng cỏ
có thể làm hỏng cánh đồng. Cây lớn che ánh sáng của các cây lương thực ăn hạt. Dê thả
vào vưòn cây ăn quả sẽ gặm vỏ cây. Như vậy, nếu muốn đưa những yêu tố đó vào trong
một hệ thống, cần chú ý trồng những loài cây cách ly hoặc tạo những cấu trúc giữa các
yếu tố gây hại.
Tầm quan trọng của tính đa dạng không nhất thiết là ở sổ lượng các yếu tố trong
một hệ thống mà chính là số lượng các liên hệ chức năng giữa các yếu tố đó. Không
phải là số lượng vật thể, mà là số lượng các phương thức và các vật thể có tác dụng lẫn
nhau.
Áp dụng: Hiện nay người nông dân nếu chỉ có mỗi đất canh tác họ sẽ thu hoạch vào
một thời điểm trong năm, và phụ thuộc quá nhiều vào vào giá cả, những tháng
không có tiền họ hay phải vay nợ để đợi đến mùa thu hoạch và hay xuất hiện hiện
tượng bán lúa non. Dẫn đến đời sống không ổn định.
X. TÁC DỤNG RÌA
Rìa là khoảng diện tích giữa hai môi trường: đó là diện tích giữa mặt nước và không
khí, là vùng đất nhỏ tiếp xúc với nước, là đường biên giữa đất và nước biển, là khoảng
đất giữa rừng và đồng cỏ, đất cây bụi mọc. Rìa là diện tích giữa vùng có sương giá và
vùng không có sương giá trên sườn đồi. Rìa là ranh giới của một bãi hoang mạc. Khi
nào ranh giới giữa các loài, khí hậu, đất, độ dốc khác nhau, hoặc các điều kiện tự nhiên
hoặc nhân tạo, tiếp giáp nhau là có rìa.
Rìa là nơi có điều kiện sinh thái biến đổi (đất/nước, rừng/đồng cỏ, cửa sông/biển,
đồng hoa màu và vườn cây ăn quả, Điểm gấp khúc thay đổi độ dốc, bờ ruộng, bờ ao, bờ
suối, nơi các mạch nước ngầm chảy ra. Tài nguyên của cả hai hệ thống đều có thể đưọc
sử dụng ngoài ra, rìa thường có những loài đặc biệt, duy nhất. Trong thiên nhiên, khu
vực sinh thái đá ngầm san hô (rìa giữa san hô và đại cương) nằm trong một số hệ thống
có khả năng cao nhất trên thế giới, cũng như rừng đước (đất/biển tiếp giáp).
Khó có những khu vực định cư truyền thống bền vững mà không có những diện tích
tiếp giáp với hai chế độ kinh tế tự nhiên. Nơi này là diện tích giữa chân đồi - và đồng
bằng; nơi kia là rìa giữa đồng bằng và đầm lầy, đất và cửa sông, hoặc những tổ hợp
tương tự. Một phong cảnh có một tổ hợp rìa phong phú vừa đẹp mắt vừa có nhiều lợi
ích, điều đó có thể coi là cửa sổ của nghệ thuật thiết kế cảnh quan và chắc chắn là: rìa
tăng thì khả năng sản xuất của phong cảnh cũng tăng.
Ta có thể hoặc tìm địa điểm xây dựng nhà ở và định cư đê có thể sử dụng được tài
nguyên của hai (hoặc nhiều hơn) hệ sinh thái; hoặc tăng cường tính phong phú đa dạng
của cơ sở. Nếu ỏ nơi xa nước, ta có thể đào ao, hoặc đắp đập giữ nước; nếu ta đã xây
dựng cơ sở ở đất bằng phẳng, ta có thể dùng máy đắp nền hoặc xây kè, nếu không có
rừng phải trồng một vườn cây thân gỗ. Ngay trong phạm vi một trang trại lớn, ta có thể
xây dựng những yếu tố nhỏ để tạo ra rìa. Ví dụ: một cái ao chỉ có thể có một chiều sâu
một hình dạng (với một nền sinh thái đơn giản); hoặc ta có thể xây dựng hồ ao với nhiều
độ sâu, nhiều hình dạng khác nhau và tạo ra những cù lao, ta có thể trồng cói (nguyên
liệu đan lát) hoa súng trắng và củ ấu, trong hồ cũng đủ loài cá ăn sâu, ăn nông, và cù lao
là nơi trú ngụ của nhiều loài gia cầm biết bơi.
Rìa có thể định nghĩa là đường hàng rào, bờ hồ, đưòng vào, khu vực giữa nhà ở và
đường xe, lối đi quanh vườn, sân cao, một diện tích được xây dựng một kiến trúc (hàng
rào, nhà ở, sân gà, lối vào, một hàng cây chắn gió, giàn cây). Trong định canh, rìa cũng
quan trọng trong việc xác định duy trì một khu vực trong một hệ thống đã thiết kế.
Chỉ có xác định cụ thể rìa chung quanh một diện tích đất ta mới có thể tiến hành
kiểm tra được. Nếu không bổ sung hàng rào quanh vườn bằng cách trồng một hàng rào
trấn áp bảo vệ bằng cây cỏ, thì các yếu tố từ bên ngoài (loài vật, cây) sẽ thâm nhập xâm
lấn vườn. (Khái niệm hàng rào sinh học, phòng chống sâu bệnh).
Vậy ta bàn về một khái niệm khác về rìa, liên quan đến sinh học hay mô hình của
rìa. Ta hãy nghĩ đén bố cục của bộ não hoặc ruột cùa con người. Có hàng mét vật liệu
đựng trong một khối lượng rất nhỏ, và có biết bao nhiêu rìa và chức năng của rìa hằng
cách thao tác vào hình dáng của rìa. Một rìa cong có nhiều lợi ích hơn một rìa thắng
nhất là cong theo đường xoáy ốc. Rìa lượn theo làn sóng có ích hơn. vì tiếp xúc với
nhiều đất ụ hoặc luống có nhiều rìa ; nhiều cây có thể trồng theo vòng xoáy ốc xung
quanh một ụ, đặc biệt ở những vùng nhỏ diện tích bị hạn chế. Vì vậy hình dạng của rìa
là một vấn đề nên nghiên cứu.
Áp dụng: Hiện nay chúng ta bỏ phí rất nhiều lợi thế của vùng rìa để xây dựng, quy
hoạch các khu vườn truyền thống mang tính thẩm mỹ cao, phát triển văn hóa ruộng
bậc thang, phá rừng, hoặc phá thoáng cả một vùng rộng lớn để trồng độc canh,
không lợi dụng phân xanh từ các hàng rào, bờ suối, tăng diện tích trồng cỏ dự trử
cho mùa khô, chống sạt lở cho mùa mưa ở các bờ rìa….
C. GIỚI THIỆU CÁC KỸ THUẬT BẢO TỒN ĐẤT VÀ NƯỚC CÁC KỸ THUẬT
CHỐNG SÓI MÒN TRÊN ĐẤT DỐC
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BẢO TỒN ĐẤT VÀ NƯỚC
1. Tính cấp bách của việc chống xói mòn bảo vệ đất
Xói mòn là một hiện tượng tự nhiên ảnh hưởng đến đất đai và gián tiếp đến sức sản
xuất của một địa điểm, đặc biệt là trên đất dốc. Sự thành lập của lớp đất mặt, nơi chứa
đựng các quá khứ, tiềm năng và tương lai của con người, diễn ra rất chậm cả đến hàng
trăm năm do quá trình phong hoá của lớp đá mẹ. Tuy nhiên, hàng tấn đất mặt dễ dàng bị
xói mòn trôi ra sông, ra biển trong một thời gian ngắn nếu con người không biết giữ gìn
quan tâm đến sự sử dụng đất của mình. Cho nên bảo tồn đất để kiểm soát sự xói mòn
cần được quan tâm vì:
+ Xói mòn diễn ra trên hầu hết các vùng đất dốc. Đất càng dốc khả năng xói mòn
càng mạnh, xói mòn phụ thuộc vào chế độ mưa và các hoạt động sử dụng đất của con
người.
+ Xói mòn đang là nhân tố quan trọng nhất làm suy thoái tài nguyên đất, làm hoang
hoá các vùng đất dốc nhiệt đới, làm đói nghèo đời sống của người dân ở nhiều vùng trên
thế giới.
+ Xói mòn càng mạnh thì khả năng phục hồi của đất và tài nguyên sinh vật càng khó
khăn, vật liệu bào mòn làm cạn hồ tích nước, gây lũ lụt hạn hán. Chống xói mòn để bảo
vệ vốn đất là một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất và là sự tồn tại lâu bền của con
người trên hành tinh.
2. Tính cấp bách của việc bảo tồn nước
Nước là một tài nguyên quan trọng cho cuộc sống của con người trên quả đất. Tuy
nhiên nước cũng là một tai hoạ cho chúng ta nếu quá thừa hay quá thiếu vì nó sẽ là
những nguyên nhân gây ra các thiên tai như lũ lụt và hạn hán. Xét đến tài nguyên nước
chúng ta nên quan tâm đến số lượng, sự điều hoà phân phối theo thời gian và chất lượng
của nó. Khi xã hội loài người phát triển như cầu về nước càng tăng lên vì:
+ Nhu cầu nước của con người ngày càng tăng lên đó là nhu cầu nước tưới cho
trồng trọt, nước cho chăn nuôi, nước cho công nghiệp và nước cho sinh hoạt hàng ngày.
+ Nguồn nước đang ngày càng khan hiếm và mất ổn định dẫn đến hoang hoá đất
đai, lũ lụt, hạn hán...
+ Nguồn nước đang bị ô nhiễm (ô nhiễm hữu cơ, chất độc hoá học.)
+ Sự sử dụng đất đai bị chi phối bởi lưu vực nước của các hệ thống sông ngòi và
càng ngày người ta càng nhận thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ của thượng lưu, hạ lưu một
con sông và vùng biển cận duyên của một khu vực.
3. Một số nguyên tắc chính của việc phòng chống xói mòn đất
3.1. Phân loại xói mòn đất
Đất bị xói mòn do nhiều yếu tố và đó cũng là cơ sở để phân thành các loại xói
mòn khác nhau như sau:
+ Xói mòn do gió: gió làm khô và rời rạc các phần tử đất, cát và bị gió thổi đi đến
nơi khác.
+ Xói mòn do trọng lực: Đất di chuyển do chính trọng lượng của nó, có thể là đất bị
trôi theo khe, rãnh, cũng có thể do lở đất đá.
+ Xói mòn do nước: đây là loại xói mòn do sự công phá của giọt mưa đối với lớp
đất mặt và sức công phá, cuốn trôi của dòng chảy đây là loại xói mòn nguy hiểm cho
vùng đất dốc khi không có lớp phủ thực vật, gây ra các hiện tượng xói mặt, xói rãnh, xói
khe...
Hình 61. Sơ đổ tiến trình 5 giai đoạn của nghiên cứu nông lâm kết hợp
1.1. Phân tích tình hình
Các nhà nghiên cứu và nhân viên khuyến nông, cùng người dân, cộng đồng địa
phương phân tích tình hình về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và các yếu tố ngoại
cảnh có ảnh hưởng:
• Những tiềm năng, thuận lợi cho phát triển nông lâm nghiệp
• Những vấn đề và những cản trở, nguyên nhân hạn chế phát triển nông lâm kết
hợp
• Các ý tưởng và các kỹ thuật nông lâm kết hợp dự kiến để giải quyết vấn đề và
những cản trở.
• Mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của nông trại.
1.2. Xác định chủ đề nghiên cứu
Các ý tưởng, các chủ đề nghiên cứu được người dân địa phương cùng cán bộ nghiên
cứu khuyến nông đưa ra trong giai đoạn phân tích tình hình cần được phân tích
kỹ hơn về các mặt sau:
• Mục tiêu của các chủ đề nghiên cứu
• Các lựa chọn kỹ thuật nông lâm kết hợp liên quan đến kiến thức, kinh nghiệm của
nông dân.
• Các lựa chọn để kiểm tra trên đồng ruộng.
• Các kết quả mong đợi của chủ đề nghiên cứu.
• xếp thứ tự ưu tiên các chủ đề nghiên cứu.
1.3. Lập kế hoạch nghiên cứu
Các nhà nghiên cứu và khuyến nông đóng vai trò thúc đẩy, hỗ trợ nông dân lập kế
hoạch, triển khai các hoạt động nghiên cứu trên đồng ruộng. Giai đoạn lập kế hoạch rất
quan trọng, nó khuyến khích nông dân suy nghĩ sâu hơn về chủ đề nghiên cứu, trách
nhiệm của họ trong các hoạt động, khai thác kinh nghiệm kiến thức bản địa cũng như
tiềm năng khác của địa phương.
Trình tự lập kế hoạch:
- Thiết kế thử nghiệm:
+ Phân khu thử nghiệm
+ Xác định loài cây trồng, vật nuôi
+ Các kỹ thuật
+ Các nguồn đầu tư cần thiết
- Xác định các hoạt động của chủ đề nghiên cứu: Sắp xếp theo trật tự logic, có tham
khảo nông lịch, các vấn đề về giới, tài chính.
- Xác định thời gian tiến hành các hoạt động thử nghiệm: Trả lời câu hỏi làm khi
nào?
- Xác định nguồn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu: cố gắng tận dụng nguồn đã có ở
địa phương, khi phải sử dụng các nguồn lực từ bên ngoài cần phải chỉ rõ nguồn đó lấy ở
đâu trách nhiệm là ai, khả năng cung cấp.
1.4. Tổ chức thực hiện các hoạt động nghiên cứu
1.5. Tổ chức giám sát và đánh giá
1.5.1. Hệ thống giám sát và đánh giá có sự tham gia của người dân (PMOE)
PMOE là một phương pháp được áp dụng để ghi nhận và phân tích thông tin định
kỳ mà những nhà thực hiện dự án và người hưởng lợi đã liên kết để quyết định cho việc
phát triển bền vững (SD) và nông nghiệp bền vững (SA).
Sự giám sát có tham gia (PM) là việc ghi nhận các thông tin có ích nhằm theo kịp
các hoạt động và/hay các tiến trình hướng đến các mục tiêu một cách liên tục. Mỗi một
cộng tác viên của dự án tại địa phương phải có kế hoạch thu thập tất cả các thông tin về
hoạt động của dự án xuyên suất các giai đoạn thực hiện.
PMOE thích ứng với toàn bộ quá trình đánh giá có sự tham gia, giám sát và đánh
giá ý tưởng của dự án một cách xuyên suốt, nó chỉ ra các thông tin phản hồi từ các hoạt
động và mục tiêu liên hệ với những phương pháp khác của thẩm định nhanh nông thôn.
(Phân tích các vấn đề cộng đồng và đánh giá sự kiện). Tại mỗi điểm, dự án có nhiều
thời điểm đánh giá sự thay đổi. Có thể lúc khởi đầu không có gì là bất thường, theo kế
hoạch, nhưng sau khi được kiểm tra có những vấn đề cần thay đổi.
1.5.2. Phương pháp thực hiện PMOE ở một địa điểm
Sau đây là các bước làm việc cho PMOE. Các bước này được thực hiện bởi người
hưởng lợi. Cán bộ hiện trường nên thúc đẩy và giúp đỡ họ thực hiện:
• Mục đích của PMOE:
Mục đích của PMOE rất khác nhau tùy thuộc vào các hoạt động của dự án.
Nó cung cấp các thông tin giúp thực hiện các quyết định như:
"Chúng ta có thỏa mãn với tiến trình hướng đến mục đích?"
"Chúng ta có nên thay đổi chiến lược hay hoạt động ?"
"Chúng ta có nên đánh giá lại mục tiêu ?"
PMOE được thực hiện cho bất cứ hay tất cả những mục đích dưới đây:
• Xem xét tất cả các kế hoạch hoạt động có tiếp tục dẫn đến việc đạt được mục tiêu
phát triển bền vững và nông nghiệp bền vững.
• Đánh giá hướng đến việc đạt được mục tiêu, kế hoạch làm việc và các hoạt
động
• Xác định thời gian có còn đủ để hoàn thành các hành động
• Bảo đảm các tiêu chuẩn tết được duy trì
• Cung cấp các thông tin và phản hồi về những kỹ thuật mới
• Bảo đảm việc sử dụng phương tiện và nhân lực một cách hiệu quả
• Đo lường các tác động môi trường.
• Cung cấp một hệ thống báo động sớm có thể xác định các vấn đề ở giai đoạn đầu để
có thể thực hiện các thay đổi khi cần thiết (có hay không có thông tin bổ sung từ việc
đánh giá sự kiện)
• Cung cấp hệ thống phản hồi liên tục trong suốt quá trình thực hiện dự án.
• Bổ sung và cụng cấp dữ liệu cho cộng đồng đánh giá sự kiện cũng như các
đánh giá của người ngoài.
* Cái gì được giám sát
Có nhiều nhân tố và các thay đổi có thể được giám sát ở mỗi điểm dự án. PMOE sẽ
được thực hiện chủ yếu ở 2 mức độ: mức nông hộ và mức cộng đồng. Ở cả hai mức độ,
cả hai dữ liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đều cần thiết. Các yếu tố này sẽ
được phân loại và xác định những nhân tố chủ chốt và mô tả trong các bảng dưới đây.
* Giám sát như thế nào
Các chỉ tiêu giám sát rất khác nhau từ địa điểm này đến địa điểm khác, và thậm chí
trong từng cộng đồng.
* Ai sẽ giám sát:
Việc giám sát được thực hiện bởi những nhân viên hiện trường của dự án trong
những cuộc thăm viếng có những nhân viên của điểm dự án, người đảm trách những
hoạt động cụ thể (ví dụ như người quản lý vườn ươm, kế toán viên, khuyến nông viên,
v.v...) và các nông dân chọn từ một vài người chủ chốt và những đại diện cho cộng
đồng. Sự chắc chắn của thông tin trong giám sát có thể được khuyến khích bởi những
nhân viên đáng tin cậy của mỗi địa điểm.
* Việc giám sát được thực hiện khi nào?
Một lần nữa, điều này sẽ rất khác nhau trong những cộng đồng, giữa địa điểm này
và địa điểm khác và tùy theo các điều kiện tự nhiên Sau khi đã quyết định lúc nào sẽ
tiến hành việc giám sát, thời điểm để đánh giá tiến triển có thể được lập kế hoạch. Việc
giám sát đánh giá có thể thực hiện hàng quý, hàng tháng.
Việc đánh giá tiến trình đòi hỏi một bổ sung thông tin, thu thập, phân tích và trình
bày cho người dân, người sẽ ra các quyết định. Việc đánh giá tiến trình có thể được thực
hiện bởi các nhóm nhỏ, những người được giao trách nhiệm để thực hiện việc này (ví dụ
một nhóm người ngoài).
* Các công cụ giám sát và đánh giá tiến trình:
Các công cụ phải được nhóm nghiên cứu đề nghị dựa trên dựa trên yêu cầu phát
triển bền vững của mỗi điểm. Tất cả các yếu tố sinh học vật lý, kinh tế xã hội, kỹ thuật
và văn hóa đều được chú ý.
* Ai có thể được trả lời trong khi thực hiện các buổi trên đây.
Khi thực hiện PMOE nó sẽ mang lại, trong suốt quá trình của dự án các điểm sau
đây:
Những yếu tố chỉ thị chủ chốt sẽ giám sát các hoạt động/mục tiêu dựa rên các nền
tảng vững chắc; những công cụ mà cộng đồng có sử dụng để giám sát. Một kế hoạch
định kỳ để phân tích bình thường và thảo luận thông tin được thu thập trong suốt quá
trình giám sát; Thông tin hướng dẫn dự án. Nó sẽ chỉ ra các thông tin nếu như dự án nên
thay đổi, tổ chức lại, suy nghĩ lại hủy bỏ một hoạt động, hay tiếp tục duy trì.
2. Các tiêu chí, chỉ báo trong giám sát và đánh giá kỹ thuật nông lâm kết hợp
2.1. Các chỉ tiêu đánh giá
Một điều quan trọng của quá trình thẩm định là phải xác định các chỉ tiêu thích hợp,
đúng chỗ, xác minh được, định lượng được để có thể đo lường được các định mức nổi
bật nhất. Khi phê phán các chỉ tiêu về sa mạc hóa, Krugmann (1996) đã ghi chú rằng
các chỉ tiêu phải được xây dựng theo cấp vi mô đến vĩ mô, phản ảnh các suy nghĩ, kinh
nghiệm, tiến trình và các hành động (câu hỏi) ở các tầm mức khác nhau. Các chỉ tiêu có
thể định lượng hay định tính các chỉ tiêu định lượng thì dễ đo lường và tổng hợp, trong
khi đó các chỉ tiêu định tính thì ưu việt hơn về nắm bắt sự phức tạp của các tình trạng
thay đổi. Các chỉ tiêu có thể trực tiếp hay gián tiếp, mô tả (tình trạng của hoàn cảnh),
hay dựa vào kết quả thực hiện (đo lường vài điểm chuẩn). Chỉ tiêu cũng có khung thời
gian của nó, mộ vài chỉ tiêu có giá trị trước mắt, trung hạn hay dài hạn. Tùy theo loại dự
án. chương trình, theo dõi vài chỉ tiêu nào đó có thể là cần thiết ngay từ khi khởi đầu dự
án cho dấn khi dự án chấm dứt để một thời gian cần thiết để có thể đánh giá ảnh hưởng
đầy đủ của dự án. Các chỉ tiêu cũng có thể phản ánh sự thay đổi hay các dấu hiệu thay
đổi của các biến số.
2.2. Các chỉ tiêu từ nông dân
Các cộng đồng thường có hàng loạt các chỉ tiêu mà họ dùng để theo dõi và đánh giá
chất lượng của môi trường họ đang sống và tiên đoán các thay đổi về sinh thái. Thông
thường, các cộng đồng định các giá trị khác nhau với các chỉ tiêu thay đổi; họ dùng các
chỉ tiêu mà họ cho là nổi bật nhất để lập kế hoạch và thời khóa biểu của các hoạt động
sản xuất cũng như giúp họ quyết định vượt qua các khó khăn để sống còn. Mwadime
(1996) đã ghi nhận rằng một cộng đồng ở Kenya, người dân đã phối hợp các chỉ tiêu
ảnh hưởng kế hoạch và quyết định của họ.
Một vài thí dụ về các chỉ tiêu của nông dân là sự xuất hiện và tập tính của thực vật
và động vật (chẳng hạn, sự ra hoa hay đâm chồi của vài loài cây chính và sự xuất hiện
và hoạt động của chim, côn trùng, ếch nhái), đặc điểm của gia và sự thay đổi hướng gió,
và vị trí của vài chòm sao. Chính các chỉ tiêu này đã giúp người dân phát hiện các thay
đổi theo mùa, tiên đoán mưa hay chấm dứt mùa, xác định độ phì của đất, và theo dõi
tình trạng của môi trường (Oduol 1996). Tập tính của gia súc và động vật rừng có thể
chỉ thị cho sự hữu hiệu của thức ăn hay chất lượng của nó. Nhịp độ phối giống của súc
vật; thành phần và màu sắc của phân, hay tình trạng của lông thú có thể phản ảnh chất
lượng của môi trường (Kipuri).
Các chỉ tiêu của nông dân thường cá biệt cho một điều kiện được ảnh hưởng bởi các
yếu tố sinh thái, văn hóa, xã hội, kinh tế và ảnh hưởng của giới tính và tuổi tác
(Krugmann 1996). Sự xác định các chỉ tiêu của nông dân thường kế thừa một quá trình
hợp tác lâu dài. Sự chọn lựa các chỉ tiêu của người bên trong và bên ngoài sẽ tùy thuộc
vào mức độ rõ ràng của các chỉ tiêu thể hiện các định mức trong nội dụng của câu hỏi
làm thế nào để các dữ kiện được thu thập. Quá trình thẩm định có thể phối hợp cả hai
loại chỉ tiêu của người bên trong và bên ngoài.
2.3. Đặc điểm để xác định chỉ tiêu cho hệ sinh thái nông lâm kết hợp
Sư đa dang Nước
• Đa dạng của động vật rừng • Khả năng tiếp cận với nước
• Sự hiếm hoi của động vật quý hiếm • Nguồn nước
• Sự phong phú loài • Lượng nước
• Đa dạng của thực vật tự nhiên • Sự thoát nước
• Đa dạng của hoa màu • Chất lượng
Sự dẫn nhập của các loài ngoại lai (nếu có thì
điều này có ảnh hưởng âm (-).
4.2.2. Đất đai
• Môi trường cho động vật hoang dã 4.3. Không khí
• Thảm thực bì 4.4. Chất lượng không khí
• Cấu tạo đất 4.5. Sự sử dụng tài nguyên
• Hiện tượng tái sinh dưỡng chất • Sử dụng đất
• Độ phì của đất • Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
• Cấu tượng của đất • Sử dụng tài nguyên
Bảng 6. Biểu sàng lọc tiêu chí cho sự vững bền của các kỹ thuật nông lâm kết hợp
E. MÔ HÌNH VƯỜN RỪNG TƯƠNG HỖ NĂNG LƯỢNG (SYNTROPY).
Vườn rừng trù phú (Abundance Agroforestry)
Một tài liệu hướng dẫn phương pháp nông nghiệp Syntropy
Mesofauna đất, không nhìn thấy bằng mắt thường nhưng rất giá trị đối với trang trại
Sinh vật:
Các sinh vật có ích phục vụ các vai trò quan trọng khác nhau và sự hiện diện của
chúng trong trang trại nên được khuyến khích.
Ví dụ, giun và sinh vật nhiều chân giúp phân hủy chất hữu cơ. Các loài thụ phấn
như ong, bướm đêm, bướm, ruồi, bọ cánh cứng, dơi và chim ruồi giúp cải thiện đáng kể
năng suất cây trồng. Trên thực tế, 35% các loại cây trồng trên thế giới phục vụ cho tiêu
dùng của con người phụ thuộc vào sự thụ phấn. Cóc, thằn lằn, chim, bọ cánh cứng và
nhện là những kẻ săn động vật gây hại tự nhiên (pest predator – thiên địch có lợi).
Những động vật nhỏ hơn như chim và khỉ giúp phát tán và gieo hạt.
Tại sao điều quan trọng là tìm hiểu về các mức phân tầng? Bởi vì các tầng cho
bạn biết làm thế nào để bố trí phù hợp các loài cây trong cộng đồng của bạn. Mặc dù
nhiều khía cạnh của thiết kế nông lâm có thể được sửa đổi, khoảng cách bố trí phù hợp
phải được duy trì vì nó dựa trên các đặc điểm tự nhiên của thảm thực vật. Cây cùng tầng
cần có đủ không gian để tán của chúng có thể phát triển đến trưởng thành mà không
phải đụng chạm nhau. Trong một số trường hợp, chúng sẽ được cung cấp nhiều không
gian hơn thế này, để đảm bảo sự xâm nhập ánh sáng mặt trời tốt cho các tầng thấp hơn
của trang trại. Tuy nhiên, cây ở các tầng khác nhau có thể được trồng gần nhau vì tán
của chúng sẽ phát triển đến các độ cao khác nhau và chúng có thể chia sẻ cùng một
không gian thẳng đứng. Nếu phần tán của chúng có biên giới quá gần nhau thì không
sao. Chúng luôn có thể được cắt tỉa trở lại.
Để trang trại hấp thụ nhiều năng lượng mặt trời nhất, tốt nhất là duy trì hỗn hợp
cụ thể của 4 tầng. Đây là một hướng dẫn sơ bộ, nhưng nói chung, tốt nhất là duy trì theo
các tỷ lệ này:
Tỷ lệ phân tầng
Tầng nổi trội Tầng cao Tầng trung bình Tầng thấp
Mỗi tỷ lệ phần trăm đề cập đến tổng diện tích bề mặt đất được che phủ bởi tán
cây ở cấp độ đó. Lý do các con số cộng lại lên tới hơn 100% là do các mức tầng chồng
lấp. Ví dụ, trong một số trường hợp nổi bật, cao, trung bình và thấp đều sẽ bao phủ cùng
một bề mặt đất.
Những tỷ lệ này đạt được cả bằng cách trồng phù hợp lúc bắt đầu và cũng bằng
cách cắt tỉa lại sau này. Trong thực tế, cây luôn phát triển và trang trại luôn thay đổi. Độ
che phủ của tán là động. Vì vậy, nếu cây bắt đầu chiếm nhiều không gian dự định,
chúng chỉ đơn giản là được cắt tỉa trở lại. Các tỷ lệ này sẽ giúp hướng dẫn nông dân
thực hành cắt tỉa nhưng không có nghĩa là lý thuyết suông.
Chúng tôi chỉ đề cập đến rất nhiều tài liệu để giúp chúng tôi thấy hệ sinh thái có
thể thu được lượng năng lượng lớn như thế nào. Sự phân tầng cho chúng ta biết làm thế
nào để tối đa hóa mật độ trồng. Hãy nhớ làm thế nào thu được năng lượng với các kế
hoạch trồng dày đặc? Nhưng đó chỉ là một nửa của phương trình. Nửa còn lại đạt được
thông qua sức mạnh của sự kế thừa tự nhiên.
Sự kế thừa:
Sự kế thừa là xu hướng cho một hệ thống tự nhiên phát triển từ đơn giản đến
phức tạp. Thông qua quá trình kế thừa, đời sống thực vật hướng tới khả năng các loài có
thể thu giữ và xử lý ngày càng nhiều năng lượng. Điều này dẫn đến năng lượng tập
trung, đó chính xác là nghĩa của thuật ngữ "syntropy". Khai thác sức mạnh của sự kế
thừa tự nhiên là không thể thiếu đối với nông nghiệp syntropy.
Thành công cải thiện chất lượng đất, đa dạng sinh học và di chuyển hệ thống đến
thảm thực vật tồn tại lâu hơn.Nếu không bị xáo trộn, thiên nhiên sẽ biến vùng đất trống
thành một khu rừng phát triển mạnh hoặc rừng nhiệt đới và nó có thể tự duy trì điều
này. Rừng nhiệt đới màu mỡ và đa dạng sinh học hơn nhiều so với một cánh đồng. Quá
trình này đạt được thông qua sự trưởng thành của một cộng đồng các loài cây khác
nhau, mỗi loài cây có một nhiệm vụ cụ thể và đôi khi chỉ có vai trò ngắn hạn.
Để giúp hiểu rõ sự kế thừa, nó được chia thành các giai đoạn riêng biệt, nhưng
trong thực tế, nó xảy ra liền mạch. Trong canh tác syntropic, giai đoạn đầu tiên được gọi
là "giai đoạn thai nghén". Giai đoạn tiếp theo được gọi là "giai đoạn giữa". Giai đoạn
cuối cùng được gọi là "giai đoạn đỉnh cao". Mỗi giai đoạn cải thiện sự phát triển môi
trường cho giai đoạn tiếp theo kiểu như mỗi bước lại làm đất đai trở nên màu mỡ hơn và
tràn đầy sức sống hơn cho đến khi đạt đến giai đoạn đỉnh cao.
Tại thời điểm này tốc độ tăng trưởng bắt đầu chậm lại và hệ thống già đi. Cây cấp
thấp hơn chết vì thiếu ánh sáng mặt trời. Điều này tạo ra những khu rừng mở rất dễ chịu
để đi xuyên qua. Những hệ thống đỉnh cao này tồn tại rất lâu và những cây còn sống sót
thích nghi rất tốt về mặt di truyền với đất, nhưng cuối cùng, ngay cả những cây còn lại
cũng chết vì lão hóa tự nhiên. Nhưng mọi thứ chưa kết thúc ở đó, một chu kỳ mới sẽ bắt
đầu, màu mỡ hơn so với chu kỳ cuối cùng. Chủ đề này sẽ được đề cập chi tiết hơn dưới
đây trong phần "3 giai đoạn tiến hóa".
Thiên nhiên tiến triển rất chậm qua một chu kỳ duy nhất từ giai đoạn thai nghén
qua giai đoạn đỉnh cao. Một chu kỳ có thể mất 250- 350 năm trong tự nhiên! May mắn
thay, bằng cách đẩy nhanh các quá trình tự nhiên, trong canh tác syntropic, điều này có
thể đạt được trong ít nhất là 20 năm.
Giai đoạn thai nghén bị chi phối bởi thảm thực vật có thể phát triển trong môi
trường và điều kiện đất đai khắc nghiệt. Những cây này thường phát triển nhanh và tạo
ra một lượng lớn hạt giống. Khi nghĩ về giai đoạn thai nghén, hãy nghĩ đến cỏ dại và
"các loài xâm lấn" và tưởng tượng ra một bãi cỏ hoặc cánh đồng. Hầu hết mọi người
nghĩ rằng các loài xâm lấn là có hại, nhưng thực tế, trong tự nhiên chúng có mục đích
cả. Chúng mang lại sự cân bằng và màu mỡ cho đất. Khi người nông dân học cách quản
lý các loài này, chúng đột nhiên trở nên hữu ích.
Các loài thai nghén thường đóng vai trò tạm thời để cải thiện các điều kiện cho
các giai đoạn sau và sau đó chết đi. Cái tên "thai nghén" có nghĩa là truyền đạt chất
lượng mang lại sự sống này. Thuật ngữ thai nghén cũng mô tả thực tế là thường có tất
cả các giai đoạn khác, nhưng không phát triển trong thời gian này, giống như em bé
trong bụng mẹ.
Giai đoạn giữa (trung sinh) sẽ có thảm thực vật và cây cao hơn. Tuổi thọ của chúng dài
hơn và chúng đòi hỏi điều kiện phát triển màu mỡ hơn.
Cuối cùng, giai đoạn cực thịnh (đỉnh cao) có thể có cây và thực vật sống rất lâu.
Chúng đôi khi rất khó tính và tạo ra ít hạt hơn. Trong giai đoạn đỉnh cao, một quá trình
chọn lọc xảy ra giúp các loài thích nghi tốt nhất với môi trường của hệ thống. Điều này
có thể dẫn đến sự giảm tương đối đa dạng sinh học thực vật khi so sánh với giai đoạn
trung sinh.
Địa tầng và giai đoạn kế thừa:
Điều quan trọng ở đây là làm rõ mức độ thảm thực vật được xác định rõ hơn bởi
cấp độ kế thừa mà nó chiếm giữ khi trưởng thành. Vì lý do này, điều quan trọng là phải
tham khảo các giai đoạn kế thừa khi nói về các tầng. Ví dụ, trong giai đoạn thai nghén,
các tầng chủ yếu được chiếm giữ bởi các loại rau. Trong khi đó ở giai đoạn trung sinh
và giai đoạn đỉnh cao, chúng chủ yếu là cây.
Với những xáo trộn có lợi liên tục, sự kế thừa tự nhiên sẽ lặp đi lặp lại cho đến
khi nó đi qua 3 giai đoạn. Trong tự nhiên điều này có thể mất hàng ngàn năm. Trong
canh tác syntropic, các giai đoạn này được gọi là "khai hoang, tích lũy và sung túc".
Giai đoạn khai hoang là nỗ lực của thiên nhiên để mang lại sự sống cho ít nhiều đất
chết. Giai đoạn này bị chi phối bởi các dạng sống có thể phát triển trong điều kiện khắc
nghiệt và phục vụ mục đích chuẩn bị đất cho thảm thực vật lớn hơn bằng cách lắng
đọng chất hữu cơ và thay đổi hóa học của đất.
Tiếp theo là giai đoạn tích lũy. Tại thời điểm này, hệ thống sống có thể hỗ trợ các
động vật nhỏ (lên đến kích thước của một con gà). Ở đây nó bắt đầu có một số khả năng
sinh sản, nhưng mọi thứ là khó khăn, hệ thống không tự duy trì và cần lưu trữ một
lượng lớn carbon để "vỗ béo". Tại thời điểm này, nhu cầu tương đối của hệ thống đối
với nước và nitơ là thấp. Hầu hết đất nông nghiệp trên hành tinh bị mắc kẹt trong giai
đoạn tích lũy vì nông nghiệp hiện đại liên tục đặt lại hệ thống thông qua việc làm đất,
loại bỏ cây lâu năm và các rối loạn khác. Điều này ngăn cản hệ sinh thái phát triển thành
sung túc. Điều quan trọng để chỉ ra rằng nông nghiệp hiện đại có thể nuôi động vật lớn
hơn trong giai đoạn tích lũy, nhưng phải dựa vào sự cung cấp phân bón liên tục để làm
như vậy. Điều này là không bền vững và cuối cùng làm chi phí tăng lớn.
Nếu hệ sinh thái được phép phát triển và trải qua đủ chu kỳ, đất sẽ xây dựng khả
năng sinh sản và cuối cùng bước vào giai đoạn sung túc. Tại thời điểm này, nó giải
phóng một lượng lớn phốt pho nhưng bây giờ cần nitơ và nước. Khả năng sinh sản của
nó đang đạt đến điểm có thể hỗ trợ động vật lớn và có thể làm như vậy vô thời hạn. Sinh
khối, đa dạng sinh học và biến đổi di truyền trong các loài trên đất ngày càng tăng. Thật
tuyệt vời khi nó có thể hấp thụ năng lượng và nhu cầu dinh dưỡng từ mặt trời, không
khí và mở ra từ các kho dự trữ trên trái đất.
Nông nghiệp Syntropy hướng tới giai đoạn sung túc. Đây là khi những điều tốt
đẹp xảy ra một cách dễ dàng và cái hay là bạn không phải đợi hàng thập kỷ trở lên mới
đạt được. Nếu người nông dân đang bắt đầu với vùng đất tốt và có thể phủ đất bằng chất
hữu cơ từ ngày đầu, thì anh ta / cô ta có thể đạt đến điểm này chỉ trong vòng hai năm!
Làm thế nào để người nông dân đẩy nhanh quá trình tiến hóa này? Bằng cách cắt
tỉa và quản lý có chiến lược. Cắt tỉa thực vật có nhiều lợi ích ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng trong trang trại. Ngoài ra lớp phủ được tạo ra mang một lượng lớn carbon vào
mạng lưới thức ăn của đất. Bằng cách này, hệ thống được cung cấp những gì nó cần
nhanh hơn nhiều so với trong tự nhiên và được tăng cường từ giai đoạn tích lũy sang
giai đoạn sung túc.
3 yếu tố để canh tác với Syntropy:
Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang 3 yếu tố để canh tác tổng hợp. Hai cái đầu tiên
có liên quan bởi vì chúng được cắt tỉa và thực hành quản lý giúp thúc đẩy tăng trưởng
và tiến hóa. Bằng cách kết hợp cả ba yếu tố, người nông dân có những mảnh ghép cơ
bản cần thiết để xây dựng một hệ thống sống lành mạnh. Họ đây rồi:
1. Cắt tỉa để kích thích tăng trưởng
Cắt tỉa quy mô lớn mang lại một sự thúc đẩy lớn cho hệ thống. Cây già làm chậm
sự tăng trưởng của toàn bộ hệ thống. Nhưng nếu bạn cắt tỉa chúng, chúng bắt đầu một
giai đoạn tăng trưởng mới. Vì vậy, việc cắt tỉa sẽ đưa chân tượng trưng ra khỏi bàn đạp
phanh này, nhưng tốt hơn thế, nó cũng đặt chân lên bàn đạp ga! Nó gửi một thông điệp
tăng trưởng bằng cách giải phóng một lượng lớn hormone tăng trưởng thực vật vào hệ
thống. Phản ứng tăng trưởng này ảnh hưởng đến các cây gần đó, không chỉ các cây
được cắt tỉa.
Để hiểu tại sao điều này hoạt động, điều quan trọng cần biết là tất cả các cây đều
trải qua một vòng đời. Đầu tiên là thời kỳ tăng trưởng nhanh chóng. Sau đó mọi thứ bắt
đầu chậm lại khi cây đang ra hoa. Sau đó, cây chuẩn bị tạo quả và hạt và trở nên tương
đối khô. Khi sự tăng trưởng của cây chậm lại, nó cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến các
cây xung quanh. Hiệu ứng "tạm dừng" này được tránh trong canh tác tổng hợp bằng
cách cắt tỉa. Các cây sinh khối được cắt tỉa ở dấu hiệu đầu tiên của sự lão hóa, trước khi
sự hình thành hoa đã bắt đầu. Các cây mục tiêu phải được phép cho trái, vì đó là mục
tiêu của sự hiện diện của chúng. Nhưng chúng nên được cắt tỉa càng sớm càng tốt sau
khi thu hoạch.
Các cây sinh khối và thảm thực vật sẽ là đóng góp lớn nhất cho phản ứng tăng
trưởng này. Chúng được cắt tỉa rất nhiều, đặc biệt là trong những năm đầu. Cây mục
tiêu được trồng để lấy quả sẽ được cắt tỉa ít hơn, nhưng chúng thậm chí sẽ góp phần vào
mạch tăng trưởng này. Cuối cùng, làm cỏ chọn lọc giúp cho trang trại. Tất cả các thảm
thực vật trên đất cần được theo dõi các dấu hiệu lão hóa và cắt tỉa. Theo cách này, mọi
cây cối đều có thể đóng góp vào mạch tăng trưởng. Mặc dù cây và cây bụi là những cây
sinh khối đầu tiên mà Ernst sử dụng trong trang trại của mình, nhưng bây giờ ông cũng
đề xuất một số loài cỏ nhất định.
Các cây sinh khối thường được đặt trong một hàng cùng với các cây ăn quả. Hàng này
được gọi là hàng A. Không gian ở giữa hai hàng được gọi là khu vực B và được sử dụng
để trồng rau hoặc cỏ sinh khối.
Sự giải phóng hormone tăng trưởng bắt đầu ngay khi thảm thực vật được cắt tỉa
và ảnh hưởng của nó được xác định bởi kích thước và đặc điểm của cây hoặc cây được
cắt tỉa. Nếu người nông dân có hàng A đa dạng sinh học, dày đặc, thì toàn bộ khu vực B
sẽ nhận được một mạch phát triển mạnh mẽ. Việc trồng khu vực B nên được thực hiện
ngay sau khi cắt tỉa. Nếu thực vật đã được thiết lập, thường có thể thấy sự tăng trưởng
rõ rệt trong vòng một tuần. Lá cacao sẽ kéo dài và cây sẽ tăng sản lượng quả. Ngô có
thể dài thêm 12 inch!
Có nhiều tác dụng có lợi khác của việc cắt tỉa. Một số rễ cây sẽ chết đi, nó cung
cấp chất hữu cơ cho đất, tạo và mở mạng lưới thức ăn cho đất để sử dụng. Khu vực này
sẽ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời nhiều hơn và hệ thống sẽ nhận được một lượng lớn
chất hữu cơ, nhưng sự tăng trưởng nhanh chóng không thể được giải thích bằng cách ủ
phân, điều mà mất nhiều tuần để xảy ra. Điều này được giải thích tốt nhất bằng cách
giải phóng hormone tăng trưởng.
Có nhiều tác dụng có lợi khác của việc cắt tỉa. Một số rễ cây sẽ chết đi, nó cung
cấp chất hữu cơ cho đất, tạo và mở mạng lưới thức ăn cho đất để sử dụng. Khu vực này
sẽ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời nhiều hơn và hệ thống sẽ nhận được một lượng lớn
chất hữu cơ, nhưng sự tăng trưởng nhanh chóng không thể được giải thích bằng cách ủ
phân, điều mà mất nhiều tuần để xảy ra. Điều này được giải thích tốt nhất bằng cách
giải phóng hormone tăng trưởng.
Trình tự quản lý với việc cắt tỉa để tăng trưởng
Nếu người nông dân có cây ăn quả trưởng thành, thì việc cắt tỉa có thể được sắp
xếp một cách chiến lược để mang lại lợi ích cho sản xuất trái cây. Nhiều cây ăn quả
thích ánh nắng mặt trời hơn trong giai đoạn ra hoa và đậu quả. Vì vậy, việc cắt tỉa thảm
thực vật sinh khối thường được lên kế hoạch vào thời điểm ra hoa để mở tán cho mặt
trời. Điều này được gọi là cắt tỉa đồng bộ hóa. Ở vùng nhiệt đới, việc cắt tỉa đồng bộ
thường xảy ra vào mùa khô, do đó không có mạch tăng trưởng với sự xáo trộn này.
Mạch tăng trưởng đòi hỏi lượng nước dồi dào trong hệ thống.
Ngoài ra, bạn có thể nhận thấy trong các hình ảnh trên, có rất nhiều chuối. Ernst
thường nói, nếu bạn muốn rau, thì hãy trồng chuối. Chuối làm sinh khối lớn. Cây rất có
giá trị đối với đất đến nỗi một số nông dân chỉ trồng nó như một cây sinh khối chứ
không phải để lấy quả. Thân của chuối được cắt theo chiều dọc, chặt thành những mảnh
nhỏ và đặt trên mặt đất. Chúng có thể được đặt bên cạnh các loại rau mới trồng.
Các miếng chuối cũng hoạt động như một cái bẫy chết cho mọt chuối. Mọt chuối
là một con bọ phá hoại và gây hại cho cây. Nó bị thu hút bởi chuối mới cắt và khi nó đẻ
trứng vào các bộ phận của chuối, những con sâu không thể hoàn thành vòng đời và chết.
Điều quan trọng là chỉ ra được rằng việc cắt tỉa có lợi ở trên và vượt ra ngoài việc
sản xuất chất hữu cơ đơn giản. Ví dụ, nếu tất cả các chất hữu cơ cần thiết để phủ đất
luôn được thu thập ở một nơi khác và mang đến trang trại, thì trang trại sẽ thiếu phản
ứng tăng trưởng được kích hoạt bởi việc cắt tỉa nặng. Cần phải có thảm thực vật được
trồng trên đất nông nghiệp có thể được cắt tỉa. Người nông dân nên lường trước việc
này ít nhất hai lần một năm, đôi khi thường xuyên hơn.
Có những lý do khác để cắt tỉa ngoài phản ứng tăng trưởng và sản xuất mùn. Cắt
tỉa có thể được sử dụng như là một dọn dẹp. Nó nên được thực hiện thường xuyên để
loại bỏ các bộ phận thực vật khô, bệnh hoặc không hiệu quả. Cắt tỉa cũng được thực
hiện để duy trì mức tầng phù hợp. Cắt tỉa cuối cùng có thể được sử dụng để làm mỏng
hệ thống. Ví dụ như khi đến lúc phải loại bỏ một cây nhỏ hoặc cây để tạo thêm không
gian.
2. Che phủ đất bằng chất hữu cơ
Phủ lên mặt đất một lớp chất hữu cơ dày và giữ cho nó che kín đất. Bạn cần bao
nhiêu chất hữu cơ? Rất nhiều! Bạn cần đủ để ngăn chặn cỏ dại mọc. Số lượng cần thiết
thay đổi tùy theo vật liệu được sử dụng, nhưng thường thì là lớp dày từ 10 cm trở lên.
Ernst nói rằng đất không được che phủ giống như một vết thương hở trên trái đất.
Một lớp dày chất hữu cơ sẽ vá lành vết thương này. Lớp phủ trở thành phân hữu cơ giàu
dưỡng chất theo thời gian. Nó cũng bảo vệ đất khỏi ánh nắng mặt trời và ngăn sự bốc
hơi nước, giảm sự phụ thuộc vào lượng mưa thường xuyên. Bằng cách chặn sự cạnh
tranh của các loại cỏ dại, nó làm cho cuộc sống người nông dân nhẹ nhàng hơn. Thêm
vào đó nó giữ cho việc thu hoạch sạch sẽ.
Cuối cùng, hãy nhớ mạng lưới thức ăn bên dưới mặt đất? Chúng ưa thích một lớp
hữu cơ dày. Các vi sinh vật, nấm và giun phát triển mạnh trong môi trường này. Càng
nhiều gỗ nấm càng phát triển tốt. Gỗ nên được đặt trực tiếp trên đất, để dễ phân hủy, sau
đó lá và cỏ được phủ lên trên. Nếu có ít chất hữu cơ, thì hãy phủ tập trung xung quanh
cây và các cây chính.
Nông dân có thể nhập chất hữu cơ ngay từ đầu để bắt đầu hệ thống của họ. Điều
này là không thể đối với người nông dân Haiti trung bình. Họ phải đợi cho đến khi thảm
thực vật sinh khối trưởng thành. Các cây sinh khối thường mất 2 năm, trong khi cỏ thì
sẵn sàng trong vòng 1 năm.
Chú ý tất cả đất được che phủ. Che phủ đất bằng chất hữu cơ, đặc biệt là xung quanh
cây
Ở đây tất cả các hàng cây được trồng giống nhau, nhưng chú ý những cây có phủ mùn!
Đám cây phát triển mạnh hơn nhiều khi đất được che phủ.
3. Các quần xã thực vật thông minh
Một quần xã là một tập hợp các loài thực vật phát triển cùng nhau, lấp đầy tất cả
các tầng và trưởng thành theo thời gian để vượt qua tất cả các giai đoạn kế tiếp.
Điều này có nghĩa là bạn phải thiết kế hệ thống của mình với tầm nhìn xa. Hãy
tưởng tượng cây bụi và cây thân gỗ trên đất sẽ trưởng thành theo thời gian như thế nào?
Điều này đòi hỏi kiến thức chi tiết về thảm thực vật khác nhau và vòng đời của chúng.
Thiết kế một quần xã rất phức tạp, nhưng khi được thực hiện một cách chính xác
thì nó rất bổ ích. Phần thực tế của cuốn sách hướng dẫn này sẽ giúp bạn. Nhưng chúng
ta hãy đi qua một kịch bản tiềm năng về cách một quần xã thông minh có thể mở ra
Giả sử bạn đang bắt đầu với đất nông nghiệp mở, rau hoặc đồng cỏ sẽ thống trị
ban đầu, nhưng theo thời gian vùng đất ấy sẽ phát triển thành một khu rừng thực phẩm.
Các loại rau được trồng trong những năm đầu mang lại thu nhập cho nông dân, nhưng
cũng cung cấp môi trường "vườn ươm" bảo vệ cây giống.
Kết hợp các loại cây trồng được lên kế hoạch trồng xen chặt chẽ để tạo ra thu
hoạch trong từng giai đoạn. Năng suất rau có thể được dự kiến trong ít nhất là 3 tuần và
sẽ tiếp tục trong hơn một năm, hết bước này đến bước khác, tùy thuộc vào những gì
được trồng. Khi một loại cây sớm bị loại bỏ, nó sẽ tạo thêm không gian cho những loại
cây sau để lấp đầy. Theo cách này, đất được sử dụng tối ưu và không có không gian cho
các cây cạnh tranh có cơ hội.
Rau có thể được trồng hết đợt này đến đợt khác vì mùa mưa cho phép cho đến khi
không gian quá rợp bóng. Vào năm đầu tiên, cỏ đã sẵn sàng và đến năm thứ hai, cây
sinh khối có thể được cắt tỉa để lấy lá và gỗ. Ở các nước đang phát triển, cột gỗ có giá
trị cao nên người nông dân có thể chọn sử dụng chúng để xây dựng và làm củi, nhưng
sẽ có lợi khi để lại một số gỗ trên đất để hỗ trợ nấm phát triển mạnh mẽ.
Sau 4 năm đầu tiên, đất sẽ bắt đầu bị bóng mờ. Có nhiều cách trang trại có thể định hình
tại thời điểm này, tùy thuộc vào cách nó được trồng ban đầu. Nhìn chung, trang trại sẽ
chuyển sang các loại cây ưa bóng râm hơn, như rau xanh và dứa và cây ưa bóng râm
như cà phê và cacao.
Nếu cây được trồng để lấy gỗ, chúng cũng sẽ bắt đầu giữ vị trí chính trong vườn
thời điểm này. Bằng cách kết hợp tất cả các yếu tố này trong kế hoạch trồng ban đầu,
năm này qua năm khác, trang trại sẽ tạo ra sản lượng lớn hơn và đa dạng hơn. Đôi khi,
trong hai năm đầu tiên, cắt tỉa mạnh mẽ toàn bộ hệ thống có thể được tận dụng trồng các
cây ưa sáng thị trường cần.
THEO KHÔNG GIAN
Trong trồng trọt kết hợp, chúng ta trồng các quần xã tương ứng theo thời điểm.
Những quần xã này được trồng theo tầng.
Một mô hình cây trồng có thể thay đổi hướng gió và ảnh hưởng đến lượng mưa
Trồng cây phân tầng tăng hiệu quả việc sử dụng đất.
Giai đoạn nhau thai, kế tiếp, đỉnh cao
THEO THỜI GIAN
Chúng tôi chọn các loài có vòng đời không đồng bộ, vì vậy khi được trồng cùng
lúc, mỗi loài có thời gian cao điểm riêng. Các loài cũng được lựa chọn tùy thuộc nhu
cầu hoặc chức năng của chúng trong quần xã. Các quần xã được tiếp nối thay thế theo
quá trình phát triển của hệ thống.
Giai đoạn nhau thai, kế tiếp, đỉnh cao
SỰ TIẾN TRIỂN CỦA TRANG TRẠI
4 tháng: ngô, đậu leo và gạo
1,5 năm: chuối, đu đủ và dứa
5 năm: Chuối, cọ đào, ca cao, cupuaçu (1 loại quả cùng họ với ca cao), cam quýt,
bơ và củi
18 năm: Chuối, cọ đào, ca cao, cupuaçu, caja (loại quả có vị chua ngọt), platonia
(1 loại quả thuộc họ bứa hay măng cục), cà phê, cây cao su và củi
Một vài nguyên tắc trồng:
Nếu đất đủ màu mỡ, tốt nhất là gieo trồng tất cả các loại cây cùng 1 lúc khi bắt
đầu canh tác. Tại sao? Bởi vì khi cây cối trong 1 hệ sinh thái đã trưởng thành, thì việc
trồng thêm cây mới (kết nạp thêm thành viên mới) sẽ gặp nhiều khó khăn. Thông
thường có thể thêm cây con mới vào khu vực canh tác trong vòng 2 năm đầu, còn sau
đó, nếu muốn trồng thêm cây mới vào, ta sẽ phải cắt tỉa đáng kể những cây đã có sẵn.
Nhưng tốt nhất là nên trồng tất cả các cây ngay từ đầu nếu có thể.
Ngoài ra, cũng nên gieo 1 loạt hạt giống số lượng lớn rồi trong quá trình chúng
sinh trưởng, dần dần loại bỏ những cây yếu hơn, cho đến khi đạt khoảng cách lý tưởng
giữa các cây để chúng sinh trưởng tốt nhất. Gieo thẳng hạt giống xuống là phương pháp
có nhiều ưu điểm, nó đòi hỏi ít công sức hơn so với phương pháp ươm cây giống trong
vườn ươm, nó cũng ít tốn chi phí hơn, và thuận lợi cho đa dạng di truyền hơn. Thêm
nữa, bằng việc gieo hạt giống thẳng xuống đất canh tác, hệ thống tự nhiên sẽ tự xác định
loài cây nào sinh trưởng tốt nhất ở nơi nào.
Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp ngoại lệ. Một số loài cây không thể trồng
bằng hạt, ví dụ như sa-kê, .v.v., hoặc có những loại cây ăn quả không thể cho ra loại quả
ngon như cũ nếu được trồng bằng hạt, ví dụ như xoài, bơ, v...v..., mà phải ghép cây.
Một số giống cây thì lại sinh trưởng tốt hơn bằng phương pháp giâm cành, và có thể ở
một số khu vườn, việc giâm cành lại dễ thực hiện hơn là gieo bằng hạt, một số loại hạt
giống khác thì đòi hỏi cần phải được gieo ngay sau khi thu hái. Nếu hệ thống của vườn
chưa sẵn sàng thì những giống này cần được ươm mầm trước. Ví dụ, ở một số nơi ở
Haiti, hạt cacao chín vào mùa khô và những hạt này cần được gieo ngay bởi chúng sẽ
nảy mầm rất nhanh. Trong trường hợp này, nếu hệ thống hạ tầng của cả khu vườn chưa
sẵn sàng, thì ta cần ươm giống hạt cacao tại vườn ươm ngay. Vậy nên, dù gieo thẳng hạt
giống xuống vườn là phương pháp tối ưu, thì vẫn có nhiều trường hợp mà ta cần ươm
giống trước khi đưa ra vườn trồng.
Cần lưu ý rằng các loại thực vật bản địa cũng là 1 bộ phận quan trọng có khả
năng kết hợp với các giống cây khác nhau để tạo nên 1 hệ sinh thái lành mạnh. Trong
giai đoạn đầu, một số loại cỏ dại sẽ có xu hướng phát triển mạnh và ta có thể tận dụng
chúng để cắt tỉa và tấp ủ làm sinh khối. Hạt giống vãng lai cũng sẽ xuất hiện trong
vườn, chúng có thể được các loài chim hoặc các loại động vật hoang dã đưa đến một
cách có chủ đích để thực hiện một nhiệm vụ nào đó của hệ sinh thái. Nếu không, ta có
thể nhổ chúng đi, nhưng tốt nhất là nên chờ đợi và quan sát xem chúng có vai trò gì!
Những loại cây xuất hiện 1 cách “tình cờ” này thường sẽ gia tăng tính đa dạng cần thiết,
và có thể đang bổ sung cho một chi tiết nào đó mà người nông dân vô tình bỏ ngỏ. Dù
gì thì việc bỏ đi một cây về sau này cũng sẽ dễ dàng hơn nhiều việc trồng thêm cây đó
trở lại.
Những dấu hiệu của 1 khu vườn đã vào giai đoạn thịnh vượng (abundance):
Nếu ta đã thực hành kết hợp tất cả các nguyên lý trên cơ bản được trình bày ở
đây, nếu ta đã bắt đầu bằng một quy hoạch/thiết kế tốt và quản lý khu vườn một cách
toàn diện, khu vườn sẽ chuyển mình theo thời gian. Nhiều chủ vườn chỉ đơn giản biết là
khu vườn sinh trưởng tốt, tuy nhiên, sẽ tốt hơn nếu ta có thể đánh giá sự phát triển của
khu vườn bằng những tiêu chí khách quan. Vậy làm thế nào để bạn biết là khu vườn của
mình đang bước vào giai đoạn thịnh vượng?
Dưới đây là một số gợi ý:
1. Màu sắc tổng thể được cải thiện, từ màu xanh xám (gray hues) sang màu xanh
lá cây sáng hơn (brighter shades of green).
2. Kết cấu đất được cải thiện, có nhiều nấm đất.
3. Cỏ dại chuyển sang các loại thường thấy trong rừng, trái ngược với cỏ trên các
cánh đồng trống.
4. Những loài cây hiếm và khó sống bắt đầu phát triển.
5. Những loài cây lâu năm bước vào giai đoạn phát triển cực thịnh (climax stage).
Thảm thực vật trong khu vườn đổi dần sang màu xanh sáng hơn.
Bên trái – giai đoạn đầu của vườn, bên phải – khi đó đất chưa có chất hữu cơ hay nấm
đất.
Bên trái - cuối giai đoạn đầu của vườn, bên phải – đất đã có một chút chất hữu cơ và
nấm đất.
bên trái – giai đoạn thứ 2, bên phải – chất hữu cơ tăng lên, nấm đất tăng lên.
Giai đoạn đầu Giai đoạn đầu Giai đoạn giữa Giai đoạn trưởng
I II thành
Bước 1: Tầng cao - 9m Bước 2: Tầng thấp trong Bước 3: Cây sinh khối - 1/2m
hàng A1 và tầng đỉnh - tất cả các hàng và tầng trong tất cả các hàng và những
12m hàng A2 trung bình trong hàng A2 hàng cây sinh khối bụi
Danh sách cần chuẩn bị:
Tốt nhất là lên kế hoạch, vẽ ra chính xác những hàng cây cho cả trang trại và lập
danh sách dựa trên điều này, nhưng để giúp bạn có được ước tính sơ bộ về các con số,
hãy xem thông tin bên dưới. Ước tính sau đây là cho chiều dài 18 m của 3 hàng (A1, C,
A2) và giả sử các hàng có cùng độ dài:
Tầng đỉnh: 2
Tầng Cao: 3
Tầng Trung bình: 4
Tầng Thấp: 11
Cây sinh khối: khoảng 100
Cây thấp sinh khối: 240 phiến cỏ hoặc 80 hạt đậu Triều (khoảng 1/2 kg)
Nếu hạt giống cây sinh khối không có sẵn để mua, biểu đồ này có thể giúp bạn
biết khi nào chúng sẽ trưởng thành và sẵn sàng để thu thập trên cánh đồng. Ngoài ra,
một số cây có thể được bắt đầu trồng bằng cách giâm cành.
Sự quản lý:
Tuyên bố trước: Phần này là một công việc đang tiến hành. Với nhiều kinh
nghiệm quản lý trang trại hơn thì điều này sẽ được phát triển nhiều hơn trong tương lai.
Loại bỏ các bộ phận của cây bằng cách cắt tỉa, làm cỏ hoặc tỉa thưa là trọng tâm
chính của việc quản lý trang trại. Có nhiều lý do để cắt tỉa, và người nông dân nên ghi
nhớ tất cả chúng. Thường thì một lần cắt tỉa có thể phục vụ nhiều mục đích cùng một
lúc. Dưới đây là một số ví dụ:
• Để có nhiều ánh nắng mặt trời (đồng bộ hóa)
• Tạo đà tăng trưởng (không phù hợp trong mùa khô)
• Loại bỏ các bộ phận cây chết hoặc bị bệnh
• Loại bỏ cây không mong muốn (làm cỏ và tỉa thưa)
• Để ngăn ngừa sự lão hóa
• Mặt đất cần lớp phủ để che phủ đất
• Để duy trì khoảng trống giữa các tán cây
• Để giữ một cây ở độ cao tốt nhất cho nông dân để thu hoạch trái cây hoặc gỗ
Dưới đây là một số chiến lược cụ thể để xem xét cho một số cây được trồng trong
thiết kế được cung cấp ở đây:
Cây sinh khối: Đợi đến khi cây cao khoảng 3 mét. Khi mùa mưa bắt đầu, hãy cắt
ngọn mỗi cây ở ngang ngực. Làm vết cắt sạch, vát góc lên trên. Điều này giữ cho cây
khỏe mạnh. Cắt lá ra khỏi cành. Đặt cành lên mặt đất trước, sau đó đặt lá lên trên.
Người nông dân có thể muốn giữ một số gỗ để đốt và xây dựng, nhưng càng nhiều gỗ
trên mặt đất thì đất sẽ càng khỏe, đặc biệt là nấm đất.
Trong suốt mùa, cắt tỉa các nhánh bên của cây khi cần thiết để các cây trồng trong
khu vực B có đủ ánh nắng mặt trời và không gian.
Cây sinh khối:
Chuối là một loại cây sinh khối tuyệt vời. Nó được khuyến khích để phát triển
chúng dư thừa, vượt ra ngoài các vị trí hiển thị trên thiết kế. Khi thân giả có thể được
thu hoạch, cắt nó theo chiều dọc và cắt ngang thành từng khúc. Đặt các bộ phận trên
mặt đất xung quanh các cây. Điều này đặc biệt hữu ích cho việc giữ nước trong đất.
Sau khi cắt tỉa, thân chuối được cắt thành từng mảnh và các chất hữu cơ được
phân bố quanh các cây
Khi các cây sinh khối khác được sử dụng, chẳng hạn như cỏ, đậu Triều hoặc
hướng dương Mexico, thì cắt chúng khi nhìn thấy những dấu hiệu nở hoa đầu tiên. Cỏ
có thể được cắt giảm xuống ngang với ống đồng của chân (còn cao khoảng 20cm), các
cây khác được cắt đến khoảng đầu gối (còn khoảng 40cm). Đặt chất hữu cơ ở nơi mong
muốn, ví dụ xung quanh cây ăn quả. Việc cắt tỉa thường lặp lại trong mùa sinh trưởng.
Cây có múi: Cây có múi như cam, chanh vàng, chanh da xanh và bưởi là những
cây tầng trung bình. Đây là một thành viên xuất sắc của hệ thống này, nhưng đòi hỏi
đào tạo và các công cụ đặc biệt. Những cây tầng cao hơn được trồng dọc theo những
cây này sẽ cần cắt tỉa nhiều hơn. Điều quan trọng là tránh để cây ăn quả che bóng cây có
múi.
Cắt tỉa nhiều hơn là cần thiết vì hai lý do. Đầu tiên cây có múi không thể cắt ngọn
của chúng, vì vậy những cây xung quanh sẽ cần được cắt tỉa để có không gian cho
những tán cây có múi đang phát triển. Ngoài ra, cây có múi tạm thời cần nhiều ánh nắng
hơn trong giai đoạn ra hoa của chúng. Vì vậy, những cây tạo bóng mát cho chúng sẽ cần
được cắt tỉa hàng năm. Để thực hiện kiểu quản lý này đòi hỏi phải cắt tỉa cao trong cây.
Điều này có thể nguy hiểm và thao tác như vậy cần phải được đào tạo nhiều hơn
và sử dụng các công cụ chuyên dụng hơn. Việc cắt tỉa như vậy chỉ nên được thực hiện
bởi những người có kinh nghiệm. Vì những lý do đó, cam quýt không được đưa vào
trong danh sách các cây ở trên.
Một lựa chọn thay thế để tránh hầu hết việc cắt tỉa lành nghề này là sử dụng
những cây tầng thượng có thay lá hàng năm (rụng lá vào mùa khô). Ở các vùng của
Haiti, cây cedrela odorata (và có lẽ là cây swietenia mahogoni) được làm theo cách này
và sẽ tạo nên những người bạn đồng hành hoàn hảo cho những cây họ cam quýt. Chúng
sẽ rụng lá một cách tự nhiên khi cần tiếp xúc với ánh nắng mặt trời cao hơn. Trong hệ
thống này, người nông dân vẫn sẽ phải chọn một cây tầng cao có thể được cắt tỉa mạnh
(có thể chùm ngây, inga và gliricidia là những lựa chọn tốt).
Các năm sau:
Giai đoạn nhau thai của hệ thống kéo dài khoảng 2 năm. Nếu một số cây chết
hoặc bạn muốn thêm nhiều loại khác, thì đừng lo lắng, bạn có thể làm điều đó trong giai
đoạn này. Sau đó, không thể thêm cây mà không cắt tỉa mạnh, vì hệ thống đã bắt đầu tự
xác định.
Trong 2 năm đầu, người nông dân có thể thêm các loài cây lâu năm (climax
species). Tốt nhất là gieo hạt trực tiếp. Ernst thích giắc hạt giống một cách rộng rãi và
để hệ thống quyết định hạt nào sẽ phát triển. Theo cách này theo thời gian, trang trại sẽ
chuyển từ một hệ thống có lối đi sang một khu rừng xuất hiện tự nhiên hơn.
Các loài bản địa thường sẽ tự phát triển trong hệ thống. Điều này là tốt, nên được
khuyến khích và thường là tự nhiên lấp đầy các khoảng trống trong kế hoạch trồng ban
đầu. Làm việc với tự nhiên và tự nhiên sẽ làm việc cho bạn.
Tương lai của nghề nông?