You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

  

Tiểu luận cuối kỳ


LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC-LÊNIN
VỀ THỊ TRƯỜNG. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

Môn học: Kinh tế chính trị

Mã lớp: LLCT120205_21_2_16CLC

Thực hiện: Nhóm VINAMILK

GVHD: Th. S Trần Ngọc Chung

TP. Hồ Chí Minh, Tháng 05 năm 2022

i
DANH SÁCH NHÓM VIẾT TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2021-2022
Tên đề tài: Lý luận của kinh tế chính trị học Mác-Lênin về thị trường. Liên hệ thực tiễn.
Danh sách nhóm viết tiểu luận cuối kỳ:

TỶ LỆ %
STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN HOÀN
THÀNH

1 Văn Phước Kim Bảo 21116048 100%


2 Hoàng Việt Khương 21116074 100%

3 Nguyễn Hà My 21116085 100%

4 Nguyễn Ngọc Phương Ngân 21116089 100%

5 Trần Hiếu Tâm 21116112 100%

6 Nguyễn Đoan Thanh 21116114 100%

7 Nguyễn Trần Thành 21116372 100%

8 Nguyễn Xuân Thắng 21116373 100%

9 Nguyễn Ngọc Bảo Trâm 21116130 100%

10 Nguyễn Ngọc Trinh 21116132 100%


Ghi chú:
 Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
 Trưởng nhóm: Nguyễn Ngọc Trinh. SĐT: 0797463762

Nhận xét của giảng viên:


...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................

TP. Thủ Đức, ngày tháng 05 năm 2022


CHỮ KÝ XÁC NHẬN GV

ii
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
Nhóm tự đánh giá
Nội dung thực hiện Sinh viên thực hiện mức độ hoàn thành
(Tốt / Khá / Kém)

THIẾT KẾ POWERPOINT VÀ WORD


Thiết kế powerpoint Trần Hiếu Tâm Tốt
Thiết kế powerpoint Nguyễn Trần Thành Tốt
Thiết kế word Nguyễn Xuân Thắng Tốt

TRÌNH BÀY TIỂU LUẬN

Trình bày nội dung Nguyễn Hà My Tốt


Trình bày nội dung Nguyễn Đoan Thanh Tốt
Trình bày nội dung Hoàng Việt Khương Tốt

PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài, mục


đích và đối tượng nghiên
Nguyễn Ngọc Phương Ngân Tốt
cứu, phương pháp nghiên
cứu

PHẦN NỘI DUNG

Nội dung: 1.1, 1.2, 1.3, 1.4 Nguyễn Xuân Thắng Tốt
Nội dung: 2.1, 2.2, 2.3 Văn Phước Kim Bảo Tốt
Nội dung: 3.1 Nguyễn Ngọc Bảo Trâm Tốt
Nội dung: 3.2 Nguyễn Ngọc Trinh Tốt
PHẦN KẾT LUẬN
Viết kết luận Nguyễn Ngọc Phương Ngân Tốt

iii
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 1
3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 2
B. NỘI DUNG .................................................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC-LÊNIN VỀ THỊ
TRƯỜNG ............................................................................................................................ 4
1. Khái niệm thị trường ................................................................................................. 4
1.1. Phân loại thị trường ............................................................................................ 5
1.2. Cơ chế của thị trường ......................................................................................... 7
1.3. Vai trò của thị trường ......................................................................................... 9
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ........................................................................................... 12
2. Khái niệm về kinh tế thị trường ............................................................................. 12
2.1. Tính tất yêu khách quan của việc phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ....................................................................... 12
2.2. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
13
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỀN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM VÀ NƯỚC NGOÀI ................................................................................................ 15
3. Liên hệ thực tiền về nền kinh tế thị trường ........................................................... 15
3.1. Ở Việt Nam ........................................................................................................ 15
3.2. Ở nước ngoài ...................................................................................................... 17
C. KẾT LUẬN ............................................................................................................... 23
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................ 24

iv
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình thời kỳ đầu của xã hội loài người, sản xuất xã hội mang tính tự cung
tự cấp, mục đích đáp ứng nhu cầu cho bản thân của con người bị gói gọn trong một giới
hạn nhất định do sự hạn chế của lực lượng sản xuất. Nhưng dần trải qua thời gian, chỉ đến
khi lực lượng sản xuất phát triển và có những thành tựu nhất định, nhu cầu của con người
mới dần được đáp ứng nhiều hơn. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là một nhân tố không
thể thiếu dẫn đến đến sự biến đổi từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa
và đặc biệt nhất là nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao và là một bộ
phận quan trọng không thể thiếu đối với mỗi quốc gia trên thế giới, nó tác động vô cùng to
lớn đến sự phát triển và tồn tại của mọi quốc gia, dân tộc. Ở đó diễn ra những hoạt động
sản xuất để tạo ra sản phẩm và trao đổi mua bán, đây là một trong những điều kiện phát
triển vật chất để đáp ứng như cầu hằng ngày của con người.
Việc xây dựng nền kinh tế thị trường là một tất yếu trong công cuộc đổi mới quản lý
kinh tế của nước ta. Và trong những năm gần đây, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và
nhà nước, đất nước ta đã phát triển nền kinh tế một cách nhanh chóng và thoát được khỏi
tình trạng khủng hoảng.
Vì vậy, việc coi trọng xây dựng nền kinh tế thị trường là một điều vô cùng quan trọng
và cần thiết. Do đó nhóm chúng em muốn sử dụng những kiến thức đã học được để thực
hiện bài tiểu luận này, phân tích các vấn đề về khí cạnh của nền kinh tế thị trường, thông
qua việc tìm hiểu sâu hơn về lí luận của C.Mác về thị trường từ đó liên hệ đến nền kinh tế
thị trường của Viêt Nam và nước ngoài. Mong thầy và các bạn xem và góp để nhóm có thể
cải thiện và hoàn thành bài tiểu luận một cách tốt nhất, từ đó đóng góp một phần nhỏ nào
đó vào công cuộc xây dựng nền kinh tế nước nhà.
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
Mục đích
Lý thuyết: mục đích nghiên cứu cao nhất là nhằm phát hiện ra các qui luật chi phối
trong nền kinh tế thị trường, sản xuất và trao đổi giữa người mua với người bán. Qua đó,
định hướng cho các chủ thể vận dụng một cách hiệu quả các quy luật ấy vào thực tiễn để
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, thông qua việc giải quyết các qui luật chi phối đó. Và
tiếp sức để sáng tạo, phát triển toàn diện cho xã hội, thúc đẩy văn minh thông qua các mối
quan hệ về lợi ích.
Thực tiễn: vận dụng các kiến thức, lý thuyết cơ bản về cơ chế liên quan đến thị trường
nhằm làm rõ lý luận của C.Mác trong liên hệ với bối cảnh nền kinh tế Việt Nam. Trên cơ
sở hệ thống đó làm nền tảng định hướng cho sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam và
nước ngoài.
Đối tượng nghiên cứu:
1
Lý thuyết: Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin là các quan hệ xã
hội của con người trong nền sản xuất và trao đổi, các quan hệ này được đặt chủ yếu trong
sự liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của kiến trúc thượng tầng và lực lượng sản xuất tương
ứng.
Thực tiễn:
- Mối liên hệ thực tiễn giữa thị trường trong nước với nền kinh tế thị trường nước
ngoài. Trong bối cảnh xu thế hội nhập, hợp tác mở rộng thị trường đóng vai trò như một
cầu nối gắn nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới. Các quan hệ sản xuất, lưu thông,
phân phối, tiêu dung không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, mà thông qua thị trường, sẽ
gắn kết với các quan hệ trên phạm vi thế giới. Với vai trò như vậy thị trường đóng góp rất
lớn trong việc gắn kết đeo lại nhiều lợi ích kinh tế cho các quốc gia và cả Việt Nam.
- Liên hệ thực tiễn về phát triển nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, sự phát triển thị
trường trường làm cho các quan hệ sản xuất đến lưu thông, tiếp theo là phân phối và cuối
cùng là tiêu dùng trở thành một thể thống nhất. Đồng thời khi thị trường được thống nhất,
sự phát triển của thị trường sẽ là cơ sở cho phát triển sản xuất.
3. Phương pháp nghiên cứu
Kinh tế chính trị Mác-Lênin sử dụng các phương pháp nghiên cứu gồm:
- Phương pháp duy vật biện chứng:
Đây là phương pháp luận đặt biệt yêu cầu việc nghiên cứu các khía cạnh của
kinh tế chính trị phải bắt buộc đặt trong mối liên hệ tác động qua lại và ngày càng phát
triển. Nó được áp dụng trong nghiên cứu kinh tế chính trị nhằm giúp cho các kết quả nghiên
cứu tránh rơi vào tình trạng chủ quan, vi phạm quy luật kinh tế.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học:
+ Đây là một trong những phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội, khi sử dụng
phương pháp này phải đòi hỏi gạt bỏ đi các yếu tố ngẫu nhiên trong các quá trình nghiên
cứu, từ đó tách ra được những hiện tượng bền vững, mang tính ổn định của đối tượng nghiên
cứu. Nắm bản chất, xây dựng được phạm trù và khám phá ra tính quy luật chi phối sự vận
động của đối tượng nghiên cứu.
+ Nên chú ý rằng, khi sử dụng phương pháp này cần phải biết xác định giới hạn
của sự trừu tượng hóa. Không được chủ quan và tùy tiện loại bỏ những nội dung thực tế
của đối tượng nghiên cứu gây ra sự sai lệch bản chất của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp logic kết hợp với lịch sử:
Đây là một trong những phương pháp được sử dụng trong nhiều ngành khoa
học xã hội cũng như trong kinh tế chính trị Mác - Lênin. Phương pháp này cho phép
khám phá ra các xu hướng, bản chất và quy luật kinh tế gắn với sự hình thành và phát

2
triển của chúng, từ đó rút ra những kết quả nghiên cứu mang tính logic từ tiến trình lịch
sử của quan hệ giữa người với người trong quá trình trao đổi và sản suất

3
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC-LÊNIN VỀ THỊ
TRƯỜNG
1. Khái niệm thị trường
Thị trường là nơi, môi trường, hoặc khu vực cho phép người mua và người bán thực
hiên các quá trình giao dịch, mua bán hoặc trao đổi các loại hàng hóa, các loại dịch vụ, và
các thông tin... với sự xác định giá cả và số lượng hàng hóa thỏa mãn nhu cầu của các chủ
thể trong đó. Các quá trình này chỉ rõ tính chất cung và cầu của thị trường, vì vậy nó được
coi là nguồn gốc cơ sở của nền kinh tế.
Như vậy, ở cấp độ cụ thể thị trường có thể nhìn thấy, quan sát được như chợ, quầy
hàng lưu động, cửa hàng, phòng giao dịch hay siêu thị và nhiều loại hình thức tổ chức giao
dịch, mua bán khác.
Ở một số phương diện khác, thị trường cũng có thể được xác định thông qua các mối
quan hệ liên quan đến giao dịch, trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ trong xã hội, được tạo
thành từ những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất định. Theo hướng này, thị trường là
tổng thể các mối quan hệ kinh tế gồm quan hệ cung-cầu, quan hệ giá cả, quan hệ hàng -
tiền; quan hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh tranh; quan hệ trong nước, ngoài
nước. Đây cũng là các yếu tố của thị trường.
Còn theo Kinh Tế Học, thị trường là một quá trình diễn ra các quyết định của hộ gia
đình về tiêu thụ hàng hóa nào, quyết định của các công ty về những sản phẩm gì và làm thế
nào để sản xuất, quyết định của người lao động về việc làm bao lâu và cho ai tất cả được
dung hòa bằng cách điều chỉnh giá cả.
Thị trường là nơi các loại giao dịch diễn ra và nó tồn tại được nhờ hai nhân tố chính
đó là người mua và người bán. Người mua và người bán chủ yếu trao đổi, mua bán, giao
dịch hàng hóa, dịch vụ, và thông tin. Ban đầu, thị trường chỉ là môi trường gặp gỡ, tập
trung, mà tại đó người mua và người bán gặp nhau trực tiếp để thực hiện những loại giao
dịch. Ngày nay thị trường tồn tại ở những dạng khác nhau không chỉ là các loại thị trường
truyền thống mà còn có các loại thị trường đặc biệt khác như các loại thị trường tập trung,
thị trường phi tập trung và nhiều thị trường đặc biệt khác… chúng nhận được hỗ trợ bởi

4
mạng lưới công nghệ thông tin như Internet và đã trở thành thị trường lớn nhất và có tính
thanh khoản cao nhất.
Một vài thị trường vì có nhiều nhà cung cấp bán cùng một loại sản phẩm hoặc dịch
vụ nên chúng có tính cạnh tranh rất cao. Ngược lại, thì có một vài thị trường có ngành công
nghiệp được chính phủ bao cấp thì thị trường tính cạnh tranh rất thấp thậm chí là không có.
Các yếu tố như số lượng người mua và người bán, hay là lượng cung và cầu sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến giá cả của sản phẩm và dịch vụ, đó được coi là quy luật của cung và cầu. Nếu
người bán nhiều hơn người mua, tức là cung sẽ dư thì điều đó sẽ đẩy giá thành của sản
phẩm và dịch vụ giảm xuống. Nếu có người mua nhiều hơn người bán, tức là cung sẽ thiếu
thì điều đó sẽ đẩy giá thành của sản phẩm và dịch vụ tăng lên. Khi mà có sự giao dịch về
hàng hóa và dịch vụ diễn ra thì thị trường sẽ hình thành một cách tự phát, thị trường cũng
có thể được hình thành từ việc hoạch định của những người có thẩm quyền.
1.1. Phân loại thị trường
Căn cứ theo đối tượng trao đổi, mua bán cụ thể, có các loại thị trường như: thị trường
hàng hóa, thị trường dịch vụ. Trong mỗi loại thị trường này lại có thể cụ thể ra thành các
thị trường theo các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau rất phong phú.
- Thị trường hàng hóa: các loại hàng hóa cứng như năng lượng (than đá, dầu, khí đốt,
và những nguồn năng lượng có thể tái tạo như diesel sinh học), những loại hàng hóa mềm
là ngũ cốc (lúa mì, bắp, gạo, đậu nành, cà phê, cacao, đường, vải bông, …), thịt và các loại
hàng hóa tài chính như trái phiếu.
- Thị trường dịch vụ: trong thị trường này đối tượng trao đổi mua bán là các loại hàng
hóa không thể cầm, nắm được mục đích trao đổi mua bán nhằm để thỏa mãn nhu cầu phi
vật chất của người mua, mà trong thi trường này quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra
đồng thời.
Căn cứ vào phạm vi giao dịch, hoạt động, có các loại thị trường địa phương, thị trường
trong nước, thị trường thế giới.
Căn cứ vào vai trò của các yếu tố mục đích sử dụng hàng hóa, trao đổi, mua bán, có
thị trường tư liệu tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất.

5
- Thị trường tư liệu sản xuất: nơi chủ yếu mua bán trao đổi các loại hàng hóa như:
máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu… mà người mua chủ yếu là các công ty,
doanh nghiệp, xí nghiệp, nhà máy…
- Thị trường tư liệu tiêu dùng: nơi chủ yếu trao đổi, mua bán các loại hàng hóa phục
vụ đời sống con người mà người mua là chủ yếu là các gia đình…
Căn cứ vào cơ chế vận hành và tính chất, mà chia ra thị trường tự do, thị trường có
điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (độc quyền).
- Thị trường tự do: Thị trường tự do hoạt động với những chính sách tự do kinh doanh,
và chính phủ không được phép can thiệp vào hoạt động của thị trường. Tuy nhiên những
thị trường tự do có thể bị làm thay đổi tính chất nếu như người bán hay một chủ thể nào đó
giành được sự độc quyền bằng cách điều khiển các nguồn cung (hoặc người mua phát triển
sự độc quyền bằng cách kiềm hãm nguồn cầu). Chính phủ hoặc các cơ quan thương mại sẽ
ngăn cản các hoạt động của thị trường tự do nếu như những tác động xấu này làm ảnh
hưởng đến hoạt động của thị trường.
- Thị trường có điều tiết: là một thị trường mà các cơ quan chính phủ, hoặc có thể là
các nhóm ngành công nghiệp hay lao động, thực hiện một mức độ giám sát và kiểm soát.
Kiểm soát thị trường thường được thực hiện bởi chính phủ và kiểm soát liên quan đến việc
xác định ai có thể tham gia thị trường và giá mà họ có thể chi trả. Chức năng chủ yếu của
cơ quan chính phủ trong nền kinh tế thị trường là điều tiết và giám sát hệ thống tài chính
và kinh tế.
- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: là thị trường trong đó có nhiều người mua, nhiều
người bán và không một ai có thể ảnh hưởng đến giá cả thị trường.
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: thị trường mà tại đó, các doanh nghiệp bán
các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có sự khác biệt nhất định hoặc khác biệt hoàn toàn về tính
năng chất lượng, số lượng dẫn đến tình trạng độc quyền… Vì vậy các công ty có chính sách
kiểm soát giá và định giá của các công ty đang áp dụng. Người mua và người bán có quyền
tự do gia nhập và rút khỏi thị trường.
Hiện nay, các nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh và phức tạp hơn, do đó hệ thống
thị trường cũng đã biến đổi để phù hợp hơn với điều kiện, trình độ phát triển của các nền
kinh tế. Vì vậy, để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra có hiệu quả, đòi hỏi phải hiểu rõ

6
về bản chất hệ thống thị trường, các quy luật kinh tế cơ bản của thị trường và các vấn đề
liên quan khác.
1.2. Cơ chế của thị trường
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế mang tính tự điều chỉnh nền kinh tế
cân bằng theo yêu cầu của các quy luật kinh tế.
Bất cứ một hoạt động nào đều liên quan đến tính kinh tế và đều phải tuân theo quy
luật thị trường đầy đủ.
Các quy luật cơ bản của cơ chế thị trường là:
1. Quy luật giá trị
Mỗi một sản phẩm/ dịch vụ đều có giá trị và phải được định giá cụ thể thông qua giá
cả. Hoạt động mua bán trao đổi sẽ dựa trên tính chất win-win. Việc định giá sản phẩm/ dịch
vụ sẽ do thị trường định đoạt (sự hữu ích / khan hiếm / gia tăng / phái sinh …) chứ ko phải
do người bán hoặc người mua định giá. Tuy nhiên ở vào từng thời điểm cụ thể người mua
hoặc người bán có thể tác động đến giá trị của sản phẩm/ dịch vụ dựa trên tính minh bạch
hoặc gian lận từ mục đích của họ. Trong hoạt động KT-TT ổn định, để tăng giá trị của sản
phẩm/ dịch vụ, công việc của người bán là phải giảm giá thành tạo ra sản phẩm/ dịch vụ
đó.
2. Quy luật cung cầu
Cung và cầu là hai hoạt động tương tác qua lại lẫn nhau và không hoạt động độc lập
trong nền KT-TT. Cung đến từ hoạt động sản xuất, khai thác tạo ra sản phẩm, tổng cung là
tổng số lượng sản phẩm/ dịch vụ. Cầu đến từ nhu cầu sử dụng sản phẩm/ dịch vụ và khả
năng chi trả của KH cho sản phẩm/ dịch vụ đó. Điểm gặp nhau giữa cung và cầu gọi là giá
cả bình quân, ở đó người mua chấp nhận trả tiền trên cơ sở win – win. Các DN tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh là tham gia vào dòng cung sản phẩm/ dịch vụ vì vậy cần
xác định rõ xu hướng tăng giảm của tổng cầu cho sản phẩm/ dịch vụ trước khi đi ra các
chiến lược cạnh tranh.
3. Quy luật cạnh tranh
Trong nền KT-TT nhiều người mua và nhiều người bán, sự cạnh tranh là tất yếu. Các
chủ thể tham gia ở vai trò cung cần xác định rõ lợi thế của sản phẩm/ dịch vụ và đưa ra các
chiến lược cạnh tranh phù hợp về giá, khuyến mại, khuyến mãi, dịch vụ khách hàng,…Việc

7
nhiều người bán cạnh tranh sẽ dẫn đến giá cả sản phẩm/ dịch vụ sẽ giảm xuống và có lợi
cho người mua và ngược lại, khi nhiều người mua cạnh tranh để có được sản phẩm/ dịch
vụ, người bán có thể tăng giá cả trao đổi sản phẩm/ dịch vụ đó.
4. Quy luật lưu thông tiền tệ
Dòng tiên lưu thông trong thị trường đại diện cho sức mua, tổng số lượng sản phẩm/
dịch vụ đại diện cho sức bán. Sức mua của thị trường sẽ bị chi phối bởi sự biến đổi của sức
khoẻ đồng tiền, các công cụ lưu trữ, vận chuyển tiền tệ (vàng, đô la,…), tỉ lệ lạm phát, lãi
suất ngân hàng, các chỉ số tăng trưởng kinh tế khác, các biến động kinh tế, chính trị trong
nước và toàn cầu, …
5. Quy luật giá trị thặng dư
Bất cứ hoạt động trao đổi nào người bán cũng đều phải nhận lại giá trị thặng dư so
với giá trị sản phẩm/ dịch vụ để bù đắp các chi phí ban đầu, tái sản xuất và sinh lời theo
quy tắc : T – H – H’ – T’.
Nói một cách đơn giản là chính các quy luật thị trường (như quy luật cung cầu, quy
luật cạnh tranh, quy luật giá trị…) sẽ hình thành nên mức giá và sản lượng trên thị trường.
Người bán và người mua thông qua thị trường sẽ xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ.
Những cá nhân, tổ chức riêng biệt tham gia cơ chế thị trường tác động lẫn nhau, hình
thành nên hệ thống giá cả, con đường phân phối, cơ cấu sản xuất,… Từ đó giúp nhà đầu tư
xác định được cách thức tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào giá cả, nhu cầu, khả năng… để
quyết định sẽ sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai và một cách hoàn toàn
tự do.
Ví dụ về quy luật cung cầu và giá cả : khi giá cả thịt lợn tăng, cung không đổi, cầu về
hàng hóa này sẽ giảm. Ngược lại, khi giá cả thịt lợn giảm, cung không đổi, cầu hàng hóa
này tăng. Quy luật này, nó vận động khách quan, các chủ thể kinh tế dù muốn hay không
muốn, nó đều diễn ra như vậy. Cho nên, nó tạo thành cơ chế vận hành, tự điều chỉnh trong
nền kinh tế thị trường.
Theo đó Adam Smith là một nhà kinh tế học nổi tiếng ở thế kỷ 18, ông tán thành luận
điểm cơ chế thị trường tự điều chỉnh sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế tối đa, nhà nước không nên
can thiệp vào nền kinh tế. Vì thế, ông đã ví cơ chế thị trường như “ bàn tay vô hình “ có
khả năng tự điều chỉnh quan hệ kinh tế. Và ông đã xây dựng khái niệm về bàn tay vô hình.
Chúng đề cập đến các hành động hay quyết định cá nhân của các tác nhân kinh tế dẫn đến
8
lợi ích tối đa cho nền kinh tế. Các quyết định này ảnh hưởng về mặt cung và cầu cho một
hay nhiều hàng hóa, được gọi chung là cơ chế thị trường.
Ví dụ: Hai cửa hàng bán quần áo ở cạnh nhau. Cửa hàng 1 thường xuyên cập nhật
những mẫu mới như quần áo, đầm công sở kiểu mới,… trong khi cửa hàng 2 trung thành
với quần áo phong cách cổ điển. Nếu nhiều người mua quần áo ở cửa hàng 1 thì chủ quán
có thể tăng giá lên. Ngược lại cửa hàng 2 sẽ hạ giá để kích thích nhu cầu của người mua.
Sau một thời gian, cửa hàng 1 sẽ bán ít quần áo hơn với mức giá cao hơn, trong khi cửa
hàng 2 bán nhiều quần áo hơn với mức giá thấp hơn. Do đó, về tổng thể không có sự chênh
lệch nhiều giữa hai cửa hàng.
Cơ chế thị trường chính là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn
vốn, tài nguyên, công nghệ, sức lao động, thông tin, trí tuệ.. trong nền kinh tế thị trường.
Đây chính là một kiểu cơ chế vận hành nền kinh tế mang tính khách quan, do bản thân nền
sản xuất hàng hóa hình thành.
Và mọi hoạt động của các cá nhân trong xã hội ban đầu nó chỉ nhằm phục vụ lợi ích
của chính các cá nhân đó, chứ không phải vì lợi ích cộng đồng.
Tuy nhiên, thông qua các phân công lao động, thị trường và cơ chế giá cả, toàn bộ xã hội
cũng sẽ được hưởng lợi từ hoạt động riêng lẻ của các cá nhân, một “bàn tay vô hình” sẽ dẫn
dắt con người trong khi làm việc có lợi cho mình thì đồng thời cũng sẽ đóng góp lợi ích
cho tập thể.
- Ưu điểm: kích thích tính năng động, sáng tạo của các chủ thể trong xã hội, kích thích
lực lượng sản xuất phát triển phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,…
- Nhược điểm: sự điều tiết các quan hệ kinh tế- xã hội mang tính tự phát; do lợi nhuận
mà làm giảm uy tín, đạo đức, tình người, phân hóa giàu nghèo, khai thác cạn nguồn tài
nguyên thiên nhiên, tệ nạn xã hội gia tăng…
1.3. Vai trò của thị trường
Xét trong mối quan hệ với việc thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hóa, dịch vụ cũng
như thúc đẩy tiến bộ xã hội, vai trò chủ yếu của thị trường có thể được chia thành những
vai trò sau:
Một là, thị trường là nơi thực hiện giá trị hàng hóa, là điều kiện, môi trường cho sản
xuất phát triển.

9
Giá trị của hàng hóa được thực hiện thông qua các trao đổi. Việc trao đổi, mua bán
phải được diễn ra và thông qua thị trường. Thị trường là môi trường để các chủ thể thực
hiện giá trị hàng hóa. Sản xuất hàng hóa càng phát triển, dẫn đến sản xuất ra càng nhiều
hàng hóa, dịch vụ thì càng đòi hỏi thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn. Sự mở rộng thị trường
lại thúc đẩy trở lại sản xuất phát triển. Vì vậy, thị trường là môi trường, là điều kiện không
thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh.
Nếu một hàng hóa, không được thị trường chấp nhận, có nghĩa là hàng hóa đó không
thể nào bán được, quá trình sản xuất sẽ bị thu hẹp thậm chí là không thể sản xuất. Ví dụ : ở
các nước hồi giáo thì việc sản xuất các loại thịt đông lạnh rõ ràng là không được thị trường
chấp nhận nên không thể phát triển được. Ngược lại, nếu quá trình sản xuất các loại hàng
hóa và dịch vụ được thị trường chấp nhận rộng rãi, thì đó chính là động lực thúc đẩy sản
xuất để đáp ứng yêu cầu của thị trường đòi hỏi. Thị trường điện thoại và các thiết bị thông
minh ở Việt Nam là một ví dụ, chỉ trong khoảng gần 15 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng
của thị trường điện thoại và các thiết bị thông minh tăng rất nhanh do thị hiếu và nhu cầu
của người dân Việt Nam về các sản phẩm đó rất lớn rất lớn.
Hai là, thị trường kích thích sự sáng tạo của mọi nhân tố trong xã hội, tạo ra cách thức
phân bổ nguồn lực hiệu quả trong nền kinh tế.
Thị trường thúc đẩy các quan hệ kinh tế không ngừng phát triển. Do đó, đòi hỏi các
thành viên trong xã hội phải không ngừng nỗ lực, sáng tạo để thích ứng được với sự phát
triển của thị trường. Sự sáng tạo nếu mà được thị trường chấp nhận và sử dụng rộng rãi,
chủ thể sáng tạo sẽ được thụ hưởng lợi ích tương xứng. Khi lợi ích được đáp ứng, động lực
cho sự sáng tạo được thúc đẩy. Cứ như vậy, kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong
xã hội.
Như vậy, trải qua các tác động khắc nghiệt của các quy luật thị trường buộc các chủ
thể tham gia thị trường phải tích cực, năng động, sáng tạo và nhạy bén để tồn tại và phát
triển.
Thông qua thị trường, các nguồn lực cho sản xuất được điều tiết, phân bố tới các chủ
thể và sử dụng hiệu quả, thị trường tạo ra cơ chế để lựa chọn các chủ thể có năng lực sử
dụng nguồn lực hiệu quả trong nền sản xuất.

10
Ba là, thị trường là cầu nối gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền kinh
tế quốc gia với nền kinh tế thế giới.
Xét trong quan hệ với nền kinh tế thế giới, thị trường tạo ra sự gắn kết nền kinh tế
trong nước với nền kinh tế thế giới. Xét trong phạm vi quốc gia, thị trường không phụ thuộc
vào địa giới hành chính, thị trường gắn kết mọi chủ thể giữa các khâu, giữa các vùng miền
vào một chỉnh thể thống nhất, mà thông qua thị trường, các quan hệ đỏ có sự kết nối, liên
thông với các quan hệ trên phạm vi thế giới. Với vai trò này, thị trường góp phần thúc đẩy
sự gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị trường làm cho các quan hệ sản
xuất lưu thông, phân phối, tiêu dùng trở thành một thể thống nhất.
Thị trường là một phương tiện nối giữa sản xuất với tiêu dùng, nó đặt ra các nhu cầu
cho sản xuất, nhu cầu cho tiêu dùng và thỏa mãn các nhu cầu đó. Do đó thị trường có vai
trò cung cấp thông tin, định hướng cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Trong một nền
kinh tế thì bao gồm nhiều quá trình sản xuất. Các đơn vị sản xuất, không tồn tại độc lập,
riêng biệt với nhau mà sẽ có mối quan hệ với nhau, tác động với nhau. Hay nói cách khác,
nền sản xuất là một bức tranh tổng thể được tạo bởi nhiều mảnh ghép khác nhau. Sự liên
kết của các mảnh ghép này chính là thị trường. Thị trường chính là chất xúc tác tạo liên kết
chặt chẽ, hình thành sự phụ thuộc lẫn nhau, quy định lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, giữa
các địa phương, các ngành nghề, các lĩnh vực tạo thành một thị trường chung.

11
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2. Khái niệm về kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động
với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ
trên thị trường.
2.1. Tính tất yêu khách quan của việc phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Những điều kiện chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn còn tồn tại ở Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, sự tồn tại của kinh tế hàng hóa, kinh tế
thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan.
Thứ nhất, phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vẫn
còn tồn tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện nay. Phân
công lao động xã hội phát triển thể hiện ở chỗ các ngành nghề ở nước ta ngày càng đa dạng,
phong phú chuyên môn hóa sâu. Tác động của phân công lao động:
- Góp phần phá vỡ tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên trước đây và thúc
đẩy kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn.
- Là cơ sở và là động lực để nâng cao năng suất lao động xã hội, nghĩa là làm cho nền
kinh tế ngày càng có nhiều sản phẩm thặng dư dùng để trao đổi, mua bán. Do đó, làm cho
trao đổi mua bán hàng hóa ngày càng phát triển hơn.
Thứ hai, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế: do tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do
đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể
thực hiện bằng quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
Thứ ba, thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chếđộ công
hữu về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự
chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, mặt khác các đơn vị kinh tế còn có sự khác
nhau về trình độ kỹ thuật – công nghệ, về trình độ quản lýnên chi phí sản xuất và hiệu quả
cũng khác nhau nên quan hệ kinh tế giữa họ phải thực hiện bằng quan hệ hàng hóa – tiền
tệ.

12
Thứ tư, trong quan hệ kinh tế đối ngoại trong điều kiện phân công lao động quốc tế,
mỗi quốc gia riêng biệt là chủ sở hữu đối với mỗi hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường,
sự trao đổi này phải trên nguyên tắc ngang giá.
Với bốn lý do trên, kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu. Đại hội Đảng
lần thứ IX khẳng định mô hình nền kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lựa chọn đó là xuất phát từ những lợi ích của việc
phát triển kinh tế - xã hội đem lại cho nước ta.
2.2. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.2.1. Về mục tiêu
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát triển mạnh lực
lượng sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng các cơ sở vật chất- kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, thực hiện theo lối: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh”
Đây căn bản là một sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa so với nề kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mục đích là bắt nguồn của thời kì quá
độ từ cơ sở kinh tế - xã hội lên chủ nghĩa xã hội, đây là phản ánh trực tiếp mục tiêu chính
trị - xã hội mà Đảng, nhà nước và nhân dân đang phấn đấu từng ngày. Mặt khác, đi đôi với
việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam còn gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất và ngày càng hoàn thiện cơ sở kinh tế -
xã hội của chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
mà nước Việt Nam cần phải đạt là:
- Làm cho dân giàu: cơ bản là mức bình quân GDP đầu người tăng nhanh trong thời
gian ngắn và thu hẹp khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội.
- Làm cho nước mạnh: thể hiện những đóng góp cho nền kinh tế thị trường về ngân
sách quốc gia; về sự sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên của quốc gia; về sự gia tăng
những ngành kinh tế mũi nhọn, bảo vệ các bí mật quốc gia về mọi mặt,...
Làm cho xã hội công bằng, văn minh: thể hiện ở việc xử lý những quan hệ mang tính
lợi ích trong nền kinh tế thị trường, góp phần vào công cuộc để giải quyết các vấn đề liên
quan đến đời sống xã hội.

13
Về mục tiêu chính trị: xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa về mọi người, mọi
thành phần kinh tế có quyền tham gia vào các sản xuất, các hoạt động kinh tế, có quyền sở
hữu, quyền sản xuất và tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật.
2.2.2. Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế
Về sở hữu:
- Sở hữu là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất
dựa trên cơ sở chiếm hữu nguồn và kết quả lao động của quá trình ấy trong một điều kiện
lịch sử nhất định. Ví dụ như ở chế độ sở hữu tư nhân thì đối tượng sở hữu là tư bản và trí
tuệ, chủ thể sở hữu là tư bản và lợi ích có được từ đối tượng đó là giá trị thặng dư.
- Khác với việc chiếm hữu, sở hữu phản ánh lên việc chiếm hữu trước hết là các nguồn
lực sản xuất, tiếp theo đó là kết quả lao động. Và trong sự phát triển theo từng xã hội, đối
tượng sở hữu có thể là tư bản, nô lệ, có thể là trí tuệ, có thể là ruộng đất.
- Sở hữu bao quát về nội dung pháp lý và nội dung kinh tế :
Về nội dung pháp lý: sở hữu thể hiện quy định mang tính chất pháp luật về nghĩa vụ
hay quyền hạn của chủ thể sở hữu.
Về nội dung kinh tế: sở hữu là lợi ích kinh tế, là điều kiện của sản xuất mà chủ thể sở
hữu được thụ hưởng khi sở hữu đối tượng sở hữu.

14
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỀN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM VÀ NƯỚC NGOÀI
3. Liên hệ thực tiền về nền kinh tế thị trường
3.1. Ở Việt Nam
Trong công cuộc đổi mới, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã đem lại những thay đổi to lớn, tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua.
Trước thời kỳ đổi mới (1986), Việt Nam là một nước nghèo, lại bị tàn phá nặng nề bởi
chiến tranh, để lại những hậu quả lớn đến con người, tài sản và môi trường sinh thái. Để
lấy ví dụ, cho đến nay đã có hàng triệu người mắc bệnh hiểm nghèo, và hàng trăm nghìn
trẻ em bị khuyết tật bẩm sinh vì chịu ảnh hưởng bởi chất độc da cam do quân đội Mỹ sử
dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam. Theo các chuyên gia, Việt Nam phải mất hơn
100 năm nữa mới có thể rà phá hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh,
Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế đối với Việt Nam trong khoảng 20 năm. Tình
hình khu vực và quốc tế cũng rất phức tạp và mang lại nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương
thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn,
khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.
Nhờ thực hiện chính sách Đổi mới, nền kinh tế đã bắt đầu tăng trưởng tương đối nhanh
trong 35 năm qua, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 7% và liên tục phát
triển. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, đạt 342,7 tỷ USD vào năm 2020, trở thành
nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng 17 lần lên mức
3,512 USD. Việt Nam không còn là nước có thu nhập thấp kể từ năm 2008. Từ một nước
liên tục thiếu lương thực, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương
thực mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều loại nông sản khác ra thế giới. Ngành
công nghiệp đang phát triển rất nhanh và tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng liên tục, hiện
chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, lên hơn 540 tỷ USD
vào năm 2020, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng
mạnh lên tới 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh, đạt gần 395
tỷ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu,
tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4%

15
từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện dân số Việt Nam là hơn 97 triệu dân, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 60%
sống ở nông thôn. Kinh tế phát triển đã giúp đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể mức sống của người dân. Tỷ lệ hộ nghèo bình
quân hàng năm giảm khoảng 1,5%, giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo
chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao
hơn trước) Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, hầu hết các xã đều có đường
ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trung tâm y
tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện đảm bảo giáo dục miễn phí ở tất cả các cấp
học, Việt Nam tập trung vào mục tiêu xóa hoàn toàn nạn mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học
vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010. Số lượng sinh viên đại học
và cao đẳng đã tăng gần 17 lần trong vòng 35 năm qua. Hiện nay, 95% người trưởng thành
ở Việt Nam biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch
vụ y tế miễn phí cho toàn dân, nhưng Việt Nam đã tập trung vào công tác y tế dự phòng,
tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn.
Việt Nam đã thành công trong việc chống lại nhiều căn bệnh phổ biến trong quá khứ. Người
nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỉ lệ suy dinh
dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ của dân tăng từ 62
tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi vào năm 2020. Nhờ kinh tế phát triển, đời sống văn hóa cũng
được cải thiện rất nhiều. Các hoạt động văn hóa phong phú và đa dạng. Hiện nay, khoảng
70% dân số Việt Nam sử dụng Internet, và là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển
công nghệ thông tin cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong
những quốc gia đi đầu trong việc thực hiện hóa các mục tiêu thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ
số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt 0,704, nằm trong nhóm các nước có chỉ số
HDI cao nhất thế giới, nhất là khi so sánh với các nước cùng trình độ phát triển.
Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột
phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân

16
lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn
kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337 - 338).
3.2. Ở nước ngoài
Trong thời đại các nước trong quốc tế bắt đầu hội nhập với các nền kinh tế đang phát
triển và chuyển đổi. Biến động về sức ép từ bên ngoài đối với sự tự do hóa và hội nhập
quốc tế đã bắt đầu tăng đáng kể vào những năm 1990. Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong
thời đại mà thế giới chấp nhận toàn cầu - thường là Mỹ - các tiêu chuẩn trở thành điều kiện
tiên quyết để tham gia vào nền kinh tế thế giới.
Khi xem xét quá trình tiến triển thực tế của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
đã có những ý kiến khác nhau.
Không ít các học giả đã cho rằng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã bắt đầu
từ đầu thế kỷ XX và đến nay đã có ba làn sóng Toàn cầu hóa1.
Làn sóng thứ nhất bắt đầu từ đầu thế kỷ XX đến chiến tranh thế giới thứ hai với những
đặc trưng là: mậu dịch quốc tế phát triển mạnh mẽ, các luồng vốn đầu tư tăng nhanh, gia
tăng di cư liên lục địa; bắt đầu thực hiện phương pháp sản xuất Taylor; các nước TBCN đi
xâm chiếm thuộc địa, chiếm lĩnh thị trường; các công ty xuyên quốc gia xuất hiện; các tàu
biển đang phát triển cùng với đường sắt.
Làn sóng toàn cầu hoá thứ hai từ sau chiến tranh thế giới thứ hai tới cuối thập niên 60.
Làn sóng này có những đặc trưng sau: sự hình thành và phát triển của hai khối kinh tế đối
lập nhau: khối kinh tế TBCN và khối kinh tế XHCN; các thể chế liên kết kinh tế toàn cầu
và khu vực phát triển mạnh, sự ra đời của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB), Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) có chức năng điều phối hoạt
động tiền tệ tài chính và thương mại toàn cầu; các luồng thương mại, dịch vụ, đầu tư trực
tiếp và gián tiếp, công nghệ và lao động gia tăng mạnh về cả tốc độ và quy mô; bùng nổ
các công ty siêu quốc gia.
Làn sóng thứ ba từ thập niên 70 tới nay với những đặc trưng là: Hệ thống tiền tệ thế
giới chuyển sang thả nổi; kinh tế thế giới trải qua các chấn động lớn như giá dầu mỏ tăng
cao trong thập niên 70; lạm phát cao; thâm hụt ngân sách lớn; Liên Xô sụp đổ, hệ thống

1
Nguyễn Văn Dân, Những vấn đề toàn cầu hóa kinh tế, Nxb KHXH, HN 2001, tr.86.

17
XHCN tan rã; chiến tranh lạnh chấm dứt; các ngành công nghệ cao đặc biệt là công nghệ
thông tin phát triển, GATT chuyển thành tổ chức thương mại thế giới (WTO) v.v…
Giai đoạn từ cuối thập kỷ 80 đến nay vẫn là một giai đoạn toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế nổi rõ nhất với những đặc trưng sau đây:
- Chấm dứt chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của hệ thống XHCN thế giới đã kết thúc
thời kỳ thế giới hai cực, chấm dứt sự đối đầu giữa hai hệ thống, mở ra thời kỳ hội nhập kinh
tế toàn cầu thực sự với sự chuyển đổi của các quốc gia từng là XHCN, các nước đang phát
triển sang kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế; xu thế hoà bình, hợp tác phát
triển đã trở thành xu thế chính của thời đại.
- Sự bùng nổ của thị trường tài chính toàn cầu
Bước vào nửa cuối thập kỷ 80, tốc độ và quy mô giao dịch tài chính toàn cầu đạt mức
độ cao hơn chưa từng thấy. Trong thời kỳ này các giao dịch ngoại tệ đã lớn hơn 100 lần giá
trị của những trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Trung bình mỗi ngày doanh số trao đổi ngoại
hối đạt hơn 20 tỷ USD/ ngày năm 1973; tăng lên 590 tỷ USD/ngày năm 1989; 1.500 tỷ
USD/ngày năm 1998, và hiện nay khoảng trên 2000 tỷ USD/ngày. Tổng giá trị tài chính
được trao đổi trên thị trường toàn cầu năm 1980 là 5000 tỷ USD, đến năm 1996 tăng vọt
lên 35.000 tỷ, năm 2000 là 83.000 tỷ, gấp gần 3 lần GDP của các nước OECD2.
Sự bùng nổ của thị trường tài chính toàn cầu đi liền với xu hướng tập trung các nguồn
tài chính bằng cách sát nhập các tổ chức tài chính tạo ra những siêu tập đoàn tài chính khổng
lồ, tiêu biểu là sát nhập Bank of America với Nations Bank có tổng tài sản 570 tỷ USD;
Citicorp Travellero Group có tổng tài sản 700 tỷ USD; Royal Bank of Canađa với Bank of
Montreal có tài sản 311 tỷ USD.
Xu hướng hội nhập các thị trường tài chính toàn cầu diễn ra mạnh mẽ. Đầu tiên là các
thị trường ngoại hối. Do chính sách thả nổi tỷ giá và tự do hoá trao đổi ngoại hối, thị trường
ngoại hối toàn cầu đã xuất hiện khoảng giữa những năm 70. Thị trường chứng khoán cũng
đi theo xu hướng này. Quý IV/1999, 11 thị trường chứng khoán EU đã ký thoả thuận thành
lập một thị trường chứng khoán duy nhất.
Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia

2
Toàn cầu hóa - quan điểm và thực tiễn, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương Nxb Thống kê, HN, 1999.

18
- Các công ty xuyên quốc gia kinh doanh toàn cầu đã gia tăng nhanh chóng và ngày
càng trở thành những chủ thể cơ bản chi phối nền kinh tế toàn cầu. Nếu năm 1914, tại 14
nước đứng đầu thế giới có 7,3 ngàn công ty xuyên quốc gia với 27,3 ngàn chi nhánh tại
nước ngoài, thì năm 2005 đã tăng lên tới 70 ngàn với 690 ngàn chi nhánh và tập trung chủ
yếu ở các nước phát triển (UNCTAD, 2005). Ngày nay các nước đang phát triển cũng có
các công ty này. Theo báo cáo đầu tư thế giới 1998 của LHQ, thì các nước đang phát triển
đã có 10.165 công ty xuyên quốc gia.
- 500 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới tập trung ở các nước phát triển, nhiều
nhất ở Mỹ và Nhật. Ngày nay không chỉ có các đại công ty mới hoạt động xuyên quốc gia,
mà ngày càng xuất hiện các công ty nhỏ và vừa cũng hoạt động kinh doanh xuyên quốc gia.
Các công ty xuyên quốc gia có vai trò chi phối trong các quan hệ toàn cầu về thương mại,
đầu tư, tài chính, tiền tệ và công nghệ với tỷ trọng vào khoảng 60- 90% tổng giá trị toàn
cầu.
Các nhà nước quốc gia với chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế đang ngày càng trở
thành những chủ thể quan trọng của toàn cầu hoá
- Từ cuối thập kỷ 80, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, hầu hết các nhà nước quốc gia
đi theo kinh tế kế hoạch từ chối mở cửa hội nhập quốc tế đã bắt đầu thời kỳ chuyển đổi
sang kinh tế thị trường mở cửa hội nhập quốc tế.
- Các Nhà nước quốc gia nói chung cho đến nay đã chấp nhận toàn cầu hoá và Hội
nhập kinh tế quốc tế, do vậy đã tham gia IMF, WB và WTO, và các tổ chức kinh tế khu
vực. Các nhà nước quốc gia trong điều kiện toàn cầu hoá phát triển đã có những chức năng
mới mà trước đây không có, đó là:
+ Tham gia đàm phán quốc tế, song phương, đa phương hay toàn cầu để hình
thành ra những Hiệp nghị song phương, khu vực hay toàn cầu. Dù như các nhà nước đại
diện cho các nền kinh tế lớn có tiếng nói có trọng lượng hơn trong các cuộc đàm phán này,
thì người ta không thể phủ nhận vai trò của các nhà nước đại diện cho các nền kinh tế đang
phát triển, nhỏ hơn, ngày càng gia tăng.
+ Tiến hành đổi mới hệ thống thể chế luật pháp quốc gia phù hợp với những cam
kết quốc tế. Một nước tham gia WTO phải đổi mới thể chế của mình phù hợp với những
cam kết với WTO.

19
+ Thực thi các cam kết quốc tế tại nước mình và giám sát các nước khác thực
thi các cam kết quốc tế có liên quan đến nước mình. Nếu không thực thi các cam kết đã ký,
thì sẽ bị các nước khác kiện, và nếu thua kiện sẽ phải chịu trừng phạt.
Chính những chức năng mới này đã ngày càng làm cho các Nhà nước quốc gia trở
thành những chủ thể quan trọng của nền kinh tế toàn cầu.
Các tổ chức xã hội dân sự ngày càng có vai trò lớn hơn trong nền kinh tế toàn cầu
- Các tổ chức xã hội dân sự gồm các hiệp hội tự nguyện, các loại quỹ từ thiện, các thể
chế tôn giáo, hoạt động đa dạng bên ngoài các phạm vi chức năng của gia đình và Nhà
nước, nghĩa là các tổ chức này làm những gì mà Nhà nước và các gia đình không làm và có
ích cho con người. Những tổ chức này đang gia tăng hoạt động trên phạm vi toàn cầu.
- Trong quá trình toàn cầu hoá, có quá nhiều vấn đề mà các Nhà nước quốc gia và gia
đình không thể quan tâm hết như: sự thoái hoá của môi sinh, nạn nghèo đói, bệnh tật, những
bất công, những mặt trái của toàn cầu hoá v.v. Các tổ chức xã hội dân sự vào cuộc gây sức
ép lên các chính phủ phải giải quyết các vấn đề trên, và bản thân các tổ chức này cũng trực
tiếp tham gia giải quyết các vấn đề đó.
- Nhiều tổ chức xã hội dân sự nổi tiếng trong hoạt động “chống” toàn cầu hoá. Năm
1999, liên minh “Người chăn dắt” bao gồm các Liên đoàn, sinh viên, người hoạt động môi
trường đã xuống đường biểu tình chống toàn cầu hoá tại Seatle ở Mỹ, phê phán những mặt
tiêu cực như nạn nghèo đói; thất học; bất bình đẳng nam nữ dân tộc; chủ quyền văn hoá bị
vi phạm; sự đa dạng sinh học bị xói mòn v.v…3
Gia tăng hoạt động Các tổ chức kinh tế toàn cầu
- Tháng 12/1945 Hiệp định chính thức thành lập các tổ chức: Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển (IBRD) tiền thân của Ngân hàng thế giới
(WB), Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), tiền thân của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) đã được ký kết. IBRD đã chính thức đi vào hoạt động tháng 6/1946.
IMF chính thức hoạt động 3/1947. GATT cũng chính thức hoạt động vào 1947. Những tổ
chức kinh tế toàn cầu này đã thu hút hầu hết các quốc gia và các nền kinh tế lớn nhỏ tham
gia, có chức năng điều tiết các hoạt động tiền tệ, tài chính, thương mại toàn cầu theo các
nguyên tắc đã được thoả thuận.

3
Jaydish Bhagwati. Đối phó với nạn chống toàn cầu hóa, Foreign Sffairs, Vol 81, No.1, Jamuary/2002

20
- Hoạt động của IMF, WB, WTO ngày càng được thừa nhận rộng rãi, và ngày càng
phù hợp hơn với những xu thế phát triển của thế giới. Điều này đã được thể hiện trên các
mặt sau đây:
+ Hầu hết các Chính phủ của các quốc gia cho đến nay đều đã tham gia ba tổ
chức trên, các Chính phủ chưa tham gia cũng đang đàm phán để tham gia. Điều này chứng
tỏ hoạt động của các tổ chức trên đã mang lợi ích thiết thực cho các quốc gia thành viên.
+ Các nguyên tắc hoạt động, các thể chế được thể hiện trên các cam kết, các
Hiệp định, các văn bản pháp lý của các tổ chức trên nói chung đã được đánh giá là tiến bộ,
phù hợp với lợi ích của các nước tham gia và xu thế phát triển.
+ Hoạt động hỗ trợ tài chính của IMF và WB cho các quốc gia khi gặp khó khăn
là hoàn toàn cần thiết và trên thực tế đã có những tác động tích cực rõ rệt đối với sự phát
triển của các quốc gia này.
+ Hoạt động tư vấn chính sách, các chương trình cải cách cơ cấu của IMF WB
dựa trên cơ sở thoả thuận với các quốc gia nhận tài trợ, không có tính bắt buộc, nghĩa là các
quốc gia có thể bác bỏ các điều kiện nhận tài trợ và không nhận tài trợ. Malayxia năm 1997
không nhận tài trợ và bác bỏ chương trình cải cách cơ cấu của IMF là một ví dụ.
+ Các chương trình cải cách cơ cấu và hoạt động tư vấn của IMF và WB nói
chung là dựa trên các nguyên tắc của thị trường và hội nhập quốc tế, tuy nhiên có thể có
những giải pháp mà IMF và WB đề xuất đã không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của các
nước nhận tài trợ, và đã có những tác động tiêu cực. Đây cũng là một lý do làm cho một số
chương trình của IMF đã không được hoàn tất. Nhìn chung các chương trình cải cách cơ
cấu này đã có những tác động tích cực. Việt Nam đã nhận tài trợ của IMF theo chương trình
cải cách cơ cấu và chương trình này đã có những tác động tích cực rõ rệt.
- IMF, WB, và WTO cần phải được đổi mới phù hợp hơn với tình hình.
- IMF, WB, WTO đang tự đổi mới theo hướng tăng cường thông tin, dự báo, ngăn
ngừa các cuộc khủng hoảng, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô; phòng ngừa khủng hoảng lây
lan bằng cách hỗ trợ tài chính ngắn hạn cho các nước có thể bị lây lan khủng hoảng; gia
tăng quản lý giám sát các rủi ro; tiếp tục thực hiện các chương trình cải cách cơ cấu nhưng
theo hướng phù hợp hơn với hoàn cảnh cụ thể của từng nước và chú trọng nhiều hơn tới
xoá đói giảm nghèo v.v…

21
Tuy nhiên hiện đang có quá nhiều vấn đề đặt ra vượt khỏi khuôn khổ của IMF, WB
và WTO. Những vấn đề đó là:
- Nền kinh tế thế giới ngày càng toàn cầu hoá sâu rộng, các quan hệ tiền tệ - tài chính
phát triển mau lẹ, nhưng trên thế giới lại có quá nhiều đồng tiền khác nhau với những tỷ
giá thả nổi, và những chính sách tiền tệ, tài chính khác biệt nhau của các quốc gia. Với các
chức năng hạn chế hiện nay, IMF và WB khó có thể ứng phó được những biến động và
thách thức của thị trường tiền tệ và tài chính thể giới, khó đảm bảo được sự ổn định của
những thị trường này.
- Nguyên nhân dẫn tới các cuộc khủng hoảng tiền tệ, tài chính ở các quốc gia trước
hết là do những sai lầm trong chính sách kinh tế của các quốc gia đó. Nhưng IMF và WB
lại không có khả năng can thiệp, điều chỉnh chính sách kinh tế của các quốc gia này, nhiều
lắm thì cũng chỉ có thể làm tư vấn hỗ trợ ở mức hạn chế.
- WTO muốn đẩy tới xu hướng tự do hoá thương mại - giảm thấp hơn hàng rào bảo
hộ, nhưng Chính phủ của các quốc gia rất khó thoả thuận được mức độ giảm này. Cuộc
tranh cãi này kéo dài cho đến nay chưa có hồi kết, do vậy vòng đàm phán Doha vẫn đang
bế tắc.
- Những thể chế toàn cầu do IMF, WB, WTO đã thoả thuận được tuy là khá nhiều,
nhưng còn rất thô sơ, và chưa bao phủ được hết các vấn đề kinh tế toàn cầu đang đặt ra bức
xúc. Chẳng hạn những vấn đề phát triển kinh tế toàn cầu, xoá đói giảm nghèo, ô nhiễm môi
trường, bệnh tật v.v… là những vấn đề vượt quá phạm vi điều tiết của IMF, WB, WTO.
- Có thể sẽ phải tính đến những cải cách căn bản hơn như: WTO sẽ phải cải tổ thành
tổ chức kinh tế toàn cầu, IMF sẽ phải là Ngân hàng Trung ương toàn cầu, WB sẽ là Ngân
hàng Chính sách toàn cầu.

22
C. KẾT LUẬN
Với những đặc trưng như trên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là sự kết hợp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với bản chất ưu việt
của chủ nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường hiện đại, văn minh. Tuy nhiên,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành
và phát triển tất sẽ còn bộc lộ nhiều yếu kém cần phải khắc phục hoàn thiện hơn.

23
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. David Begg. Stanley Fisher, Rudiger Dornbusch, Kinh tế học, tập 2, Nhà xuất bản
Giáo dục Hà Nội 1992, trang 11.
2. PGS.TS. Vũ Thanh Sơn (chủ biên). Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin. Tập II
những vấn đề kinh tế trị chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nxb TT&TT, 2013.
3. C.Mác và F.Ăngghen, (1995), Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Toàn tập, Tập IV, Nxb
CTQG, Hà Nội.
4. GS-TS Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Truy xuất từ: https://tuoitre.vn/mot-so-van-
de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-vn-
20210516203550852.htm

24

You might also like