You are on page 1of 4

VẤN ĐỀ 11: CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG, CÁI RIÊNG

Phạm vi nghiên cứu: phản ánh những mối quan hệ giữa các SVHT cụ
thể qua đó tìm ra cái chung giữa chúng.
a/ Khái niệm cái chung và cái riêng
- Cái chung là phạm trù được dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính giống nhau được lặp lại trong nhiều SVHT hay nhiều quá trình
riêng.
Như vậy:
+ Cái chung chỉ là cái bộ phận, không phải cái toàn bộ trong chỉnh
thể cái riêng (một sự vật, một hiện tượng, một quá trình).
+ Song cái bộ phận (cái chung) ấy được lặp lại trong nhiều cái
riêng khác (nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình khác).
Ví dụ:
+ “Tồn tại khách quan” và “Được đem lại cho con ngời trong cảm
giác” là cái chung (thuộc tính chung) được lặp lại ở mọi dạng vật chất.
+ Hai quy luật cơ bản mà CNDVLS phát hiện là cái chung (quy luật
chung) có ở tất cả các PTSX.
+ Mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” là cái chung (mục tiêu chung) của mọi ngời dân, mọi thành phần KT-XH,
mọi giai tầng xã hội của nước ta.
- Cái riêng là phạm trù được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng,
một quá trình cụ thể, hay một hệ thống các sự vật mang tính độc lập t-
ơng đối so với các hệ thống khác.
+ Cái riêng được xem nh một chỉnh thể mang tính độc lập tơng đối với
một chỉnh thể khác, có những đặc điểm không lặp lại ở các chỉnh thể
(SV, HT, quá trình) khác.
+ Song chỉnh thể (cái riêng) ấy luôn được xác định bởi tổng hoà các
mặt, các thuộc tính hợp thành những tính quy định riêng về chất lợng và
số lợng của mỗi SV, HT, quá trình.
Ví dụ:
Đ/c A là một cái riêng, khác với các đ/c khác, vì đ/c A được tạo thành
bởi tổng hoà các QHXH riêng có của đ/c.
Một đơn vị học viên là một cái riêng; đơn vị ấy được xác định bởi tổng hoà
những mặt, những thuộc tính hợp thành tính quy định riêng để phân biệt với
những đơn vị khác.
- Phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”
+ Phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”: Cái đơn nhất là phạm
trù dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính,… chỉ có ở một
SV, một HT, một kết cấu vật chất mà không lặp lại ở SV, HT, kết cấu vật
chất khác.
Ví dụ: “Có ý thức”, “lao động”, “ngôn ngữ”… là những cái đơn
nhất (những thuộc tính duy nhất chỉ có ở con người).

b/ Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng


* Quan niệm của phái duy danh
- Chỉ cái riêng là tồn tại thực sự, có trước cái chung, còn cái chung (khái
niệm chung) là là những tên gọi trống rỗng do con người nghĩ ra, không liên
quan với sự vật riêng (cái riêng).
- Mặt tích cực: có khuynh hướng duy vật, chống CNDT, tôn giáo khi
thừa nhận sự vật có trước, khái niệm có sau.
- Mặt hạn chế: phủ nhận nội dung khách quan của các khái niệm;
không thấy mối liên hệ giữa cái riêng (sự vật) với cái chung (khái niệm).
* Quan niệm của phái duy thực
- Chỉ cái chung (khái niệm chung) là tồn tại thực sự, vĩnh viễn, độc
lập với ý thức của con người và sinh ra cái riêng; cái riêng (sự vật) chỉ tồn tại
trong một thời gian rồi biến đi (khái niệm)
- Hạn chế: có khuynh hướng duy tâm khi cho rằng khái niệm có trước
sự vật; tách rời cái riêng và cái chung.
Tóm lại, quan niệm của cả hai phái trên đều sai lầm ở chỗ họ đã tách
cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hoá cái riêng, phủ nhận cái chung,
hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối quan hệ
giữa chúng.
* Quan niệm của triết học Mác - Lênin
PBCDV cho rằng cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, giữa
chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cụ thể:
- Thứ nhất, “Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái
riêng”1 .
Nghĩa là, không có cái chung thuần tuý, trừu tượng tồn tại tách rời cái
riêng.
Ví dụ:
11
V. I. Lênin toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tr. 381.
+ Các thuộc tính: tồn tại khách quan, phản ánh, vận động, không
gian, thời gian, v.v. là cái chung của thế giới vật chất, song những thuộc
tính chung này không tồn tại trừu tượng, chúng biểu hiện sự tồn tại của
mình thông qua các SVHT cụ thể.
- Thứ hai, “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái
chung” 2.
Nghĩa là, không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với
cái chung.
Bởi vì:
+ Một mặt, bất cứ cái riêng nào cũng tồn tại trong một môi trờng,
hoàn cảnh nhất định, có liên hệ với các SVHT xung quanh. Các mối liên
hệ cứ trải rộng dần và trong số chúng sẽ có những mối liên hệ đưa đến
cái chung.
+ Mặt khác, bất cứ cái riêng nào trong quá trình tồn tại và phát
triển của nó cũng chịu sự chi phối của cái chung, quy luật chung
Ví dụ:
Giới động vật, giới thực vật là những cái riêng, nhng cái chung của
chúng là đều được tạo nên bởi các tế bào sống.
- Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; cái
chung là cái bộ phận, nhng sâu sắc hơn, bản chất hơn cái riêng.
Nghĩa là, cái riêng là cái chỉnh thể, nó không gia nhập hết vào cái
chung; còn cái chung chỉ là một mặt, một khía cạnh hay một bản chất
của cái riêng.
+ Cái riêng phong phú hơn cái chung: vì ngoài những thuộc tính gia
nhập cái chung, cái riêng còn có những “cái đơn nhất”, riêng có, không lặp
lại ở bất cứ SVHT nào.
+ Cái chung sâu sắc hơn cái riêng: vì nó phản ánh những thuộc tính,
những mối liên hệ ổn định, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do
vậy, nó gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển
của cái riêng.

Ví dụ:
Ngoài những cái gia nhập tiêu chí chung của ngời học viên, mỗi học
viên còn rất nhiều những cái riêng có, đơn nhất. Chính điều này đã tạo nên sự đa
dạng, phong phú của mỗi người.
22
V. I. Lênin toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tr. 381.
- Thứ tư, trong cái riêng, cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá
được cho nhau trong những điều kiện nhất định.
Nghĩa là, trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong
những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung, và
ngược lại.
+ Vì đây là sự chuyển hoá của hai mặt đối lập: giữa cái chỉnh thể,
không lắp lại và cái bộ phận, lắp lại; giữa cái phong phú và cái sâu sắc; giữa cái
biến động và cái tơng đối ổn định.
+ Sự chuyển hoá ở đây là sự chuyển hoá của những thuộc tính:
những thuộc tính chung biến thành những thuộc tính đơn nhất, và ngược
lại.
Ví dụ:
Cái chung của các đơn vị yếu kém là: mâu thuẫn, nội bộ mất đoàn
kết; cán bộ quân phiệt, binh sĩ đào, bỏ ngũ, v.v.. Sau khi xây dựng lại trở
thành đơn vị VMTD, những hiện tượng tiêu cực trên trở thành cá biệt,
đơn lẻ.
c/ Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và cải tạo thực tiễn phải phát hiện cái chung trong
cái riêng, xuất phát từ cái riêng, tránh xuất phát từ ý muốn chủ quan của
con ngời.
- cần phải cụ thể hóa cái chung trong mỗi điều kiện, hoàn cảnh cụ thể,
khắc phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ, địa phương
- Trong hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện để biến cái đơn nhất
thành cái chung hoặc ngược lại, tuỳ theo nhu cầu, lợi ích, mục đích của
chủ thể.

You might also like