You are on page 1of 107

CÔNG TY CỔ PHẦN TRÁCH NHIỆM MỘT THÀNH VIÊN Y THIỂN DI

NHÓM GIÁO VIÊN TẬP HUẤN PHỤC HỒI SINH THÁI VÀ PHÁT
TRIỂN VƯỜN RỪNG

GIÁO ÁN
HUẤN LUYỆN
Bài: Các kỹ thuật chống sói mòn trên đất dốc và mô hình canh tác vườn
rừng tương hợp năng lượng
(Dùng trong lớp tập huấn cán bộ TP Kon Tum tháng 7/2021)

GIÁO VIÊN

Nguyễn Huy Hoàng


Ngày
tháng 7 năm 2021
PHÊ DUYỆT
CỦA TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC

1. Phê duyệt giáo án: HUẤN LUYỆN


Bài: Các kỹ thuật chống sói mòn trên đất dốc và mô hình canh tác vườn
rừng tương hợp năng lượng
Của: đ/c Nguyễn Huy Hoàng – Tình nguyện viên
2. Phê duyệt tại
a. Thông qua tại
- Địa điểm: Công ty TNHH Y Thiên Di
- Thời gian: 07.30- 08.00 ngày tháng 7 năm 2021
b. Phê duyệt tại
- Địa điểm: Công ty TNHH Y Thiên Di
- Thời gian: 08.00- 08.30 ngày tháng 7 năm 2021
3. Nội dung phê duyệt
a. Phần nội dung giáo án
- Giáo án viết đầy đủ nội dung, bố cục rõ ràng, hợp lý
- Trình bày đúng quy cách.
b. Phần thực hành thông qua
- Nắm chắc nội dung huấn luyện, trình bày lưu loát
- Thể hiện tốt phương pháp huấn luyện.
4. Kết luận
- Đủ điều kiện huấn luyện cho lớp tập huấn cán bộ thành phố Kon Tum tháng
7/2021
Yêu cầu: Tích cực thục luyện giáo án, làm tốt công tác chuẩn bị. Huấn luyện
đúng kế hoạch.

GIÁM ĐỐC
Phần một: Ý ĐỊNH TẬP HUẤN
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích: Nhằm giới thiệu cho cán bộ lớp tập huấn nắm được Các kỹ thuật chống
sói mòn trên đất dốc và mô hình canh tác vườn rừng tương hợp năng lượng và áp dụng
cho thực tế công tác, sản xuất của mình và địa phương.
2. Yêu cầu: Nắm được Các kỹ thuật chống sói mòn trên đất dốc và mô hình canh tác
vườn rừng tương hợp năng lượng và áp dụng cho thực tế công tác, sản xuất của mình và
địa phương.
II. NỘI DUNG
1. Đặt vấn đề.
2. Giới thiệu chung về thiết kế quy hoạch Nông nghiệp bền vững.
3. Các kỹ thuật chống sói mòn trên đất dốc.
4. Áp dụng và phát triển kỹ thuật canh tác bền vững.
5. Giới thiệu Mô hình vườn rừng tương hỗ năng lượng.
III. THỜI GIAN
1. Thời gian chuẩn bị tập huấn
- Thời gian thông qua giáo án: 07.00- 08.00 ngày tháng 7 năm 2021
- Thời gian thục luyện giáo án: ngày 14, 15 tháng 7 năm 2021
- Thời gian hoàn thành mọi công tác chuẩn bị: ngày 16 tháng 7 năm 2021
2. Thời gian thực hành tập huấn
- Tổng thời gian: 08 giờ
- Lên lớp lý thuyết: 04 phút
- Tham quan, kiểm tra: 04 phút
IV. TỔ CHỨC - PHƯƠNG PHÁP
1. Tổ chức : Lấy lớp tập huấn là đơn vị để huấn luyện
2. Phương pháp
a. Đối với giáo viên: Giới thiệu bằng phương pháp thuyết trình và giới thiệu trực tiếp
trên thực địa.
b. Đối với cán bộ tập huấn: Theo dõi ghi chép nội dung, tham quan thực địa.
V. ĐỊA ĐIỂM
- Lý thuyết tại hội trường xã Đak Rơ Va, tham quan tại vườn ở Đak Rơ Va.
VI. BẢO ĐẢM
1. Tài liệu: Giáo án, Bài Giảng.
2. Vật chất: Bút, vở ghi chép.
Phần hai: THỰC HÀNH TẬP HUẤN
Bài: Các kỹ thuật chống sói mòn trên đất dốc và mô hình canh tác vườn rừng
tương hợp năng lượng
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. NHỮNG VẤN ĐỀ MANG TÍNH CHẤT TOÀN CẦU
Trái đất là một không gian hữu hạn với nguồn tài nguyên hữu hạn và do các hoạt
động của con người mỗi ngày có ít rừng, nước sạch hơn, đất kém màu mỡ và ít đa dạng
sinh học hơn ngày trước. Mặt khác, mỗi ngày có nhiều người hơn, nhiều xe hơn, nhiều
nhà máy hơn, sông, hồ và biển ô nhiễm hơn, nhiều rác thải hơn, nhiều khí nhà kính hơn,
v.v. so với ngày trước. Về mặt logic, kết quả tất yếu của quá trình này là cuối cùng
chúng ta sẽ đạt đến điểm mà hành tinh sẽ bị bao phủ bởi con người, rác thải và ô nhiễm,
trong khi các nguồn lực cơ bản cần thiết cho việc duy trì sự sống của con người sẽ trở
nên khan hiếm giảm số lượng dân số.
Để hiểu rõ hơn về tình huống này, chúng ta hãy tập trung vào những gì đang diễn
ra với hai trong số những tài nguyên thiết yếu nhất đối với cuộc sống của con người:
nước và đất.
1. Nước
Tài nguyên thiết yếu nhất cho cuộc sống cũng là một trong những mối đe dọa
nghiêm trọng nhất bởi nền văn minh của chúng ta. Do sự kết hợp của một số yếu tố,
nguy cơ khủng hoảng nước toàn cầu được nhiều người coi là một trong những mối đe
dọa chính đối với nhân loại trong tương lai gần.
Nước bị đe dọa bởi:
• Gia tăng dân số, liên quan đến tăng trưởng tiêu thụ nước bình quân đầu người.
• Ô nhiễm nước do nước thải sinh hoạt và công nghiệp, dòng chảy nông nghiệp,
bồi lấp các dòng sông do xói mòn đất, v.v., dẫn đến giảm lượng nước sạch có sẵn.
• Tăng cường thực hành nông nghiệp với việc tưới tiêu bừa bãi, gây ra sự cạn kiệt
của nước mặt (sông hồ) và nước ngầm (mực nước ngầm).
• Phá rừng và thực hành nông nghiệp không bền vững, nén đất bằng trâu bò và
chống thấm đất do áp lực về phát triển đô thị, dẫn đến giảm sự xâm nhập của nước vào
đất và tăng dòng chảy, làm giảm mực nước, làm khô suối và giảm dòng nước trong
sông.
• Biến đổi khí hậu, làm giảm lượng và lượng mưa đều đặn, góp phần gây ra tình
trạng khan hiếm nước ở nhiều nơi trên thế giới, đồng thời gây ra các sự kiện thời tiết
khắc nghiệt như bão và lũ lụt ở những nơi khác.
2. Đất
Đất là nền tảng cho sự sống trên cạn, bao gồm cả cuộc sống của con người. 95%
thực phẩm của chúng ta đến từ nó.
Phần đất có khả năng hỗ trợ sự sống (và do đó sản xuất thức ăn) là lớp bề mặt
(lớp đất mặt), nói chung là lớp trên cùng 5 đến 20 cm. Đây là khu vực tập trung hầu hết
các chất hữu cơ, vi sinh vật và chất dinh dưỡng.
Lớp đất mặt được hình thành qua hàng thiên niên kỷ và do đó, vì lý do thực tế,
được coi là một nguồn tài nguyên không tái tạo. Bây giờ vấn đề là lớp đất mặt đang bị
mất với tốc độ nhanh trên toàn thế giới, do nạn phá rừng tiến bộ và thực hành nông
nghiệp không bền vững, như đã thảo luận. Hiện tại, khoảng 80% đất nông nghiệp trên
toàn thế giới đã bị suy thoái ở mức độ vừa phải, và các nhà khoa học ước tính rằng
trong vòng 60 năm tới, nhân loại có thể cạn kiệt đất màu mỡ. Điều đó có nghĩa là khả
năng sẽ giảm đáng kể. để sản xuất thực phẩm, kết hợp với tăng trưởng dân số (theo dự
đoán của Liên Hợp Quốc, chúng ta sẽ đạt dân số 11 tỷ người trong thế kỷ này), sẽ có
nghĩa là một cuộc khủng hoảng cung cấp thực phẩm không thể đảo ngược (nói cách
khác là nạn đói), ở quy mô toàn cầu.
Mặc dù phân bón hóa học cho phép sản xuất lương thực trong đất bị thoái hóa,
nhưng điều đó sẽ không giải quyết được vấn đề, bởi vì chúng cũng là tài nguyên hữu
hạn, không thể tái tạo đang được khai thác và tiêu thụ với tốc độ ngày càng tăng của
nông nghiệp công nghiệp, do đó, một ngày nào đó chúng sẽ xâm nhập một cách nguy
hiểm thiết bị đầu cuối suy giảm. Trong số đó, đáng chú ý nhất là phốt pho và nitơ.
Phốt pho là một yếu tố thiết yếu cho sự sống, cần thiết cho quá trình chuyển hóa
năng lượng tế bào, hình thành màng, sản xuất DNA và một số phân tử quan trọng khác
trong tất cả các sinh vật được biết đến. Nó cũng là một chất dinh dưỡng đa lượng đất
(cần thiết ở nồng độ tương đối cao cho sự phát triển của cây). Tuy nhiên, nó có sẵn với
số lượng hạn chế trên Trái đất. Nguồn phốt pho nông nghiệp quan trọng nhất là đá phốt
pho, vốn chỉ có rất nhiều ở một số quốc gia, nổi bật nhất là Morocco, nơi chứa 70% trữ
lượng toàn cầu của chất dinh dưỡng này. Người ta ước tính rằng trữ lượng đá phốt phát
có thể tiếp cận về mặt kinh tế sẽ đi vào suy giảm giai đoạn cuối và cạn kiệt tuyệt đối
trên toàn cầu trong vài thập kỷ qua, cái gọi là phốt pho đỉnh.
Nitơ, một chất dinh dưỡng đa lượng đất khác, cũng đặt ra một thách thức lớn.
Nitơ ở dạng phân urê là loại phân hóa học được sử dụng nhiều nhất trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, sản xuất urê đòi hỏi khí tự nhiên (nhiên liệu hóa thạch), một nguồn tài
nguyên cũng đang cạn kiệt, như sẽ được thảo luận thêm.
Sự phá hủy độ phì nhiêu của đất tự nhiên và sự cạn kiệt của trữ lượng phân
khoáng và hóa chất và sự suy giảm năng lực sản xuất lương thực, liên quan đến dân số
quá mức, sẽ tạo ra một áp lực lớn đối với việc chuyển đổi đất mới sang sử dụng nông
nghiệp, nói cách khác là phá rừng nhiều hơn , vì mọi người sẽ thấy đây là cách duy nhất
để sản xuất thực phẩm và thoát khỏi nạn đói trong thời gian ngắn. Trong một kịch bản
như vậy, các khu rừng còn lại của hành tinh này đã giành chiến thắng trước bất kỳ cơ
hội nào, nó sẽ là sự kết thúc của đa dạng sinh học trên cạn. Bây giờ, hãy thử đoán xem
điều gì sẽ xảy ra khi những mảnh đất cuối cùng bị mất?
3. Sự nóng lên toàn cầu / biến đổi khí hậu
Sự nóng lên toàn cầu là sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu đang diễn ra chủ
yếu do các hoạt động của con người liên quan đến sự phát thải của cái gọi là khí nhà
kính, trong đó quan trọng nhất là carbon dioxide (CO2), metan (CH4) và nitơ oxit
(N2O).
Phát thải khí nhà kính do con người gây ra (chủ yếu là do con người) có nguồn
gốc chủ yếu từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch (than, dầu mỏ và khí tự nhiên) để sản xuất
điện, sưởi ấm, xử lý công nghiệp và vận chuyển (nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là xăng
và dầu diesel, chiếm 95% năng lượng được sử dụng trong vận tải trên toàn cầu) và sử
dụng đất, bao gồm nông nghiệp, chăn nuôi, phá rừng, đốt có chủ ý và suy thoái đất.
Các loại khí như vậy được tạo ra bởi các hoạt động của con người đã được tích
lũy trong khí quyển kể từ Cách mạng Công nghiệp, và ngày càng nhiều hơn trong Thời
đại Dầu mỏ của chúng ta, do đó nồng độ hiện tại của chúng cao hơn nhiều so với mức
tự nhiên.
Các khí nhà kính hấp thụ bức xạ gián tiếp từ Mặt trời do Trái đất phản xạ và cung
cấp năng lượng đó dưới dạng nhiệt, gây ra sự gia tăng trong khí quyển và do đó cũng là
nhiệt độ trên đất liền và đại dương. Cho đến gần đây, hậu quả của hiệu ứng nhà kính
không được chú ý rõ ràng, nhưng ngày nay rõ ràng ở khắp mọi nơi trên thế giới rằng khí
hậu đang thực sự thay đổi: tất cả các khu vực đang ấm lên và ở nhiều nơi đã giảm đáng
kể lượng mưa hàng năm . Các khu vực từng ẩm ướt bây giờ khô và các khu vực khô
trước đây đã trở thành sa mạc thực sự, v.v.
Kể từ năm 1900, nhiệt độ bề mặt trung bình của Trái đất đã tăng khoảng 1°C và
Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) dự đoán trong báo cáo năm 2013 về
khả năng tăng lên tới 4,8° C trước cuối thế kỷ 21. Công ước khung của Liên hợp quốc
về biến đổi khí hậu (UNFCCC) đã kết luận rằng để tránh hậu quả thảm khốc, sự nóng
lên toàn cầu phải được giới hạn ở 1,5 hoặc 2°C so với nhiệt độ tiền công nghiệp và để
đạt được mục tiêu đó cần phải có giảm đáng kể và ngay lập tức phát thải khí nhà kính
toàn cầu. Mặc dù 195 đảng quốc gia đã ký thỏa thuận để đạt được mục tiêu đó, khí thải
toàn cầu vẫn tiếp tục tăng sau khi các nhà khoa học dự đoán một loạt các tác động tiêu
cực từ sự nóng lên toàn cầu trong tương lai, bao gồm cả mực nước biển tăng (do sự giãn
nở nhiệt và băng tan và băng băng cực ), thay đổi mô hình mưa, mở rộng sa mạc, tăng
cường độ và tần suất của các sự kiện thời tiết khắc nghiệt như sóng nhiệt, hạn hán, bão,
lũ lụt, bão, v.v. và cũng tăng cường axit hóa đại dương (dẫn đến tử vong do san hô) và
sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật và thực vật khỏi mất môi trường sống.
Sự nóng lên toàn cầu sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nhân loại: mực nước
biển dâng cao sẽ buộc hàng trăm triệu người sống ở vùng ven biển rời khỏi nhà của họ,
vì nhiều thành phố sẽ bị nhấn chìm. Nhiệt độ tăng có thể làm cho hầu hết các vùng nhiệt
đới không thể ở được. Hơn nữa, vì những thay đổi trong mô hình mưa và sự mở rộng sa
mạc, các khu vực rộng lớn trên toàn cầu sẽ phải đối mặt với khủng hoảng nước và lương
thực nghiêm trọng, gây ra nạn đói lan rộng. Áp lực như vậy sẽ tạo ra một cuộc khủng
hoảng di cư toàn cầu chưa từng có. Tất cả những yếu tố đó sẽ gây căng thẳng lớn cho
các mối quan hệ quốc tế, dẫn đến việc củng cố biên giới để ngăn chặn dòng chảy của
những người đói khát và khát nước, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nhân đạo.
QUY LUẬT TỰ NHIÊN
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CỤ THỂ 1. ĐaCỦA
dạngCANH
sinh thái.
TÁC NÔNG NGHIỆP MIỀN NÚI
2. Vận hành theo các chu
1. Sự gia tăng áp lực dân số gây ra các vấn đề bức xúc về đất canh tác và an
trình:
toàn lương thực, và sức ép lên tài nguyên thiên nhiên miền núi
+ Quang hợp.
+ Tuần hoàn nước.
+ Chu trình các bon.
+ Chu trình ni tơ
Ở các khu vực nông thôn miền núi, mật độ dân cư không cao như các khu vực đô
thị ở vùng đồng bằng nhưng lại có tốc độ tăng dân số rất nhanh. Theo Đỗ Đình Sâm
(1995), tốc độ tăng dân số ở miền núi Việt Nam biến động trong khoảng 2,5 - 3,5%
trong khi tốc độ bình quân của cả nước ở dưới mức này nhiều. Tình trạng này một phần
chủ yếu do phong trào di dân tự do từ các khu vực đồng bằng quá đông đúc lên các
vùng đồi núi, đặc biệt là các tỉnh khu vực Tây Nguyên (Đán Lan, Gia Lai, Kon Tum).
Dân số tăng trong điều kiện khan hiếm đất có tiềm năng nông nghiệp ở miền núi đã dẫn
đến bình quân đất canh tác đầu người giảm. Tuy miền núi Việt Nam được xem là khu
vực dân cư thưa thớt với mật độ bình quân 75 người/km2 nhưng bình quân diện tích đất
canh tác đầu người rất thấp (vào khoảng 1200 - 1500 m2/người) (FAO và IIRR, 1995),
trong khi đó mức đất canh tác để đáp ứng nhu cầu lương thực tối thiểu là
2000m2/người. Ở khu vực miền núi của 11 tỉnh phía Nam, diện tích canh tác bình quân
đầu người ở dưới 1000m2/người, còn thấp hơn cả ở miền núi ở các tỉnh phía bắc miền
Trung như Nghệ An và Thanh Hóa (Jamieson và cộng sự, 1998). Trong lúc đó khả năng
tăng diện tích lúa nước - là hệ thống sản xuất ngũ cốc có năng suất cao và ổn định nhất
Việt Nam - ở khu vực miền núi rất hạn chế, chỉ diễn ra ở các khu vực phân tán nhỏ hẹp
có thể tưới tiêu được Vì vậy có thể nói rằng mật độ dân số đang tiến gần đến hoặc thậm
chí đã vượt quá khả năng chịu đựng của đất đai ở phần lớn khu vực miền núi (Jamieson
và cộng sự, 1998).
Sự gia tăng dân số đã tạo ra áp lực lớn lên tài nguyên thiên nhiên miền núi là
rừng, đất và nguồn nước, làm các nguồn tài nguyên quí giá này suy giảm nhanh chóng.
2. Sự suy thoái về tài nguyên thiên nhiên và môi trường Văn hóa và xã hội
Sự suy giảm nhanh chóng tài nguyên rừng: Độ che phủ rừng cả nước giảm từ từ
40,7% vào 1940 xuống chỉ còn 27,7% vào 1993 (Đỗ Đình Sâm, 1994). Cách đây 50
năm, rừng tự nhiên bao phủ phần lớn khu vực đồi núi nhưng trong những năm gần đây
đã giảm xuống dưới 20% ở phần lớn khu vực đồi núi phía Bắc, thậm chí có nơi giảm
còn 10% như ở khu vực miền núi vùng Tây Bắc. Các diện tích rừng còn lại phần lớn là
rừng nghèo kiệt, trữ lượng gỗ thấp và hiếm có loài cây có giá trị kinh tế.
Sự suy thoái của đất đai là điều dễ thấy ở khắp miền núi Việt Nam. Do thiếu rừng
che phủ, xói mòn đất và rửa trôi chất dinh dưỡng diễn ra mạnh làm giảm độ màu mỡ
của đất. Canh tác nương rẫy vốn là phương thức canh tác truyền thống của các dân tộc
miền núi, tỏ ra khá phù hợp trong điều kiện mật độ dân cư thấp và tài nguyên rừng còn
phong phú trong những thập kỷ gần đây, do áp lực dân số và sự suy giảm diện tích rừng,
giai đoạn canh tác kéo dài hơn và giai đoạn bỏ hóa bị rút ngắn lại, dẫn đến sự suy giảm
liên tục của độ phì đất và cỏ dại phát triển mạnh. Kết quả dẫn đến giảm năng suất cây
trồng một cách nhanh chóng.
Sự suy giảm về đa dạng sinh học. Nhiều loài động thực vật đã bị biến mất hoặc
trở nên khan hiếm. Nạn phá rừng, việc phát triển trồng rừng thuần loài và nông nghiệp
độc canh đã làm suy giảm đa dạng sinh học, trong đó chủ yếu bao gồm đa dạng di
truyền, đa dạng chủng loài và đa dạng về hệ sinh thái.
3. Tình trạng đói nghèo
Vào năm 1994, khi GDP bình quân của cả nước là 270 USD thì ở miền núi phía
Bắc chỉ là 150 USD và ở Tây Nguyên là 70 USD. Rất nhiều nơi ở miền núi có thu nhập
tiền mặt bình quân đầu người dưới 50 Usd/năm. Hộ nghèo đói chiếm 34% ở miền núi
phía Bắc và hơn 60% ở Tây Nguyên, với thu nhập bình quân đầu người dưới
50.000đ/tháng, rất thấp so với tỉ lệ hộ nghèo đói bình quân là 27% của cả nước. Hơn
56% hộ gia đình ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên ở tình trạng suy dinh dưỡng
nghiêm trọng, có tiêu thụ năng lượng dưới l,500kcals/người/ngày trong lúc phải cần
2200-2500kcals/người/ngày (Jamieson và cộng sự, 1995). Tình trạng đói nghèo không
chỉ thể hiện ở thu nhập thấp mà còn ở không đảm bảo các nhu cầu cơ bản khác như giáo
dục, y tế, thông tin văn hóa xã hội, v.v.
Sự phát triển theo các mô hình canh tác rập khuôn, áp đặt và phụ thuộc vào bên
ngoài.
Trái ngược với điều kiện đa dạng về sinh thái - nhân văn và sự phong phú về kiến
thức canh tác truyền thống ở miền núi, các chương trình phát triển miền núi của chính
phủ thường thực hiện theo các "mô hình" quản lý kỹ thuật đồng bộ, hình thành theo
cách nghĩ của người vùng đồng bằng. Các nhà nông nghiệp và lâm nghiệp được đào tạo
chính thống thường có định kiến về sự lạc hậu của các phương thức sản xuất truyền
thống, hay nghĩ đến việc tăng cường thực hiện pháp luật nhà nước và áp đặt các mô
hình kỹ thuật sản xuất từ bên ngoài hơn là hình thành các và phát triển các hệ thống
quản lý kỹ thuật thích ứng, phối hợp giữa kiến thức bản địa và kỹ thuật mới phù hợp với
các điều kiện cụ thể của nông dân và thúc đẩy phát huy tính tự chủ của họ trong quản lý
tài nguyên (Hoàng Hữu Cải, 1999). Chính điều này đã làm giảm hiệu quả và tác dụng
của nhiều các chương trình phát triển miền núi mặc dù có đầu tư rất lớn.
4. Xu hướng giao thoa giữa lâm nghiệp, nông nghiệp và các ngành khác
trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế.
Khái niệm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp một cách thuần túy và tách biệt theo
quan niệm trước đây đã trở nên không còn phù hợp ở nhiều khu vực dân cư ở miền núi.
Phát triển sử dụng đất thuần nông hoặc thuần lâm đã bộc lộ nhiều hạn chế lớn, chẳng
hạn canh tác thuần nông trên đất dốc cho năng suất thấp và không ổn định trong khi
phát triển thuần lâm lại có khó khăn về nhu cầu lương thực trước mắt. Thực tiễn sản
xuất đã xuất hiện các phương thức sử dụng đất tổng hợp, có sự đan xen giữa nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
III. THỰC TIỄN
1. Độc canh cây công nghiệp và vòng luẫn quẩn nuôi con gì, trồng cây gì.
2. Diện tích trồng sắn mở rộng quá mức và hệ quả của nó.
3. Đất đai ngày cành bị sói mòn, thoái hóa, không thể trồng các loại cây có
giá trị kinh tế, đất đai rất rộng nhưng lương thực ăn hàng ngày cơ bản là nhập từ
tỉnh khác.
IV. GIẢI PHÁP NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
- Quy hoạch bền vững dựa vào các điều kiện cụ thể của tự nhiên – xã hội, tôn
trọng các quy luật, quy trình của Tự Nhiên và dựa vào các điều kiện đó để tạo thành thế
mạnh thay đổi nền nông nghiệp không bền vững, sang bền vững. Đạt đủ 3 tiêu chí: Sinh
Kế, Sinh Thái, Và Sức khỏe con người.
B. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THIẾT KẾ QUY HOẠCH
NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG.
Có hai bước cơ bản phải tiến hành trong một nền nông nghiệp bền vững hoàn
chỉnh. Bước thứ nhất liên quan đến các quy luật và nguyên tắc phải áp dụng ở bất cứ
chế độ khí hậu và chế độ canh tác nào; bước thứ hai gắn với các biện pháp kỹ thuật phải
thay đổi theo các chế độ khí hậu và điều kiện canh tác khác nhau.
Những nguyên tắc thảo luận ở đây nằm trong thiết kế của hệ thống nông nghiệp
bền vững (NNBV), ở bất cứ chế độ khí hậu nào với bất cứ quy mô nào, những nguyên
tắc chọn từ các bộ môn: sinh thái học, bảo vệ năng lượng, thiết kế cảnh quan, khoa học
môi trường, được tóm tắt như sau:
Định vị tương đối: mỗi yếu tố (như các công trình kiến trúc, nhà ở, ao, hồ, đường đi
v.v.) được xếp đặt trong mối quan hệ hỗ trộ cho nhau.
Mỗi yếu tố thực hiện nhiều chức năng.
Mỗi chức năng quan trọng được nhiều yếu tố hỗ trợ.
Xây dựng kế hoạch năng lượng có hiệu suất cho nhà ở, vùng, khu vực.
Ưu tiên sử dụng tài nguyên sinh học.
Tái chu kỳ năng lượng tại chỗ.
Sử dụng và tăng vụ cây tự nhiên để làm cho đất tốt và xanh tươi.
Đa canh và đa dạng hóa các loài cây cối để tăng sản lượng và tăng mức độ tương tác
trong hệ thống.
Tìm cách sử dụng bờ rìa và mô hình tự nhiên có lợi nhất.
I. ĐỊNH VỊ TƯƠNG ĐỐI
Xác định liên hệ giữa các vật thể là vấn đề cốt lõi trong thiết kế một hệ thống nông
nghiệp bền vững. Đây không phải đơn thuần là việc một dòng nước, một con gà, một
cái cây, mà là vấn đề: dòng nước, con gà đó và cái cây đó liên kết với nhau như thế nào
trong hệ thống. Cách đặt vấn đề trái với những điều người ta thường dạy chúng ta ở nhà
trường. Học đường tách riêng từng thứ cây không hề đả động đến liên kết giữa các vật
thể. Nông nghiệp bền vững sẽ tạo ra sự liên hệ, vì khi cái cây và con gà đã liên hệ với
nhau thì cây có thể nuôi sống được con gà. Để một hợp phần lập ra có thể vận hành có
hiệu quả, hợp phần đó phải được đặt vào đúng vị trí.
Thí dụ: Phải bảo vệ vùng rừng phía trên để tạo nguồn nước cho hệ thống, đập và hồ
giữ nước phải đặt ở vị trí cao hơn nhà ở và vườn thì mới có thể tạo ra một luồng nước
sử dụng trọng lực dẫn được nước mà không phải dùng bơm. Hàng cây chắn gió cho nhà
ở phải thiết kế để làm chệch hướng gió nhưng không che mất ánh mặt trời sưởi ấm
trong mùa đông, vườn ở khoảng gần giữa nhà và chuồng gà, cỏ rác trong vườn thu lại
rải dưới chuồng gà, phân gà rải bón cho cây trong vườn. Ta thiết lập mối liên hệ của
từng yếu tố, sao cho những yêu cầu một yếu tố có thể thoả mãn bằng sản lượng của một
yếu tố khác (Kinh tế tuần hoàn). Để làm việc đó, phải nghiên cứu đặc trưng cơ bản, nhu
cầu, sản phẩm của từng yếu tố.
Những yếu tố trong một vùng canh tác nhỏ điển hình gồm có: Khu nhà ở, nhà rẫy,
đường đi lại, các khu vườn, chuồng trại, bể chứa nước, các hố ủ phân,vườn ươm cây,
rừng tự nhiên, đập nước, sông suối, ao nuôi trồng thủy sản, đai cây chắn gió, đồng cỏ,
hàng rào …. Các hợp phân kể trên cần phải sắp xếp để mọi yếu tố vận hành có lợi nhất.
Đối với mỗi yếu tố, cần phân tích để xây dựng chiến lược nhằm mục đích:
"Sản phẩm của một yếu tố đặc biệt có thể sử dụng cho nhu câu của các yếu tố khác như
thế nào?”
"Các yếu tố khác đã cung cấp cho nhu câu của yếu tố này những gì?"
"Một yếu tố có thể không phù hợp vói các yếu tố khác ở những mặt nào?"
"Một yếu tố có thể có lợi cho nhũng yếu tố khác ỏ những mặt nào?"
Áp dụng: Xã ta đang thiếu hợp phần nào, những hợp phần đó đặt đúng vị trí chưa,
Vườn mì độc canh đang trồng tận trên đỉnh núi có hợp lý không, Các con đường dân
sinh đã có hệ thống chống sói mòn bảo vệ chưa, Hệ thống cây xanh để chắn gió, điều
hòa khí hậu, đã chủ động sản xuất phân bón hửu cơ cung cấp cho vùng từ những
nguyên liệu có sẳn của địa phương hay chưa.
II. MỖI YẾU TỐ ĐẢM BẢO NHIỀU CHỨC NĂNG
Mỗi yếu tố trong hệ thống phải được chọn lọc và đặt vào vị trí để có thể bảo đảm
được nhiều chức năng nhất. Hồ ao, sông suối có thể dùng để tưới nước, cung cấp nước
uống cho gia súc, dự trữ nước cứu hoả, cũng có thể là nơi nuôi trồng thủy sản, Mặt đập
nước có thể dùng làm đường đi, trồng cây chắn lửa, trồng tre.
Các cây cỏ ích khác có thể được chọn, trồng vào những vị trí thích hợp để được sử
dụng vào một hoặc nhiều mục đích khác nhau: chắn gió, chống cháy, giàn cây, làm rác
tủ cây, thực phẩm, lương thực, thức ăn gia súc, nhiên liệu, chống xói mòn, làm nơi trú
ngụ cho vật nuôi, điều hòa khí hậu ….
Áp dụng: Xã ta đang có những yếu tố nào có sẳn, nhưng chưa tận dụng hết các chức
năng (Ao hồ, ruộng bậc thang, vườn ươm, đập thủy lợi, Sông suối, Hệ thống cây
xanh…)
III. MỖI CHỨC NĂNG QUAN TRỌNG ĐƯỢC NHIỀU YẾU TỐ HỖ TRỢ
Những nhu cầu cơ bản quan trọng là nước, thức ăn, năng lượng, phòng hoả cần
được giải quyết bằng nhiêu cách. Thí dụ: xây dựng kế hoạch chu đáo phải có đồng cỏ
hàng năm, đồng cỏ lưu niên, cây thân gổ cho gia súc hoặc cây là thức ăn (Dự trữ, cho
gia súc ăn lá, quả và cành thấp trong thời kỳ khan hiếm.
Áp dụng: Xã ta đã tận dụng các diện tích trồng cỏ cho gia súc ăn vào mùa khô
chưa, đã áp dụng các kỹ thuật trống sói mòn, bẫy nước và canh tác nhiều tầng để
hạn chế hạn hán vào mùa khô hay chưa…)
IV. KẾ HOẠCH SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG CÓ HIỆU QUẢ CAO
Chìa khoá của kế hoạch sử dụng năng lượng có hiệu quả cao (thực chất là một kế
hoạch tiết kiệm năng lượng hữu hiệu) là các vùng và các khu đặt các cây con, hàng lối,
và cấu trúc của hệ thống. Những yếu tố duy nhất làm thay đổi vị trí đặt cây con là các
nhân tổ thị trường ở địa phương, điều kiện thông thường, độ dốc, điều kiện khí hậu địa
phương, những địa bàn đặc biệt trong vùng (đồng bằng ngập lụt, suờn đồi đá gập
ghềnh), những điều kiện thổ nhưởng đặc biệt (như đồi đá, đầm lầy). Dưới đây là bàn
thiết kế mẫu cho một địa bàn "lý tưởng", đát dốc thoải. Tuy vậy, trên địa hình "thực tế"
không dể dàng như vậy, công việc xây dựng kế hoạch còn phức tạp khó khăn rất nhiều.
Quy hoạch vùng theo cường độ sử dụng từ gần đến xa khu dân cư

Vùng 0 là trung tâm hoạt động (nhà ở, nhà kho, hoặc thôn xóm nếu thiết kế có quy
mô rộng). Vùng này được đặt nhằm mục tiêu bảo toàn năng lượng và đáp ứng nhu cầu
dân cư.
Vùng I ở gần nhà, là vùng được kiểm tra kỹ, có giá trị sử dụng cao, có thể gồm
vườn, xưởng, những cơ sở nuôi súc vật nhỏ, chứa nhiên liệu, phân ủ, rác tủ. Gia súc lớn
không nuôi trong vùng này, có thể trồng một vài cây to bóng mát hoặc cây nhỏ thí dụ
cây chanh.
Vùng II có mật độ trồng cao (cây bụi cao, cây ăn quả loại nhỏ, vườn cây ăn quả
trồng hỗn hợp, cây chắn gió, cấu trúc có thể gồm: thềm, hàng rào, giàn cây, ao. Cây
trồng nhiều tầng, có một số cây cao to, dưới có tầng cây nhỡ, và thảm cỏ. Cây và con
cần được chăm sóc và khảo sát để được nuôi trồng ỏ khu vực này; có máng nước tưới
đều khắp, có diện tích được chọn riêng nuôi gà (vườn cây ăn quả, và cây thân gổ) để gà
có thể kiếm ăn tự do; diện tích dành cho bò có rào ngăn với vùng bên cạnh.
Vùng III gồm vườn cây ăn quả không tỉa cành và cũng không tủ rác, đồng cỏ rộng,
nuôi gia súc thả đàn. Có diện tích nước cho gia súc uống. Gia súc nuôi là trâu, bò, dê….
Các loại cây gồm cây chắn gió, rừng thấp, rừng cây thân gỗ, và cây lớn (như giẻ và sồi)
lấy lá cho gia súc ăn, vùng này phù hợp với mô hình vườn rừng tương hỗ năng lượng,
làm du lịch trải nghiệm nông nghiệp.
Vùng IV bán hoang dại để trồng cây không tỉa cành, quản lý, sản phẩm quản lý có
thu hoạch là dược liệu trồng dưới tán, mật ong rừng, du lịch sinh thái.
Vùng V là khu vực không quản lý, để phát triển tự nhiên. Công tác thiết kê ngừng
lại ỏ Vùng V. Ở vùng V là nơi khoanh nuôi bảo vệ rừng tự nhiên, là nơi ổn định sinh
thái cho cả vùng, hạn chế đi lại, bảo tồn các giống cây quý. (Đối với địa hình Kon Tum
thường vùng này là các nơi núi cao, địa hình hiểm trở).
Áp dụng: Xã ta đã quy hoạch các vùng một cách hợp lý hay chưa, khu gần nhà đã
tận dụng trồng cây rau, chăn nuôi gia súc nhỏ, nguồn thức ăn dự trữ cho động vật
vào mùa khô chưa, Khu ở xa đã tận dụng và phát triển vườn rừng, dược liệu dưới
tán, khoanh nuôi bảo vệ rừng hay vẫn đang canh tác cây ngắn ngày, giá trị kinh tế
thấp, vận chuyển vất vả và tốn kém
V. SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN SINH HỌC
Chúng có thể thực hiện được hệ thống nông nghiệp bền vững sử dụng tài nguyên
sinh học để tiết kiệm năng lượng và làm mọi công việc trong trang trại, tái chu kỳ chất
dinh đưồng cải thiện môi trường sống, làm đất tơi xốp, chống hoả hoạn, chống xói mòn
v.v...
Xây dựng tài nguyên sinh học trên một địa bàn là một công việc đầu tư lâu dài, cân
được suy tính, và quản lý qua các bước của kế hoạch, coi việc tái chu kỳ năng lượng và
phát triển năng lượng là chiến lược then chốt phát triển một hệ thống bền vững. Thay
cho phân đạm ta dùng phân xanh và các cây họ đậu, thay cho máy cắt cỏ, thuốc diệt cỏ
ta dùng ngỗng vặt cỏ và trồng các giống cỏ ngắn cây, thay cho thuốc trừ sâu ta dùng các
phương pháp kiểm tra sâu bệnh bằng sinh học, và các giống vật như gà, lợn ăn cỏ có thể
thay cho máy cắt cỏ và như vậy là khống phải dùng thuốc trù cỏ và phân hóa học.
Vậy, việc áp dụng thận trọng hợp lý những tài nguyên phi sinh vật (máy móc vận
hành bằng nhiên liệu hóa thạch, phân hóa học, và các trang thiết bị kỹ thuật), trong bước
đầu của nông nghiệp bền vững là việc có thể chấp nhận được, nếu những yếu tố này
được dùng để tạo ra những hệ thống sinh học bền vững và một hạ tầng cơ sở vững
mạnh.
Ví dụ: Đun nước bằng năng lượng mặt tròi, các loại ống bằng chất dẻo chế tạo từ
các nguồn tài nguyên không tái sinh được, đều có thể dùng để sản xuất ra năng lượng tại
chỗ cho chúng ta. Ta có thể thuê máy ủi đất để làm đường, đắp đập, ủi vũng, đào
mương chuyển hướng thoát nước, máy kéo phá những tảng đất cứng không có giá trị
sản xuất, dùng bừa đĩa đào đất khô để có đất phù sa gieo hạt, dùng xe vận chuyển phân
và rác mùn ở các khu lân cận để triển khai hệ thống mới của ta.
Phân hóa học bón cho đất nghèo kiệt có thể sản xuất cây phân xanh để tạo ra độ phì
sinh học. Vấn đề đặt ra là lượng phân hàng năm sản xuất ra bị hạn chế hoặc do thói
quen phụ thuộc vào máy móc nên chúng ta không sử dụng được nhũng tài nguyên đó
một cách khôn ngoan để xây dựng những hệ thống sinh học trên mảnh đất của ta hoặc
cùa cộng đồng.
Bằng mọi cách: thận trọng sử dụng những nguồn tài nguyên sẵn có, và sử dụng xác
đáng nhất, đồng thời phát triển giải pháp mới càng sớm càng tốt.
Áp dụng: Xã ta đã có giải pháp gì cho vấn đề này, người dân đã biết tận dụng các cây
họ đậu cải tảo đất, Nuôi cấy vi sinh để cung cấp dinh dưỡng, làm các thuốc trừ sâu
sinh học, làm phân bón vĩnh cửu từ các ao hồ trồng bèo, nuôi ốc….Hay dùng quá
nhiều phân hóa học và các loại thuốc hóa học dẫn đến tình trạng thoái hóa đất, ô
nhiểm môi trường, năng xuất cây trồng giảm và chỉ trồng được các loại cây giá trị
thấp.
VI. CHU KỲ NĂNG LƯỢNG
Trong hệ thống cung cấp lương thực hiện đại, nhu cầu dinh dưỡng đầy đủ và nhiều
thức ăn hàng ngày được một mạng lưới thị trường, kho tàng vận chuyển bảo đảm trên
khắp toàn cầu. Mạng lưới thực phẩm toàn cầu này tất nhiên tiêu tốn rất nhiều năng
lượng so với các nền sản xuất nông nghiệp đa dạng ở các địa phương, và mạng lưới này
chi có thể hoạt động nhờ vào sự trợ cấp nhiên liệu. Tuy vậy, giá phải trả cho mạng lưới
thực phẩm không thể nào kiềm chế được, và đã tác động trở lại đổi với các trang trại.
Những biện pháp "hữu hiệu" đã phải áp đặt lâu dài đối với người sản xuất, gây hại cho
đất đai và giảm chất lượng nông sản. Thuốc trừ sâu, phân hóa học dùng liều lượng cao,
những phương pháp canh tác và kỹ thuật làm đất thiển cận đã trở thành một giải pháp
thông thường, vô vọng, hạ giá thành, tăng năng suất bảo đảm cho nền kinh tế ổn định.
Áp dụng: Việc cân đối giữa các sản phẩm tự cung tự cấp, bán tại địa phương (Chi
phí vận chuyển trên giá trị hàng hóa cao), sản phẩm đặc sản giá trị cao (chi phí vận
chuyển trên giá trị hàng hóa thấp) bán ở địa phương đồng chí thế nào.
Một cộng đồng được hổ trợ bởi một nền nông nghiệp bền vững đa dạng không bị
ảnh hưởng của sự phân phối của thị trường, bảo đảm nhiều loại thức ăn phong phú, đáp
ứng yêu cầu dinh dưỡng, mà không hy sinh chất lượng và hủy diệt đất canh tác. Tiết
kiệm năng lượng lớn nhất là ở chỗ xoá bỏ cước phí vận tải tốn kém, đóng gói, và tiếp
cận thị trường.
Các hệ thống nông nghiệp bền vững không để cho nguồn chất dinh dưỡng và nguồn
năng lượng thất thoát, mà chuyển chúng thành chu trình tại chỗ. Ví dụ: phế liệu trong
bếp chuyển thành phân ủ; phân gia súc dùng để sản xuất sinh khí hoặc bón cây; nước
rác thải (sử lý bằng công nghệ thực vật, vi sinh) ra tưới cho vườn cây; phân xanh vùi
vào đất; lá rụng được cào thu lại tủ cho cây. Ở những vùng quy mô lớn, nưỏc cống rãnh
được xử lý sản xuất phân bón dùng trong vùng.
Một đồ án hợp lý sử dụng năng lượng tự nhiên đem đến cùng với năng lượng sinh ra
tại chỗ để bảo đảm một chu kỳ năng lượng hoàn toàn.
Quy luật thứ hai của nhiệt động lực học chứng minh rằng nhiệt lượng luôn luôn bị
thất thoát hoặc mất dần công dụng trong hệ thống. Tuy vậy, chính nhờ quay vòng liên
tục mà sự sống tồn tại trên trái đất. Do tác dụng tương hổ giữa cây và súc vật, năng
lượng sử dụng được tăng tại chổ. Mục đích của nông nghiệp bền vững không phải chỉ
nhằm tái chu kỳ để tăng năng lượng, mà còn nhằm tích trữ và sử dụng mọi yếu tổ trước
khi chúng giảm xuống mức năng lượng thấp nhất trở thành vô dụng và mất đi. Công
việc của chúng ta là sử dụng tối mức cao nhất nguồn năng lượng (mặt trời, nước, gió,
phân bón).
Nước được hứng, trữ từ trên đồi cao để được sử dụng qua một hệ thống phức tạp
(ao, chuôm, vũng nhỏ, ruộng bậc thang), nhằm sản xuất ra năng lượng, cho đến khi có
thể để nước chảy ra ngoài nơi chứa.
Nếu ta không quan tâm bảo vệ rừng và phát triển vườn rừng, thiết kế hệ thống nước
ở đồi cao mà chỉ lo xây dựng đập nước ở dưới thung lũng, ta sẽ bỏ lợi thế nước chảy từ
cao xuống có trọng lượng, phải cần đến năng lượng chạy máy bơm để đưa nước trở lại
trên cao. Thực tế, lượng nước mưa chưa phải là nhân tố quan trọng nhất, mà chính là
những mô hình ta xây dựng nên để sử dụng nước một cách thuận lợi nhất. Cần bảo vệ
rừng đầu nguồn và có nhiều điểm dự trữ hữu ích để điều khiển nước.
Áp dụng: Người đồng bào Kon Tum rất dõi trong việc lấy nước và điều khiển nguồn
nước, hiện nay do phá rừng và quy hoạch không hợp lý khiến văn hóa giọt nước
đang có nguy cơ mai một dần.
VII. HỆ THỐNG THÂM CANH QUY MÔ NHỎ
Hơn là các máy nông nghiệp lớn (như máy gặt đập, xe vận tải lớn, hệ thống nông
nghiệp bền vững thích hợp với các dụng cụ thủ công (phát cỏ, cắt cỏ, sửa cành, rìu, xe
cút kít) ỏ các xí nghiệp nhỏ; với cái máy đơn giản chạy bằng nhiên liệu (máy kéo, cát
cỏ, cào cỏ, cưa dây) ỏ các xí nghiệp lớn hơn.
Mặc dù hệ thống nông nghiệp bền vững lúc bắt đầu triển khai, là một hoạt động tổn
sức lao động, nhưng nó không phải là mô hình nông nghiệp trở lại chế độ trồng cây
hàng năm của nông dân vất vả cục nhọc suốt năm, phụ thuộc hoàn toàn vào sức người.
Nông nghiệp bền vững tập trung vào đồ án thiêt kế trang trại (hoặc vườn tược, hoặc địa
phương) có lợi nhất, sử dụng một lượng sức lao động (Các tổ chức cộng đồng, bạn bè
và láng giềng có thể cùng tham gia), từng bước xây dựng vườn cây lâu năm có sản
lượng, dùng rác lá tủ gốc để diệt cỏ, áp dụng những công nghệ có khả năng cung cấp và
tiết kiệm năng lượng sử dụng máy móc trong trường hợp thích hợp và ở mức độ vừa
phải.
Hệ thống thâm canh quy mô nhỏ yêu cầu hai điều kiện: rác lá mục được tủ trên khắp
diện tích và địa điểm thường xuyên được kiểm tra. Ở một địa điểm nhỏ thường không
có vấn đề đặt ra, nhưng trên một địa điểm lớn người ta thường mắc sai lầm mở quá rộng
diện tích vườn rau, vườn cây ăn quả, vườn cây thân gổ, và sân thả gà. Việc đó gây lãng
phí thời gian, năng lượng và nước. Nếu bạn thấy một trang trại cỏ mọc từ trước cửa nhà,
và lan ra khắp ranh giới, bạn có thể kết luận diện tích đất đã quá lớn so với thời gian bỏ
ra, sức lao động, vốn đầu tư và sự quan tâm của chủ nhân.
Áp dụng: Việc dùng quá nhiều diện tích để trồng các cây giá trị kinh tế thấp,
nhân công khó khăn nên phải lạm dụng máy mọc, xe cộ đi lại gây áp lực lên hệ
thống giao thông, thuốc diệt cỏ, phân hóa học để chỉ đủ kinh tế sống ở mức thấp.
Thay vào đó liệu có giải pháp canh tác ít đất hơn phù hợp với nhân công có sẳn, còn
vùng còn lại khoanh nuôi giữ rừng, phát triển du lịch địa phương.
VIII. GIA TỐC DIỄN THẾ VÀ TIẾN HÓA
Các hệ thống sinh thái tự nhiên phát triển và biến diễn qua một thời gian tạo nên
một chuỗi kế tiếp các loài thực vật và đống vật khác nhau. Ví dụ: một đồng cỏ không
chăn thả sẽ lân lượt bị những thảm cỏ và cây dại mọc chiếm đất. Cuối cùng những loài
cây cao đỉnh, thích hộp điều kiện đất đai khi hậu, chiếm ưu thế. Mỗi giai đoạn tạo ra
điều kiện tối ưu cho giai đoạn nổi tiếp.
Loài cây tiên phong chiếm đất phải cố định đạm làm cho đất tơi xốp, ổn định đất có
độ đổc cao, hút độ ẩm dư thừa, là nơi trú ngụ cho động vật. Cây tiên phong cải thiện và
tạo ra môi trường thuận lợi cho những loài kế tiếp ở giai đoạn sau.
Trong nền nông nghiệp hiện nay, đổi với cây trồng được giữ ở độ cao của cỏ (rau,
cây ăn hạt, cây họ đậu, đồng cỏ chăn thả) năng lượng được sử dụng để cắt, làm cỏ, xáo
xới, kể cà để đốt. Điều đó có nghĩa là ta luôn luôn đẩy lùi hệ thống, bỏ công sức và năng
lượng để ngăn cản sự diễn thế phát triển tự nhiên.
Đáng lẽ ngăn cản quá trình đó, ta có thể hướng dẫn và tăng cường quá trình để thiết
lập những loài cây cao đinh của chúng ta trong một thời gian ngắn hơn, bằng cách :
Sử dụng cây đã mọc, thưòng là một thảm cỏ, để tạo độ phì cho đất. cỏ mềm có thể
phủ một lớp hoặc băm nhỏ tủ quanh gốc cây khác. Cây bụi lưu niên thân gổ băm nhỏ tủ
đất có thể tạo ra tầng mùn và được tủ cho cây.
Những cây có khả năng tồn tại trong điều kiện môi trường và tạo độ phì cho đất.
Tuỳ theo loại đất phải khai thác (đất bị xói mòn, đất chua mặn, đất sình lầy, đất bạc
màu, đất kiềm, đất chua, đất sét, đất cát) ta có thể trồng các loài cây họ đậu hàng năm
hay lâu năm thích nghi với địa phương (làm phân xanh, sản xuất nguyên liệu tủ, và
trồng những loài cây bụi lâu năm có khả năng tồn tại phát triển ỏ địa phương). Ta phải
đợi một thời gian mới có thể trồng những cây cao đỉnh khi điều kiện đất đai đã được cải
thiện.
Có kế hoạch nâng cao tỷ lệ chất hữu cơ trong đất bằng phương pháp tủ đất, trồng
cây phân xanh, dùng phân xanh ủ, và nhiều loại phân để thay đổi môi trường đất. Với
phương pháp này, ta có thể trồng sớm hơn hoặc, kết hợp với các biện pháp kể trên, có
thể trồng những hạt giống cây cao đỉnh ở ngoài lề khu vực nếu được chăm sóc tốt.
Dùng những loại cây truyền thống có ích (cỏ, cây tiên phong chiếm đất, các loài cây
cao đỉnh) thay thế những cây tự nhiên sẵn có khó nhưng có ích. Ví dụ: cây bầu bí bản
địa, mọc nhanh và che phủ đất và có thu hoạch ngay năm đầu.
Áp dụng: Liệu hiện nay chúng ta đang coi cỏ dại, cây bụi bản địa là kẻ thù và tìm
mọi cách tiêu diệt nó.
IX. TÍNH ĐA DẠNG
Mặc dù đối với một loại cây nào đó năng suất trong hệ thống độc canh có thể cao
hơn, nhưng năng suất tổng số của các hoa màu trong hệ thống nông nghiệp bền vững
vẫn cao hơn. Trong hệ thống độc canh, một hécta rau cho sản lượng rau trong suốt năm.
Trong hệ thống nông nghiệp bền vững rau chỉ là một phần nhỏ trong tổng sản lượng trái
cây, cây có dầu, dược liệu, gỗ, củi đun, các loại hạt, thịt động vật, gà, cá.
Về yêu cầu tự túc, một gia đình được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng (quả, rau,
protein và chất khoáng). Về mặt kinh tế có nhiều loại sản phẩm được bán ra, gia đình
nông dân tránh được những biến động của thị trường, thất bát do sâu bệnh và khí hậu,
nếu gặp năm thịt bò xuống giá, bà con nông dân sẽ giữ đàn bò lại đợi thời cơ thuận lợi
mà chỉ đem bán trái cây, hạt cốc. Nếu sương giá làm rụng quả thì cũng đã có sản phẩm
khác để ăn hoặc bán.
Mục đích của chúng ta là phân phối sản phẩm thu hoạch trong thời gian để mùa nào
cũng sẵn có sản phẩm tiêu dùng. Mục đích đó có thể đạt được bằng nhiều cách:
- Chọn một tập đoàn giống chín sớm, chính vụ, chín muộn.
- Trồng cùng một giống với kỹ thuật khác nhau để cây chín sớm, chín muộn khác
nhau.
- Chọn những giống có vụ thu hoạch kéo dài.
- Tăng cường tính đa dạng và tính kiêm dụng của các loài trong hệ thống để lá, quả,
hạt, rễ đều là sản phẩm thu hoạch.
- Sử dụng những loài cây có thể tự dự trữ sản phẩm trong thòi gian dài như các loại
củ - hạt cứng - quả - rễ thân, để thu hoạch khi cần.
- Áp dụng các kỹ thuật bào quản: phơi khô, cất giữ.
- Trao đổi buôn bán trong và giữa các cộng đồng.
Tính đa dạng thường được liên hệ với tính ổn định của nông nghiệp bền vững. Tuy
vậy tính ổn định chỉ thực hiện được giữa các loài có thể hợp tác được vói nhau, hay giữa
các loài không gây hại cho nhau. Không phải chỉ đơn giản là công việc trồng hoặc nuôi
một số cây con trong hệ thống theo ý muốn của mình; vì chúng có thể cạnh tranh nhau
về ánh sáng, nước, và chất dinh dưõng. Một số loài cây, như cây óc chó và cây bạch
đàn, qua bộ rễ tiết ra những chất hóa học ức chế sự sinh trưỏng của cây kia. Có loài cây
là nơi trú ẩn qua đông cho các loài sâu bệnh hại. Ngựa và bò cùng chăn thả trên đồng cỏ
có thể làm hỏng cánh đồng. Cây lớn che ánh sáng của các cây lương thực ăn hạt. Dê thả
vào vưòn cây ăn quả sẽ gặm vỏ cây. Như vậy, nếu muốn đưa những yêu tố đó vào trong
một hệ thống, cần chú ý trồng những loài cây cách ly hoặc tạo những cấu trúc giữa các
yếu tố gây hại.
Tầm quan trọng của tính đa dạng không nhất thiết là ở sổ lượng các yếu tố trong
một hệ thống mà chính là số lượng các liên hệ chức năng giữa các yếu tố đó. Không
phải là số lượng vật thể, mà là số lượng các phương thức và các vật thể có tác dụng lẫn
nhau.
Áp dụng: Hiện nay người nông dân nếu chỉ có mỗi đất canh tác họ sẽ thu hoạch vào
một thời điểm trong năm, và phụ thuộc quá nhiều vào vào giá cả, những tháng
không có tiền họ hay phải vay nợ để đợi đến mùa thu hoạch và hay xuất hiện hiện
tượng bán lúa non. Dẫn đến đời sống không ổn định.
X. TÁC DỤNG RÌA
Rìa là khoảng diện tích giữa hai môi trường: đó là diện tích giữa mặt nước và không
khí, là vùng đất nhỏ tiếp xúc với nước, là đường biên giữa đất và nước biển, là khoảng
đất giữa rừng và đồng cỏ, đất cây bụi mọc. Rìa là diện tích giữa vùng có sương giá và
vùng không có sương giá trên sườn đồi. Rìa là ranh giới của một bãi hoang mạc. Khi
nào ranh giới giữa các loài, khí hậu, đất, độ dốc khác nhau, hoặc các điều kiện tự nhiên
hoặc nhân tạo, tiếp giáp nhau là có rìa.
Rìa là nơi có điều kiện sinh thái biến đổi (đất/nước, rừng/đồng cỏ, cửa sông/biển,
đồng hoa màu và vườn cây ăn quả, Điểm gấp khúc thay đổi độ dốc, bờ ruộng, bờ ao, bờ
suối, nơi các mạch nước ngầm chảy ra. Tài nguyên của cả hai hệ thống đều có thể đưọc
sử dụng ngoài ra, rìa thường có những loài đặc biệt, duy nhất. Trong thiên nhiên, khu
vực sinh thái đá ngầm san hô (rìa giữa san hô và đại cương) nằm trong một số hệ thống
có khả năng cao nhất trên thế giới, cũng như rừng đước (đất/biển tiếp giáp).
Khó có những khu vực định cư truyền thống bền vững mà không có những diện tích
tiếp giáp với hai chế độ kinh tế tự nhiên. Nơi này là diện tích giữa chân đồi - và đồng
bằng; nơi kia là rìa giữa đồng bằng và đầm lầy, đất và cửa sông, hoặc những tổ hợp
tương tự. Một phong cảnh có một tổ hợp rìa phong phú vừa đẹp mắt vừa có nhiều lợi
ích, điều đó có thể coi là cửa sổ của nghệ thuật thiết kế cảnh quan và chắc chắn là: rìa
tăng thì khả năng sản xuất của phong cảnh cũng tăng.
Ta có thể hoặc tìm địa điểm xây dựng nhà ở và định cư đê có thể sử dụng được tài
nguyên của hai (hoặc nhiều hơn) hệ sinh thái; hoặc tăng cường tính phong phú đa dạng
của cơ sở. Nếu ỏ nơi xa nước, ta có thể đào ao, hoặc đắp đập giữ nước; nếu ta đã xây
dựng cơ sở ở đất bằng phẳng, ta có thể dùng máy đắp nền hoặc xây kè, nếu không có
rừng phải trồng một vườn cây thân gỗ. Ngay trong phạm vi một trang trại lớn, ta có thể
xây dựng những yếu tố nhỏ để tạo ra rìa. Ví dụ: một cái ao chỉ có thể có một chiều sâu
một hình dạng (với một nền sinh thái đơn giản); hoặc ta có thể xây dựng hồ ao với nhiều
độ sâu, nhiều hình dạng khác nhau và tạo ra những cù lao, ta có thể trồng cói (nguyên
liệu đan lát) hoa súng trắng và củ ấu, trong hồ cũng đủ loài cá ăn sâu, ăn nông, và cù lao
là nơi trú ngụ của nhiều loài gia cầm biết bơi.
Rìa có thể định nghĩa là đường hàng rào, bờ hồ, đưòng vào, khu vực giữa nhà ở và
đường xe, lối đi quanh vườn, sân cao, một diện tích được xây dựng một kiến trúc (hàng
rào, nhà ở, sân gà, lối vào, một hàng cây chắn gió, giàn cây). Trong định canh, rìa cũng
quan trọng trong việc xác định duy trì một khu vực trong một hệ thống đã thiết kế.
Chỉ có xác định cụ thể rìa chung quanh một diện tích đất ta mới có thể tiến hành
kiểm tra được. Nếu không bổ sung hàng rào quanh vườn bằng cách trồng một hàng rào
trấn áp bảo vệ bằng cây cỏ, thì các yếu tố từ bên ngoài (loài vật, cây) sẽ thâm nhập xâm
lấn vườn. (Khái niệm hàng rào sinh học, phòng chống sâu bệnh).
Vậy ta bàn về một khái niệm khác về rìa, liên quan đến sinh học hay mô hình của
rìa. Ta hãy nghĩ đén bố cục của bộ não hoặc ruột cùa con người. Có hàng mét vật liệu
đựng trong một khối lượng rất nhỏ, và có biết bao nhiêu rìa và chức năng của rìa hằng
cách thao tác vào hình dáng của rìa. Một rìa cong có nhiều lợi ích hơn một rìa thắng
nhất là cong theo đường xoáy ốc. Rìa lượn theo làn sóng có ích hơn. vì tiếp xúc với
nhiều đất ụ hoặc luống có nhiều rìa ; nhiều cây có thể trồng theo vòng xoáy ốc xung
quanh một ụ, đặc biệt ở những vùng nhỏ diện tích bị hạn chế. Vì vậy hình dạng của rìa
là một vấn đề nên nghiên cứu.
Áp dụng: Hiện nay chúng ta bỏ phí rất nhiều lợi thế của vùng rìa để xây dựng, quy
hoạch các khu vườn truyền thống mang tính thẩm mỹ cao, phát triển văn hóa ruộng
bậc thang, phá rừng, hoặc phá thoáng cả một vùng rộng lớn để trồng độc canh,
không lợi dụng phân xanh từ các hàng rào, bờ suối, tăng diện tích trồng cỏ dự trử
cho mùa khô, chống sạt lở cho mùa mưa ở các bờ rìa….
C. GIỚI THIỆU CÁC KỸ THUẬT BẢO TỒN ĐẤT VÀ NƯỚC CÁC KỸ THUẬT
CHỐNG SÓI MÒN TRÊN ĐẤT DỐC
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BẢO TỒN ĐẤT VÀ NƯỚC
1. Tính cấp bách của việc chống xói mòn bảo vệ đất
Xói mòn là một hiện tượng tự nhiên ảnh hưởng đến đất đai và gián tiếp đến sức sản
xuất của một địa điểm, đặc biệt là trên đất dốc. Sự thành lập của lớp đất mặt, nơi chứa
đựng các quá khứ, tiềm năng và tương lai của con người, diễn ra rất chậm cả đến hàng
trăm năm do quá trình phong hoá của lớp đá mẹ. Tuy nhiên, hàng tấn đất mặt dễ dàng bị
xói mòn trôi ra sông, ra biển trong một thời gian ngắn nếu con người không biết giữ gìn
quan tâm đến sự sử dụng đất của mình. Cho nên bảo tồn đất để kiểm soát sự xói mòn
cần được quan tâm vì:
+ Xói mòn diễn ra trên hầu hết các vùng đất dốc. Đất càng dốc khả năng xói mòn
càng mạnh, xói mòn phụ thuộc vào chế độ mưa và các hoạt động sử dụng đất của con
người.
+ Xói mòn đang là nhân tố quan trọng nhất làm suy thoái tài nguyên đất, làm hoang
hoá các vùng đất dốc nhiệt đới, làm đói nghèo đời sống của người dân ở nhiều vùng trên
thế giới.
+ Xói mòn càng mạnh thì khả năng phục hồi của đất và tài nguyên sinh vật càng khó
khăn, vật liệu bào mòn làm cạn hồ tích nước, gây lũ lụt hạn hán. Chống xói mòn để bảo
vệ vốn đất là một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất và là sự tồn tại lâu bền của con
người trên hành tinh.
2. Tính cấp bách của việc bảo tồn nước
Nước là một tài nguyên quan trọng cho cuộc sống của con người trên quả đất. Tuy
nhiên nước cũng là một tai hoạ cho chúng ta nếu quá thừa hay quá thiếu vì nó sẽ là
những nguyên nhân gây ra các thiên tai như lũ lụt và hạn hán. Xét đến tài nguyên nước
chúng ta nên quan tâm đến số lượng, sự điều hoà phân phối theo thời gian và chất lượng
của nó. Khi xã hội loài người phát triển như cầu về nước càng tăng lên vì:
+ Nhu cầu nước của con người ngày càng tăng lên đó là nhu cầu nước tưới cho
trồng trọt, nước cho chăn nuôi, nước cho công nghiệp và nước cho sinh hoạt hàng ngày.
+ Nguồn nước đang ngày càng khan hiếm và mất ổn định dẫn đến hoang hoá đất
đai, lũ lụt, hạn hán...
+ Nguồn nước đang bị ô nhiễm (ô nhiễm hữu cơ, chất độc hoá học.)
+ Sự sử dụng đất đai bị chi phối bởi lưu vực nước của các hệ thống sông ngòi và
càng ngày người ta càng nhận thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ của thượng lưu, hạ lưu một
con sông và vùng biển cận duyên của một khu vực.
3. Một số nguyên tắc chính của việc phòng chống xói mòn đất
3.1. Phân loại xói mòn đất
Đất bị xói mòn do nhiều yếu tố và đó cũng là cơ sở để phân thành các loại xói
mòn khác nhau như sau:
+ Xói mòn do gió: gió làm khô và rời rạc các phần tử đất, cát và bị gió thổi đi đến
nơi khác.
+ Xói mòn do trọng lực: Đất di chuyển do chính trọng lượng của nó, có thể là đất bị
trôi theo khe, rãnh, cũng có thể do lở đất đá.
+ Xói mòn do nước: đây là loại xói mòn do sự công phá của giọt mưa đối với lớp
đất mặt và sức công phá, cuốn trôi của dòng chảy đây là loại xói mòn nguy hiểm cho
vùng đất dốc khi không có lớp phủ thực vật, gây ra các hiện tượng xói mặt, xói rãnh, xói
khe...

3.2. Các yếu tố chi phối đến xói mòn đất


a) Khí hậu
Quan hệ giữa điều kiện khí hậu với tình hình xói mòn đất hết sức mật thiết và
phức tạp. Ví dụ ở nơi có độ ẩm cao do mưa nhiều dễ gây ra xói mòn. Nhưng ở đâu có
điều kiện khí hậu thuận lợi thì cây, cỏ sinh trưởng tốt và như vậy sẽ làm hạn chế xói
mòn. Ngược lại ở nơi khô hạn, lượng mưa ít, cây cỏ khô cằn thì khả năng ngăn cản lực
công phá của giọt mưa kém dễ xói mòn. Nơi có gió mạnh làm tăng cường tốc độ rơi của
giọt mưa và dễ gây xói mòn.
Trong các yếu tố khí hậu thì lượng mưa ảnh hưởng trực tiếp đến xói mòn mạnh nhất, nó
thể hiện qua sự phân bố mưa theo mùa trong năm và cường độ mưa. Khi cường độ mưa
càng lớn thì sức gõ của hạt mưa xuống mặt đất càng mạnh và làm tăng dòng nước mặt,
độ xốp của đất giảm, sức thấm nước của đất giảm và làm tăng khả năng xói mòn đất.
b) Địa hình
Địa hình là cơ sở của xói mòn đất là điều kiện gây ra dòng chảy, làm cho thế
năng của nước trên mặt đất biến thành động năng. Những yếu tố địa hình làm ảnh
hưởng tới xói mòn đất là: độ dốc, chiều dài dốc và hình dạng mặt dốc.
+ Đất càng dốc, sườn dốc càng dài thì xói mòn càng mạnh.
+ Ngoài ra hướng dốc khác nhau thì điều kiện tiểu khí hậu cũng khác nhau vì điều
kiện chiếu sáng, nhiệt độ, ẩm độ, chế độ gió khác nhau ảnh hưởng đến sinh trưởng, độ
che phủ của thực vật và gián tiếp ảnh hưởng đến xói mòn.
c) Địa chất và đất
Đất là đối tượng của xói mòn, sự phong hoá trên mỗi loại đá mẹ khác nhau sẽ
hình thành các loại đất với các tính chất khác nhau, và như vậy tính chất và cường độ
xói mòn ở mỗi loại đất là không giống nhau.
+ Hình thức xếp lớp của đá mẹ cũng ảnh hưởng tới xói mòn
+ Thành phần cơ giới của đất có ảnh hưởng rất lớn chế độ nước của đất và xói mòn;
đất cát có sức thấm nước tết nhưng kết cấu rời rạc nên sức đề kháng với xói mòn kém,
còn đất sét có sức liên kết lớn nên sức đề kháng xói mòn mạnh nhưng thường bí chặt
khó thấm nước dễ tạo ra dòng chảy bề mặt mạnh gây xói khe...
+ Độ xốp của đất nói lên số lượng lỗ hổng trong đất nhiều hay ít do đó nó ảnh
hưởng lớn tới tốc độ thấm nước và sức chứa nước của đất và như vậy có ảnh hưởng đến
xói mòn.
+ Tính chất hoá học của đất ảnh hưởng tới xói mòn đất: chẳng hạn hàm lượng chất
hữu cơ cao sẽ thúc đẩy sự thấm nước vào đất; các con Ca+, Mg có ảnh hưởng tốt đến
cấu tượng đất.
+ Lượng ion Na+ làm gia tăng nước chảy bề mặt làm xói mòn đất.
d) Thảm thực bì
Thảm thực bì sẽ ngăn cản tết chống lại xói mòn đất: tán lá ngăn cản lực xung kích
của giọt mưa, làm tăng lượng nước thấm vào đất, hạn chế dòng chảy bề mặt mặt khác
bộ rễ thực vật làm thành mạng lưới dày đặc trong đất có tác dụng giữ đất, làm tăng độ
xốp của đất, làm tăng khả năng giữ nước của đất.
e) Các hoạt động sử dụng và quản lý đất của con người.
Nhịp độ tăng trưởng trong cả hai mặt dân số và phát triển kinh tế xã hội trong
nhiều thập kỷ qua đã làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài
nguyên đất. Con người với các hoạt động sử dụng và quản lý đất khác nhau đã góp phần
gây ra xói mòn đất và xói mòn đất đóng vai trò chủ yếu trong việc làm suy thoái đất.
Các hoạt động sử dụng và quản lý đất dẫn đến xói mòn đất như sau:
+ Khai thác rừng không hợp lý
+ Phá rừng làm nương rẫy.
+ Canh tác nông nghiệp không bền vững
+ Lửa rừng
+ Chăn thả gia súc quá mức
+ Xây dựng đường, cầu cống, nhà cửa, đường điện ở vùng đồi núi không hợp lý.
+ Khai thác khoáng sản không hợp lý
+ Trồng rừng quy mô lớn nhưng không chú ý đến hỗn loài và chọn loại cây trồng
hợp lý.
3.3. Sử dụng các biện pháp kỹ thuật để kiểm soát xói mòn
a) Biện pháp cơ học và quản lý để kiểm soát xói mòn
+ Xây dựng các hệ thống tiêu nước
+ Xây dựng bờ tường đá
+ Xây dựng các bậc thang để canh tác
+ Kè đá trên bề mặt dốc
b) Biện pháp dùng thảm thực vật để kiểm soát xói mòn
+ Xây dựng một thảm thực vật bảo vệ
+ Xây dựng đai cây xanh phòng hộ
c) Các biện pháp chống xói mòn truyền thống để kiểm soát xói mòn
+ Làm đất và canh tác theo đường đồng mức
+ Luân canh, xen canh hoa màu
+ Che tủ mặt đất, làm đất hạn chế.
3.4. Một số nguyên tắc chính để bảo tồn đất và nước
Bảo tồn đất và nước là một công việc cần thiết và hết sức cấp bách hiện nay nhằm
sử dụng đất bền vững, do vậy cần phải tuân thủ một số nguyên tắc sau:
Sức sản xuất của đất bị mất đi thì quan trọng hơn nhiều so với chính lớp đất bị bào
mòn mất đi. Do vậy, bảo vệ đất phải là một sự phối hợp các chiến thuật phát triển nông
nghiệp tổng thể có trọng tâm cải thiện kỹ thuật làm sức sản xuất gia tăng. Thông
thường, các kỹ thuật bảo vệ đất chống xói mòn được thiết kế và triển khai trước một
bước đối với kỹ thuật cải thiện năng suất cây trồng để chống xói mòn đất. Tuy nhiên cả
hai đều quan hệ tương hỗ với nhau và phải được triển khai đồng bộ và phối hợp.
Xói mòn là kết quả của việc sử dụng đất như thế nào và chính nó không là nguyên
nhân chính trực tiếp của sự thoái hoá đất. Sự thoái hoá của đất phải được ngăn chặn
trước khi xảy ra, hơn là phát triển một phương án cứu chữa.
Đất đã được nghiên cứu quá nhiều bởi các chương trình và dự án bảo vệ đất chống
xói mòn trong khi đó nông dân là người sử dụng đất lại ít tìm hiểu vấn đề này. Do vậy,
một dự án có mục tiêu bảo tồn đất và nước, giải quyết sự thoái hoá của đất phải dùng
biện pháp triển khai "từ dưới lên", lấy nền tảng từ các hiểu biết của nông dân và nông
trại tại chỗ như là một hệ thống tổng thể để xem xét sự sử dụng đất. Trái lại biện pháp
áp đặt "từ trên xuống" thường chỉ chú trọng giải quyết các triệu chứng của xói mòn đất
qua việc phân chia đất thành các bậc thềm để canh tác xen băng hay các kỹ thuật khác
chỉ thành công nhất định do sự tác động của các tổ chức bên ngoài hệ thống.
Ở các vùng đồi núi cao, năng suất cây trồng bị giảm sút nhiều do thiếu hay thừa
nước, hơn là đất bị xói mòn mất đi. Do vậy cần quan tâm hơn việc quản lý nguồn nước
mưa, nhất là các kỹ thuật bảo tồn nước hơn là chỉ chú tâm vào bảo tồn đất. Kết quả là,
các kỹ thuật canh tác như cây bừa, tủ lớp mặt có tiềm năng và ý nghĩa cao hơn so với
các biện pháp cơ giới để bảo vệ đất và nước chống xói mòn.
Các nỗ lực bảo vệ đất và nước sẽ thành công hơn khi được áp dụng một cách lâu dài
hơn là chỉ áp dụng trong các hoạt động ngắn hạn theo từng dự án nước cố định.
Nông hộ và trang trại cụ thể là trọng tâm cho các chương trình bảo vệ đất và nước.
Nông dân cần được thuyết phục bởi các lợi ích trước mắt, kết quả của các thay đổi
canh tác. Điều quan trọng là phải giải quyết ngay các nhu cầu cấp thiết của nông dân
qua việc giới thiệu các kỹ thuật canh tác sản xuất mang cả lợi ích kinh tế nhanh lẫn có ý
nghĩa phòng hộ lâu dài.
4. Một số kỹ thuật bảo tồn đất và nước có thể áp dụng trong trang trại nông
lâm kết hợp.
4.1.Canh tác theo đường đồng mức
a) Đặc điểm
Canh tác theo đường đồng mức trên đất dốc
là để giảm sự xói mòn đất và lượng nước chảy bề
mặt. Đường đồng mức là đường tưởng tượng nối
các điểm cùng cao độ với nhau trên một mặt dốc
và nó thường trực giao với đường nước chảy
xuống. Thông thường để hạn chế xói mòn người ta
trồng các loại cây bụi hay xây dựng các rào chắn
dọc theo các đường đồng mức của mặt dốc.
Trồng trọt theo đường đồng mức bao gồm
việc xây dựng bẫy đất, bậc thang hay mô đất đồng
mức, hay trồng các hàng cây đồng mức, làm đất,
cày bừa theo đường đồng mức là kỹ thuật đang
được khuyến khích phát triển ở vùng Đông nam Á
để mang lại sự bền vững cho các nông trại ở vùng
cao. Có nhiều cách phối hợp hoa màu với nhau, với gia súc và cây rừng trên cùng một
diện tích canh tác theo đường đồng mức. Hệ thống SALT đã được phát triển và áp dụng
tại Philippin là một dẫn chứng về canh tác theo đường đồng mức.
b) Lợi ích
Giảm xói mòn và nước chảy bề mặt.
Giảm sự mất mát chất dinh dưỡng
c) Giới hạn
Đo đạc và định hướng các đường đồng mức sai sẽ khiến cho đất bị xói mòn mạnh
hơn.
Đòi hỏi lao động cho chăm sóc và giữ gìn.
Cần các kỹ năng chuyên môn để xác định các đường đồng mức.
d) Điều kiện áp dụng
Yếu tố sinh học tự nhiên:
Cải thiện năng suất cây trồng và điều kiện đất là các điểm thuyết phục.
Giữ nước cho các mương tiêu nước sẽ làm gia tăng độ thấm nước vào đất và sản
xuất hoa màu.
Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
Nhiều nơi xây dựng các công trình quy mô trên đất dốc không được luật pháp cho
phép, nên trong trường hợp đó canh tác theo đường đồng mức sẽ là một kỹ thuật phù
hợp để thay thế.
Một số vùng nông dân có tập quán canh tác lên xuống theo dốc vì dễ thao tác các
công cụ và sử dụng trâu bò hay máy cơ khí để làm đất.
4.2. Canh tác theo bậc thang
a) Đặc điểm
Canh tác theo bậc thang là một kỹ thuật
canh tác bảo vệ đất, thường được sử dụng trên đất
dốc, sườn núi để giữ nước và kiểm soát chống xói
mòn. Chúng được xây dựng bằng cách đào và đắp
đất tạo nên các bậc thềm giống như bậc thang đi
lên xuống. Cấu tạo này giúp nước thấm từ từ vào
đất. Các hệ thống bậc thang có thể được củng cố
bằng các mô đất hay các hàng đá xếp ở mép mỗi
bậc thang, cũng có thể trồng cỏ ở giữa 2 bậc thang
kế tiếp nhau hoặc trồng thêm cỏ và cây bụi thấp ở
mép bậc thang. Hệ thống này rất phổ biến để trồng
lúa và các loại hoa màu khác ở vùng cao.
b) Lợi ích
Kiểm soát hiệu quả xói mòn đất.
Các vật liệu bào mòn được giữ lại ở đáy các mương tiêu nước được đào dọc theo
bậc thang.
Giảm chiều dài dốc. Cứ mỗi 2 - 3m chiều dài dốc lại được biến đổi thành bậc thang.
Do vậy vận tốc nước chảy xuống sẽ giảm.
Cải thiện được độ phì của đất lâu dài.
c) Các giới hạn
Có tác động lớn đầu tiên đến đất nên sẽ làm giảm năng suất ít ra là trong 2 - 3 năm
đầu.
Cần lao động và vốn nhiều để xây dựng và bảo trì bậc thang.
Cần có kỹ năng xây dựng và bảo trì bậc thang
Bậc thang cải thiện với mặt dốc cách khoảng chiếm nhiều đất canh tác.
d) Điều kiện áp dụng
Yếu tố sinh học và tự nhiên:
+ Không thích hợp cho các loại đất cạn và dễ lở.
+ Không thích hợp để trồng khoai tây vì các bậc thang sẽ bị úng nước.
+ Loại bậc thềm cải tạo với các bờ dốc ở giữa hai bậc thang chỉ áp dụng nơi mưa ít.
Yếu tố dân sinh kinh tế và xã hội:
+ Ở vài nơi nông dân không chấp nhận kỹ thuật này vì thiếu lao động và thu nhập
của họ thấp.
+ Thiếu sự an toàn về quyền canh tác trên đất là một nhân tố khiến các kỹ thuật canh
tác bảo vệ lâu dài như hệ thống bậc thang không được nông dân chấp nhận.
+ Trên các loại đất nghèo, hệ thống bậc thang cho tỉ lệ thu hồi vốn và lợi nhuận tháp
so với kinh phí đầu tư ban đầu.
4.3. Hoa màu che phủ đất
a) Đặc điểm
Người ta trồng các loại hoa màu phủ đất để bảo
vệ đất giảm xói mòn và để cải tạo đất nhờ vào
lượng phân xanh của chúng (cày vùi các loại thân
lá còn xanh hay các phẩm vật dư thừa hoa màu
canh tác). Các loài thực vật này thường là các loại
có đời sống ngắn (ít hơn 2 năm) và được trồng
ngoài đất đồng ruộng hay dưới tán các cây trong
giai đoạn bỏ hoá. Các loài hoa màu phủ đất này
cũng được trồng xen hay trồng sau khi gieo trồng phân loài các loài cây lấy hạt như ngô
hay được trồng một lần vào chu kỳ canh tác hoa màu. Kỹ thuật trồng hoa màu phủ đất
thường được áp dụng ở Việt Nam và các nước khác ở vùng châu Á để loại trừ cỏ dại
dưới rừng cao su hay dừa và nhằm mục đích cung cấp thức ăn cho gia súc. Hoa màu
phủ đất còn được trồng trong các hệ thống bỏ hoá để cải tạo độ phì của đất nhanh chóng
và rút ngắn được giai đoạn bỏ hoá.
Phần lớn các loại hoa màu che phủ đất để làm lớp che phủ và tạo phân xanh. Thí
dụ như
Sắn dây dại (Pueraria tokinensis)
Đậu bướm (Clitoria tematea)
Đậu xanh (Vigna radiata)
Cỏ kudzu (Pueraria phaseoloides)
Đậu triều (Cajanus cajan)
Cốt khí (Tephrosia candida)
Điền thanh (Sesbania sp.)
b) Lợi ích
Cải thiện độ phì và lý hoá tính của đất
Giảm xói mòn và thất thoát nước
Cản trở cỏ dại phát triển
Giảm dùng phân hoá học và thuốc diệt cỏ.
Cung cấp lương thực cho người và cỏ nuôi gia súc.
Tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất.
Giúp giữ độ ẩm của đất và bảo vệ đất khỏi bị khô hạn.
Một vài hoa màu phủ đất có thể cho thu nhập.
c) Các giới hạn
Có thể cạnh tranh nước và chất dinh dưỡng với cây lâu năm
Có thể phát triển thành cỏ dại.
Có thể làm nơi trú ẩn cho sâu bệnh hại.
Một vài loài có thể tiết ra các chất hoá học cản trở gây trồng cho các loài hoa màu
tiếp sau.
Chuột và rắn có thể trú ẩn trong lớp che phủ đất.
d) Điều kiện áp dụng
Yếu tố sinh học tự nhiên
+ Không thể áp dụng ở những nơi đất quá dốc.
+ Góp phần và cải tạo độ phì của đất
+ Một vài loại hoa màu che phủ ra hoa kết quả rất nhiều do đó rất khó kiểm soát;
trong khi các loài khác lại không ra hạt đều đặn và tết do các điều kiện khí hậu của nơi
trồng.
Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
Làm giảm dùng thuốc diệt cỏ và lao động làm cỏ.
Nông dân có đất thuộc diện chỉ sử dụng đất đai ngắn hạn sẽ không thích chấp nhận
kỹ thuật này
Hoa màu che phủ tạo nên thu nhập ngắn hạn thấp.
Hoa màu che phủ thường không sản xuất các lợi ích thiết yếu (như lương thực, hạt
giống v.v..)
- Nhiều loại hoa màu che phủ rất thích hợp cho gia súc ăn. Chúng là nguồn cung cấp
cỏ tươi hữu hiệu cho trâu bò, gia súc khác nhưng rất khó bảo vệ với nơi có tập quán thả
rông gia súc để kiếm cỏ ăn.
4.4. Luân canh hoa màu
a) Đặc điểm
Căn cứ vào việc áp dụng một cách phổ
biến của nông dân, luân canh hoa màu
được đánh giá là một kỹ thuật bảo vệ
đất và nước quan trọng nhất ở vùng
Đông Nam Á. Rất nhiều loại hoa màu
được canh tác liên tiếp nhau, loài này
kế loài kia, trên cùng một diện tích. Sự
bố trí canh tác này thay đổi theo thời
gian, nhưng tất cả đều được xây dựng
để: cải tạo lý hoá tính và tình trạng màu mỡ của đất canh tác.
Mỗi loại hoa màu đòi hỏi một cách khác nhau về đặc điểm đất đai nơi mà nó được canh
tác. Mặt khác, mỗi loại lại phải để lại vài lợi ích cho đất như các phế phẩm còn lại hay
có vài ảnh hưởng tích cực cho kết cấu của đất. Một hệ thống luân canh tốt sẽ quan tâm
đến các đặc điểm này của từng loại hoa màu được trồng - cái gì mất đi và được trả lại
cho đất - làm sao cho tổng thể thay đổi sẽ có một ảnh hưởng cải thiện đất nói chung.
Trong các hệ thống nông lâm kết hợp, thành phần cây lâu năm có thể được biến đổi sau
một thời gian dài, thường không dưới một năm. Kỹ thuật nông lâm kết hợp cần một
phương án lâu dài để áp dụng luân canh, triển khai một loạt nhiều loại hoa màu, mỗi thứ
được bố trí thống nhất trong một chu kỳ canh tác.
Một kiểu canh tác luân canh thường thấy là lúa - đậu xanh - ngô - đậu ma hay các loại
dậu khác. Một vài loại hoa màu được trồng như bộ đậu làm gia tăng đạm của đất, như
đậu xanh (Vigna sinensis) được trồng với lúa (oriza sativa), để cung cấp đạm trở lại cho
dết mà đã bị lúa hấp thu Tương tự đậu ma (cowpea: Vigna radiata) với khả năng định
đạm và ảnh hưởng tốt đối với đất của nó, thường được trồng sau cây ngô (Zea mays) là
một cây hấp thụ nhiều đạm từ đất.
b) Lợi ích
• Rất hiệu quả để cải thiện độ phì của đất
• Giảm sự thất thoát chất dinh dưỡng.
• Giúp giữ năng suất của hoa màu
• Làm đa dạng các loài canh tác.
• Giúp kiểm soát sâu bệnh hại.
c) Các giới hạn
• Có thể khó khăn nơi nguồn nguyên liệu sản xuất nghèo nàn.
• Ít được áp dụng cho những cây hoa màu lâu năm.
• Đôi khi đòi hỏi người nông dân phải trồng những loại cây không hợp với sở thích
của họ.
d) Điều kiện áp dụng
• Yếu tố sinh học tự nhiên
- Trong khi một vài yếu tố dinh dưỡng vẫn còn đòi hỏi bón thêm, luân canh vẫn tiếp
tục sử dụng loại này để cố định sức sản xuất của việc canh tác.
- Luân canh hoa màu có thể được xây dựng để phát huy hiệu quả tốt của nó trên đất
nghèo kiệt.
• Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
- Có thể tăng thu nhập lâu dài, nhưng có thể cho thu nhập thấp trước mắt.
- Có thể cung cấp bữa ăn thay đổi cho người.
- Chính sách đất đai không rõ ràng sẽ làm nản lòng người áp dụng các kỹ thuật canh
tác bảo vệ đất.
- Có thể đòi hỏi lao động cao - một khó khăn nơi có sự tâm canh theo mùa.
4.5. Trồng cỏ theo băng
a) Đặc điểm
Trồng cỏ theo đường đồng mức sẽ tạo ra trướng
ngại để làm giảm xói mòn và nước chảy bề mặt. Nó
thúc đẩy tạo ra các bậc thang tự nhiên trên đất đồi
dốc ngay cả ở năm thứ nhất, vì đất bị bào mòn được
giữ lại phía trước các rào cản này.
Cỏ có thể được trồng dọc theo đáy và sườn của đê
để cố định đất và để ngăn ngừa xói mòn ở phần dốc
trên cao. Cỏ cũng thường được trồng ở mô đất đắp
ven bậc thang để cố định giảm xói mòn và ổn định bậc thang.
Cỏ được cắt tỉa định kỳ (sau 2 - 4 tháng) để ngăn chúng ra hoa, che bóng hay phát triển
ra vùng đất canh tác giữa 2 băng cỏ. Do vậy kỹ thuật trồng các băng cỏ chống xói mòn
là rất thích hợp cho nông dân có hệ thống nuôi gia súc tại chỗ và cắt cỏ cho chúng ăn.
Cỏ cũng có thể được sử dụng làm vật liệu tủ gốc cho các loại hoa màu.
Trên đất đồi dốc, hạt cỏ, cành hoặc bụi cỏ được trồng thành hàng đôi dọc theo đường
đồng mức với khoảng cách là 50cm. Trồng trên bờ đê mật độ của cỏ dầy hơn, còn ở trên
mép bậc thang cỏ được trồng theo hình nanh sấu có khoảng cách 30cm x 20cm. Các loài
cỏ thường dùng để cản xói mòn là cỏ Setana (Setaria ancaps), cỏ ruzi (Brachiaria
ruziiensis), cỏ voi (Pennisetum purpureum), NB21 cỏ vơi lai, sả (Cymbopogon
citratus), và cỏ Vetiver (Vetivena zizannoides).
b) Lợi ích
• Hạn chế xói mòn đất và nước chảy bề mặt.
• Cung cấp cỏ cho gia súc.
• Cỏ được dùng vật liệu tủ.
c) Các giới hạn
• Cần công lao động để chăm sóc các băng cỏ.
• Dùng vật liệu cỏ để tủ bề mặt có thể tạo nên cỏ dại phát triển.
• Trồng cỏ cạnh tranh diện tích đất dành để trồng cây lương thực.
d) Điều kiện áp dụng
• Các yếu tố sinh học tự nhiên
- Không được áp dụng trên đất quá dốc hay các vùng đất có mưa kéo dài.
- Cỏ không thể sống ở các vùng khô hạn.
• Các yếu tố dân sinh kinh tế xã hội s
- Nông dân có thể không có đủ thời gian để quản lý thâm canh cỏ nên dễ để thành cỏ
dại.
- Trong các hệ thống truyền thống nông dân có tập quán thả rông gia súc, nên họ sẽ
không chấp nhận hệ thống chăn nuôi một chỗ và cắt cỏ đem về.
- Nông dân sợ khu trồng cỏ một số loài gậm nhấm sẽ trú ẩn và phá hoại hoa màu
lương thực kế cận
- Nguồn giống cỏ để trong không sẵn cho một số nơi ở vùng cao.
- Nếu nông dân không nuôi gia súc, họ không quan tâm đến kỹ thuật này.
4.6. Trồng cây xanh thành các băng theo
đường đồng mức
a) Đặc điểm
Các băng cây xanh là kỹ thuật trồng đơn giản để
giảm xói mòn trên đất dốc. Các loại cây hay bụi
cố định đạm, cỏ, cây ăn quả, hay các loại hoa
màu như dứa, chuối được trồng theo đường đồng
mức. Rất nhiều loài cây và hoa màu được đưa
vào trồng thêm trong băng để tăng thêm thu
nhập và đa dạng sản phẩm của nông trại. Các
băng sẽ giảm dòng chảy của nước mưa và giữ
đất lại để dần dần tạo thành các bậc thang tự
nhiên.
Chúng cũng cải thiện độ phì của đất và sức sản xuất hoa màu các đường đồng mức trên
đất dốc là các kỹ thuật canh tác phổ biến tại Việt Nam, Philippin, Indonesia và Thái Lan
và hiện nay chúng đang được phát triển thêm ở các nước khác
b) Lợi ích
• Hạn chế xói mòn.
• Cải thiện độ phì và độ ẩm đất.
• Cung cấp sinh khối làm phân xanh.
• Tạo bóng che thích hợp cho cây khác.
• Nguồn thức ăn cho gia súc, củi và các vật liệu khác
• Cải thiện được cấu tạo và độ thấm nước của đất.
• Cung cấp vật liệu tủ bề mặt đất.
c) Các giới hạn
• Mất một phần đất canh tác do trồng các băng cây đồng mức (ít nhất là 10% đất canh
tác bị mất).
• Băng cây cạnh tranh với hoa màu trồng trong băng giữa về ánh sáng, dinh dưỡng và
nước. Cắt xén rễ và tỉa lá và cành nhánh có thể hạn chế sự cạnh tranh.
• Các loài cây trên các băng có thể là nơi ký gởi và phát triển của sâu bệnh hại.
- Sự giữ nước hiệu quả các lượng nước mưa lớn có thể gây cho đất ngập úng và lở
nhất là ở các triền dốc.
d) Điều kiện áp dụng
• Các yếu tố sinh học tự nhiên
- Nhiệt độ cao hay thấp quá có thể làm hư hại các băng đã trồng.
- Rất khó khăn để trồng các băng đồng mức trên đất dốc (> 50%).
- Phần lớn các cây bộ đậu cố định đạm đều không thích ứng phát triển trên đất a
xít.
• Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
- Thiếu hạt giống của cây trồng làm băng.
- Thiếu tiền để mua hạt giống cần thiết.
- Thiếu thời gian và lao động để xây dựng các băng cây đồng mức.
- Không có chủ quyền hay sử dụng đất lâu dài
- Nông dân sợ các băng cây không sản xuất lương thực, thực phẩm
- Nông dân nghĩ rằng các băng sẽ cạnh tranh mạnh đến hoa màu và là cây chủ cho
dịch bệnh.
- Nông dân canh tác theo lối truyền thống sử dụng phương pháp và dụng cụ đơn
giản để làm việc, họ không thích băng cây và canh tác theo đồng mức vì bất tiện
4.7. Đai đổi hướng chảy theo đường đồng mức
a) Đặc điểm
Các đai đổi hướng nước chảy được đào dọc theo các đường đồng mức ngang qua đồi
với mục đích thu lượng nước chảy trên bề mặt đất và chuyển hướng nước chảy về các
hướng nhất định. Các đai đổi hướng này xây dựng đất chính để bảo vệ đất và nước ở
vùng đất đồi dốc. Các kênh và đê này được đào và đắp theo nhiều khoảng cách khác
nhau tuỳ theo độ dốc của đất; độ dốc càng lớn, thì khoảng cách càng gần. Kích thước
của đai và kênh là rộng im ở mặt đai, rộng 0,5m ở đáy kênh và sâu 0,5m.
b) Lợi ích
• Bảo vệ đất canh tác khỏi bị ảnh hưởng của nước tràn chảy từ đồi núi cao xuống.
• Kiểm soát xói mòn theo khe lở
• Làm giảm lại ảnh hưởng bào mòn của nước chảy bề mặt.

c) Các giới hạn


• Nếu không được xây dựng đúng và phù hợp, các đai và kênh có thể bị nước chảy
tràn qua để vào đất canh tác nhất là khi có mưa lớn.
• Cần hỗ trợ thêm cho đai đổi hướng bằng cách xây dựng như hố giữ nước, ngăn giữ
đất
• Cần bảo trì và chăm sóc nạo vét liên tục.
d) Các điều kiện áp dụng
• Yếu tố sinh học tự nhiên
- Để hiệu quả, đai và kênh phải được xây dựng theo đúng các đường đồng mức chính
xác. Nông dân phải biết dùng khung chữ A hay ống nước thăng bằng để xác định các
đường chính xác này.
* Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
Một phần đất canh tác bị mất để dành xây dựng các đai và kênh.
- Đổ nước vào đường nước chảy ở nông trại kế cận có thể gây ra một tranh chấp về
mặt xã hội.
4.8. Rào cản cơ giới
a) Đặc điểm
Các rào cản cơ giới xây dựng trên mặt đất
dốc để hạn chế tốc độ nước chảy trên bề
mặt và giữ đất bị bào mòn bởi hiện tượng
xói mòn bề mặt. Các kiến tạo này có thể
được làm bằng gỗ hay đá; theo thời gian,
chúng có thể tạo thành hàng rào cản cây
sống. Ở Philippin và Papua New Guinea
các rào cản được làm bằng khúc gỗ và cành
nhánh xếp dọc theo đường đồng mức của
đất đồi dốc. Thường người ta đóng các cọc
gỗ để giữ chúng lại. Phía trên của rào cản
cỏ và các vật liệu hữu cơ khác được xếp
dọc theo để giữ đất bị cuốn trôi theo dòng
nước.
Khoảng cánh của giải đất giữa hai rào cản thay đổi tuỳ theo độ dốc của đất, nhưng
thường chỉ biến động từ 4 đến 8m. Các loại hoa màu như ngô, khoai lang và thuốc lá
được trồng trên các giải đất ở giữa.
b) Lợi ích
• Giảm lượng nước chảy tràn bề mặt
• Giữ các phẩm vật bào mòn lại.
• Nếu bảo vệ thích hợp có thể phát triển thành các bậc thang trong một thời
gian.
• Cho phép nông dân canh tác trên đất dốc nơi mà thường không thích hợp để canh tác.
c) Các giới hạn
• Các rào cản bằng gỗ không bền do bị mục trong vòng 2 đến 5 năm.
• Xây dựng rào cản đòi hỏi công lao động.
d) Điều kiện áp dụng
• Yếu tố sinh học tự nhiên
- Để được nông dân chấp nhận nếu đất có độ dốc trung bình ít hữu hiệu để canh tác
hoa màu.
• Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
- Đôi khi nông dân không có đủ lao động để làm rào cản.
Nông dân chỉ chấp nhận làm rào cản để trồng loài hoa màu có giá trị kinh tế cao như
trường hợp thuốc lá ở Philippin.
4.9. Bờ tường đá
Ở những vùng đất có nhiều đá, bờ tường đá là thích
hợp.
• Dọc theo đường đồng mức và phía trên hàng
đám cây bụi đồng mức, cắt ngang mặt dốc làm bề
mặt để đặt và giữ chặt các hòn đá lên nhau.
• Nếu có đủ đá, chất bờ tường đá cao ngang với
điểm giữa của hai đường đồng mức.
• Trồng cây bụi đa dụng ở đáy của bờ tường đá
chúng sẽ cố định và giữ chắc bờ tường cũng như sẽ
cung cấp lá cây cho gia súc.
Điều kiện áp dụng: Nơi có đá lẫn vào đất, nông dân
kết hợp dọn đái xếp trên đường đồng mức Đầu tư lao động để xây dựng ban đầu khá
lớn.
4.10. Các bẫy đất
a) Đặc điểm
Các bẫy đất là các kiến tạo để giữ đất bị bào mòn từ đầu nguồn lại. Các kiểu thông
thường nhất là hố và hào giữ nước được thiết kế trong lòng các kênh đổi hướng hay
đường tiêu nước.
Một hố nước làm giảm tốc độ của dòng chảy và giúp các phần tử đất bị bào mòn lắng
lại tại chỗ Kích thước của hố tích nước tuỳ thuộc vào tầm cỡ của đường nước chảy và
các kênh tiêu cần được bảo vệ. Các rào cản chặn đất có thể được làm bằng cọc thân,
cành của cây đỗ mai (Gliricidia sepium), tre, đá tảng, lóng gỗ hay các vật liệu có sẵn tại
địa phương. Hào là những hố giữ nước lớn và dài dọc theo mô cản để bổ sung thêm cho
các kiến tạo khác Một hào thường có kích thước chừng im dài 0,5m; rộng 0,8m sâu và
bố trí nằm phía trên một mô đất đồng mức chừng 1m đến 2m. Mục đích của các kiến tạo
bẫy đất là giữ đất và giữ nước lại thời gian ngắn để tăng khả năng thấm nước.
Đất giữ lại trên các hố và hào nước được
nạo vét thường xuyên và chuyển đến đồng
ruộng bên cạnh.
b) Lợi ích
• Ngăn chặn sự phát triển và mở sâu
rộng các khe xói.
• Tạo điều kiện tết để các vật liệu bị bào
mòn giàu chất dinh dưỡng lắng đọng lại.
• Giảm tốc độ nước chảy ở các khe xói
mòn và đường nước chảy.
• Nơi đất lắng tụ có thể canh tác hoa
màu.
c) Các giới hạn
Đòi hỏi nạo vét thường xuyên để tránh
nước tràn vào bờ trong các trận mưa lớn.
Các đập chắn đòi hỏi bảo trì và sửa chữa
thường xuyên.
d) Điều kiện áp dụng
• Yếu tố sinh học tự nhiên
- Vật liệu để xây dựng các bẫy đất có thể không có sẵn tại địa phương.
- Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội.
- Cần sửa chữa các hư hại của đập chắn và phải nạo vét hố tích nước thường xuyên.
- Các bẫy đất được xây dựng riêng lẻ không có các hỗ trợ bảo vệ khác sẽ không hiệu
quả.
4.11. Tích chứa nước ở vùng cao
a) Đặc điểm
Nguồn nước tưới cho canh tác nông nghiệp ở vùng cao có thể được tăng cường bằng
cách xây dựng các hồ tích nước nhỏ ở đất canh tác để lưu giữ nước mưa.
Xây dựng các hồ chứa nước nhỏ sẽ hiệu quả nếu được phối hợp với các yếu tố như: Lưu
vực nước nơi hứng nước mưa và tạo nước chảy tràn bề mặt, các hồ tích nước hứng nước
mưa và nước chảy bề mặt, và khu vực canh tác cần tưới nước trong kiểu đê thẳng mùa
khô.
Lưu vực nước phải có diện tích đủ lớn để gom nước vào hồ tích nước. Số lượng nước
tích được tuỳ thuộc vào tính chất và diện tích của vùng lưu vực nước và chế độ mưa của
vùng. Ở các nơi có lượng mưa biến động từ 1200 đến 1500mm/năm, một diện tích lưu
vực nước canh tác theo hệ thống ruộng bậc thang rộng 0,2 đến 0,5 ha là đủ cho một
lượng nước khoảng 1000m3 tích trong hồ chứa nước biến động từ 0,6 đến 1,0 ha là đủ
để tạo ra một thể tích nước như trên. Đối với các nơi khô hạn có lượng mưa hàng năm
thấp hơn, sự tích chứa nước vẫn tiến hành được với điều kiện khu vực lưu vực nước
phải có diện tích lớn hơn.
Địa điểm để xây dựng các hồ tích nước nhỏ có thể ở chỗ cao hay ở vùng đất thấp, thung
lũng nơi có thể lợi dụng lượng nước chảy thiên nhiên. Các nơi thuộc nước chảy của
cộng đồng nên quản lý thích hợp để chia xẻ lợi ích cho tất cả thành viên. Nếu chọn lựa
nơi có các mạch nước chảy quanh năm càng tết để có nước tưới quanh năm. Nên chọn ở
những nơi có độ dốc với các đồi dốc biến động từ 2 đến 18% là thích hợp nhất.
b) Lợi ích
• Để cải thiện được sự sản xuất lương thực, thực phẩm.
• Thúc đẩy sự cân bằng bảo tồn sinh thái.
• Đầu tư thấp trên mỗi diện tích canh tác có thu nhập cao.
• Hạn chế tác hại của khô hạn
• Giúp dẫn nước tưới bằng trọng lượng
• Phần lớn xây dựng và quản lý cá thể nên tránh được các tranh chấp xã hội.
c) Các giới hạn
• Đòi hỏi lao động nhiều để xây dựng.
• Khả năng thất thoát nguồn nước do bốc hơi và rò rỉ (tuỳ theo loại đất).
• Các loài thực vật thuỷ sinh và bèo nổi có thể xâm nhiễm hồ tích nước.
• Không thể kiểm soát lượng nước chảy tràn trong các trận mưa lớn có thể gây hư hại
cho hồ và đê tích nước.
• Thiết kế và xây dựng kém dẫn đến xói mòn và lụt.
d) Điều kiện áp dụng
• Yếu tố sinh học tự nhiên
- Các loại đất không giữ được nước và có độ thấm thoát cao cần được tráng đáy hồ
bằng giấy plastic hay sét nặng.
• Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội
- Nông dân có thể không ưng thuận để dành một diện tích đất làm hồ chứa nước.
- Chính sách sử dụng đất đai có ảnh hưởng quyết định của nông dân
- Không có đủ lao động.
- Vốn vay hay vốn của nông trại có thể không sẵn có
- Đòi hỏi các kiến thức và kỹ năng để xây dựng và quản lý hồ và hệ thống thuỷ lợi
nhỏ.
4.12. Canh tác nương rẫy không đốt
a) Đặc điểm: Đây là kiểu canh
tác quảng canh rất phổ biến ở các
nước Đông Nam á, đặc biệt là để canh
tác lúa nương và khoai sọ, hệ canh tác
lấy cây sắn là cơ bản. Nó còn được gọi
là kiểu canh tác du canh, phát chọc lỗ bỏ
hạt. Tuy nhiên phần lớn là sau khi phát
để khô rồi đất và chọc lỗ, bỏ hạt, còn
phương thức canh tác nương rẫy không
đất có nhiều ưu điểm hơn đất (nông dân
ở Papua New Guinea sau khi chặt phát
cây thì không đất mà dọn xếp theo đường đồng mức, sau đó chọc lỗ và bỏ hạt một cách
đơn giản).
b) Lợi ích
Sử dụng các chất dinh dưỡng chứa trong sinh khối của thảm thực vật.
Kiểm soát cỏ dại trong 3 tháng đầu và hoa màu mọc nhanh giữ được độ ẩm của
đất. Đây là một phương pháp đơn giản để chuyển hoá đất rừng thành đất canh tác.
Lớp thực vật không đất che phủ đất ngăn cản lực xung kích của giọt mưa tăng
lượng nước thấm vào đất hạn chế dòng chảy mặt.
Phối hợp để canh tác hoa màu có của
Không gây khả năng cháy rừng.
c) Các giới hạn
Dễ làm xói mòn đất và thất thoát dinh dưỡng của hệ sinh thái.
Chỉ có thể dùng khi làm đất có giới hạn hay canh tác không cần làm đất, nhất là
khi lớp phủ thực vật nhiều.
d) Điều kiện áp dụng
Yếu tố sinh học tự nhiên:
- Không thể trồng hoa màu dày tối đa do đất dốc khó canh tác
Yếu tố dân sinh kinh tế xã hội:
- Cần nhiều công lao động để phát rừng
- Chỉ phù hợp nơi có dân số ít
- Không áp dụng được nếu thời gian bỏ hoá ngắn hơn 10 năm và đất chưa phục
hồi và còn bị xâm nhiễm bởi cỏ dại.
Yếu tố tâm lý của nông dân vẫn tin tưởng
rằng đất sẽ cải thiện được độ phì của đất.
Ngoài các kỹ thuật trên còn có thể áp dụng
các kỹ thuật đơn giản khác như: Sử dụng phân
hữu cơ.
Kỹ thuật làm đất tối thiểu (như cuốc hố, trọc
lỗ để tra hạt, trồng cây
Kỹ thuật chăn nuôi gia súc gia cầm trong
chuồng...
Các kỹ thuật này đơn giản và cũng có thể
áp dụng trong trang trại nông lâm kết hợp góp
phần sử dụng đất bền vững.
5. Kỹ thuật làm thước chữ A và xác định
đường đồng mức bằng thước chữ A
5.1. Cách làm một khung chữ A
Khung chữ A là một dụng cụ tự làm, đơn
giản cho nông dân ít có điều kiện hiểu biết và
trang thiết bị đo đạc đắt tiền để xác định các
đường đồng mức. Bất kì một nông dân cá thể nào cũng có thể tự làm khung chữ A bằng
các vật liệu có sẵn tại địa phương.
Để làm một khung chữ A, cần dùng các vật liệu và thực hiện các bước sau:
Bước 1: Dùng các vật liệu:
- 3 cây tre hay gỗ có đường kính 3 - 4 râm (2 thanh phải có chiều dài 2,1m và thanh
còn lại dài 1,2m).
- Dây bền, chắc để buộc hay đóng đinh
- Một viên đó bằng nắm tay hay bất kỳ vật nào nặng tương tự.
Bước 2: Buộc hay đóng đinh 2 thanh dài ở 1 đầu cách phân cuối chừng 10 cái. Phải
đảm bảo chúng được buộc chắc chúng vào nhau tạo thành chân của một khung chữ A.
nên tạo các khấc ở tại nơi tiếp xúc để cho 2 thanh cây không được lên nhau.
Bước 3: Kéo hai chân và buộc chắc với thanh cây ngắn hơn còn lại để tạo thần
khung chữ A. Buộc hay đóng đinh chắc thanh ngang (khoảng kiếm từ mỗi đầu thanh
làm chân) vào điểm giữa của mỗi chân chữ A. Thanh ngang sẽ đỡ và giữ cho chân của
khung và sẽ dùng để hướng dẫn trong công việc xác định mặt ngang của vị trí.
- Cột một đầu sợi dây vào đỉnh của khung.
- Đầu dây còn lại được buộc vào một viên gạch, đá làm dây dọi, viên đá phải đủ
nặng để khi cân bằng nó sẽ không bị lay động bởi gió. Vị trí của viên đó phải ở dưới
thanh ngang khoảng 20cm.
5.2. Cân bằng khung chữ A
- Tìm một bề mặt đất có mặt bằng hộp lý và
đặc khung chữ A ở vị trí ngay thẳng. đánh dấu 2 vị
trí nơi các chân (A và Bị của khung chạm mặt đất
(hình 1). Sau đó đánh dấu thanh ngang nơi dây dọi
cắt qua.
- Đổi ngược vị trí của các chân khung chữ A sao
cho chân A tiếp xúc mặt đất ở điểm đã đánh dâu B
và ngược lại. Một lần nữa, đánh dấu lại thanh ngang
nơi dây dọi cắt qua. Nếu 2 điểm làm dấu chồng lên
nhau, điều đó có nghĩa là đã tìm ra điểm giữa của
thanh ngang và rằng khung chữ A đã được đặt trên
mặt đất bằng.
- Nếu 2 điểm làm dấu cách nhau, đánh dấu
điểm cân bằng ở giữa 2 dấu trên (xem hình 2).
- Để chính xác, di chuyển 1 chân vòng quanh
cho đến khi dây dọi cắt qua lại ở điểm giữa Đánh
dấu vị trí của chân tại vị trí này và hoán chuyển chân
của khung, nếu dây dọi vẫn cắt qua cùng điểm thì
điểm cân bằng khung chữ A đã được xác định.
5.3. Xác định đường đồng mức

- Cắt cỏ mọc cao và dời các chướng ngại vật giúp


chúng ta đi lại dễ dàng, hai người thực hiện công
việc này là nhanh và dễ làm, một người dùng khung
chữ A trong khi người kia đánh dấu vị trí của đường
đồng mức.
- Bắt đầu từ điểm cao nhất của đất canh tác, dẫn các
cọc đầu tiên ở rìa khu vực và đặt vị trí của khung
chữ A ở gần sát và ngay ở trên cọc
- Điều chỉnh chân phải của khung chữ A sao cho
dây dọi đi ngang qua điểm giữa của than ngang
(điều này có nghĩa là chúng ta đã xác định được
đường đồng mức). Đánh dấu điểm này bằng cách đóng một cọc khác ngay ở sát trên
chân phải khung chữ A.
- Di chuyển khung chữ A sang bên phải bằng cách đặt chân trái của khung chữ A ở
vị trí chân phải của khung ở lần cân bằng trước. Điều chỉnh lại khung để khung cân
bằng, 1 lần nữa đánh dấu vị trí chân phải bằng 1 cọc Tiếp tục làm cho đến ranh giới đối
diện của khu vực.
- Lập lại các bước 2 - 4 cho đến khi chúng ta vạch được đường đúng mức đến chân
của đồi dốc. Khoảng cách thẳng đứng giữa các đường đồng mức nên là 1,5 m (khoảng
cách sẽ thay đổi tuỳ theo độ dốc của đồi) mà chúng ta có thể xác định dễ dàng như ở
hình 3 bằng tầm vóc của một người cao 1,6 m.
- Sau khi các đường đồng mức đã được xác định, nên điều chỉnh một vài cọc mốc
để tạo nên đường cong hợp lý, thẩm mỹ cho đường đồng mức tránh ảnh hưởng của thế
đất bất đều. Để thực hiện, đơn giản chỉ dịch lại các cọc lệch quá xa đường đồng mức.
D. ÁP DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT NÔNG LÂM KÉT HỢP
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT
NÔNG LÂM KÉT HỢP CÓ SỰ THAM GIA
1.Tính cấp thiết của phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp có sự tham gia
a) Tại sao những hoạt động nghiên cứu và khuyến nông quy ước chưa mang lại
hiệu quả ở vùng cao?
Hệ thống nghiên cứu và khuyến nông quy ước hoạt động tốt ở vùng thấp, nơi
mà các tiếp cận về nhập lượng và dịch vụ hỗ trợ tương đối dễ dàng và kỹ thuật
"trọn gói" rất thích hợp với các điều kiện đồng nhất, nguồn lực dồi dào. Nhưng
ngược lại, do các điều kiện phức tạp và nguồn lực rất giới hạn ở vùng cao, hệ thống
nghiên cứu và phát triển quy ước ít có hiệu quả vì các nguyên nhân sau đây:
• Không chú ý đến kiến thức và nguồn lực tại địa phương
• Quá tập trung vào việc nghiên cứu ở các trạm với các điều kiện lý tưởng.
• Nghiên cứu đặc trưng chỉ chú trọng nhiều vào một loại hàng hóa, trái ngược
với hệ thống có tương tác.
• Quên các khu vực canh tác nhờ nước trời.
• Quên các ảnh hưởng của sinh thái (đặc biệt là hệ sinh thái)
• Có thành kiến về giới
• Ưu tiên tập trung cho việc sản xuất theo thị trường.
• Các kỹ thuật khuyến nông chưa thích hợp.
• Các phương pháp khuyến nông nghèo nàn (ví dụ như quá "hình thức", thời
gian bố trí không phù hợp, nhân viên khuyến nông không quen thuộc với các điều
kiện và ngôn ngữ địa phương.
b) Nguyên tắc phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp có sự tham gia
Người dân tham gia các hoạt động nghiên cứu và khuyến nông (còn được gọi là
"phát triển kỹ thuật có sự tham gia") kết hợp kiến thức và năng lực nghiên cứu
của cộng đồng địa phương với việc nghiên cứu và phát triển của các tổ chức trong
quá trình học hỏi hai chiều. Nó liên quan đến việc xác định, tạo dựng, kiểm tra và
thích nghi cho các kỹ thuật mới và để giúp đỡ giải quyết các vấn đề của địa
phương. Mục đích cuối cùng là nhằm tăng cường kinh nghiệm và năng lực quản lý
kỹ thuật của dân và cộng đồng địa phương, do đó, người dân đóng vai trò chủ chốt
trong toàn bộ quá trình. Chữ “P” trong PTD cũng có thể hiểu là "lấy con người
làm trung tâm" trong các chiến lược và quá trình phát triển.
Các nguyên tắc chính thực hiện phát triển kỹ thuật có sự tham gia
• Quan tâm tới nhu cầu của người nông dân, kiến thức bản địa, các nguồn tài
nguyên hiện có và mạng lưới của cộng đồng Tạo điều kiện để phát triển các nguồn
lực trên.
• Tăng cường liên kết để hiểu những đặc điểm chính với/và những thay đổi trong
hệ sinh thái nông nghiệp.
• Hỗ trợ nông dân và các tổ chức của họ để tăng cường sự nhận thức, tự tin, kiến
thức và kỹ năng của họ. Đồng thời khuyến khích họ tiếp tục tham gia tiến trình
nghiên cứu và khuyến nông sau khi chấm dứt các hỗ trợ từ bên ngoài.
• Bảo đảm cho nông dân và những người hỗ trợ bên ngoài cùng xác định được
những vấn đề ưu tiên.
• Cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn cho những nông dân được chọn lựa để
họ có thể lựa chọn phát triển các kỹ thuật và chuyển giao chúng cho những người
khác.
• Sử dụng các đầu vào thấp, nghiên cứu và mở rộng việc sử dụng các nguyên liệu
sản xuất tại chổi Hãy để người dân và những tổ chức của họ phổ biến chúng. Điều
này bảo đảm rằng người dân tự tin và sử dụng các đầu vào hợp lý.
• Khuyến khích các nông dân hoặc nhóm nông dân trình diễn trên nông trại của
họ. Việc trình diễn có thể được các nông dân khác nhân lên.
• Thúc đẩy vai trò nghiên cứu và khuyến nông cho nông dân. Nông dân sẽ thực
hiện các chức năng trên theo tập quán và không bỏ công việc này để những người
ngoài cộng đồng, những người thường ít hiểu biết về các điều kiện của cộng đồng,
làm,
• Cung cấp thông tin về thay đổi hiện trạng để tạo sự quan tâm.
• Thử nghiệm tại đồng ruộng với các kỹ thuật khác nhau thu được từ nông dân ở
địa phương (kiến thức bản địa hay các kinh nghiệm khác) và từ khoa học chính
thống. Đề nghị các lựa chọn kỹ thuật cho nông dân để họ quyết định thực hiện và
kiểm tra trên đồng ruộng của họ và đồng thời cũng khuyến khích nông dân đề
nghị các kỹ thuật để thử nghiệm.
• Tổ chức các diễn đàn để nông dân đánh giá và mở rộng các kết quả nghiên cứu
cho những nông dân khác.
2.Quá trình áp dụng và phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp có sự tham gia
a) Quá trình phát triển phát triển kỹ thuật có sự tham gia
Áp dụng và phát triển nông lâm kết hợp có nghĩa là đưa những kỹ thuật nông
lâm kết hợp vào cho cộng đồng địa phương và nông dân. Việc áp dụng kỹ thuật
mới cần đáp ứng nhu cầu của cộng đồng địa phương, phù hợp với các điều kiện về
địa lý, tự nhiên, kinh tế - thị trường chính sách - xã hội - văn hoá. Như vậy, áp
dụng và phát triển nông lâm kết hợp có hiệu quả là một quá trình phát hiện và giải
quyết vấn đề của cộng đồng địa phương có sự tham gia của nhiều bên có liên quan.
Các phương pháp tiếp cận từ trên xuống trước đây đối với các hoạt động nông lâm
kết hợp coi trọng vai trò của các chuyên gia thuộc các cơ quan chính phủ, các tổ
chức phi chính phủ và các cơ quan đào tạo khác coi nhẹ sự tham gia của người dân
địa phương. Điều này đã dẫn đến thiếu hụt thông tin chính xác, trao đổi thông tin
hai chiều giữa các nhà chuyển giao, nghiên cứu và người dân địa phương, gây ra
sự thiếu hiểu biết, không tin tưởng và ít phù hợp của các kỹ thuật đưa vào áp
dụng. Các hoạt động nông lâm kết hợp tiên tiến lôi cuốn sự tham gia hợp tác đàm
thoại giữa người dân và các bên có liên quan vào chu trình lập kế hoạch, tổ chức
thực hiện, đổi mới và đánh giá kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp và
đáp ứng các lỗ hổng về kiến thức.
Các giai đoạn phát triển nông lâm kết hợp có sự tham gia có thể mô tả như sau:

• Mô tả điểm, chẩn đoán và thiết kế


Đây là giai đoạn mô tả hiện trạng, chẩn đoán các vấn đề và thiết kế các hoạt động
nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp phù hợp (C,D & D).
• Thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp
có sự tham gia là giai đoạn nhằm tạo những kỹ thuật mới cho phát triển và chuyển
giao các kỹ thuật nông lâm kết hợp, có xem xét đến vai trò của các tổ chức cơ
quan, chính sách. Giám sát và đánh giá có sự tham gia phản ánh một quá trình
đánh giá năng xuất, tính ổn định và tính bền vững của các hoạt động nông lâm kết
hợp, các hoạt động nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp.
b) Kinh nghiệm của vùng Đông Nam Á về quá trình phát triển kỹ thuật có sự
tham gia
* Đánh giá có sự tham gia
Các nhà nghiên cứu và nhân viên khuyến nông hướng dẫn đánh giá về điều kiện tự
nhiên và kinh tế xã hội của cộng đồng và các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến nó.
Các chủ đề xác định như sau:
• Kiến thức bản địa.
• Các mạng lưới thông tin truyền thống
• Tiềm năng và giới hạn của hệ thống canh tác ở địa phương và sự quản lý tài
nguyên tự nhiên cùng với thay đổi của điều kiện bên ngoài.
• Các lựa chọn kỹ thuật đê giải quyết các giới hạn đó.
* Thiết kế nghiên cứu
Điều khiên các cuộc họp với nông dân đê thiết kế nghiên cứu. Những chủ đề thảo
luận:
• Những thay đổi bên ngoài
• Các lựa chọn kỹ thuật được các nhà nghiên cứu và khuyến nông đề nghị liên
quan đến kiến thức và kinh nghiệm của nông dân.
• Các lựa chọn đê kiêm tra trên đồng ruộng.
• Thiết kế các thí nghiệm.
• Quản lý các nghiên cứu (được thực hiện theo nhóm hay từng cá nhân?) Kế
hoạch đê triên khai nghiên cứu.

*Kiểm tra kỹ thuật và trình diễn
Các nhà nghiên cứu và nhân viên khuyến nông trợ giúp nông dân hoặc nhóm
nông dân thực hiện các thí nghiệm và theo dõi tiến độ.
Nông dân ghi nhận các hoạt động, ví dụ như ngày trồng, làm cỏ và thu hoạch,
ngày và số lượng các nguyên liệu đâu vào được sử dụng, năng suất.
Tổ chức các buổi thăm viếng hiện trường, gặp gỡ nhau đê cho phép nông dân
giới thiệu các thí nghiệm trình diễn và kết quả tạm thời của họ với các nông dân
khác
*Liên kết đánh giá
Các nhà nghiên cứu, các nhân viên khuyến nông, và nông dân cùng tham gia
trong việc đánh giá các thí nghiệm và xây dựng kế hoạch cho những nghiên cứu
mới. Các câu hỏi thảo luận:
• Kết quả của thí nghiệm là gì? Tích cực hay tiêu cực?
• Chúng ta học hỏi được gì từ những thí nghiệm đó ?
• Các thí nghiệm tiếp theo nên được thiết kế như thế nào?
• Các thí nghiệm tiếp theo nên được quản lý như thế nào?
* Mở rộng các kết quả và kinh nghiệm của nông dân
Tập huấn, hội họp, đi thăm quan đê học và thăm hiện trường. Sản xuất ở địa
phương, cung cấp và thị trường nguyên vật liệu sản xuất.
* Nông dân như là người huấn luyện
Ưu điểm:
• Cải thiện những khả năng đặc biệt của người nông dân để phổ biến các bí
quyết, kinh nghiệm sản xuất.
• Tránh được các trở ngại do ngôn ngữ.
• Việc tập huấn diễn ra ở địa điểm và thời gian thích hợp, thường tại nơi ở của
học viên.
• Các chủ đề được điều chỉnh cho thích hợp với bối cảnh của người dân, ý tưởng
và nguồn lực của địa phương.
• Không khí thoải mái cho phép trao đổi các ý tưởng.
• Tăng cường mạng lưới thông tin ở địa phương.
* Các mối quan tâm
• Nông dân tập huấn phải có tin tưởng về kinh nghiệm, nỗ lực và đạo đức. Việc
tập huấn không nên là một gánh nặng cho họ.
• Những chuyên gia còn trẻ, không có kinh nghiệm trong việc trình bày nên làm
việc như một người trợ lý tập huấn trước.
• Việc lựa chọn nông dân làm người tập huấn là một vấn đề tế nhị, có thể gây ra
các mâu thuẫn trong dân làng hay các làng.
• Việc tập huấn nên tổ chức trong từng nhóm nhỏ với các kỹ thuật ở hiện
trường. Mỗi nhóm nên có một người trợ lý để trả lời các câu hỏi và hướng dẫn kỹ
thuật.
• Nông dân thường sẵn sàng trả tiền bồi dưỡng cho những người nông dân tập
huấn.
* Gặp gỡ
Các cuộc gặp gỡ trong làng và giữa các làng với nhau cũng như những chuyến
đi học tập kinh nghiệm thực tế và thăm hiện trường là những cách để nông dân
trao đổi kinh nghiệm, ý kiến và cách làm trong sản xuất. Những chuyến đi học tập
kinh nghiệm thực tế và thăm hiện trường cho phép nông dân nhìn thấy các kinh
nghiệm thực tế trong những điều kiện cụ thể. Nó kích thích thảo luận về những
vấn đề mà họ có thể áp dụng trong điều kiện của họ. Thăm viếng cũng tăng cường
mạng lưới thông tin và hỗ trợ về kỹ thuật.
Những điều quan tâm:
• Ở nhiều nơi, những buổi thăm viếng trong làng và giữa các làng được tổ chức
kết hợp theo luật làng hay các lễ hội truyền thống.
• Những chuyến đi học tập kinh nghiệm thực tế ở các làng khác nhau nên tổ
chức giữa những người cùng dân tộc để dễ dàng trao đổi bằng một ngôn ngữ.
• Nông dân luôn luôn quan tâm với việc nhìn thấy (không chỉ nghe) những gì
diễn ra trên đồng ruộng. Thăm viếng hiện trường là một phương tiện hiệu quả để
trao đổi kiến thức và ý kiến.
II. MÔ TẢ ĐIỂM, CHẨN ĐOÁN VÀ THIẾT KỀ KỸ THUẬT NÔNG LÂM KẾT
HỢP CÓ SỰ THAM GIA
1. Các bước tiến hành mô tả điểm, chẩn đoán và thiết kế
Để có được một kế hoạch nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp có tính khả thi
cần phải mô tả, chẩn đoán các vấn đề, có liên quan ở cộng đồng và hộ gia đình.
Mô tả điểm là mô tả và phân tích các hệ thống sinh thái nông nghiệp nhằm phát hiện
ra những điểm gắng và khác nhau về không gian và thời gian trong các hệ thống sinh
thái nông lâm nghiệp. Một hệ thống sinh thái nông nghiệp là một tập hợp các yếu tố vật
lý, môi trường, kinh tế và xã hội có ảnh hưởng đến canh tác.
Quá trình mô tả, chẩn đoán và thiết kế có thể chia ra theo thứ tự 4 bước
Bước 1: Thu thập và phân tích thông tin đưa ra các giả định (nhận định)
Những thông tin cần thu thập:
Thông tin liên quan đến môi trường - vật lý - Sinh vật
• Đất đai, địa hình và dạng đất - độ dốc và độ cao, hướng phơi và hướng gió và ảnh
hưởng
• Khí hậu - thuỷ văn
• Sinh vật - cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật, thuỷ sản
• Các hoạt động sử dụng đất và hệ thống canh tác.
• Những thông tin về kinh tế xã hội và văn hoá
• Các thông tin về dân tộc học: Dân số, phân nhóm hộ, các nhóm dân tộc, các thành
phần dân cư.
• Kết cấu hộ gia đình và khả năng lao động
• Thu nhập của hộ gia đình và phân loại kinh tế hộ
• Tín ngưỡng, tập tục, truyền thống
• Các yếu tố kinh tế: Cơ sở hạ tầng, thị trường, dịch vụ hỗ trợ (tín dụng, cung cấp vật
tư, nghiên cứu/khuyến nông).
• Hệ thống cây trồng và lịch mùa vụ
• Sở hữu và tình trạng đất đai, các vấn đề tranh chấp
• Các vấn đề xã hội (y tế, giáo dục, khả năng tiếp cận) hoà bình và an ninh, vi phạm
pháp luật, canh tác nương rẫy
• Các tổ chức, cơ quan địa phương.
- Sử dụng các công cụ chẩn đoán có sự tham gia để chẩn đoán các vấn đề. Những câu
hỏi trong canh tác hộ gia đình:
1. Phỏng vấn bán cấu trúc
2. Các sơ đồ
2.1. Các bản đồ

a) Bản đồ hiện trạng sử dụng đất


b) Bản đồ về giới
2.2. Lát cắt
a) Lát cắt về địa hình không gian
b) Lát cắt về lịch sử sử dụng đất
2.3. Nông lịch
a) Lịch thời vụ
b) Khả năng về thực phẩm
c) Khả năng về thức ăn gia súc.
d) Các hoạt động mùa vụ theo giới và lứa tuổi.
2.3. Biểu đồ về lao động và các nguồn
a) Phân chia lao động theo giới và tuổi
b) Giản đồ tuyến phân tích lợi ích
2.4. Sơ đồ nguyên lý giả định
a) Kiểu hệ thống canh tác
b) Hệ sinh thái nông nghiệp của nông hộ
3. Phân cấp
4. Các công cụ khác
Thu thập thông tin và số liệu về hệ thống canh tác nhằm tìm ra các vấn đề và cản trở
trong canh tác hộ gia đình và xác định các giải pháp giả định để giải quyết các vấn đề.
Sử dụng phỏng vấn bán định hướng phù hợp và các công cụ chẩn đoán khác để thu
được những thông tin và số liệu phù hợp về hệ thống canh tác và tổng hợp thông tin.
Thông tin, số liệu cung cấp phải rõ ràng và thích hợp với mục tiêu, chiến lược,
nguồn, kinh doanh, quản lý các vấn đề và những rủi ro.
Bước 2. Xác định các giả định và thử nghiệm các giả định
Đưa ra các giả định có liên quan đến các bộ phận then chốt của hệ thống canh tác
như:
- Các vấn đề và cản trở của nông dân
- Các chiến lược quản lý của nông dân
- Các tác động giúp cho nông dân đạt được mục tiêu của họ.
Các giả định và biện pháp tác động về nông lâm kết hợp cũng có thể không phải
nông lâm kết hợp cân được xếp thứ tự ưu tiên theo mức độ quan trọng. Các tiêu chí để
xếp thứ tự ưu tiên cho các giả định và các biện pháp tác động cân được thảo luận cùng
người dân.
- Kiểm tra các giả định về các vấn đề và cản trở của nông dân và những giải pháp
nông lâm kết hợp có tiềm năng phát triển đã được đưa ra và thu thập các tài liệu thông
tin bổ sung cân thiết cho việc xác định các biện pháp tác động nông lâm kết hợp có ưu
tiên.
Việc kiểm tra tập trung vào phỏng vấn, đối thoại trực tiếp ngoài đồng ruộng với
nông dân, trước hết là kiểm chứng các giả thiết cùng với người dân sau đó là xếp thứ tự
ưu tiên các vấn đề và cản trở theo mức độ quan trọng (số người dân chịu ảnh hưởng và
các ưu tiên của người dân).
Bước 3. Thiết kế các biện pháp tác động và xếp thứ tự ưu tiên các hoạt động
nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp.
Dựa vào số liệu và thông tin phản hồi từ nông dân về các biện pháp tác động nông
lâm kết hợp.
- Tìm ra các lỗ hổng về kiến thức và các vấn đề có liên quan đến những biện pháp tác
động.
- Xếp thứ tự ưu tiên các nhu cầu nghiên cứu để đáp ứng các lỗ hổng về kiến thức.
- Xác định và xếp thứ tự ưu tiên các nhu cầu phát triển, xem xét tất cả những thông
tin, tài liệu có thể có, phân tích những gì đã biết rõ về biện pháp tác động trong bối cảnh
cụ thể, xác định các lỗ hổng về kiến thức, các dạng nghiên cứu (sinh học, kinh tế - xã
hội, chính sách..) cần có để giải quyết vấn đề, xây dựng và xếp thứ tự ưu tiên các mục
tiêu nghiên cứu.
Bước 4. Thiết kế nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp
Căn cứ vào các vấn đề và những hạn chế đã phát hiện, thiết kế các hoạt động nghiên
cứu và phát triển nông lâm kết hợp nhằm giải quyết các vấn đề và hạn chế trong phát
triển nông lâm kết hợp của cộng đồng và hộ gia đình. Bước 3 chúng ta đã xác định và
xếp thứ tự ưu tiên các hoạt động nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp. Ở bước này
cán bộ nghiên cứu và cán bộ khuyến nông cần thúc đẩy và tham gia cùng người dân
thiết kế các hoạt động nghiên cứu.
III. THỰC HIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG LÂM
KÉT HỢP
1. Các bước phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp có sự tham gia
Tiến trình nghiên cứu về nông lâm kết hợp gồm 5 giai đoạn như sau:

Hình 61. Sơ đổ tiến trình 5 giai đoạn của nghiên cứu nông lâm kết hợp
1.1. Phân tích tình hình
Các nhà nghiên cứu và nhân viên khuyến nông, cùng người dân, cộng đồng địa
phương phân tích tình hình về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và các yếu tố ngoại
cảnh có ảnh hưởng:
• Những tiềm năng, thuận lợi cho phát triển nông lâm nghiệp
• Những vấn đề và những cản trở, nguyên nhân hạn chế phát triển nông lâm kết
hợp
• Các ý tưởng và các kỹ thuật nông lâm kết hợp dự kiến để giải quyết vấn đề và
những cản trở.
• Mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của nông trại.
1.2. Xác định chủ đề nghiên cứu
Các ý tưởng, các chủ đề nghiên cứu được người dân địa phương cùng cán bộ nghiên
cứu khuyến nông đưa ra trong giai đoạn phân tích tình hình cần được phân tích
kỹ hơn về các mặt sau:
• Mục tiêu của các chủ đề nghiên cứu
• Các lựa chọn kỹ thuật nông lâm kết hợp liên quan đến kiến thức, kinh nghiệm của
nông dân.
• Các lựa chọn để kiểm tra trên đồng ruộng.
• Các kết quả mong đợi của chủ đề nghiên cứu.
• xếp thứ tự ưu tiên các chủ đề nghiên cứu.
1.3. Lập kế hoạch nghiên cứu
Các nhà nghiên cứu và khuyến nông đóng vai trò thúc đẩy, hỗ trợ nông dân lập kế
hoạch, triển khai các hoạt động nghiên cứu trên đồng ruộng. Giai đoạn lập kế hoạch rất
quan trọng, nó khuyến khích nông dân suy nghĩ sâu hơn về chủ đề nghiên cứu, trách
nhiệm của họ trong các hoạt động, khai thác kinh nghiệm kiến thức bản địa cũng như
tiềm năng khác của địa phương.
Trình tự lập kế hoạch:
- Thiết kế thử nghiệm:
+ Phân khu thử nghiệm
+ Xác định loài cây trồng, vật nuôi
+ Các kỹ thuật
+ Các nguồn đầu tư cần thiết
- Xác định các hoạt động của chủ đề nghiên cứu: Sắp xếp theo trật tự logic, có tham
khảo nông lịch, các vấn đề về giới, tài chính.
- Xác định thời gian tiến hành các hoạt động thử nghiệm: Trả lời câu hỏi làm khi
nào?
- Xác định nguồn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu: cố gắng tận dụng nguồn đã có ở
địa phương, khi phải sử dụng các nguồn lực từ bên ngoài cần phải chỉ rõ nguồn đó lấy ở
đâu trách nhiệm là ai, khả năng cung cấp.
1.4. Tổ chức thực hiện các hoạt động nghiên cứu
1.5. Tổ chức giám sát và đánh giá
1.5.1. Hệ thống giám sát và đánh giá có sự tham gia của người dân (PMOE)
PMOE là một phương pháp được áp dụng để ghi nhận và phân tích thông tin định
kỳ mà những nhà thực hiện dự án và người hưởng lợi đã liên kết để quyết định cho việc
phát triển bền vững (SD) và nông nghiệp bền vững (SA).
Sự giám sát có tham gia (PM) là việc ghi nhận các thông tin có ích nhằm theo kịp
các hoạt động và/hay các tiến trình hướng đến các mục tiêu một cách liên tục. Mỗi một
cộng tác viên của dự án tại địa phương phải có kế hoạch thu thập tất cả các thông tin về
hoạt động của dự án xuyên suất các giai đoạn thực hiện.
PMOE thích ứng với toàn bộ quá trình đánh giá có sự tham gia, giám sát và đánh
giá ý tưởng của dự án một cách xuyên suốt, nó chỉ ra các thông tin phản hồi từ các hoạt
động và mục tiêu liên hệ với những phương pháp khác của thẩm định nhanh nông thôn.
(Phân tích các vấn đề cộng đồng và đánh giá sự kiện). Tại mỗi điểm, dự án có nhiều
thời điểm đánh giá sự thay đổi. Có thể lúc khởi đầu không có gì là bất thường, theo kế
hoạch, nhưng sau khi được kiểm tra có những vấn đề cần thay đổi.
1.5.2. Phương pháp thực hiện PMOE ở một địa điểm
Sau đây là các bước làm việc cho PMOE. Các bước này được thực hiện bởi người
hưởng lợi. Cán bộ hiện trường nên thúc đẩy và giúp đỡ họ thực hiện:
• Mục đích của PMOE:
Mục đích của PMOE rất khác nhau tùy thuộc vào các hoạt động của dự án.
Nó cung cấp các thông tin giúp thực hiện các quyết định như:
"Chúng ta có thỏa mãn với tiến trình hướng đến mục đích?"
"Chúng ta có nên thay đổi chiến lược hay hoạt động ?"
"Chúng ta có nên đánh giá lại mục tiêu ?"
PMOE được thực hiện cho bất cứ hay tất cả những mục đích dưới đây:
• Xem xét tất cả các kế hoạch hoạt động có tiếp tục dẫn đến việc đạt được mục tiêu
phát triển bền vững và nông nghiệp bền vững.
• Đánh giá hướng đến việc đạt được mục tiêu, kế hoạch làm việc và các hoạt
động
• Xác định thời gian có còn đủ để hoàn thành các hành động
• Bảo đảm các tiêu chuẩn tết được duy trì
• Cung cấp các thông tin và phản hồi về những kỹ thuật mới
• Bảo đảm việc sử dụng phương tiện và nhân lực một cách hiệu quả
• Đo lường các tác động môi trường.
• Cung cấp một hệ thống báo động sớm có thể xác định các vấn đề ở giai đoạn đầu để
có thể thực hiện các thay đổi khi cần thiết (có hay không có thông tin bổ sung từ việc
đánh giá sự kiện)
• Cung cấp hệ thống phản hồi liên tục trong suốt quá trình thực hiện dự án.
• Bổ sung và cụng cấp dữ liệu cho cộng đồng đánh giá sự kiện cũng như các
đánh giá của người ngoài.
* Cái gì được giám sát
Có nhiều nhân tố và các thay đổi có thể được giám sát ở mỗi điểm dự án. PMOE sẽ
được thực hiện chủ yếu ở 2 mức độ: mức nông hộ và mức cộng đồng. Ở cả hai mức độ,
cả hai dữ liệu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đều cần thiết. Các yếu tố này sẽ
được phân loại và xác định những nhân tố chủ chốt và mô tả trong các bảng dưới đây.
* Giám sát như thế nào
Các chỉ tiêu giám sát rất khác nhau từ địa điểm này đến địa điểm khác, và thậm chí
trong từng cộng đồng.
* Ai sẽ giám sát:
Việc giám sát được thực hiện bởi những nhân viên hiện trường của dự án trong
những cuộc thăm viếng có những nhân viên của điểm dự án, người đảm trách những
hoạt động cụ thể (ví dụ như người quản lý vườn ươm, kế toán viên, khuyến nông viên,
v.v...) và các nông dân chọn từ một vài người chủ chốt và những đại diện cho cộng
đồng. Sự chắc chắn của thông tin trong giám sát có thể được khuyến khích bởi những
nhân viên đáng tin cậy của mỗi địa điểm.
* Việc giám sát được thực hiện khi nào?
Một lần nữa, điều này sẽ rất khác nhau trong những cộng đồng, giữa địa điểm này
và địa điểm khác và tùy theo các điều kiện tự nhiên Sau khi đã quyết định lúc nào sẽ
tiến hành việc giám sát, thời điểm để đánh giá tiến triển có thể được lập kế hoạch. Việc
giám sát đánh giá có thể thực hiện hàng quý, hàng tháng.
Việc đánh giá tiến trình đòi hỏi một bổ sung thông tin, thu thập, phân tích và trình
bày cho người dân, người sẽ ra các quyết định. Việc đánh giá tiến trình có thể được thực
hiện bởi các nhóm nhỏ, những người được giao trách nhiệm để thực hiện việc này (ví dụ
một nhóm người ngoài).
* Các công cụ giám sát và đánh giá tiến trình:
Các công cụ phải được nhóm nghiên cứu đề nghị dựa trên dựa trên yêu cầu phát
triển bền vững của mỗi điểm. Tất cả các yếu tố sinh học vật lý, kinh tế xã hội, kỹ thuật
và văn hóa đều được chú ý.
* Ai có thể được trả lời trong khi thực hiện các buổi trên đây.
Khi thực hiện PMOE nó sẽ mang lại, trong suốt quá trình của dự án các điểm sau
đây:
Những yếu tố chỉ thị chủ chốt sẽ giám sát các hoạt động/mục tiêu dựa rên các nền
tảng vững chắc; những công cụ mà cộng đồng có sử dụng để giám sát. Một kế hoạch
định kỳ để phân tích bình thường và thảo luận thông tin được thu thập trong suốt quá
trình giám sát; Thông tin hướng dẫn dự án. Nó sẽ chỉ ra các thông tin nếu như dự án nên
thay đổi, tổ chức lại, suy nghĩ lại hủy bỏ một hoạt động, hay tiếp tục duy trì.
2. Các tiêu chí, chỉ báo trong giám sát và đánh giá kỹ thuật nông lâm kết hợp
2.1. Các chỉ tiêu đánh giá
Một điều quan trọng của quá trình thẩm định là phải xác định các chỉ tiêu thích hợp,
đúng chỗ, xác minh được, định lượng được để có thể đo lường được các định mức nổi
bật nhất. Khi phê phán các chỉ tiêu về sa mạc hóa, Krugmann (1996) đã ghi chú rằng
các chỉ tiêu phải được xây dựng theo cấp vi mô đến vĩ mô, phản ảnh các suy nghĩ, kinh
nghiệm, tiến trình và các hành động (câu hỏi) ở các tầm mức khác nhau. Các chỉ tiêu có
thể định lượng hay định tính các chỉ tiêu định lượng thì dễ đo lường và tổng hợp, trong
khi đó các chỉ tiêu định tính thì ưu việt hơn về nắm bắt sự phức tạp của các tình trạng
thay đổi. Các chỉ tiêu có thể trực tiếp hay gián tiếp, mô tả (tình trạng của hoàn cảnh),
hay dựa vào kết quả thực hiện (đo lường vài điểm chuẩn). Chỉ tiêu cũng có khung thời
gian của nó, mộ vài chỉ tiêu có giá trị trước mắt, trung hạn hay dài hạn. Tùy theo loại dự
án. chương trình, theo dõi vài chỉ tiêu nào đó có thể là cần thiết ngay từ khi khởi đầu dự
án cho dấn khi dự án chấm dứt để một thời gian cần thiết để có thể đánh giá ảnh hưởng
đầy đủ của dự án. Các chỉ tiêu cũng có thể phản ánh sự thay đổi hay các dấu hiệu thay
đổi của các biến số.
2.2. Các chỉ tiêu từ nông dân
Các cộng đồng thường có hàng loạt các chỉ tiêu mà họ dùng để theo dõi và đánh giá
chất lượng của môi trường họ đang sống và tiên đoán các thay đổi về sinh thái. Thông
thường, các cộng đồng định các giá trị khác nhau với các chỉ tiêu thay đổi; họ dùng các
chỉ tiêu mà họ cho là nổi bật nhất để lập kế hoạch và thời khóa biểu của các hoạt động
sản xuất cũng như giúp họ quyết định vượt qua các khó khăn để sống còn. Mwadime
(1996) đã ghi nhận rằng một cộng đồng ở Kenya, người dân đã phối hợp các chỉ tiêu
ảnh hưởng kế hoạch và quyết định của họ.
Một vài thí dụ về các chỉ tiêu của nông dân là sự xuất hiện và tập tính của thực vật
và động vật (chẳng hạn, sự ra hoa hay đâm chồi của vài loài cây chính và sự xuất hiện
và hoạt động của chim, côn trùng, ếch nhái), đặc điểm của gia và sự thay đổi hướng gió,
và vị trí của vài chòm sao. Chính các chỉ tiêu này đã giúp người dân phát hiện các thay
đổi theo mùa, tiên đoán mưa hay chấm dứt mùa, xác định độ phì của đất, và theo dõi
tình trạng của môi trường (Oduol 1996). Tập tính của gia súc và động vật rừng có thể
chỉ thị cho sự hữu hiệu của thức ăn hay chất lượng của nó. Nhịp độ phối giống của súc
vật; thành phần và màu sắc của phân, hay tình trạng của lông thú có thể phản ảnh chất
lượng của môi trường (Kipuri).
Các chỉ tiêu của nông dân thường cá biệt cho một điều kiện được ảnh hưởng bởi các
yếu tố sinh thái, văn hóa, xã hội, kinh tế và ảnh hưởng của giới tính và tuổi tác
(Krugmann 1996). Sự xác định các chỉ tiêu của nông dân thường kế thừa một quá trình
hợp tác lâu dài. Sự chọn lựa các chỉ tiêu của người bên trong và bên ngoài sẽ tùy thuộc
vào mức độ rõ ràng của các chỉ tiêu thể hiện các định mức trong nội dụng của câu hỏi
làm thế nào để các dữ kiện được thu thập. Quá trình thẩm định có thể phối hợp cả hai
loại chỉ tiêu của người bên trong và bên ngoài.
2.3. Đặc điểm để xác định chỉ tiêu cho hệ sinh thái nông lâm kết hợp

Sư đa dang Nước
• Đa dạng của động vật rừng • Khả năng tiếp cận với nước
• Sự hiếm hoi của động vật quý hiếm • Nguồn nước
• Sự phong phú loài • Lượng nước
• Đa dạng của thực vật tự nhiên • Sự thoát nước
• Đa dạng của hoa màu • Chất lượng
Sự dẫn nhập của các loài ngoại lai (nếu có thì
điều này có ảnh hưởng âm (-).
4.2.2. Đất đai
• Môi trường cho động vật hoang dã 4.3. Không khí
• Thảm thực bì 4.4. Chất lượng không khí
• Cấu tạo đất 4.5. Sự sử dụng tài nguyên
• Hiện tượng tái sinh dưỡng chất • Sử dụng đất
• Độ phì của đất • Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
• Cấu tượng của đất • Sử dụng tài nguyên

Bảng 6. Biểu sàng lọc tiêu chí cho sự vững bền của các kỹ thuật nông lâm kết hợp
E. MÔ HÌNH VƯỜN RỪNG TƯƠNG HỖ NĂNG LƯỢNG (SYNTROPY).
Vườn rừng trù phú (Abundance Agroforestry)
Một tài liệu hướng dẫn phương pháp nông nghiệp Syntropy

Phục vụ thiên nhiên và thiên nhiên sẽ phục vụ bạn


Nông nghiệp Syntropy:
Một hình thức nông lâm tái tạo được thúc đẩy bởi sức mạnh của sự kế thừa tự
nhiên, đây là hình thức nông nghiệp cao hơn nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp bền
vững, nó tạo ra sự phong phú. Một sự thay đổi cục diện nông nghiệp hiện đại.
Giới thiệu:
Nông nghiệp Syntropy là một phương pháp nông lâm kết hợp được phát triển bởi
Ernst Götsch. Sức mạnh của nó đến từ sự liên kết với sức mạnh của sự kế thừa tự nhiên.
Sự kế thừa tự nhiên là xu hướng tự nhiên để phục hồi lại đất đai, đưa nó từ cằn cỗi sang
có thảm thực vật màu mỡ và dày đặc.
Ernst quan sát thấy rằng quá trình tiến hóa này được thúc đẩy bởi sự hợp tác giữa
các thành viên của hệ thống đang sống (living system) theo cách có lợi cho toàn bộ hệ
thống. Điều này trái ngược với mô hình của Darwin, coi sự tiến hóa là do sự cạnh tranh.
Những gì có thể xuất hiện dưới dạng cạnh tranh hoặc hủy diệt trong môi trường tự nhiên
thực sự là một nỗ lực nhằm tạo ra sự cân bằng vì lợi ích của toàn hệ thống.
Với quan điểm này, trang trại được coi là một hệ thống sống thông minh, thống
nhất, và phát triển theo thời gian. Để điều này xảy ra, có những tương tác phức tạp xảy
ra giữa thực vật (và động vật) và mọi sinh vật đều phục vụ một mục đích quan trọng
trong quá trình. Khi các mối quan hệ hợp tác này được thúc đẩy chính xác bởi người
nông dân, trang trại sẽ phát triển thành một hệ thống đang sống một cách mạnh mẽ,
khỏe mạnh.
Để làm điều này, người nông dân trồng một số dạng thảm thực vật, không tạo ra
bất kỳ loại sản phẩm nào có thể sử dụng được, nhưng điều đó đóng góp tích cực cho
trang trại. Chúng được gọi là cây sinh khối. Người nông dân cũng chăm sóc những cây
có thể tạo ra sản phẩm có giá trị. Chúng được gọi là cây mục tiêu. Các cây này được
trồng cùng nhau, theo cách có lợi cho cả hai bên. Nông dân cũng có một sự hiểu biết sâu
sắc về cách thảm thực vật phản ứng tích cực với việc cắt tỉa và cắt toàn bộ vào thời
điểm chiến lược để thúc đẩy tăng trưởng nhanh chóng.
Sau một vài năm, hệ thống trở nên tự chủ một phần. Nó có thể cung cấp nước
tưới, phân bón cho riêng mình, lấn át những cây không mong muốn và chống lại bệnh
tật. Nó chỉ cần một số ít thao tác quản lý từ nông dân.
Làm thế nào để nó chống lại bệnh tật? Nó hoạt động như hệ sinh vật đường ruột
khỏe mạnh. Khi con người có một cộng đồng mạnh mẽ của các vi sinh vật khỏe mạnh
trong ruột của mình, không có chỗ cho các tác nhân gây hại. Điều này cũng đúng với
một hệ thống trang trại lành mạnh. Để làm việc này, hệ thống cần phải hợp tác với cuộc
sống. Nó cần một mật độ sinh học trên trung bình, như được thấy trong một khu rừng
khỏe mạnh. Khi điều này đạt được, trang trại sẽ có thể chống lại bệnh tật và tạo ra sự
phong phú. Người nông dân chỉ cần thiết kế hệ thống với tầm nhìn xa, chi tiết và quản
lý sự trưởng thành của nó bằng cách cắt tỉa một cách có chiến lược, và trang trại sẽ lo
phần còn lại.
Nông nghiệp Syntropy dựa vào các kế hoạch trồng trọt thông minh, đa dạng sinh
học và mật độ dày đặc. Các kế hoạch trồng được tạo thành từ các tập đoàn (nhóm cây -
consortium). Thuật ngữ tập đoàn được sử dụng để mô tả sự pha trộn của cả cây và rau
có thể được trồng cùng nhau. Điều này tương tự như trồng luân anh và xen canh, nhưng
phức tạp hơn vì nó xem xét vai trò của cây trong sự kế thừa tự nhiên.
Bởi vì nó dựa trên sự kế thừa tự nhiên, hỗn hợp các loại cây lớn tốt cùng nhau
được nhóm lại theo tuổi thọ của chúng. Một số tập đoàn chỉ có mặt trong thời gian đầu,
trong khi những tập đoàn khác chiếm ưu thế sau này. Một kế hoạch trồng cây điển hình
sẽ sử dụng các tập đoàn liên tục từ giai đoạn đầu của sự kế thừa cho đến giai đoạn cuối
cùng. Một kế hoạch trồng rất phức tạp vì nó tính đến tầm nhìn tương lai của trang trại.
Nó làm như vậy theo cách tối ưu để tạo ra các đợt thu hoạch, lần lượt từng đợt một, đầu
tiên bắt đầu bằng rau và sau đó với trái cây và gỗ từ cây. Mỗi đợt đại diện cho sự trưởng
thành của một tập đoàn khác. Như đã đề cập trước đây, một số thảm thực vật sẽ được
trồng để thu hoạch, trong khi các thảm thực vật khác sẽ được trồng chỉ với mục đích cắt
tỉa và thúc đẩy sự tiếp nối.
Nông nghiệp Syntropy có thể được sử dụng để cải tạo vùng đất chết đã bị thoái
hóa hoặc được giới thiệu đến vùng đất nông nghiệp hiện tại.
Nó thậm chí có thể được sử dụng để biến rừng rậm hoang dã thành một khu rừng
thực phẩm. Trọng tâm của cuốn sách hướng dẫn này là chỉ ra cách giới thiệu phương
pháp này cho đất nông nghiệp hiện có.
Nông nghiệp Syntropy nhận ra rằng đất nông nghiệp và rừng hoang dã có thể có
mức độ sức sống khác nhau. Nó không chỉ là một tình huống giống như đen và trắng.
Bằng cách nghiên cứu cuốn sách hướng dẫn này, bạn sẽ học cách nhận ra những nơi mà
vùng đất trong quá trình phát triển và chiến lược của để giúp thúc đẩy nó từ thời điểm
đó.
Những nguyên tắc này xuất hiện như một loạt những hiểu biết từ Ernst khi ông
quan sát chặt chẽ thiên nhiên và học các kỹ thuật nông lâm kết hợp từ người bản địa.
Đáng ngạc nhiên, ban đầu, ông nghiên cứu về di truyền học với mục tiêu thao túng thiên
nhiên vì lợi ích của con người, nhưng sau đó đã đi đến kết luận rằng thiên nhiên rất
thông minh và tốt hơn là con người học cách thích nghi với tự nhiên.
Ernst có một số cách rất chi tiết và hợp lý để giải thích mọi thứ và cách tiếp cận
của anh ta có tác dụng với nhiều người khác, nhưng điều quan trọng cần nhớ là đây là
những phỏng đoán tốt nhất dựa trên quan sát của con người thông qua ứng dụng thực tế.
Khoa học đằng sau nông nghiệp Syntropy cần nghiên cứu thêm.
Điều làm cho Nông nghiệp Syntropy có giá trị là mức độ bền vững cao. Sau mỗi
chu kỳ của cây trồng, đất tốt hơn so với trước đây và mọi thứ cần thiết để đạt được điều
này có thể được trồng tại chỗ. Một số người có thể lầm tưởng rằng canh tác thông
thường cũng tự túc. Dường như mọi thứ chỉ phát triển từ đất, phải không? Sai, nông dân
thông thường phụ thuộc nhiều vào phân bón, thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ cũng như
máy móc chạy bằng nhiên liệu hóa thạch để làm việc trên đất. Ngay cả hầu hết nông dân
hữu cơ cũng phụ thuộc rất nhiều vào đầu vào bên ngoài.
Nông nghiệp Syntropy đạt được năng suất tương tự hoặc lớn hơn mà không cần
dựa vào các nguồn lực từ bên ngoài trang trại. Điều này xác định lại những gì hầu hết
mọi người nghĩ khi họ nói về sự bền vững. Điều phi thường nhất về nông nghiệp
Syntropy là nó vượt ra ngoài khả năng tự túc. Trang trại không chỉ duy trì chính nó,
cuối cùng nó tạo ra sự phong phú mà không cần đầu vào bên ngoài. Có những báo cáo
về thu hoạch 40 tấn / ha / năm, so với năng suất canh tác độc canh ốt nhất là khoảng 11-
15 tấn / ha / năm.
Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là nông nghiệp thông thường thực sự dẫn đến sự
khan hiếm. Làm thế nào lại như vậy? Nghiên cứu đã chỉ ra rằng bất chấp tất cả các yếu
tố đầu vào bên ngoài của canh tác thông thường, chất lượng đất thực sự suy giảm theo
thời gian. Sau khi đọc qua cuốn sách hướng dẫn này, hy vọng nó sẽ trở nên rõ ràng tại
sao nông nghiệp Syntropy thành công, nơi canh tác thông thường đã thất bại.
Mô hình Nông nghiệp Syntropy cho Haiti:
Nông nghiệp Syntropy đang được giới thiệu đến vùng nông thôn Haiti và cuốn
sách hướng dẫn này đã được tạo ra để chia sẻ kết quả của công việc đó. Những nông
dân này dựa vào đất đai của họ để sản xuất thực phẩm, nguyên liệu và tạo thu nhập. Họ
sống ở vùng khí hậu nhiệt đới và tất cả các công việc được thực hiện bằng lao động thủ
công cùng với dụng cụ cầm tay. Thiết bị nông nghiệp cơ giới, hệ thống tưới tiêu và hóa
chất không có sẵn cho người nông dân có thu nhập trung bình. Đất nước bị mất rừng
nghiêm trọng, xói mòn đất và mất độ phì nhiêu của đất. Các tập quán nông nghiệp hiện
nay không đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người dân và tình trạng nghèo đói vẫn còn
tồn tại.

Trang trại Syntropy cộng đồng ở Haiti


Nông nghiệp Syntropy cung cấp một giải pháp hoàn chỉnh cho những người chăm
chỉ này. Phương pháp được nêu trong tài liệu này có thể được thực hiện ở bất kỳ vùng
khí hậu nhiệt đới nào (và với sự thích nghi, nó cũng có thể được thực hiện ở vùng khí
hậu cận nhiệt đới và ôn đới). Nó cung cấp một phương pháp để trồng một khu rừng đầy
thức ăn, gỗ và thức ăn gia súc, giúp phục hồi đất và bổ sung các hồ chứa nước.
Nó thực sự là tự duy trì. Nó dẫn đến một hệ thống trang trại mạnh mẽ, khỏe mạnh, nơi
phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu trở nên lỗi thời. Kỹ thuật canh tác
nương rẫy và đốt cháy là không cần thiết và trên thực tế, không tương thích với phương
pháp nông nghiệp Syntropy. Công việc vất vả trở nên dễ dàng hơn khi cấu trúc đất được
cải thiện và việc làm đất chỉ được sử dụng nếu thực sự cần thiết.
Câu chuyện về trang trại của Ernst:
Nếu được thực hiện trên quy mô đủ lớn, cách canh tác này có thể thay đổi đáng
kể một khu vực. Ví dụ, vào năm 1984 Ernst Götsch bắt đầu phát triển từ một vùng đất
khô cằn ở Brazil. Đất bị nén chặt và xuống cấp đến mức không thể nuôi được con gì
nữa. Để tái sinh đất, ông đã trồng những cây mà sau đó ông cắt tỉa để tạo ra lớp phủ.
Sau khi cây được cắt tỉa, mọi thứ trong trang trại đã thay đổi. Nhiệt độ giảm, cấu
trúc và chất lượng đất được cải thiện đáng kể. Vùng đất này hiện nay là một khu rừng
mưa rộng 500 ha (1200 mẫu Anh). Bảy ha rừng mưa là nơi sinh sống của một trang trại
ca cao năng suất cao. Bằng cách nào đó, trang trại ca cao của Ernst sản xuất sản lượng
tương tự như nông dân trồng ca cao thông thường, nhưng không cần mua nguyên liệu
đầu vào bên ngoài liên tục và ca cao được coi là vượt xa chất lượng trung bình. Ernst
kiếm sống tốt từ công việc kinh doanh ca cao của mình. Số lượng lao động trên nông
trại cần thiết để quản lý trang trại của ông chỉ ngang với các trang trại ca cao thông
thường trong khu vực.
Bởi vì nông nghiệp Syntropy hoạt động từ góc độ tổng thể, cả nông dân và đất đai
đều được hưởng lợi từ hoạt động này. Ví dụ, khi bệnh lan rộng (bệnh chổi phù thủy) bị
nhiễm trên cây ca cao ở Brazil, trang trại Ernst cũng bị ảnh hưởng, nhưng ít hơn nhiều
so với các trang trại thông thường. Lợi ích của hệ thống này liên quan đến cách nó được
tích hợp vào rừng mưa nhiệt đới và không thể đạt được bằng cách chỉ tiếp giáp với một
khu rừng mưa. Ví dụ, một số trang trại ca cao nằm cạnh khu rừng mưa rộng 500 ha này
bị bệnh, chẳng hạn như kiến ​cắt, trong khi trang trại Ernst vẫn khỏe mạnh và mạnh mẽ.
Ngoài ra, khí hậu vi mô trên đất của ông đã thay đổi. Sau nhiều thập kỷ, lượng
mưa đã tăng lên và tất cả 17 dòng chảy trên vùng đất của ông chảy quanh năm, ngay cả
trong mùa khô. Tham khảo video ngắn này để biết thêm chi tiết:
https://www.youtube.com/watch?v=gSPNRu4ZPvE VIETSUB
https://www.facebook.com/dolekimhue/videos/10155896313652583/ Thuyết minh tiếng
Việt.

Trang trại của Ernst trước khi bắt đầu - 1984


Trang trại của Ernst sau 30 năm - 2015
Nông nghiệp Syntropy là một chủ đề lớn. Có nhiều khái niệm phức tạp, được xây
dựng cái này chồng lên cái kia. Có một sự hiểu biết vững chắc về các nguyên tắc này là
rất quan trọng, nhưng việc học thực sự chỉ có được qua nhiều năm quản lý trang trại.
Mục tiêu của cuốn sách hướng dẫn này là mang đến cho mọi người sự tự tin để bắt đầu
một trang trại Syntropy. Điều này sẽ đạt được bằng cách cung cấp các nguyên tắc một
cách trực tiếp và có cấu trúc và sau đó đưa ra một mô hình trồng.
Những mô hình này chỉ đại diện cho một vài cách có thể để làm điều này. Trong
thực tế, có vô số cách để áp dụng các nguyên tắc này. Mỗi khu vực có các yếu tố tự
nhiên độc đáo sẽ ảnh hưởng đến thiết kế tốt nhất cho một trang trại Syntropy. Ngay cả
trong các khu vực gần nhau, môi trường có thể khác nhau. Điều này đặt ra một thách
thức cho người nông dân, nhưng cũng là cơ hội cho những người tiên phong muốn sử
dụng năng lực sáng tạo của họ để thích ứng kỹ thuật này với môi trường địa phương của
họ.
Tài liệu này không phải là tài nguyên độc lập. Việc lên kế hoạch cần một nhà tư
vấn Nông nghiệp Syntropy tốt để giúp thiết kế và quản lý trang trại định kỳ, đặc biệt là
vào khoảng năm thứ hai, khi việc cắt tỉa mạnh (intensive pruning) thường bắt đầu.
Ngoài ra, cuốn sách hướng dẫn này là một sản phẩm vẫn đang phát triển. Nó đôi khi sẽ
được cập nhật để bổ sung kiến ​thức mới thu được từ những bài học kinh nghiệm ở Haiti.
Ưu và nhược điểm của nông nghiệp Syntropic:
Lợi ích:
1) Năng suất cây trồng lớn.
2) Thu nhập ổn định trong mùa tăng trưởng. Cây trồng được chọn và trồng để
mang lại thu hoạch trong các giai đoạn trong suốt cả năm và qua nhiều năm.
3) Thu nhập tăng qua các năm khi cây ăn quả và gỗ bắt đầu trưởng thành.
4) Không gian đất được tối ưu hóa. Việc sản xuất rau được thực hiện cùng với
cây ăn quả và gỗ.
5) Chi phí được giảm thiểu (thuốc trừ sâu, phân bón và thiết bị nông nghiệp cơ
giới hóa là không cần thiết).
6) Chất lượng đất được cải thiện. Nó trở nên màu mỡ hơn, mềm mại, thoáng khí
và trồng tốt.
7) Trang trại ít phụ thuộc vào lượng mưa thường xuyên vì khả năng giữ nước
được cải thiện.
8) Môi trường làm việc dễ chịu vì cây cối khi phát triển sẽ cung cấp một phần
bóng mát.
9) Ít làm cỏ. Mặt đất được phủ bằng lớp phủ, ngăn chặn cỏ và các cây cạnh tranh.
10) Mọi thứ phát triển. Khi môi trường trang trại được cải thiện, thậm chí các loài
khó tính vẫn có thể được trồng.
11) Cải thiện sức khỏe thực vật và khả năng phục hồi đối với sâu bệnh vì có sức
mạnh trong đa dạng sinh học.
Nhược điểm:
1) Phần thưởng đầy đủ bị trì hoãn.
2) Trang trại có thể trông như mớ hỗn độn của người Viking.
3) Cần có thời gian và năng lượng để học.
4) Những cây trồng têu thích ánh nắng mặt trời và hoa màu chỉ có thể được trồng
trong khoảng 4 năm đầu tại trang trại.
Nó có thực sự hiệu quả không?
Vâng! Nhiều trang trại Syntropy đang phát triển mạnh trên khắp hành tinh. Một
số đã chứng minh năng suất tuyệt vời và khả năng chống lại bệnh tật. Ví dụ, một nghiên
cứu so sánh trang trại cacao của Ernst với các trang trại thông thường lân cận cho thấy
vườn của anh ta sản xuất sản lượng cacao tương tự, trong khi không cần phân bón hoặc
thuốc trừ sâu.
Có những nghiên cứu tích cực từ Bolivia nữa. Một hệ thống cây cam Syntropy
tạo ra năng suất cao hơn đáng kể so với một trang trại tương tự trồng độc canh. Trang
trồng độc canh đó đã bị phá hoại gấp đôi do ruồi giấm. Trong một nghiên cứu khác, so
sánh một hệ thống syntropy trồng cây cacao với một trang trại độc canh cho thấy lợi tức
của lao động gần gấp đôi! Một so sánh cacao khác cho thấy số lượng cây bị bệnh ít hơn
đáng kể (Cây chổi phù thủy) trong một trang trại syntropy so với các trang trại thông
thường và năng suất tương đương hoặc cao hơn. Nhiều nghiên cứu vẫn đang chờ xử lý.
Làm thế nào để nó hiệu quả?
Các cơ chế đằng sau một hệ thống syntropy thành công có thể được đơn giản hóa
và mô tả bởi hai đặc điểm cơ bản:
1. Thu thập và xử lý năng lượng
2. Tăng tốc độ tăng trưởng và tiến hóa
Thiên nhiên có khả năng tạo ra phân bón ngay từ không khí. Người nông dân
Syntropy biết điều này và thay vì cố gắng làm công việc của tự nhiên, hãy tìm cách giúp
nó thực hiện công việc của chính mình tốt hơn. Nhiều khu rừng có các ngách (niche) để
trống nên không tận dụng hết tiềm năng của chúng để thu năng lượng. Ngoài ra, sự phát
triển và tiến hóa của một hệ thống rừng tự nhiên có thể rất chậm. Nông dân Syntropy đã
khắc phục những vấn đề này bằng cách lấp đầy mọi khoảng trống để tạo ra một hệ
thống rừng đa dạng sinh học dày đặc, có thể nắm bắt và xử lý năng lượng một cách tối
ưu và sau đó đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát triển của nó bằng cách cắt giảm một số
thảm thực vật vào những thời điểm chiến lược.
Khi bạn nghĩ đến việc thu năng lượng, hãy nghĩ đến việc bắt chước một cách tối
ưu bằng các kế hoạch trồng cây dày đặc và khi bạn nghĩ đến việc tăng trưởng nhanh,
hãy nghĩ đến việc cắt tỉa và quản lý trang trại. Trong thực tế cả hai thực tiễn chồng chéo
và ảnh hưởng lẫn nhau và do đó không loại trừ lẫn nhau.
Thu thập và xử lý năng lượng:
Hệ thống rừng thu được năng lượng gì? Quan trọng nhất là năng lượng mặt trời.
Thực vật thu năng lượng từ mặt trời thông qua quá trình quang hợp. Chúng cũng mang
lại carbon và nitơ bằng cách chuyển hóa các khí trong khí quyển. Cây hút khí carbon
dioxide và nhả ra oxy. Quang hợp lưu trữ năng lượng mặt trời, với sự trợ giúp của nước,
bằng cách biến carbon thành đường.
Nitơ được chiết xuất từ ​không khí bởi các vi khuẩn sống cộng sinh với rễ cây và
chúng cũng có thể được tìm thấy trong gỗ mục nát. Khoáng chất và các chất dinh dưỡng
khác bị mắc kẹt trong đất có thể được huy động bởi các vi khuẩn đất để chúng có thể sử
dụng được cho cây trồng.
Năng lượng được xử lý bởi các mạng lưới và mối quan hệ phức tạp giữa thảm
thực vật và các dạng sống khác trong hệ thống. Rừng hỗ trợ các mạng lưới này theo
nhiều cách nhưng đặc biệt là bằng cách cung cấp một môi trường được bảo vệ. Vì vậy,
khi một nông dân Syntropy tạo ra một hệ thống rừng dày đặc, nhiều lớp để thu năng
lượng tối ưu, anh ta / cô ta đồng thời cải thiện việc xử lý năng lượng bằng cách cung
cấp sự bảo vệ tuyệt vời khỏi các yếu tố bất lợi. Sự bảo vệ cũng được cung cấp ở cấp độ
các tầng của rừng bằng cách giữ cho đất được phủ bởi chất hữu cơ. Đây là một thực
hành quan trọng trong nông nghiệp Syntropy, nó sẽ xuất hiện nhiều lần trong cuốn sách
hướng dẫn này, nhưng bây giờ hãy cùng thảo luận về các khía cạnh khác nhau của hệ
thống sinh vật sống trong rừng.
Một hệ thống sinh vật sống:
Hãy nhớ rằng, tất cả các dạng sống trong trang trại kết hợp với nhau để tạo ra một
hệ thống sinh vật sống thống nhất, thông minh, phát triển theo hướng có lợi cho toàn bộ
hệ thống. Ernst thích gọi đây là sinh vật vĩ mô (macro-organism) để nhấn mạnh rằng nó
có một cuộc sống riêng. Nhưng vì thuật ngữ sinh vật vĩ mô có một định nghĩa khác
trong lĩnh vực sinh học, nên cuốn sách hướng dẫn này sẽ sử dụng thuật ngữ “hệ thống
sinh vật sống”, hay “hệ thống rừng”.
Một hệ thống sống lành mạnh trông như thế nào? Theo nguyên tắc chung, nó dày
đặc, đa dạng sinh học và thích nghi tốt với môi trường của nó. Điều này có nghĩa là bạn
muốn có nhiều sinh vật sống và bạn muốn chúng khác biệt. Hầu hết mọi người có thể
nhanh chóng tưởng tượng điều này có nghĩa là như thế nào ở trên mặt đất. Đây là một
khu rừng khỏe mạnh với một hỗn hợp nhiều loại cây, cây bụi và thảm thực vật khác.
Phần này của hệ thống rất quan trọng vì nó điều tiết tiếp xúc với gió, mưa và mặt trời.
Nhiều tầng thực vật giúp đất hấp thụ các yếu tố này, đồng thời bảo vệ trước thời tiết
khắc nghiệt.

Hệ thống sinh vật sống khỏe mạnh


Phần trên mặt đất của hệ thống chỉ là một nửa của hình ảnh. Những gì bạn nhìn
thấy trên mặt đất thường được nhân đôi lên ở bên dưới mặt đất và những gì diễn ra dưới
mặt đất thậm chí còn quan trọng hơn. Tại sao? Bởi vì phần dưới mặt đất đóng một vai
trò đặc biệt trong chuyển hóa và giữ lại các yếu tố khác nhau cần thiết để duy trì toàn bộ
hệ thống, chẳng hạn như nước, đường, chất dinh dưỡng, khoáng chất và chất hữu cơ.
Việc xử lý các yếu tố khác nhau được gọi là chu kỳ dinh dưỡng (nutrient cycling).
Thêm vào đó, khu vực dưới mặt đất vẫn giữ được độ phì nhiêu của hệ thống qua
các thời điểm khó khăn và xáo trộn. Một hệ thống khỏe mạnh có thể xử lý các tác động
khác nhau và phục hồi lại ngay vì sức mạnh tiềm ẩn bên dưới mặt đất.
Bây giờ bạn đã có một ý tưởng tốt về vai trò của các bộ phận trên và dưới mặt đất
của hệ thống, hãy chia nó ra theo một cách khác. Hãy nghĩ về hệ thống trong ba phần
sau:
1. Mạng lưới thực phẩm trong đất (soil food web) - cấu trúc, thành phần và các sinh
vật sống trong đất
2. Sinh vật - côn trùng và động vật có ích, bao gồm cả con người khôn ngoan
3. Thảm thực vật - cây và thực vật đa dạng với sự hiện diện lâu dài

Mạng lưới thực phẩm trong đất (soil food web)


Đất khác với bụi bẩn. Đất chất lượng tốt có sự sống. Nó có sự pha trộn chính xác
các tính chất vật lý và hóa học để hỗ trợ cho nhiều dạng sống. Sự sống càng hiện diện
nhiều trong đất thì càng tốt. Những dạng sống này sống cùng nhau trong một cộng đồng
ngầm và được kết nối bởi các mạng lưới. Toàn bộ sự sắp xếp này được gọi là mạng lưới
thực phẩm trong đất. Một mạng lưới thực phẩm trong đất tốt có nhiều mục đích quan
trọng:
1. Chuyển đổi chất dinh dưỡng thành các dạng có thể sử dụng được
2. Giúp giữ nitơ (cố định đạm) từ khí quyển và làm cho cây có thể hấp thu được
3. Cải thiện cấu trúc đất và làm thoáng khí
4. Chứa các sinh vật đất khỏe mạnh làm mồi cho sâu hại cây trồng
5. Làm cho nước và chất dinh dưỡng nằm xa tầm với trực tiếp của rễ cây vẫn có
thể tiếp cận tới rễ cây.
6. Giữ và tích trữ nước một cách cân bằng; Độ ẩm được giữ lại trong thời gian
hạn hán. Trong thời gian mưa lớn, nước được phân tán và sục khí để tránh ngập úng.
Một thành viên quan trọng của mạng lưới thực phẩm trong đất là nấm đất. Nấm
đất đòi hỏi đất ẩm, không bị xáo trộn, với nhiều gỗ mục nát và rất nhiều rễ còn sống.
Cây lâu năm và cây trồng rất quan trọng vì rễ của chúng vẫn còn nguyên và sống hết
mùa này qua mùa khác, cung cấp một ngôi nhà cho nấm. Nấm đất và rễ cây có tính
cộng sinh. Nấm tạo ra một mạng lưới các sợi nhỏ giúp cây hấp thụ các chất dinh dưỡng
và nước nằm ngoài tầm với, tăng trung bình 7 lần mức độ hấp thụ vùng của chúng. Nấm
cũng rất quan trọng đối với khả năng miễn dịch. Khi nghĩ về nấm đất, hãy nghĩ về khả
năng miễn dịch và mạng lưới giao thông.

Nấm đất và rễ tương tác với nhau


Vi khuẩn đất khỏe cũng rất quan trọng. Chúng giúp bảo vệ và nuôi dưỡng cây. Vi
khuẩn đất được gọi là vi khuẩn rhizobacteria. Chúng có khả năng phá vỡ các khoáng
chất và giải phóng chúng để chúng thành dạng dễ hấp thu cho rễ cây. Đôi khi, đất nghèo
chứa nhiều khoáng chất, nhưng chúng bị khóa ở dạng không sử dụng được. Vi khuẩn
đất làm cho chúng có thể sử dụng được. Rhizobacteria cũng tạo thành một lá chắn hoặc
rào chắn xung quanh rễ để ngăn chặn vi khuẩn có hại tấn công, chúng được gọi là
rhizosphere. Khi nghĩ về vi khuẩn đất, hãy nghĩ đến trường bảo vệ và sự giải phóng chất
dinh dưỡng.
Vi khuẩn Rhizobacteria và rễ tương tác với nhau
Mối quan hệ giữa nấm đất, vi khuẩn đất và rễ cây là có lợi lẫn nhau. Tại sao? Bởi
vì rễ cây nuôi dưỡng nấm và đường vi khuẩn. Một mạng lưới thực phẩm trong đất lành
mạnh phụ thuộc vào tất cả những thành phần này và hơn thế nữa. Khi một yếu tố bị
thiếu hoặc hiện diện ít, thì hệ thống trở nên yếu và bệnh tật có thể xuất hiện.
Mesofauna đất (Soil mesofauna) cũng rất quan trọng đối với mạng lưới thực
phẩm trong đất. Mesofauna đất đôi khi quá nhỏ để nhìn bằng mắt thường. Chúng là
những sinh vật nhỏ bé (1-2mm) hỗ trợ phân hủy chất hữu cơ và do đó giúp cung cấp cấu
trúc của đất cần thiết cho cây trồng. Những sinh vật này cũng có thể làm mồi cho vi
khuẩn xấu và các sinh vật không mong muốn khác. Đất lành mạnh có thể chứa tới
200.000 sinh vật trong một mét vuông!

Mesofauna đất, không nhìn thấy bằng mắt thường nhưng rất giá trị đối với trang trại
Sinh vật:
Các sinh vật có ích phục vụ các vai trò quan trọng khác nhau và sự hiện diện của
chúng trong trang trại nên được khuyến khích.
Ví dụ, giun và sinh vật nhiều chân giúp phân hủy chất hữu cơ. Các loài thụ phấn
như ong, bướm đêm, bướm, ruồi, bọ cánh cứng, dơi và chim ruồi giúp cải thiện đáng kể
năng suất cây trồng. Trên thực tế, 35% các loại cây trồng trên thế giới phục vụ cho tiêu
dùng của con người phụ thuộc vào sự thụ phấn. Cóc, thằn lằn, chim, bọ cánh cứng và
nhện là những kẻ săn động vật gây hại tự nhiên (pest predator – thiên địch có lợi).
Những động vật nhỏ hơn như chim và khỉ giúp phát tán và gieo hạt.

Các loài phân hủy

Các loài thụ phấn

Các loài săn mồi có ích – thiên địch


Động vật lớn hơn mang phân đến cho đất. Cộng với một số hạt cần phải đi qua
đường tiêu hóa của chúng để nảy mầm đúng cách. Một trong những sinh vật quan trọng
nhất trên mặt đất là những con người khôn ngoan, ví dụ những người nông dân hiểu các
nguyên tắc của nông nghiệp Syntropy. Cuối cùng, một cộng đồng của các sinh vật có
ích đã được hình thành khiến cho không còn chỗ cho các loài gây hại. Đây là lý do tại
sao cần tránh thuốc trừ sâu. Thuốc trừ sâu có thể giết chết cả các dạng sống tốt và xấu,
khiến trang trại yếu đi và không được bảo vệ.
Thảm thực vật:
Một quần thể mạnh mẽ và đa dạng của cây và thực vật tạo thành phần lớn nhất
của hệ sinh thái. Như đã đề cập trước đó, khi chúng đóng vai trò quan trọng trên và dưới
mặt đất. Đó là lý do giải thích tại sao hầu hết sự hiện diện thường trực của các thảm
thực vật trên mặt đất dù ít hay nhiều đều quan trọng.
Hãy nhớ hệ thống thức ăn trong đất và nấm đất phụ thuộc vào rễ sống như thế
nào? Đây là nơi nông lâm khác với canh tác thông thường. Cây và cây lâu năm khác
được trồng với số lượng lớn. Chúng được coi là có giá trị cao ngay cả khi chúng chỉ
cung cấp sinh khối. Nếu chúng chặn quá nhiều mặt trời cho các cây mục tiêu, chúng chỉ
đơn giản là được cắt tỉa, nhưng không bị chặt. Người nông dân nhận ra rằng việc cày
xới đất rất khó khăn đối với rễ và với lưới thức ăn của đất, do đó hạn chế điều này đến
mức tối thiểu. Ngoài ra, các biện pháp chặt cây và đốt cháy bị vứt bỏ khi chúng giết chết
tất cả các thảm thực vật, phá hủy nguồn giống tự nhiên và làm hỏng đất. Người nông
dân sẽ phải bắt đầu lại từ đầu.
Người nông dân cố gắng hết sức để trồng một thảm thực vật mạnh mẽ, dày đặc
trong trang trại, vì điều này phục vụ rất nhiều vai trò quan trọng của hệ thống sống
thống nhất. Một trong những chìa khóa để đạt được sự phát triển thảm thực vật dày đặc
này là bằng cách hiểu làm thế nào nhiều lớp thực vật có thể được trồng cùng nhau theo
cách có lợi cho cả hai bên. Điều này đạt được thông qua phân tầng.
Sự phân tầng:
Trong một cộng đồng cây, một mức độ phân tầng đề cập đến độ cao tương đối
khác nhau của cây. Các cấp độ cho nông nghiệp kết hợp được phân loại như; vượt nổi
bật, cao, trung bình và thấp. Các mức này có thể được chia thêm khi cần, chẳng hạn như
cao / trung bình và trung bình / thấp. Xác định tầng của cây không phải lúc nào cũng dễ
dàng. Một số cây có thể đóng vai trò của hai tầng khác nhau. Ví dụ, cây dừa đôi khi có
thể chiếm cấp độ nổi bật hoặc mức cao. Thiên nhiên không phải lúc nào cũng tuân theo
những phạm trù chúng ta tạo ra.
Khi các cây trong cùng một cộng đồng được so sánh với nhau, mức độ phân tầng
hoặc tầng sẽ luôn tương quan với chiều cao của cây, nhưng chiều cao không phải là yếu
tố quyết định. Tầng tầng của cây thực sự được xác định bởi nhu cầu của nó đối với ánh
sáng mặt trời. Những cây cần mặt trời nhất là vượt cao nhất và những cây cần ít nhất là
thấp.
Thông thường, nhu cầu về ánh sáng mặt trời và chiều cao của cây sẽ tỷ lệ thuận
với nhau, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Một số cộng đồng của cây trưởng thành
cao hơn những cây khác. So sánh các cây gỗ đỏ khổng lồ với các khu rừng cao nổi trội
khác. Vì vậy, trong ví dụ này, các thành viên nổi bật như gỗ đỏ khổng lồ sẽ cao hơn
nhiều so với một khu rừng điển hình. Mặc dù có sự chênh lệch lớn về chiều cao, cả hai
vẫn là các tầng nổi bật và cả hai đều cần ánh sáng mặt trời đầy đủ. Vì lý do đó, phép đo
chiều cao tuyệt đối không thể được sử dụng để phân loại phổ biến các tầng. Bây giờ
chúng ta đã hiểu điều này, hãy tìm hiểu về một số đặc điểm khác của các tầng.
Cây nổi bật là những cây chọc lên trên đỉnh rừng. Tầng cao là tiếp theo và mức trung
bình là dưới đó. Nhiều cây ăn quả trưởng thành ở các tầng cao và trung bình. Cuối cùng,
tầng thấp nằm dưới tất cả các tầng khác và có được bóng râm nhất (nghĩ là cà phê).
Cacao là một cây tầng trung gian trưởng thành ở mức trung bình / thấp. Danh sách địa
tầng chi tiết sẽ được cung cấp trong phần thực nghiệm của cuốn sách hướng dẫn này.

Tại sao điều quan trọng là tìm hiểu về các mức phân tầng? Bởi vì các tầng cho
bạn biết làm thế nào để bố trí phù hợp các loài cây trong cộng đồng của bạn. Mặc dù
nhiều khía cạnh của thiết kế nông lâm có thể được sửa đổi, khoảng cách bố trí phù hợp
phải được duy trì vì nó dựa trên các đặc điểm tự nhiên của thảm thực vật. Cây cùng tầng
cần có đủ không gian để tán của chúng có thể phát triển đến trưởng thành mà không
phải đụng chạm nhau. Trong một số trường hợp, chúng sẽ được cung cấp nhiều không
gian hơn thế này, để đảm bảo sự xâm nhập ánh sáng mặt trời tốt cho các tầng thấp hơn
của trang trại. Tuy nhiên, cây ở các tầng khác nhau có thể được trồng gần nhau vì tán
của chúng sẽ phát triển đến các độ cao khác nhau và chúng có thể chia sẻ cùng một
không gian thẳng đứng. Nếu phần tán của chúng có biên giới quá gần nhau thì không
sao. Chúng luôn có thể được cắt tỉa trở lại.
Để trang trại hấp thụ nhiều năng lượng mặt trời nhất, tốt nhất là duy trì hỗn hợp
cụ thể của 4 tầng. Đây là một hướng dẫn sơ bộ, nhưng nói chung, tốt nhất là duy trì theo
các tỷ lệ này:

Tỷ lệ phân tầng

Tầng nổi trội Tầng cao Tầng trung bình Tầng thấp

20% 40% 60% 80%

Mỗi tỷ lệ phần trăm đề cập đến tổng diện tích bề mặt đất được che phủ bởi tán
cây ở cấp độ đó. Lý do các con số cộng lại lên tới hơn 100% là do các mức tầng chồng
lấp. Ví dụ, trong một số trường hợp nổi bật, cao, trung bình và thấp đều sẽ bao phủ cùng
một bề mặt đất.
Những tỷ lệ này đạt được cả bằng cách trồng phù hợp lúc bắt đầu và cũng bằng
cách cắt tỉa lại sau này. Trong thực tế, cây luôn phát triển và trang trại luôn thay đổi. Độ
che phủ của tán là động. Vì vậy, nếu cây bắt đầu chiếm nhiều không gian dự định,
chúng chỉ đơn giản là được cắt tỉa trở lại. Các tỷ lệ này sẽ giúp hướng dẫn nông dân
thực hành cắt tỉa nhưng không có nghĩa là lý thuyết suông.
Chúng tôi chỉ đề cập đến rất nhiều tài liệu để giúp chúng tôi thấy hệ sinh thái có
thể thu được lượng năng lượng lớn như thế nào. Sự phân tầng cho chúng ta biết làm thế
nào để tối đa hóa mật độ trồng. Hãy nhớ làm thế nào thu được năng lượng với các kế
hoạch trồng dày đặc? Nhưng đó chỉ là một nửa của phương trình. Nửa còn lại đạt được
thông qua sức mạnh của sự kế thừa tự nhiên.
Sự kế thừa:
Sự kế thừa là xu hướng cho một hệ thống tự nhiên phát triển từ đơn giản đến
phức tạp. Thông qua quá trình kế thừa, đời sống thực vật hướng tới khả năng các loài có
thể thu giữ và xử lý ngày càng nhiều năng lượng. Điều này dẫn đến năng lượng tập
trung, đó chính xác là nghĩa của thuật ngữ "syntropy". Khai thác sức mạnh của sự kế
thừa tự nhiên là không thể thiếu đối với nông nghiệp syntropy.
Thành công cải thiện chất lượng đất, đa dạng sinh học và di chuyển hệ thống đến
thảm thực vật tồn tại lâu hơn.Nếu không bị xáo trộn, thiên nhiên sẽ biến vùng đất trống
thành một khu rừng phát triển mạnh hoặc rừng nhiệt đới và nó có thể tự duy trì điều
này. Rừng nhiệt đới màu mỡ và đa dạng sinh học hơn nhiều so với một cánh đồng. Quá
trình này đạt được thông qua sự trưởng thành của một cộng đồng các loài cây khác
nhau, mỗi loài cây có một nhiệm vụ cụ thể và đôi khi chỉ có vai trò ngắn hạn.
Để giúp hiểu rõ sự kế thừa, nó được chia thành các giai đoạn riêng biệt, nhưng
trong thực tế, nó xảy ra liền mạch. Trong canh tác syntropic, giai đoạn đầu tiên được gọi
là "giai đoạn thai nghén". Giai đoạn tiếp theo được gọi là "giai đoạn giữa". Giai đoạn
cuối cùng được gọi là "giai đoạn đỉnh cao". Mỗi giai đoạn cải thiện sự phát triển môi
trường cho giai đoạn tiếp theo kiểu như mỗi bước lại làm đất đai trở nên màu mỡ hơn và
tràn đầy sức sống hơn cho đến khi đạt đến giai đoạn đỉnh cao.
Tại thời điểm này tốc độ tăng trưởng bắt đầu chậm lại và hệ thống già đi. Cây cấp
thấp hơn chết vì thiếu ánh sáng mặt trời. Điều này tạo ra những khu rừng mở rất dễ chịu
để đi xuyên qua. Những hệ thống đỉnh cao này tồn tại rất lâu và những cây còn sống sót
thích nghi rất tốt về mặt di truyền với đất, nhưng cuối cùng, ngay cả những cây còn lại
cũng chết vì lão hóa tự nhiên. Nhưng mọi thứ chưa kết thúc ở đó, một chu kỳ mới sẽ bắt
đầu, màu mỡ hơn so với chu kỳ cuối cùng. Chủ đề này sẽ được đề cập chi tiết hơn dưới
đây trong phần "3 giai đoạn tiến hóa".

Thiên nhiên tiến triển rất chậm qua một chu kỳ duy nhất từ giai đoạn thai nghén
qua giai đoạn đỉnh cao. Một chu kỳ có thể mất 250- 350 năm trong tự nhiên! May mắn
thay, bằng cách đẩy nhanh các quá trình tự nhiên, trong canh tác syntropic, điều này có
thể đạt được trong ít nhất là 20 năm.
Giai đoạn thai nghén bị chi phối bởi thảm thực vật có thể phát triển trong môi
trường và điều kiện đất đai khắc nghiệt. Những cây này thường phát triển nhanh và tạo
ra một lượng lớn hạt giống. Khi nghĩ về giai đoạn thai nghén, hãy nghĩ đến cỏ dại và
"các loài xâm lấn" và tưởng tượng ra một bãi cỏ hoặc cánh đồng. Hầu hết mọi người
nghĩ rằng các loài xâm lấn là có hại, nhưng thực tế, trong tự nhiên chúng có mục đích
cả. Chúng mang lại sự cân bằng và màu mỡ cho đất. Khi người nông dân học cách quản
lý các loài này, chúng đột nhiên trở nên hữu ích.
Các loài thai nghén thường đóng vai trò tạm thời để cải thiện các điều kiện cho
các giai đoạn sau và sau đó chết đi. Cái tên "thai nghén" có nghĩa là truyền đạt chất
lượng mang lại sự sống này. Thuật ngữ thai nghén cũng mô tả thực tế là thường có tất
cả các giai đoạn khác, nhưng không phát triển trong thời gian này, giống như em bé
trong bụng mẹ.
Giai đoạn giữa (trung sinh) sẽ có thảm thực vật và cây cao hơn. Tuổi thọ của chúng dài
hơn và chúng đòi hỏi điều kiện phát triển màu mỡ hơn.
Cuối cùng, giai đoạn cực thịnh (đỉnh cao) có thể có cây và thực vật sống rất lâu.
Chúng đôi khi rất khó tính và tạo ra ít hạt hơn. Trong giai đoạn đỉnh cao, một quá trình
chọn lọc xảy ra giúp các loài thích nghi tốt nhất với môi trường của hệ thống. Điều này
có thể dẫn đến sự giảm tương đối đa dạng sinh học thực vật khi so sánh với giai đoạn
trung sinh.
Địa tầng và giai đoạn kế thừa:
Điều quan trọng ở đây là làm rõ mức độ thảm thực vật được xác định rõ hơn bởi
cấp độ kế thừa mà nó chiếm giữ khi trưởng thành. Vì lý do này, điều quan trọng là phải
tham khảo các giai đoạn kế thừa khi nói về các tầng. Ví dụ, trong giai đoạn thai nghén,
các tầng chủ yếu được chiếm giữ bởi các loại rau. Trong khi đó ở giai đoạn trung sinh
và giai đoạn đỉnh cao, chúng chủ yếu là cây.

Cộng đồng dựa trên tầng tán và kế thừa

Thai nghén I Thai nghén II Trung sinh Đỉnh cao

Tầng đỉnh Bắp ngô Đu đủ Bạch đàn Gỗ gụ

Tầng cao Cà chua Sắn Xoài Điều

Tầng giữa Đạu leo Khoai mỡ Chanh Quýt

Tầng thấp Bí ngô Dứa Điều nhuộm Cà phê

3 giai đoạn tiến hóa:


Ernst nhận ra rằng giai đoạn đỉnh cao là không có kết thúc. Sau khi rừng đỉnh cao
hoàn tất, quá trình kế thừa có thể bắt đầu lại với giai đoạn thai nghén mới màu mỡ hơn.
Sau đó, hệ thống phát triển thành một giai đoạn trung sinh và đỉnh cao màu mỡ hơn.
Các loài thực vật trên đất có thể hoàn toàn khác với chu kỳ đầu tiên và cải thiện theo
thời gian. Khả năng sinh sản phát triển theo từng chu kỳ lặp đi lặp lại cho đến khi có đủ
để nó có thể tạo ra sự phong phú về năng suất để duy trì các dạng sống lớn nhất trong
khu vực đó.
Nguyên nhân phổ biến nhất để một chu kỳ cao trào kết thúc là sự lão hóa của cây.
Nhưng ngoài ra, các lực lượng như thời tiết, lửa, sâu bệnh và động vật là những rối loạn
tự nhiên có thể làm tuần hoàn một hệ thống rừng. Ernst thấy rằng khi những cái cây đổ
xuống, chúng đã trả lại khả năng sinh sản cho mặt đất và kích hoạt phản ứng tăng
trưởng mạnh mẽ theo cách có lợi cho hệ thống. Điều này đúng miễn là rừng đã đạt được
ít nhất một giai đoạn kế thừa trung sinh và phần dưới mặt đất của hệ thống vẫn còn
sống. Một sự xáo trộn lớn không có lợi nếu nó hoàn toàn tàn phá cuộc sống hoặc xảy ra
khi đất kém phát triển như trong giai đoạn thai nghén. Trong trường hợp này, hệ sinh
thái phải khởi động lại từ đầu.

Với những xáo trộn có lợi liên tục, sự kế thừa tự nhiên sẽ lặp đi lặp lại cho đến
khi nó đi qua 3 giai đoạn. Trong tự nhiên điều này có thể mất hàng ngàn năm. Trong
canh tác syntropic, các giai đoạn này được gọi là "khai hoang, tích lũy và sung túc".
Giai đoạn khai hoang là nỗ lực của thiên nhiên để mang lại sự sống cho ít nhiều đất
chết. Giai đoạn này bị chi phối bởi các dạng sống có thể phát triển trong điều kiện khắc
nghiệt và phục vụ mục đích chuẩn bị đất cho thảm thực vật lớn hơn bằng cách lắng
đọng chất hữu cơ và thay đổi hóa học của đất.
Tiếp theo là giai đoạn tích lũy. Tại thời điểm này, hệ thống sống có thể hỗ trợ các
động vật nhỏ (lên đến kích thước của một con gà). Ở đây nó bắt đầu có một số khả năng
sinh sản, nhưng mọi thứ là khó khăn, hệ thống không tự duy trì và cần lưu trữ một
lượng lớn carbon để "vỗ béo". Tại thời điểm này, nhu cầu tương đối của hệ thống đối
với nước và nitơ là thấp. Hầu hết đất nông nghiệp trên hành tinh bị mắc kẹt trong giai
đoạn tích lũy vì nông nghiệp hiện đại liên tục đặt lại hệ thống thông qua việc làm đất,
loại bỏ cây lâu năm và các rối loạn khác. Điều này ngăn cản hệ sinh thái phát triển thành
sung túc. Điều quan trọng để chỉ ra rằng nông nghiệp hiện đại có thể nuôi động vật lớn
hơn trong giai đoạn tích lũy, nhưng phải dựa vào sự cung cấp phân bón liên tục để làm
như vậy. Điều này là không bền vững và cuối cùng làm chi phí tăng lớn.
Nếu hệ sinh thái được phép phát triển và trải qua đủ chu kỳ, đất sẽ xây dựng khả
năng sinh sản và cuối cùng bước vào giai đoạn sung túc. Tại thời điểm này, nó giải
phóng một lượng lớn phốt pho nhưng bây giờ cần nitơ và nước. Khả năng sinh sản của
nó đang đạt đến điểm có thể hỗ trợ động vật lớn và có thể làm như vậy vô thời hạn. Sinh
khối, đa dạng sinh học và biến đổi di truyền trong các loài trên đất ngày càng tăng. Thật
tuyệt vời khi nó có thể hấp thụ năng lượng và nhu cầu dinh dưỡng từ mặt trời, không
khí và mở ra từ các kho dự trữ trên trái đất.

Nông nghiệp Syntropy hướng tới giai đoạn sung túc. Đây là khi những điều tốt
đẹp xảy ra một cách dễ dàng và cái hay là bạn không phải đợi hàng thập kỷ trở lên mới
đạt được. Nếu người nông dân đang bắt đầu với vùng đất tốt và có thể phủ đất bằng chất
hữu cơ từ ngày đầu, thì anh ta / cô ta có thể đạt đến điểm này chỉ trong vòng hai năm!
Làm thế nào để người nông dân đẩy nhanh quá trình tiến hóa này? Bằng cách cắt
tỉa và quản lý có chiến lược. Cắt tỉa thực vật có nhiều lợi ích ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng trong trang trại. Ngoài ra lớp phủ được tạo ra mang một lượng lớn carbon vào
mạng lưới thức ăn của đất. Bằng cách này, hệ thống được cung cấp những gì nó cần
nhanh hơn nhiều so với trong tự nhiên và được tăng cường từ giai đoạn tích lũy sang
giai đoạn sung túc.
3 yếu tố để canh tác với Syntropy:
Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang 3 yếu tố để canh tác tổng hợp. Hai cái đầu tiên
có liên quan bởi vì chúng được cắt tỉa và thực hành quản lý giúp thúc đẩy tăng trưởng
và tiến hóa. Bằng cách kết hợp cả ba yếu tố, người nông dân có những mảnh ghép cơ
bản cần thiết để xây dựng một hệ thống sống lành mạnh. Họ đây rồi:
1. Cắt tỉa để kích thích tăng trưởng
Cắt tỉa quy mô lớn mang lại một sự thúc đẩy lớn cho hệ thống. Cây già làm chậm
sự tăng trưởng của toàn bộ hệ thống. Nhưng nếu bạn cắt tỉa chúng, chúng bắt đầu một
giai đoạn tăng trưởng mới. Vì vậy, việc cắt tỉa sẽ đưa chân tượng trưng ra khỏi bàn đạp
phanh này, nhưng tốt hơn thế, nó cũng đặt chân lên bàn đạp ga! Nó gửi một thông điệp
tăng trưởng bằng cách giải phóng một lượng lớn hormone tăng trưởng thực vật vào hệ
thống. Phản ứng tăng trưởng này ảnh hưởng đến các cây gần đó, không chỉ các cây
được cắt tỉa.
Để hiểu tại sao điều này hoạt động, điều quan trọng cần biết là tất cả các cây đều
trải qua một vòng đời. Đầu tiên là thời kỳ tăng trưởng nhanh chóng. Sau đó mọi thứ bắt
đầu chậm lại khi cây đang ra hoa. Sau đó, cây chuẩn bị tạo quả và hạt và trở nên tương
đối khô. Khi sự tăng trưởng của cây chậm lại, nó cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến các
cây xung quanh. Hiệu ứng "tạm dừng" này được tránh trong canh tác tổng hợp bằng
cách cắt tỉa. Các cây sinh khối được cắt tỉa ở dấu hiệu đầu tiên của sự lão hóa, trước khi
sự hình thành hoa đã bắt đầu. Các cây mục tiêu phải được phép cho trái, vì đó là mục
tiêu của sự hiện diện của chúng. Nhưng chúng nên được cắt tỉa càng sớm càng tốt sau
khi thu hoạch.
Các cây sinh khối và thảm thực vật sẽ là đóng góp lớn nhất cho phản ứng tăng
trưởng này. Chúng được cắt tỉa rất nhiều, đặc biệt là trong những năm đầu. Cây mục
tiêu được trồng để lấy quả sẽ được cắt tỉa ít hơn, nhưng chúng thậm chí sẽ góp phần vào
mạch tăng trưởng này. Cuối cùng, làm cỏ chọn lọc giúp cho trang trại. Tất cả các thảm
thực vật trên đất cần được theo dõi các dấu hiệu lão hóa và cắt tỉa. Theo cách này, mọi
cây cối đều có thể đóng góp vào mạch tăng trưởng. Mặc dù cây và cây bụi là những cây
sinh khối đầu tiên mà Ernst sử dụng trong trang trại của mình, nhưng bây giờ ông cũng
đề xuất một số loài cỏ nhất định.
Các cây sinh khối thường được đặt trong một hàng cùng với các cây ăn quả. Hàng này
được gọi là hàng A. Không gian ở giữa hai hàng được gọi là khu vực B và được sử dụng
để trồng rau hoặc cỏ sinh khối.

Sự giải phóng hormone tăng trưởng bắt đầu ngay khi thảm thực vật được cắt tỉa
và ảnh hưởng của nó được xác định bởi kích thước và đặc điểm của cây hoặc cây được
cắt tỉa. Nếu người nông dân có hàng A đa dạng sinh học, dày đặc, thì toàn bộ khu vực B
sẽ nhận được một mạch phát triển mạnh mẽ. Việc trồng khu vực B nên được thực hiện
ngay sau khi cắt tỉa. Nếu thực vật đã được thiết lập, thường có thể thấy sự tăng trưởng
rõ rệt trong vòng một tuần. Lá cacao sẽ kéo dài và cây sẽ tăng sản lượng quả. Ngô có
thể dài thêm 12 inch!
Có nhiều tác dụng có lợi khác của việc cắt tỉa. Một số rễ cây sẽ chết đi, nó cung
cấp chất hữu cơ cho đất, tạo và mở mạng lưới thức ăn cho đất để sử dụng. Khu vực này
sẽ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời nhiều hơn và hệ thống sẽ nhận được một lượng lớn
chất hữu cơ, nhưng sự tăng trưởng nhanh chóng không thể được giải thích bằng cách ủ
phân, điều mà mất nhiều tuần để xảy ra. Điều này được giải thích tốt nhất bằng cách
giải phóng hormone tăng trưởng.
Có nhiều tác dụng có lợi khác của việc cắt tỉa. Một số rễ cây sẽ chết đi, nó cung
cấp chất hữu cơ cho đất, tạo và mở mạng lưới thức ăn cho đất để sử dụng. Khu vực này
sẽ tiếp xúc với ánh nắng mặt trời nhiều hơn và hệ thống sẽ nhận được một lượng lớn
chất hữu cơ, nhưng sự tăng trưởng nhanh chóng không thể được giải thích bằng cách ủ
phân, điều mà mất nhiều tuần để xảy ra. Điều này được giải thích tốt nhất bằng cách
giải phóng hormone tăng trưởng.
Trình tự quản lý với việc cắt tỉa để tăng trưởng
Nếu người nông dân có cây ăn quả trưởng thành, thì việc cắt tỉa có thể được sắp
xếp một cách chiến lược để mang lại lợi ích cho sản xuất trái cây. Nhiều cây ăn quả
thích ánh nắng mặt trời hơn trong giai đoạn ra hoa và đậu quả. Vì vậy, việc cắt tỉa thảm
thực vật sinh khối thường được lên kế hoạch vào thời điểm ra hoa để mở tán cho mặt
trời. Điều này được gọi là cắt tỉa đồng bộ hóa. Ở vùng nhiệt đới, việc cắt tỉa đồng bộ
thường xảy ra vào mùa khô, do đó không có mạch tăng trưởng với sự xáo trộn này.
Mạch tăng trưởng đòi hỏi lượng nước dồi dào trong hệ thống.
Ngoài ra, bạn có thể nhận thấy trong các hình ảnh trên, có rất nhiều chuối. Ernst
thường nói, nếu bạn muốn rau, thì hãy trồng chuối. Chuối làm sinh khối lớn. Cây rất có
giá trị đối với đất đến nỗi một số nông dân chỉ trồng nó như một cây sinh khối chứ
không phải để lấy quả. Thân của chuối được cắt theo chiều dọc, chặt thành những mảnh
nhỏ và đặt trên mặt đất. Chúng có thể được đặt bên cạnh các loại rau mới trồng.
Các miếng chuối cũng hoạt động như một cái bẫy chết cho mọt chuối. Mọt chuối
là một con bọ phá hoại và gây hại cho cây. Nó bị thu hút bởi chuối mới cắt và khi nó đẻ
trứng vào các bộ phận của chuối, những con sâu không thể hoàn thành vòng đời và chết.
Điều quan trọng là chỉ ra được rằng việc cắt tỉa có lợi ở trên và vượt ra ngoài việc
sản xuất chất hữu cơ đơn giản. Ví dụ, nếu tất cả các chất hữu cơ cần thiết để phủ đất
luôn được thu thập ở một nơi khác và mang đến trang trại, thì trang trại sẽ thiếu phản
ứng tăng trưởng được kích hoạt bởi việc cắt tỉa nặng. Cần phải có thảm thực vật được
trồng trên đất nông nghiệp có thể được cắt tỉa. Người nông dân nên lường trước việc
này ít nhất hai lần một năm, đôi khi thường xuyên hơn.
Có những lý do khác để cắt tỉa ngoài phản ứng tăng trưởng và sản xuất mùn. Cắt
tỉa có thể được sử dụng như là một dọn dẹp. Nó nên được thực hiện thường xuyên để
loại bỏ các bộ phận thực vật khô, bệnh hoặc không hiệu quả. Cắt tỉa cũng được thực
hiện để duy trì mức tầng phù hợp. Cắt tỉa cuối cùng có thể được sử dụng để làm mỏng
hệ thống. Ví dụ như khi đến lúc phải loại bỏ một cây nhỏ hoặc cây để tạo thêm không
gian.
2. Che phủ đất bằng chất hữu cơ
Phủ lên mặt đất một lớp chất hữu cơ dày và giữ cho nó che kín đất. Bạn cần bao
nhiêu chất hữu cơ? Rất nhiều! Bạn cần đủ để ngăn chặn cỏ dại mọc. Số lượng cần thiết
thay đổi tùy theo vật liệu được sử dụng, nhưng thường thì là lớp dày từ 10 cm trở lên.
Ernst nói rằng đất không được che phủ giống như một vết thương hở trên trái đất.
Một lớp dày chất hữu cơ sẽ vá lành vết thương này. Lớp phủ trở thành phân hữu cơ giàu
dưỡng chất theo thời gian. Nó cũng bảo vệ đất khỏi ánh nắng mặt trời và ngăn sự bốc
hơi nước, giảm sự phụ thuộc vào lượng mưa thường xuyên. Bằng cách chặn sự cạnh
tranh của các loại cỏ dại, nó làm cho cuộc sống người nông dân nhẹ nhàng hơn. Thêm
vào đó nó giữ cho việc thu hoạch sạch sẽ.
Cuối cùng, hãy nhớ mạng lưới thức ăn bên dưới mặt đất? Chúng ưa thích một lớp
hữu cơ dày. Các vi sinh vật, nấm và giun phát triển mạnh trong môi trường này. Càng
nhiều gỗ nấm càng phát triển tốt. Gỗ nên được đặt trực tiếp trên đất, để dễ phân hủy, sau
đó lá và cỏ được phủ lên trên. Nếu có ít chất hữu cơ, thì hãy phủ tập trung xung quanh
cây và các cây chính.
Nông dân có thể nhập chất hữu cơ ngay từ đầu để bắt đầu hệ thống của họ. Điều
này là không thể đối với người nông dân Haiti trung bình. Họ phải đợi cho đến khi thảm
thực vật sinh khối trưởng thành. Các cây sinh khối thường mất 2 năm, trong khi cỏ thì
sẵn sàng trong vòng 1 năm.

Chú ý tất cả đất được che phủ. Che phủ đất bằng chất hữu cơ, đặc biệt là xung quanh
cây
Ở đây tất cả các hàng cây được trồng giống nhau, nhưng chú ý những cây có phủ mùn!
Đám cây phát triển mạnh hơn nhiều khi đất được che phủ.
3. Các quần xã thực vật thông minh
Một quần xã là một tập hợp các loài thực vật phát triển cùng nhau, lấp đầy tất cả
các tầng và trưởng thành theo thời gian để vượt qua tất cả các giai đoạn kế tiếp.
Điều này có nghĩa là bạn phải thiết kế hệ thống của mình với tầm nhìn xa. Hãy
tưởng tượng cây bụi và cây thân gỗ trên đất sẽ trưởng thành theo thời gian như thế nào?
Điều này đòi hỏi kiến thức chi tiết về thảm thực vật khác nhau và vòng đời của chúng.
Thiết kế một quần xã rất phức tạp, nhưng khi được thực hiện một cách chính xác
thì nó rất bổ ích. Phần thực tế của cuốn sách hướng dẫn này sẽ giúp bạn. Nhưng chúng
ta hãy đi qua một kịch bản tiềm năng về cách một quần xã thông minh có thể mở ra
Giả sử bạn đang bắt đầu với đất nông nghiệp mở, rau hoặc đồng cỏ sẽ thống trị
ban đầu, nhưng theo thời gian vùng đất ấy sẽ phát triển thành một khu rừng thực phẩm.
Các loại rau được trồng trong những năm đầu mang lại thu nhập cho nông dân, nhưng
cũng cung cấp môi trường "vườn ươm" bảo vệ cây giống.
Kết hợp các loại cây trồng được lên kế hoạch trồng xen chặt chẽ để tạo ra thu
hoạch trong từng giai đoạn. Năng suất rau có thể được dự kiến trong ít nhất là 3 tuần và
sẽ tiếp tục trong hơn một năm, hết bước này đến bước khác, tùy thuộc vào những gì
được trồng. Khi một loại cây sớm bị loại bỏ, nó sẽ tạo thêm không gian cho những loại
cây sau để lấp đầy. Theo cách này, đất được sử dụng tối ưu và không có không gian cho
các cây cạnh tranh có cơ hội.
Rau có thể được trồng hết đợt này đến đợt khác vì mùa mưa cho phép cho đến khi
không gian quá rợp bóng. Vào năm đầu tiên, cỏ đã sẵn sàng và đến năm thứ hai, cây
sinh khối có thể được cắt tỉa để lấy lá và gỗ. Ở các nước đang phát triển, cột gỗ có giá
trị cao nên người nông dân có thể chọn sử dụng chúng để xây dựng và làm củi, nhưng
sẽ có lợi khi để lại một số gỗ trên đất để hỗ trợ nấm phát triển mạnh mẽ.
Sau 4 năm đầu tiên, đất sẽ bắt đầu bị bóng mờ. Có nhiều cách trang trại có thể định hình
tại thời điểm này, tùy thuộc vào cách nó được trồng ban đầu. Nhìn chung, trang trại sẽ
chuyển sang các loại cây ưa bóng râm hơn, như rau xanh và dứa và cây ưa bóng râm
như cà phê và cacao.
Nếu cây được trồng để lấy gỗ, chúng cũng sẽ bắt đầu giữ vị trí chính trong vườn
thời điểm này. Bằng cách kết hợp tất cả các yếu tố này trong kế hoạch trồng ban đầu,
năm này qua năm khác, trang trại sẽ tạo ra sản lượng lớn hơn và đa dạng hơn. Đôi khi,
trong hai năm đầu tiên, cắt tỉa mạnh mẽ toàn bộ hệ thống có thể được tận dụng trồng các
cây ưa sáng thị trường cần.
THEO KHÔNG GIAN
Trong trồng trọt kết hợp, chúng ta trồng các quần xã tương ứng theo thời điểm.
Những quần xã này được trồng theo tầng.
Một mô hình cây trồng có thể thay đổi hướng gió và ảnh hưởng đến lượng mưa
Trồng cây phân tầng tăng hiệu quả việc sử dụng đất.
Giai đoạn nhau thai, kế tiếp, đỉnh cao
THEO THỜI GIAN
Chúng tôi chọn các loài có vòng đời không đồng bộ, vì vậy khi được trồng cùng
lúc, mỗi loài có thời gian cao điểm riêng. Các loài cũng được lựa chọn tùy thuộc nhu
cầu hoặc chức năng của chúng trong quần xã. Các quần xã được tiếp nối thay thế theo
quá trình phát triển của hệ thống.
Giai đoạn nhau thai, kế tiếp, đỉnh cao
SỰ TIẾN TRIỂN CỦA TRANG TRẠI
4 tháng: ngô, đậu leo và gạo
1,5 năm: chuối, đu đủ và dứa
5 năm: Chuối, cọ đào, ca cao, cupuaçu (1 loại quả cùng họ với ca cao), cam quýt,
bơ và củi
18 năm: Chuối, cọ đào, ca cao, cupuaçu, caja (loại quả có vị chua ngọt), platonia
(1 loại quả thuộc họ bứa hay măng cục), cà phê, cây cao su và củi
Một vài nguyên tắc trồng:
Nếu đất đủ màu mỡ, tốt nhất là gieo trồng tất cả các loại cây cùng 1 lúc khi bắt
đầu canh tác. Tại sao? Bởi vì khi cây cối trong 1 hệ sinh thái đã trưởng thành, thì việc
trồng thêm cây mới (kết nạp thêm thành viên mới) sẽ gặp nhiều khó khăn. Thông
thường có thể thêm cây con mới vào khu vực canh tác trong vòng 2 năm đầu, còn sau
đó, nếu muốn trồng thêm cây mới vào, ta sẽ phải cắt tỉa đáng kể những cây đã có sẵn.
Nhưng tốt nhất là nên trồng tất cả các cây ngay từ đầu nếu có thể.
Ngoài ra, cũng nên gieo 1 loạt hạt giống số lượng lớn rồi trong quá trình chúng
sinh trưởng, dần dần loại bỏ những cây yếu hơn, cho đến khi đạt khoảng cách lý tưởng
giữa các cây để chúng sinh trưởng tốt nhất. Gieo thẳng hạt giống xuống là phương pháp
có nhiều ưu điểm, nó đòi hỏi ít công sức hơn so với phương pháp ươm cây giống trong
vườn ươm, nó cũng ít tốn chi phí hơn, và thuận lợi cho đa dạng di truyền hơn. Thêm
nữa, bằng việc gieo hạt giống thẳng xuống đất canh tác, hệ thống tự nhiên sẽ tự xác định
loài cây nào sinh trưởng tốt nhất ở nơi nào.
Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp ngoại lệ. Một số loài cây không thể trồng
bằng hạt, ví dụ như sa-kê, .v.v., hoặc có những loại cây ăn quả không thể cho ra loại quả
ngon như cũ nếu được trồng bằng hạt, ví dụ như xoài, bơ, v...v..., mà phải ghép cây.
Một số giống cây thì lại sinh trưởng tốt hơn bằng phương pháp giâm cành, và có thể ở
một số khu vườn, việc giâm cành lại dễ thực hiện hơn là gieo bằng hạt, một số loại hạt
giống khác thì đòi hỏi cần phải được gieo ngay sau khi thu hái. Nếu hệ thống của vườn
chưa sẵn sàng thì những giống này cần được ươm mầm trước. Ví dụ, ở một số nơi ở
Haiti, hạt cacao chín vào mùa khô và những hạt này cần được gieo ngay bởi chúng sẽ
nảy mầm rất nhanh. Trong trường hợp này, nếu hệ thống hạ tầng của cả khu vườn chưa
sẵn sàng, thì ta cần ươm giống hạt cacao tại vườn ươm ngay. Vậy nên, dù gieo thẳng hạt
giống xuống vườn là phương pháp tối ưu, thì vẫn có nhiều trường hợp mà ta cần ươm
giống trước khi đưa ra vườn trồng.
Cần lưu ý rằng các loại thực vật bản địa cũng là 1 bộ phận quan trọng có khả
năng kết hợp với các giống cây khác nhau để tạo nên 1 hệ sinh thái lành mạnh. Trong
giai đoạn đầu, một số loại cỏ dại sẽ có xu hướng phát triển mạnh và ta có thể tận dụng
chúng để cắt tỉa và tấp ủ làm sinh khối. Hạt giống vãng lai cũng sẽ xuất hiện trong
vườn, chúng có thể được các loài chim hoặc các loại động vật hoang dã đưa đến một
cách có chủ đích để thực hiện một nhiệm vụ nào đó của hệ sinh thái. Nếu không, ta có
thể nhổ chúng đi, nhưng tốt nhất là nên chờ đợi và quan sát xem chúng có vai trò gì!
Những loại cây xuất hiện 1 cách “tình cờ” này thường sẽ gia tăng tính đa dạng cần thiết,
và có thể đang bổ sung cho một chi tiết nào đó mà người nông dân vô tình bỏ ngỏ. Dù
gì thì việc bỏ đi một cây về sau này cũng sẽ dễ dàng hơn nhiều việc trồng thêm cây đó
trở lại.
Những dấu hiệu của 1 khu vườn đã vào giai đoạn thịnh vượng (abundance):
Nếu ta đã thực hành kết hợp tất cả các nguyên lý trên cơ bản được trình bày ở
đây, nếu ta đã bắt đầu bằng một quy hoạch/thiết kế tốt và quản lý khu vườn một cách
toàn diện, khu vườn sẽ chuyển mình theo thời gian. Nhiều chủ vườn chỉ đơn giản biết là
khu vườn sinh trưởng tốt, tuy nhiên, sẽ tốt hơn nếu ta có thể đánh giá sự phát triển của
khu vườn bằng những tiêu chí khách quan. Vậy làm thế nào để bạn biết là khu vườn của
mình đang bước vào giai đoạn thịnh vượng?
Dưới đây là một số gợi ý:
1. Màu sắc tổng thể được cải thiện, từ màu xanh xám (gray hues) sang màu xanh
lá cây sáng hơn (brighter shades of green).
2. Kết cấu đất được cải thiện, có nhiều nấm đất.
3. Cỏ dại chuyển sang các loại thường thấy trong rừng, trái ngược với cỏ trên các
cánh đồng trống.
4. Những loài cây hiếm và khó sống bắt đầu phát triển.
5. Những loài cây lâu năm bước vào giai đoạn phát triển cực thịnh (climax stage).
Thảm thực vật trong khu vườn đổi dần sang màu xanh sáng hơn.

Bên trái – giai đoạn đầu của vườn, bên phải – khi đó đất chưa có chất hữu cơ hay nấm
đất.
Bên trái - cuối giai đoạn đầu của vườn, bên phải – đất đã có một chút chất hữu cơ và
nấm đất.

bên trái – giai đoạn thứ 2, bên phải – chất hữu cơ tăng lên, nấm đất tăng lên.

Chuyển đổi mô hình nông nghiệp:


Nông nghiệp sinh thái Syntropic là một sự chuyển đổi mô hình từ canh tác thông
thường, thậm chí là canh tác hữu cơ điển hình, sang một hình thức canh tác cao hơn.
Hãy nhớ rằng một khu vườn chính là một thể sống thống nhất, thông minh, đang sống
và mọi động tác thực hiện trong khu vườn cần phải hướng tới mục tiêu mang lại lợi ích
cho toàn bộ hệ sinh thái của khu vườn.
Từ góc nhìn toàn diện này ta thấy, mọi khu vườn đều có thể tạo ra một hệ thực
vật đa dạng phong phú, nhưng đôi khi khu vườn sẽ tạo ra những thứ nằm ngoài mục tiêu
và mong muốn của chủ vườn. Có một kế hoạch là rất tốt nhưng cởi mở để đón nhận và
thay đổi kế hoạch nếu như mọi thứ diễn ra khác đi. Khi bạn nhìn ra được những sản
phẩm mà khu vườn có thể sản sinh ra, thì mọi thứ sẽ dễ dàng hơn. Khi đã vào giai đoạn
thịnh vượng, khu vườn sẽ bền vững về mặt kinh tế. Nhưng nếu có sự đấu tranh thì năng
lượng sẽ bị lãng phí.
Duy trì cái nhìn toàn diện đồng nghĩa với việc chúng ta xem những loài cây cỏ
làm sinh khối có giá trị ngang với các cây trồng mục tiêu. Mỗi loại cây giữ một vai trò
khác nhau, nhưng đều quan trọng như nhau. Chúng hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau
và cần nhau để đảm bảo sinh trưởng khoẻ mạnh. Khi sinh thái được giữ bền vững và
khỏe mạnh, nó sẽ tự chăm sóc mình. Cuối cùng, chúng ta ít phải tác động vào đất hơn
nhưng khu vườn vẫn mang lại năng suất cao. Đất sẽ có khả năng tái sinh và không bị
sâu hại tràn lan hay dịch bệnh.
Khi trong khu vườn xuất hiện dịch bệnh, sâu hại hay năng suất kém là dấu hiệu
cảnh báo hệ sinh thái yếu và mất cân bằng, tương tự như hệ thực vi sinh đường ruột của
con người. Trong trường hợp đó, người thực hành syntropy sẽ tìm nguyên nhân gốc rễ,
để có những hành động nhằm thiết lập lại sự cân bằng, chẳng hạn như cắt tỉa cây một
cách có chiến lược, tăng cường sự đa dạng sinh học hoặc đưa vào một loài thiên địch /
săn mồi vào.
Cũng có khi, ta cần phải cắt toàn bộ khu vườn và bắt đầu lại từ đầu với một quy
hoạch mới. Trong một vài trường hợp, sâu hại lại chính là phương thức chữa lành,
chúng tấn công những phần gây ra sự mất cân bằng của hệ sinh thái trong khu vườn.
Khi đó thì chúng ta chỉ việc để yên cho đám sâu làm công việc của chúng và sau đó cân
nhắc xem nên tiếp tục khu vườn như thế nào khi đợt khủng hoảng đã đi qua.
Quan điểm nông nghiệp này rất khác với những gì mà hầu hết nông dân biết. Họ
chỉ chăm chăm tập trung vào loại cây trồng mục tiêu mà họ đã chọn bởi chi phí họ phải
bỏ ra, và họ lờ đi mọi thứ khác. Họ không quan tâm đến việc trồng thêm cây lâu năm,
các loài thực vật khác hay các biện pháp cần có để bảo vệ đất, giúp tăng độ phì nhiêu tự
nhiên trong đất. Điều này dẫn đến một hệ sinh thái yếu, dễ bị tấn công và cạnh tranh.
Thay vì nhận ra rằng khu vườn đang bị yếu, thì người nông dân truyền thống lại
cho rằng sâu bệnh là vấn đề chính. Họ thường đáp trả bằng những cuộc phản công đẫm
hoá chất như thuốc trừ sâu hay thuốc diệt cỏ. Còn năng suất kém thì bị nhìn nhận là
thiếu phân bón và đất thường sẽ bị đổ vào các loại phân hoá học để “cải thiện”.
Mặc dù phương pháp thông thường này tạm thời mang lại kết quả tích cực, nhưng
nó gây ra những hậu quả về lâu dài và người nông dân sẽ phải trả giá đắt. Những hậu
quả này không chỉ ở chi phí để mua hoá chất đầu vào, mà cái giá phải trả lớn hơn chính
là việc người nông dân không nhìn ra được điểm yếu mà khu vườn đang có, không được
cải thiện và thậm chí còn trở nên trầm trọng hơn nữa khi mà thuốc trừ sâu giết chết hệ vi
sinh vật có lợi trong đất. Một khu vườn như thế sẽ trở nên ngày càng phụ thuộc vào
phân hoá học và thuốc trừ sâu, và dần dần qua các năm, đất sẽ trở nên ngày càng kiệt
quệ.
Đây chính là hiện trạng tồi tệ mà hành tinh của chúng ta đang phải đối mặt. Hậu
quả của suy thoái đất là vô cùng lớn, bao gồm mất an ninh lương thực toàn cầu và biến
đổi khí hậu (đất là nơi quan trọng để lưu giữ carbon). Tôi hy vọng rằng cuốn sách
hướng dẫn này sẽ giúp nhiều người nhận ra phương pháp canh tác truyền thống là thiển
cận và tạo động lực để họ ủng hộ cho nông nghiệp sinh thái nhiều hơn, bằng cách này
hay cách khác.
Hướng dẫn trồng
Lựa chọn địa điểm:
Hướng dẫn canh tác này là dành cho những mảnh đất đang có. Các gợi ý quy
hoạch/thiết kế vườn trong cuốn sách này là dành cho các vùng đất nhiệt đới, đặc biệt
khu vực đồi núi của Haiti hoặc tương tự. Để sử dụng những phương án quy hoạch/thiết
kế này thì vùng đất phải thích hợp với các loại cây liệt kê dưới đây. Mặc dù kỹ thuật
canh tác này sẽ giúp cải tạo đất, nhưng nó không phải là phương pháp chuẩn để sử dụng
cho những vùng đất đã bị suy thoái nghiêm trọng, kiệu quệ hoặc bị sa mạc hoá rồi.
Nếu được lựa chọn khu đất, thì ta nên xem xét những yếu tố dưới đây:
● Khu vực đất đã có sẵn một số loại cây hoặc thảm thực vật (để có thể cắt xuống
phủ đất)
● Đất có nguồn nước tự nhiên hay không.
● Đất có tách biệt khỏi động vật ăn cỏ không (đặc biệt là dê và bò)
Hướng đặt luống trồng cây:
Ta nên trồng cây theo hướng bắc/nam. Cách này giúp tất cả các cây trong luống
đều nhận được ánh sáng mặt trời một cách tối đa. Luống cây sẽ nhận được ánh sáng kể
cả khi mặt trời mới mọc hay đã xuống thấp, ở phí đông hay phía tây.
Nếu vùng đất là đất đồi dốc và có nguy cơ bị xói mòn đất, hãy cân nhắc việc
trồng thành các đường cong đồng mức. Những hàng cây này cần vuông góc với
chiều dốc của đất, hoặc bao quanh ngọn đồi để giữ nước mưa ở lại. Đây cũng là cách
hiệu quả cho mảnh vườn có độ dốc cao mà ta chưa thể phủ xanh ngay lập tức. Một
khi đất đã được che phủ và ta có kế hoạch trồng cây dày đặc (như trong hướng dẫn
này), thì khu vườn sẽ giữ được nước mưa, ngay cả khi các luống cây được trồng theo
hướng dọc theo chiều dốc của ngọn đồi.
Tuy nhiên, ở Haiti, thông thường người nông dân không thể che phủ được đầy đủ
khu vườn ngay từ đầu, và vì vậy việc đưa các hàng cây đồng mức vào để bảo vệ vùng
đất là việc rất quan trọng.
Ta có thể sử dụng một công cụ thô sơ nhưng có độ chính xác cao Khung chữ A
để xác định được các đường đồng mức của 1 khu vườn. Chỉ cần 1 chút hướng dẫn,
người nông dân có thể học cách đánh dấu vùng đất của mình và trồng những hàng cây
đồng mức lý tưởng. Đây là một video rất hay hướng dẫn cách làm và sử dụng công cụ
Khung chữ A:
https://www.youtube.com/watch?v=logEDX2aTjo&list=PLcD1caiNhf5NBtguN19ja2y
JREf47e59&index=3
Nếu đất dốc, thì nên sử dụng hàng rào cỏ vetiver làm sinh khối, với mọi hàng cây
khác. Cỏ Vetiver có hiệu quả trong việc ngăn chặn xói mòn ngay trong năm đầu tiên, và
cũng có thể hình thành ruộng bậc thang một cách dễ dàng nếu nó được trồng thành một
hàng rào hoàn chỉnh trên đường đồng mức.
Chuẩn bị đất:
• Chọn một địa điểm để bắt đầu. Nếu bạn có kế hoạch phát triển trang trại từng
bước trong nhiều năm, hãy suy nghĩ kỹ về việc bắt đầu ở một vị trí không khuất bóng
mảnh đất tương lai.
• Loại bỏ vừa đủ các cây và thực vật hiện có để nhường chỗ cho hệ thống mới
phát triển. Giữ bất kỳ cây nào mong muốn, chẳng hạn như cây ăn quả, nhưng các nhánh
thấp hơn có thể cần được cắt tỉa để ánh sáng mặt trời đi qua. Các cây khác có thể được
cắt tỉa triệt để để chỉ còn lại phần ngọn của tán cây. Cây mà có thể mọc lại khi ngọn bị
cắt bỏ có thể được cắt theo cách này và được coi là cây sinh khối.
• Quây rào khu vực hoặc bảo vệ chúng khỏi động vật ăn cây, nếu cần thiết.
• Tạo ra hoặc mua phân ủ, được sử dụng khi trồng cây ăn quả từ hạt.
• Thu thập càng nhiều lớp phủ càng tốt.
• Đặt các hàng theo hướng ưu tiên. Thiết kế này sử dụng các hàng cách nhau 4
mét.
• Làm tơi khu vực đất bạn sẽ trồng.
• Đặt các vị trí trồng cho từng cây.
Thiết kế trồng cây:
Dựa trên thiết kế sau đây như một hướng dẫn, bạn có thể thay thế bất kỳ cây riêng
lẻ nào trong cùng danh mục địa tầng với nhau. Về thiết kế, các cây chính và vẽ khoảng
cách tối thiểu. Điều quan trọng là:
• có tất cả các tầng
• có sự đa dạng nhất có thể
• bao gồm các loài cây cao, sống lâu
• cố hết sức để trồng tất cả cùng một lúc
• bất cứ khi nào có thể, sử dụng hạt giống thay vì cây con hay giâm cành.

Thiết kế quần thể 2019

Giai đoạn đầu Giai đoạn đầu Giai đoạn giữa Giai đoạn trưởng
I II thành

Tầng Ngô, Mướp Đu đủ, Mía Khuynh diệp Gỗ gụ


thượng tây (Eucalyptus), (Mahogany),
Keo (Acacia) Cedrela odorata

Tầng cao Xà lách, lúa, Sắn, chuối Chùm ngây Me (Tamarind),


Bắp cải, Bông (Moringa), Dừa (Coconut),
cải xanh, Inga, Keo dậu Xoài, Bơ, Xa kê,
(Gliricidia), So Mít
đũa (Leucena)

Tầng Đậu leo, cà Khoai mỡ Mãng cầu xiêm Quýt (Mandarin),


trung bình chua, cà (Water yam), (Soursop), Na Đào lộn hột
tímClimbing Khoai sọ (Custard apple), (Cashew), Cóc
bean, Tomato, (Taro), Đậu Barbados (Yellow monbin)
Eggplant triều cherry, Cam,
Chanh,
Grapefruit,
Lime

Tầng thấp Bí ngô, Khoai Dứa Annatto Cà phê, ca cao


lang
Những cây thấp được trồng cùng với chuối hoặc đu đủ với mục đích cung cấp
bóng mát khi cây còn nhỏ. Chúng nên được trồng ở phía tây bắc của cây ca cao / cà phê
để bảo vệ nó khỏi nắng chiều muộn. Điều quan trọng là sử dụng ít nhất 50% chuối vì
chúng là nguồn sinh khối quan trọng và duy nhất.
THIẾT KẾ TỔNG THỂ
Thiết kế sẽ được lặp lại. Nó có thể mở rộng theo chiều dài và rộng. Điều quan
trọng phải lưu ý là mỗi hàng cây là khác nhau và theo những mẫu phù hợp. Mẫu là A1,
C, A2, C, A1, C, A2, C v...v...
A1 = tầng cao và thấp
C = Sinh khối cây lớn và thấp
A2 = Tầng đỉnh, tầng trung bình và tầng thấp
Mỗi hàng cây có một lối đi và một hàng thực vật sinh khối không lấy gỗ. Và cũng lưu ý
các hàng C chỉ trồng thấp. Nó chỉ bao gồm cây sinh khối và cây địa tầng thấp. Cây sinh
khối sẽ được cắt ngọn và cây khác chỉ trồng thấp. Không trồng những cây cao hơn trong
hàng, nếu không trang trại sẽ bị phủ bóng quá nhiều.

CÁC BƯỚC TRỒNG CÂY


Một sự bố trí cây theo trình tự khả thi giúp cho việc đảm bảo đúng khoảng cách
giữa các cây

Bước 1: Tầng cao - 9m Bước 2: Tầng thấp trong Bước 3: Cây sinh khối - 1/2m
hàng A1 và tầng đỉnh - tất cả các hàng và tầng trong tất cả các hàng và những
12m hàng A2 trung bình trong hàng A2 hàng cây sinh khối bụi
Danh sách cần chuẩn bị:
Tốt nhất là lên kế hoạch, vẽ ra chính xác những hàng cây cho cả trang trại và lập
danh sách dựa trên điều này, nhưng để giúp bạn có được ước tính sơ bộ về các con số,
hãy xem thông tin bên dưới. Ước tính sau đây là cho chiều dài 18 m của 3 hàng (A1, C,
A2) và giả sử các hàng có cùng độ dài:
Tầng đỉnh: 2
Tầng Cao: 3
Tầng Trung bình: 4
Tầng Thấp: 11
Cây sinh khối: khoảng 100
Cây thấp sinh khối: 240 phiến cỏ hoặc 80 hạt đậu Triều (khoảng 1/2 kg)
Nếu hạt giống cây sinh khối không có sẵn để mua, biểu đồ này có thể giúp bạn
biết khi nào chúng sẽ trưởng thành và sẵn sàng để thu thập trên cánh đồng. Ngoài ra,
một số cây có thể được bắt đầu trồng bằng cách giâm cành.

Biểu đồ nhân giống cây sinh khối - Haiti

Chủng loại cây Hạt Cành Hạt trưởng thành

Cây họ đậu x x - chi tháng 4 và Tháng 3


(Gliricidia) 5

Cây họ đậu (Inga) x Tháng 4

Bạch đàn x Tháng 1/2


(Eucalyptus)

Chùm ngây x x Tháng 11/12


(Moringa)

Chi keo (Acacia) x Tháng 2

Quế đơn (Cassia) x Tháng 2

Chi Keo dậu x x Tháng 2


(Leucaena)

Chi Bản xe (Albizia) x x Tháng 2

Sự quản lý:
Tuyên bố trước: Phần này là một công việc đang tiến hành. Với nhiều kinh
nghiệm quản lý trang trại hơn thì điều này sẽ được phát triển nhiều hơn trong tương lai.
Loại bỏ các bộ phận của cây bằng cách cắt tỉa, làm cỏ hoặc tỉa thưa là trọng tâm
chính của việc quản lý trang trại. Có nhiều lý do để cắt tỉa, và người nông dân nên ghi
nhớ tất cả chúng. Thường thì một lần cắt tỉa có thể phục vụ nhiều mục đích cùng một
lúc. Dưới đây là một số ví dụ:
• Để có nhiều ánh nắng mặt trời (đồng bộ hóa)
• Tạo đà tăng trưởng (không phù hợp trong mùa khô)
• Loại bỏ các bộ phận cây chết hoặc bị bệnh
• Loại bỏ cây không mong muốn (làm cỏ và tỉa thưa)
• Để ngăn ngừa sự lão hóa
• Mặt đất cần lớp phủ để che phủ đất
• Để duy trì khoảng trống giữa các tán cây
• Để giữ một cây ở độ cao tốt nhất cho nông dân để thu hoạch trái cây hoặc gỗ
Dưới đây là một số chiến lược cụ thể để xem xét cho một số cây được trồng trong
thiết kế được cung cấp ở đây:
Cây sinh khối: Đợi đến khi cây cao khoảng 3 mét. Khi mùa mưa bắt đầu, hãy cắt
ngọn mỗi cây ở ngang ngực. Làm vết cắt sạch, vát góc lên trên. Điều này giữ cho cây
khỏe mạnh. Cắt lá ra khỏi cành. Đặt cành lên mặt đất trước, sau đó đặt lá lên trên.
Người nông dân có thể muốn giữ một số gỗ để đốt và xây dựng, nhưng càng nhiều gỗ
trên mặt đất thì đất sẽ càng khỏe, đặc biệt là nấm đất.
Trong suốt mùa, cắt tỉa các nhánh bên của cây khi cần thiết để các cây trồng trong
khu vực B có đủ ánh nắng mặt trời và không gian.
Cây sinh khối:
Chuối là một loại cây sinh khối tuyệt vời. Nó được khuyến khích để phát triển
chúng dư thừa, vượt ra ngoài các vị trí hiển thị trên thiết kế. Khi thân giả có thể được
thu hoạch, cắt nó theo chiều dọc và cắt ngang thành từng khúc. Đặt các bộ phận trên
mặt đất xung quanh các cây. Điều này đặc biệt hữu ích cho việc giữ nước trong đất.

Sau khi cắt tỉa, thân chuối được cắt thành từng mảnh và các chất hữu cơ được
phân bố quanh các cây
Khi các cây sinh khối khác được sử dụng, chẳng hạn như cỏ, đậu Triều hoặc
hướng dương Mexico, thì cắt chúng khi nhìn thấy những dấu hiệu nở hoa đầu tiên. Cỏ
có thể được cắt giảm xuống ngang với ống đồng của chân (còn cao khoảng 20cm), các
cây khác được cắt đến khoảng đầu gối (còn khoảng 40cm). Đặt chất hữu cơ ở nơi mong
muốn, ví dụ xung quanh cây ăn quả. Việc cắt tỉa thường lặp lại trong mùa sinh trưởng.
Cây có múi: Cây có múi như cam, chanh vàng, chanh da xanh và bưởi là những
cây tầng trung bình. Đây là một thành viên xuất sắc của hệ thống này, nhưng đòi hỏi
đào tạo và các công cụ đặc biệt. Những cây tầng cao hơn được trồng dọc theo những
cây này sẽ cần cắt tỉa nhiều hơn. Điều quan trọng là tránh để cây ăn quả che bóng cây có
múi.
Cắt tỉa nhiều hơn là cần thiết vì hai lý do. Đầu tiên cây có múi không thể cắt ngọn
của chúng, vì vậy những cây xung quanh sẽ cần được cắt tỉa để có không gian cho
những tán cây có múi đang phát triển. Ngoài ra, cây có múi tạm thời cần nhiều ánh nắng
hơn trong giai đoạn ra hoa của chúng. Vì vậy, những cây tạo bóng mát cho chúng sẽ cần
được cắt tỉa hàng năm. Để thực hiện kiểu quản lý này đòi hỏi phải cắt tỉa cao trong cây.
Điều này có thể nguy hiểm và thao tác như vậy cần phải được đào tạo nhiều hơn
và sử dụng các công cụ chuyên dụng hơn. Việc cắt tỉa như vậy chỉ nên được thực hiện
bởi những người có kinh nghiệm. Vì những lý do đó, cam quýt không được đưa vào
trong danh sách các cây ở trên.
Một lựa chọn thay thế để tránh hầu hết việc cắt tỉa lành nghề này là sử dụng
những cây tầng thượng có thay lá hàng năm (rụng lá vào mùa khô). Ở các vùng của
Haiti, cây cedrela odorata (và có lẽ là cây swietenia mahogoni) được làm theo cách này
và sẽ tạo nên những người bạn đồng hành hoàn hảo cho những cây họ cam quýt. Chúng
sẽ rụng lá một cách tự nhiên khi cần tiếp xúc với ánh nắng mặt trời cao hơn. Trong hệ
thống này, người nông dân vẫn sẽ phải chọn một cây tầng cao có thể được cắt tỉa mạnh
(có thể chùm ngây, inga và gliricidia là những lựa chọn tốt).
Các năm sau:
Giai đoạn nhau thai của hệ thống kéo dài khoảng 2 năm. Nếu một số cây chết
hoặc bạn muốn thêm nhiều loại khác, thì đừng lo lắng, bạn có thể làm điều đó trong giai
đoạn này. Sau đó, không thể thêm cây mà không cắt tỉa mạnh, vì hệ thống đã bắt đầu tự
xác định.
Trong 2 năm đầu, người nông dân có thể thêm các loài cây lâu năm (climax
species). Tốt nhất là gieo hạt trực tiếp. Ernst thích giắc hạt giống một cách rộng rãi và
để hệ thống quyết định hạt nào sẽ phát triển. Theo cách này theo thời gian, trang trại sẽ
chuyển từ một hệ thống có lối đi sang một khu rừng xuất hiện tự nhiên hơn.
Các loài bản địa thường sẽ tự phát triển trong hệ thống. Điều này là tốt, nên được
khuyến khích và thường là tự nhiên lấp đầy các khoảng trống trong kế hoạch trồng ban
đầu. Làm việc với tự nhiên và tự nhiên sẽ làm việc cho bạn.
Tương lai của nghề nông?

You might also like