Professional Documents
Culture Documents
Cũng như các kĩ năng khác, kĩ năng giao tiếp sư phạm được hình thành qua
nhiều con đường đó là:
- Những thói quen ứng xử được xây dựng bởi gia đình.
- Do vốn kinh nghiệm của cá nhân qua tiếp xúc với mọi người.
- Rèn luyện trong môi trường sư phạm qua các hoạt động sư phạm cụ thể
(Thực
hành, thực tập sư phạm, chủ nhiệm…)
3.2.Các nhóm kĩ năng giao tiếp:
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau của các tác giả về phân loại các kĩ
năng về giao tiếp sư phạm. Sau đây xin đưa ra một số kĩ năng giao tiếp cơ
bản, có tính chất thực tiễn.
3.2.1. Nhóm kĩ năng định hướng giao tiếp.
Nhóm kĩ năng này được biểu hiện ở khả năng dựa vào sự biểu lộ bên
ngoài nào đó như sắc thái biểu cảm, ngữ điệu, thanh điệu của lời nói, cử
chỉ, điệu bộ, động tác… mà phán đoán chính xác những trạng thái tâm lí
bên trong của chủ thể giao tiếp (giáo viên) và đối tượng giao tiếp (học
sinh).
* Nhóm kỹ năng định hướng được chia thành hai kỹ năng:
+ Kĩ năng phán đoán dựa trên nét mặt, cử chỉ, hành vi, lời nói.
Nhờ sự tri giác tinh tế, nhạy bén các trạng thái tâm lí qua nét mặt, cử chỉ điệu
bộ, ngữ điệu và âm điệu của lời nói mà chủ thể giao tiếp (giáo viên) phát hiện
chính xác, đầy đủ thái độ của đối tượng giao tiếp.
Tại sao đọc trên nét mặt, cử chỉ, hành vi, lời nói có thể phát ra thái độ của đối
tượng giao tiếp?
- Ngôn ngữ diễn tả tình cảm, thể hiện tính cách, trí tuệ, ý chí của con
người. Tính chủ động hay thụ động, tính chân thành hay giả dối, tính tin
tưởng hay hoài nghi đều in dấu trong giọng nói và nhịp điệu của lời nói.
VD: .Tình cảm, tính cách tốt đẹp -> lời nói hiền hòa, thiện chí có tác dụng cổ
vũ, động viên đối tượng giao tiếp vươn lên, mang lại niềm vui cho họ.
Xúc động -> giọng nói hổn hển, lời nói ngắt
quãng. Buồn -> giọng nói trầm, nhịp điệu chậm.
Vui vẻ -> nhịp điệu nói nhanh.
. Trí tuệ tốt -> Ngôn ngữ chứa đựng thông tin hữu ích, lời nói rõ ràng, mạch
lạc, dễ hiểu, diễn đạt lôgic chặt chẽ...
. Ý chí cũng được thể hiện ở ngôn ngữ: Lời nói thể hiện quan điểm rõ ràng, dứt
khoát, không lừng khừng là người có ý chí mạnh...
- Ánh mắt, nét mặt là sự thể hiện sinh động của nội tâm bên trong con
người.
Trạng thái xúc cảm của con người được biểu hiện rõ ở ánh mắt, nét mặt.:
VD: Khi sự hãi -> nét mặt tái nhợt, hành động gò bó.
Khi bối rối, xấu hổ -> Mặt đỏ bừng, toát mồ hôi.
Khi tức giận -> Mặt đỏ tím, nghiến răng hay bặm môi.
Khi vui -> Miệng cười, nét mặt rạng rỡ
Khi buồn -> Cơ mặt xệ xuống
Khi say mê -> Mắt nhìn chăm chú, mắt sáng...
- Những hành vi, cử chỉ, động tác của con người cũng diễn tả được trạng
thái tâm lý bên trong như:
Khi tức giận -> nắm chặt tay.
Khi hài lòng -> Cười, gật đầu đồng ý.
Không hài lòng, không đồng ý -> Lắc đầu, nhăn
trán. Khi vui -> làm gì cũng nhanh nhẹn hơn...
Như vậy: Trong quá trình giao tiếp sư phạm, thông qua quá trình tri giác
(nhìn,
nghe …) để đọc trên ánh mắt, nét mặt, cử chỉ, hành vi, lới nói của đối tượng
giao tiếp. Song điều quan trọng là phải biết dựa vào đó để nhận xét, đánh giá
và phán đoán đúng nội tâm đối tượng giao tiếp để định hướng giao tiếp.
+ Kĩ năng chuyển từ sự tri giác bên ngoài vào nhận biết bản chất bên trong
của nhân cách.
Nhờ có các dấu hiện biểu hiện ra bên ngoài mà người ta có thể phán đoán
được các tâm trạng và đặc điểm tâm lý của đối tượng giao tiếp.
Như vậy, kĩ năng định hướng giao tiếp sư phạm có quan hệ chặt chẽ với hoạt
động nhận thức (nhất là các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp và tưởng
tượng, trí nhớ…)
Thông thường những biểu hiện ra bên ngoài thống nhất với nội tâm bên
trong, nhưng có khi biểu hiện bên ngoài không thống nhất với nội tâm bên
trong vì tâm lý của con người rất phức tạp: cùng một trạng thái cảm xúc có thể
biểu lộ ra bên ngoài bằng ngôn ngữ và điệu bộ khác nhau. Hoặc ngược lại, sự
biểu hiện ra bên ngoài như nhau nhưng lại biểu hiện những trạng thái tâm lý
khác nhau.
Chẳng hạn: Giáo viên có tâm trạng buồn nhưng trên lớp
vẫn có thể tỏ ra vui vẻ với học sinh.
Chiến sĩ biệt động -> kìm chế tình cảm khi gặp người thân.
Học sinh có em vờ chú ý.
Vì vậy người giáo viên phải biết dựa vào những biểu hiện bên ngoài, đồng
thời phải biết dựa vào dấu hiệu đặc trưng của từng trạng thái mới nhận biết
được chính xác nội tâm bên trong của đối tượng giao tiếp.
Như vậy, Thực chất nhóm kỹ năng định hướng giao tiếp là sự phác thảo chân
dung tâm lý về đối tượng giao tiếp.
Phác thảo chân dung tâm lý là xây dựng “mô hình tâm lý” về những phẩm
chấ tâm lý đặc thù của đối tượng giao tiếp. Trên cơ sở đó, chủ thể giao tiếp
dự
đoán, lường trước được những phản ứng có thể xảy ra ở đối tượng giao tiếp
để có lời lẽ và cách ứng xử phù hợp với đối tượng trong các tình huống ấy
nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp cao.
Muốn xây dựng được chân dung tâm lý về học sinh thì phải tìm hiểu học sinh
trước khi tiếp xúc và trong quá trình tiếp xúc.
* Kỹ năng định hướng còn được chia thành hai giai đoạn:
+ Định hướng trước tiếp xúc:
Cổ nhân có câu:“Biết người, biết mình, trăm trận trăm thắng”. Vì vậy, trước
khi tiếp xúc người thầy giáo phải tìm hiểu những thông tin cần thiết về học
sinh như:
Tên học sinh, lớp nào
Những nét lớn về tình hình học tập, đạo đức
Những đặc điểm cá tính, nhu cầu, nguyện
vọng...
Hoàn cảnh gia đình (nghề nghiệp cha mẹ, hoàn cảnh kinh tế, tinh thần...)
Các mối quan hệ mà học sinh tham gia...
Những thông tin này rất cần thiết để thầy cô phác thảo chân dung tâm lý của
học sinh mà mình cần tiếp xúc để định hướng trước khi tiếp xúc.
+ Định hướng trong quá trình tiếp xúc:
- Việc “phác thảo chân dung tâm lý” trước khi tiếp xúc mới chỉ là mô hình
giả định. Mô hình này có thể trùng với đối tượng trong hiện thực, có thể
đúng một số nét lớn, sai một số nét. Vì vậy mô hình này cần được chính xác
hóa trong quá trình tiếp xúc để điều chỉnh phương án ứng xử cho phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khi tiếp xúc.
- Mô hình tâm lý về đối tượng giao tiếp càng chính xác, càng sát thực thì
hiệu quả giao tiếp càng cao.
- Cần nhớ rằng đối tượng giao tiếp vì nhiều nguyên nhân khác nhau có thể
có những thay đổi về nhu cầu, thái độ, quan điểm... Chủ thể giao tiếp cần
phải nhạy bén để nắm bắt những điều đó và linh hoạt, cơ động thay đổi
cách ứng xử cho phù hợp. Muốn vậy, khi tiếp xúc với đối tượng, giáo viên
phải quan sát tinh tế, nhạy bén những biểu hiện bên ngoài (nhất là những
biểu hiện khác thường) của ánh mắt, nét mặt, hành vi, cử chỉ, điệu bộ, âm
điệu, ngữ điệu, nhịp điệu của ngôn ngữ mà phán đoán chính xác thái độ,
trạng thái tâm lý bên trong của đối tượng để xây dựng mô hình nhân cách
được chính xác, đưa ra phương án ứng xử phù hợp.
* Thực chất kỹ năng định hướng quá trình giao tiếp là sự tiến hành các thao
tác trí tuệ, tư duy và liên tưởng với vốn kinh nghiệm cá nhân một cách cơ
động, linh hoạt, mềm dẻo của chủ thể giao tiếp, cùng với sự biểu hiện hành vi,
cử chỉ, điệu bộ, cách nói năng của chủ thể giao tiếp phù hợp với sự thay đổi
hành vi, thái độ, cử chỉ của đối tượng giao tiếp trong quá trình giao tiếp.
* Kĩ năng định hướng giao tiếp sư phạm có vai trò đặc biệt quan trọng, giúp
cho chủ thể giao tiếp hoàn toàn chủ động trong quá trình giao tiếp.
3.2.2. Nhóm kỹ năng định vị.
* Kỹ năng định vị là khả năng biết xác định vị trí trong giao tiếp, biết đặt vị
trí của mình vào vị trí của đối tượng để có thể vui, buồn với niềm vui, nỗi
buồn của họ và biết tạo điều kiện đểđối tượng chủ động giao tiếp với mình
Điều kiện quan trọng để giao tiếp đạt kết quả là chủ thể ứng xử phù hợp với
nhu cầu, nguyện vọng của đối tượng. Muốn vậy phải có hiểu biết về đối
tượng, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của đối tượng để thấu hiểu và thông
cảm với đối tượng. Tức là thực hiện chức năng đồng nhất
* Kĩ năng định v thực chất là khả năng xây dựng “mô hình nhân cách”, về
đối tượng giao tiếp đạt mức độ đúng, chính xác và tương đối ổn định.
Như vậy ở kỹ năng định vị đã xác định được các dấu hiệu chủ yếu của nhân
cách đối tượng như: xu hướng, tính cách, năng lực và cả những đặc điểm cá
biệt, vị trí của đối tượng trong các quan hệ xã hội cũng được xác định.
Trên cơ sở xây dựng được mô hình nhân cách đúng, chính xác về học sinh,
giáo viên xác định được các cách ứng xử phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng,
đặc điểm tâm, sinh lý và hoàn cảnh của đối tượng. Nhờ đó làm cho quá trình
giao tiếp diễn ra chủ động, nhẹ nhàng, chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp
dễ dàng đồng cảm với nhau. mới đạt được hiệu quả giao tiếp cao.