Professional Documents
Culture Documents
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm
cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở nên không phù hợp. Khi đó
quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kiềm
hãm lực lượng sản xuất phát triển.
=>Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ
sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất,
tác động đến thái độ con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức
phản công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và
công nghệ,… và do đó tác đọng đến sự phát triển của lực lượng sản
xuất.Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản
xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.Quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lýợng sản xuất là
quy luật phổ biến tác Động trong toàn bộ quá trình lịch sử nhân loại. Sự
thay thế phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy,
qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ
nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống
các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
3. Trong xã hội có giai cấp, yếu tố nào là quan trọng nhất của
kiến trúc thượng tầng?
trong xã hội có các giai cấp, một hệ tư tưởng chính trị, pháp
quyền và các tổ chức tương ứng. Cũng như đảng chính trị, nhà
nước là bộ phận quan trọng nhất, quyền lực nhất và là thành phần
quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng, thể hiện chế độ chính trị
– xã hội này
4. Triết học Mác quan niệm về phát triển như thế nào?
Phát triển là phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận
động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ
chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn của tự nhiên, xã hội và
tư duy
5. Đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ
định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình
dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Tuy nhiên có
sự phủ định chỉ là phá hủy cái cũ, không tạo tiền đề cho sự tiến
lên và lực lượng phủ định được đưa từ ngoài vào kết cấu của sự
vật, tức là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự phát
triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay cái cũ.
6. Thế nào là “quan điểm phát triển”?
Phát triển là phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận
động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ
chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn của tự nhiên, xã hội và
tư duy.
7. Vì sao khi đã tích lũy đủ về lượng ta phải có quyết tâm để
tiến hành bước nhảy?
Vì bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn phát triển của sự vật và
là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Đó là sự gián đoạn
trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật. Có thể nói
trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên
tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.Chất mới của
sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút.
Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng đã thay đổi của sự
vật, chất mới ấy có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp
điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
=> Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện
chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần về lượng tới điểm
nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy.Bên cạnh đó,
nếu lượng đã tích đủ, đạt đến điểm nút mà vẫn không thực hiện bước
nhảy thì quan niệm phát triển cũng chỉ là sự tiến hóa đơn thuần về
lượng, không phải về chất, như thế thì sự vật sẽ không phát triển được.
Bên cạnh đó, do hình thức bước nhảy của sự vật rất đa dạng, phong
phú nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải vận dụng linh hoạt các
hình thức của bước nhảy trong những điều kiện, lĩnh vực cụ thể. Vì vậy,
khi đã tích lũy đủ về lượng ta phải có quyết tâm để tiến hành bước
nhảy là việc vô cùng quan trọng vì nó quyết định về hiệu suất của một
hoạt động cụ thể.
8. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
nguyên nhân và kết quả với tư cách là phạm trù cơ bản
của phép biện chứng duy vật
Khái niệm nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện
tượng với nhau từ đó tạo ra sự biến đổi nhất định. Những sự biến
đổi đó được gọi là kết quả.
9. Nêu rõ sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Triết học đã ra đời và phát triển trên hai ngàn năm. Ở mỗi thời kỳ lịch
sử khác nhau, triết học có đối tượng nghiên cứu khác nhau; song tổng
kết toàn bộ lịch sử triết học, Ph.Ăngghen đã khái quát: "Vấn đề cơ bản
lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là mối quan hệ
giữa tư duy và tồn tại", giữa ý thức và vật chất, giữa con người và giới
tự nhiên.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Thứ nhất, giữa ý thức và vật
chất: cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào? Thứ
hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Việc giải quyết mặi thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học đã chia
triết học thành hai trường phái lớn:Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm. Việc giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học chia
quan điểm về nhận thức thành hai phái: Khả tri luận - phái bao hàm
những quan điếm thừa nhận khả năng nhận thức của con người - và bất
khả tri luận - phái bao hàm những quan điểm phủ nhận khả năng đó.
Đối với việc giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học,
những người cho rằng bản chất thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ
nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất là cái có trước và quyết định ý
thức, được gọi là các nhà duy vật; học thuyết của họ hợp thành các
môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại, những người cho
rằng: bản chất thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính
thứ hai; ý thức quyết định vật chất, được gọi là các nhà duy tâm; học
thuyết của họ hợp thành những môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy
tâm.
Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là:
sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc
tính nào đó của quá trình nhận thức và thường gắn với lợi ích của các
giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Chú nghĩa duy tâm
và tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa
vào nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm
chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ
nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan
khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là "phức hợp những cảm giảc"
của cá nhân. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tinh thứ
nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần, ý thức ấy là tinh thần khách
quan, ý thức khách quan có trước, tồn tại độc lập với giới tự nhiên, với
con người và thể hiện dưới nhiều tên gọi khác nhau, như: "ý niệm tuyệt
đối", "tinh thần tuyệt đối" hay "lý tính thế giới
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, quá trình ra đời và phát triển của chủ
nghĩa duy vật có nguồn gốc từ thực tiễn và sự phát triển của khoa học.
Chính qua thực tiễn và khái quát hóa thức của nhân loại trong nhiều
lĩnh vực, c
10. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở những
điểm nào?
- thứ nhất : ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
- thứ hai : ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
- thứ ba : ý thức xã hội có tính kế thừ trong sự phát triển
- thứ tư : sự tác động qua lại giữa các hình thức ý thức xã hội trong sự
phát triển của chúng
- thứ năm : ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
11. Bản chất của ý thức là gì?
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, không
phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở
thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về
thế giới, do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết
định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động. Vì vậy, ý thức ...
là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được
cải biến đi ở trong đó”.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở
những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể
tưởng tượng ra những cái không có trong thực tế. Ý thức có thể tiên
đoán, dự báo về tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại,
những giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính khái
quát cao.
Tuy nhiên, sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh, bởi vì ý thức
bao giờ cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.
- Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất là
có tính xã hội.
12. Làm rõ vai trò của tri thức trong kết cấu của ý thức?
- Cấu trúc theo chiều ngang: gồm có tri thức và tình cảm.
+ Tri thức là kết quả nhận thức của con người về thế giới, được diễn đạt
dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu. Được tách ra làm
hai loại tri thức. Tri thức thông thường, là những nhận thức thu
nhận được từ hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm
tính trực tiếp, bề ngoài rời rạc chưa được hệ thống hoá. Tri thức khoa
học là những nhận thức đã được đúc kết từ thực tiễn thành lý luận, kinh
nghiệm. Ngày nay, tri thức đang là yếu tố giữ vai trị quyết định đối với
sự phát triển kinh tế, vì vậy, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then
chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn bền vững.
+ Tình cảm là sự rung động của con người với xung quanh gây cho con
người có cảm giác vui buồn, yêu thương, căm giận… Vì vậy, một khi tri
thức được gắn với tình cảm thì hoạt động của con người sẽ được tăng
thêm gấp bội lần.
+ Tự ý thức, ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới.
+ Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đó
gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sau của ý
thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.
+ Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, sự suy nghĩ, hành vi,
thái độ ứng xử của con người xảy ra mà chưa có sự tranh luận của nội
tâm, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí được biểu hiện thành nhiều
hiện tượng khác nhau và chỉ là mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của
con người.