Professional Documents
Culture Documents
Giới thiệu khái quát về tác giả Tế Hanh, bài thơ Quê hương và đoạn thơ thứ 3
2. Thân bài
a. Cảnh đoàn thuyền trở về sau một đêm vất vả (4 câu thơ trước)
+ Hàng loạt tính từ "ồn ào", "tấp nập" gợi không khí đông vui, sôi động.
+ Dân làng kéo nhau ra đón đoàn thuyền trở về, vui mừng phấn khởi khi trông thấy thành quả - những con cá
- Lời cảm tạ chân thành chứa chan cảm xúc, thể hiện lối sống hiền hòa, chất phác và tấm lòng mộc mạc của
=> Với tình yêu quê hương và sự gắn bó sâu nặng, Tế Hanh đã tái hiện khung cảnh hết sức chân thực . Tế
Hanh thật tài tình khi vừa dựng được bức tranh lao động khỏe khắn, náo nhiệt đầy ắp niềm vui qua không
khí ồn ào, tấp nập; qua hình ảnh “cá đầy ghe”, vừa hiểu được tấm lòng người dân biển hồn hậu, chân
thành qua lời cảm tạ đất trời đã đem đến cho họ sự bình yên, no ấm.
b Hình ảnh con người lao động tuyệt đẹp (4 câu thơ sau)
– Trong cảm xúc tự hào, khâm phục về những người dân chài vừa vượt qua một hành trình lao động. Tế
Hanh viết nên hai câu thơ thật hay khắc họa vẻ đẹp người dân chài:
+ Dù trải qua một đêm dài lao động vất vả nhưng ở họ không hề xuất hiện dấu hiệu của sự mệt mỏi.
+ "Làn da ngăm rám nắng" là làn da đặc trưng của người dân làng chài, do nắng gió biển
+ "Vị xa xăm" là hương vị của nắng gió, hương vị trong hơi thở đại dương.
=> Người lao động hiện lên với vẻ đẹp linh hồn lẫn tầm vóc.
Gợi ý: Thật hiếm có bức vẽ nào về người lao động đẹp đến thế! Vẻ đẹp của cơ thể khỏe khoắn, rắn rỏi;
của phong thái từng trải, phong trần. Nhưng đẹp hơn cả là ở sức sống mạnh mẽ của họ giữa biển cả, đất
trời. Họ vất vả, vật lộn để mưu sinh, dẻo dai, kiên cường để sống, họ như trở thành những đứa con của
lòng biển, của đại dương. “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – cái vị mặn mòi của muối biển, nồng đượm
thấm sâu trong từng thớ thịt, từng hơi thở của người dân chài. Cụm từ “vị xa xăm” còn gợi nên hơi thở
của đại dương, của lòng biển sâu, của những chân trời tít tắp, của phong ba dữ dội. Bởi thế, những người
dân chài lưới như trở thành những chiến binh kiên cường dũng cảm trong sử thi, thần thoại. Những người
dân chài, những đứa con của biển cả được miêu tả vừa chân thực, vừa lãng mạn trở nên vừa gần gũi, thân
+ Sau thời gian dài vất vả cùng người dân trên biển nó trở về dáng vẻ im lìm.
+ Hình ảnh nhân hoá giúp người đọc hình dung rõ nét dáng vẻ của nó
+ Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác tinh tế, thuyền không phải vật vô tri, vô giác mà sinh động, có hồn,
gắn bó sâu sắc với con người và nhịp sống nơi đây.
Gợi ý: Phải chăng, trong thiên nhiên, mọi sự vật đều có tâm hồn, hay con người yêu sự vật đã thổi linh
hồn cho nó, để sự vật hiện lên như con người. Nhờ phép nhân hóa được diễn tả bằng các từ “im, mỏi, trở
về, nằm, nghe”, con thuyền giống như một người lao động làng chài cũng biết nghỉ ngơi, thư giãn sau
những chuyến ra khơi đầy vất vả. Nhưng đó không phải là sự mệt mỏi, biếng lười mà là sự “mệt mỏi, say
sưa” bởi con thuyền đã góp phần không nhỏ trong thành quả của hành trình lao động. Nhưng ấn tượng
nhất là ở từ “nghe” (ẩn dụ chuyển đổi cảm giác) khiến cho con thuyền trở nên có tâm hồn – một tâm hồn
tinh tế, biết suy nghĩ, biết lắng nghe và cảm thấy chất muối – hương vị biển đang thấm dần trong cơ thể
mình – đằm sâu, thắm thiết. Cảm giác chất muối thấm vào cơ thể đến đâu, con thuyền trở nên dạn dày,
từng trải đến đó. Hai câu thơ không đơn thuần là tả cảnh. Hình ảnh con thuyền được gợi nên như chính
con người, chiều sâu của cảm xúc, của suy tư nơi con thuyền cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn, sự lắng sâu
trong cảm xúc của con người nơi đây mà Tế Hanh bằng sự nhạy cảm, tinh tế, bằng tình yêu quê hương tha
- Vị mặn của biển, hơi thở của cuộc sống làng chài có lẽ đã thấm sâu vào da thịt Tế Hanh.
- Sử dụng thành công những biện pháp nghệ thuật đặc sắc.
- Giọng thơ mang đầy cảm xúc, nhịp điệu linh hoạt. => Tái hiện khung cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá,
ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động. Đồng thời gửi gắm nỗi nhớ thương, tự hào và tình yêu quê hương da
diết.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của đoạn thơ và bài thơ