You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT

--- ---

TIỂU LUẬN
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG LÀ TẤT YẾU KHÁCH
QUAN VÀ QUAN ĐIỂM VỀ CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG

Giáo viên hướng dẫn: Cô Đinh Thị Điều

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 8 tháng 10 năm 2021

DANH SÁCH NHÓM 1


-- pg. 1
Họ và tên MSSV
Tống Hoàng Hiền Nhi K184010090

Đào Thiên Kim K184060723

Ngô Đăng Thương K184060756

Vũ Thị Hồng Nhung K194030307

Trần Lưu Thanh Trúc K194030334

Lâm Mỹ Hiền K194040482

Thủy Phạm Phương Linh K204040192

Đỗ Thị Trúc Tiên K205032161

Nguyễn Thị Yến Ngân K205032142

Lê Hoàng Bảo Hân K204150645

Lê Phan Nhã Linh K204151951

-- pg. 2
MỤC LỤC
1. PHÂN TÍCH, CHỨNG MINH SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG LÀ YẾU TỐ KHÁCH QUAN........6
1.1 Phong trào yêu nước............................................................................................................6
1.1.1 Bối cảnh TG và những tác động của tình hình TG....................................................6
1.1.2 Tình hình trong nước, quá trình xâm lược, cai trị tác động của nó đối với xã hội
VN............................................................................................................................................9
1.1.3 Các phong trào yêu nước trước khi có Đảng............................................................10
1.2 Chủ nghĩa Mác – Lênin......................................................................................................13
1.3 Phong trào công nhân........................................................................................................14
2. QUAN ĐIỂM VỀ Ý KIẾN CHO RẰNG Ở VIỆT NAM CẦN THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ ĐA
ĐẢNG LÃNH ĐẠO, GIẢI THÍCH..............................................................................................16
2.1 Hệ thống đa đảng................................................................................................................16
2.2 Hệ thống đơn đảng.............................................................................................................16
2.3 Quan điểm Việt Nam hiện nay có cần thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo không, giải
thích...........................................................................................................................................16
Tài liệu tham khảo........................................................................................................................20

-- pg. 3
DANH MỤC HÌNH ẢNH

Hình 1: Ảnh minh họa về chủ nghĩa tư bản.....................................................................................7


Hình 2: Ảnh minh họa về chủ nghĩa tư bản tiến hành chiến tranh xâm lược..................................8
Hình 3: Ảnh minh họa chiến thắng cách mạng tháng 10 Nga.........................................................9
Hình 4: Ảnh minh họa thực dân Pháp cai trị tàn bạo.....................................................................10
Hình 5: Ảnh minh họa về phong trào Cần Vương.........................................................................11
Hình 6: Ảnh về khởi nghĩa Yên Thế..............................................................................................12
Hình 7: Ảnh minh họa về phong trào Đông Du.............................................................................13
Hình 8: Ảnh minh họa về Phan Châu Trinh..................................................................................13
Hình 9: Ảnh minh họa về phong trào công nhân...........................................................................16

-- pg. 4
CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Kí hiệu chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ


1. CNĐQ chủ nghĩa độc quyền
2. CNTB chủ nghĩa tư bản
3. VN Việt Nam
4. CMVN Cách mạng Việt Nam
5. QTCS Quốc tế cộng sản
6. QHSX Quan hệ sản xuất
7. TB Tư bản
8. XHCN Xã hội chủ nghĩa
9. TD thực dân
10. TG thế giới

TÓM TẮT

-- pg. 5
Hòa bình cho hôm nay chính là thành quả cách mạng của ông cha ta. Cách mạng thành
công là nhờ công của Đảng đã dẫn đường. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của quá
trình vận động quy luật kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác-Lênin, phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng nước ta. Với
cương lĩnh đúng đắn, sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của
cách mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến thắng lợi trong sự
nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, cách mạng Việt
Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.

1. PHÂN TÍCH, CHỨNG MINH SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG LÀ YẾU TỐ KHÁCH


QUAN
1.1 Phong trào yêu nước
1.1.1 Bối cảnh TG và những tác động của tình hình TG
CNTB đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (CNĐQ) tiến
hành chiến tranh xâm lược và áp bức các dân tộc thuộc địa (VN có tài nguyên phong phú, vị trí
chiến lược quan trọng nên là tầm ngắm của CNĐQ). Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và

-- pg. 6
CNĐQ ngày càng gay gắt, do đó vấn đề chống ĐQ giải phóng dân tộc là một vấn đề cấp thiết và
chỉ có Đảng của giai cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử này.

Hình 1: Ảnh minh họa về chủ nghĩa tư bản


Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế
giới (thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã biến học thuyết Mác thành hiện thực, khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng vô sản đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, là một tấm
gương sáng đối với các quốc gia bị bóc lột trong đó có VN, từ đó cổ vũ phong trào đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản trên toàn thế giới, mở ra một thời đại mới với mô hình cách mạng mới
là mô hình cách mạng vô sản. Chính vì những nguyên nhân này đòi hỏi CMVN phải có Đảng
Cộng Sản để lãnh đạo CMVN.

-- pg. 7
Hình 2: Ảnh minh họa về chủ nghĩa tư bản tiến hành chiến tranh xâm lược

Tháng 3/1919 Quốc Tế Cộng Sản (QTCS) thành lập đã tạo tiền đề và điều kiện cơ bản
thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới (vạch ra cương lĩnh chính trị, phương hướng đấu tranh
giải phóng các dân tộc thuộc địa trên lập trường cách mạng vô sản; vạch ra cương lĩnh, đường lối
đấu tranh của CMVN; truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào VN, đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán
của CMVN như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Lê Hồng Phong …) tạo tiền đề quan trọng cho quá
trình thành lập Đảng cách mạng của VN.

-- pg. 8
Hình 3: Ảnh minh họa chiến thắng cách mạng tháng 10 Nga

1.1.2 Tình hình trong nước, quá trình xâm lược, cai trị tác động của nó đối với xã
hội VN
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, năm 1884 VN trở thành thuộc địa của
Pháp. Chính sách bóc lột, cai trị của thực dân Pháp:
Về chính trị: Xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, thi hành chính sách cai trị trực
tiếp và chia để trị rất thâm độc (chia Việt Nam thành 3 miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ cùng
với Ai Lao và Cao Miên thiết lập Liên Bang Đông Dương của Pháp nhằm mục đích tách Việt
Nam ra khỏi bản đồ thế giới). Đàn áp đẫm máu các phong trào yêu nước của nhân dân VN.
Về kinh tế: Tiến hành khai thác thuộc địa lần 1 và lần 2. Vơ vét tài nguyên, bóc lột sức
lao động, thuế khóa nặng nề.
Về văn hóa: Thực hiện chính sách ngu dân để dễ cai trị (nhà tù nhiều hơn trường học). Du
nhập văn hóa đồi trụy, tuyên truyền tâm lí phục và sợ Pháp.
Khuyến khích tệ nạn xã hội như: dùng rượu cồn, thuốc phiện để đầu độc thế hệ trẻ.
Về xã hội: Tính chất xã hội VN thay đổi từ xã hội phong kiến độc lập sang xã hội thuộc địa nửa
phong kiến nên xã hội VN có sự phân hóa sâu sắc, xuất hiện nhiều giai cấp mới (địa chủ, nông

-- pg. 9
dân, tiểu tư sản, tư sản, công nhân) trong đó giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng
VN nhưng khi chưa có Đảng thì giai cấp này không thể thực hiện sứ mệnh lịch sử giải phóng dân
tộc nên cần thiết phải có sự hình thành Đảng Cộng Sản để đưa ra những đường lối đúng đắn giúp
giai cấp này thực hiện sứ mệnh của mình.
Mâu thuẫn xã hội: 2 mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc (mâu thuẫn giữa dân tộc VN và
TD Pháp) và mâu thuẫn giai cấp (mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ).
Kết luận: Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt thêm các
mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam.

Hình 4: Ảnh minh họa thực dân Pháp cai trị tàn bạo

1.1.3 Các phong trào yêu nước trước khi có Đảng


Các phong trào đấu tranh yêu nước hình thành để giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong
xã hội.
1.1.3.1 Phong trào chống Pháp theo ý thức hệ phong kiến:
Phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết đứng đầu (1885-1896), nhiều cuộc khởi nghĩa
đã diễn ra sôi nổi rộng khắp và thể hiện tinh thần quật cường chống ngoại xâm của các tầng lớp
nhân dân khi triều đình phong kiến đã đầu hàng. Nhưng ngọn cờ phong kiến lúc đó không còn là
ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp 1 cách rộng rãi, toàn thể các tầng lớp nhân dân, không có khả năng
liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn quốc nên cuộc khởi nghĩa của Phan đình Phùng thất
bại năm 1896 là lúc chấm dứt vai trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu
nước VN.

-- pg. 10
Hình 5: Ảnh minh họa về phong trào Cần Vương

Phong trào tự phát của nông dân Yên Thế (1897-1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo,
đây là cuộc đấu tranh anh dũng của nông dân VN kéo dài gần 30 năm, ghi mốc son trong lịch sử
đấu tranh chống thực dân Pháp. Sự bền bỉ, ngoan cường của phong trào thể hiện sức mạnh to lớn
của nông dân nhưng phong trào vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến” không có khả năng mở
rộng hợp tác và thống nhất tạo thành 1 cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nên cuối cùng cũng bị
thực dân Pháp đàn áp.

-- pg. 11
Hình 6: Ảnh về khởi nghĩa Yên Thế

1.1.3.2 Phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản


Tiêu biểu là xu hướng bạo động do Phan Bội Châu (1867-1940) tổ chức, lãnh đạo và xu
hướng cải cách do Phan Châu Trinh (1872-1926) đề xướng.
Phan Bội Châu thành lập Duy Tân hội (chủ trương xây dựng chế độ quân chủ lập hiến
như ở Nhật, tổ chức đưa thanh niên yêu nước VN sang Nhật học tập. Năm 1912 lập tổ chức VN
Quang Phục hội với tôn chỉ là đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục VN, thành lập nước cộng hòa dân
quốc VN. Nhưng chương trình, kế hoạch hoạt động của hội lại thiếu tôn chỉ rõ ràng. Khi Phan bội
Châu bị bắt thì ảnh hưởng của tổ chức này đối với phong trào yêu nước của VN chấm dứt.

Hình 7: Ảnh minh họa về phong trào Đông Du

-- pg. 12
Phan Châu Trinh và những người cùng chí hướng muốn giành độc lập dân tộc bằng con
đường cải cách đất nước: “chấn dân trí, khai dân trí, hậu dân sinh”, bãi bỏ chế độ quân chủ, thực
hiện dân quyền, khai thông dân trí, mở mang thực nghiệp. Phan Châu Trinh đã đề nghị nhà nước
“bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách để cứu nước. Phong trào đã bị thực dân Pháp đàn áp dã man,
giết hại các sĩ phu yêu nước và nhân dân tham gia biểu tình.

Hình 8: Ảnh minh họa về Phan Châu Trinh

Các phong trào yêu nước trên đều biểu dương tinh thần yêu nước, bất khuất của dân tộc
VN nhưng hầu hết đều thất bại vì:
Các phong trào yêu nước từ các lập trường phong kiến đã thất bại là do không có đường
lối đúng đắn vì giai cấp phong kiến, địa chủ đã không còn khả năng dẫn dắt dân tộc thực hiện sự
nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi.
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản do đường lối chính trị không rõ ràng,
nhất là không biết dựa vào quần chúng nhân dân mà chủ yếu dựa vào uy tín cá nhân nên không
tạo sức mạnh tổng hợp, không tạo ra được sự thống nhất cao trong những người lãnh đạo phong
trào, chính vì vậy nên khi người lãnh đạo bị bắt thì phong trào cũng tan rã theo.
Kết luận: Thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến hay tư sản
đã nói lên 1 sự thật: con đường cứu nước của các phong trào CMVN đều rơi vào tình trạng bế tắc.
XHCN lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng cả về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo
cách mạng vì thiếu một chính Đảng chân chính tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh cách
mạng, thiếu 1 đường lối chính trị đúng đắn, chưa tập hợp được đông đảo quần chúng nhân nhân
tham gia cách mạng, chưa có phương pháp cách mạng khoa học ….
1.2 Chủ nghĩa Mác – Lênin:
Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh, đặt ra
yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp

-- pg. 13
công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra
đời, về sau được Lênin phát triển trở thành chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện
sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự ra đời đảng cộng sản
là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản (1848) xác định: những người cộng sản luôn luôn đại biểu cho
lợi ích của toàn bộ phong trào; là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước;
họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản. Những nhiệm vụ chủ yếu
có tính quy luật mà chính đảng của giai cấp công nhân để thực hiện mục đích giành lấy chính
quyền và xây dựng xã hội mới. Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi
chiến lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân. Nhưng,
Đảng phải đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Bởi vì giai cấp công nhân chỉ
có thể giải phóng được giai cấp mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao
động khác trong xã hội. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những
phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào phong trào cộng sản.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu nước và phong
trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của
các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chủ
nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1.3 Phong trào công nhân:
Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước Xô Viết dựa trên
nền tảng liên minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich Nga ra đời. Với thắng lợi
của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, đồng thời
mở đầu một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cuộc
cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước
và là một trong những động lực thúc đẩy sự ra đời nhiều đảng cộng sản: Đảng Cộng Sản Đức,
Đảng Cộng Sản Hungary (năm 1918), Đảng Cộng Sản Pháp (năm 1919)…
Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng
các dân tộc bị áp bức. Về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc khẳng định:
Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ
nay. Và “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng
làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải
theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa thúc
đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế
cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở
ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản.

-- pg. 14
Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không những đánh giá cao
sự kiện ra đời Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cách mạng thế giới, mà còn nhấn mạnh vai
trò của tổ chức này đối với cách mạng Việt Nam “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất
phải nhờ Đệ tam quốc tế”.

Hình 9: Ảnh minh họa về phong trào công nhân

-- pg. 15
2. QUAN ĐIỂM VỀ Ý KIẾN CHO RẰNG Ở VIỆT NAM CẦN THỰC HIỆN CHẾ
ĐỘ ĐA ĐẢNG LÃNH ĐẠO, GIẢI THÍCH
2.1 Hệ thống đa đảng
Trước tiên chúng ta cần phải hiểu chế độ đa đảng là gì và như thế nào. Hệ thống đa đảng
là hệ thống mà ở đó có hai hoặc nhiều hơn các đảng phái chính trị có khả năng giành quyền điều
hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh với nhau. Hệ thống đa đảng khuyến khích toàn bộ
cử tri thành lập nhiều nhóm đặc trưng riêng, được công nhận chính thức và thường được gọi là
các đảng chính trị. Mỗi đang tranh cử từ những cử tri hợp thức. Hệ thống đa đảng là thiết yếu
trong một nền dân chủ đại nghị, vì nó ngăn ngừa sự lãnh đạo của một đảng duy nhất dẫn đến
những chính sách không mang tính cạnh tranh. Ngày nay hệ thống này được áp dụng tại hầu hết
các quốc gia trên thế giới (117 quốc gia) như Hoa Kỳ, Thái Lan, Canada,… Mục tiêu của chủ
nghĩa đa nguyên, đa đảng là hòng xóa bỏ hệ tư tưởng vô sản, phủ định, xóa bỏ chủ nghĩa Marx –
Lenin, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
2.2 Hệ thống đơn đảng
Quốc gia đơn đảng hay hệ thống đơn đảng là hình thức chính quyền có hệ thống đảng do
một đảng chính trị thành lập chính quyền và không cho các đảng khác được phép đưa ứng cử
viên của mình ra tranh cử. Tùy theo mức độ kiểm soát người dân, người ta chia nó ra làm chế độ
hỗn hợp, chính thể đầu sỏ, chế độ quân phiệt, chế độ quân chủ. Trong hầu hết các trường hợp, các
quốc gia đơn đảng đã phát triển từ tư tưởng chủ nghĩa phát xít, xã hội chủ nghĩa, hoặc chủ nghĩa
dân tộc, đặc biệt trong quá trình giành độc lập từ sự cai trị của thực dân và thường xuất phát từ
quá trình phi thực dân hóa, vì đảng ấy có vai trò lãnh đạo trong các cuộc đấu tranh giải phóng hay
giành độc lập. Những nơi đảng cầm quyền tán thành Chủ nghĩa Marx-Lenin, hệ thống đơn đảng
thường được gọi là xã hội chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của của Đảng cộng sản được quy định
trong hiến pháp, không đảng nào được vận động hay điều hành các ứng cử viên trong bầu cử. Các
ứng cử viên được bầu trên cơ sở trưng cầu dân ý cá nhân mà không có sự can dự của đảng một
cách chính thức dù cho các hội đồng lập pháp được bầu ra chủ yếu bao gồm các thành viên của
đảng thống trị cùng với các ứng cử viên không liên kết. Một số quốc gia hiện nay thực hiện chế
độ đơn đảng như Việt Nam, Cuba, Trung Quốc, Triều Tiên,…
Chính trị Việt Nam hiện là một nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị đã
thực hiện theo cơ chế chỉ có duy nhất một đảng chính trị (là Đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo,
với tôn chỉ là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ quan quyền
lực là Quốc hội Việt Nam.
2.3 Quan điểm Việt Nam hiện nay có cần thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo
không, giải thích
Việt Nam hiện nay không cần thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo. 
Thứ nhất, dựa trên các cơ sở khoa học về lý luận và thực tiễn sau đây thì chúng ta có thể
khẳng định rằng Việt Nam không cần và không chấp nhận chế độ đa Đảng lãnh đạo.

-- pg. 16
Về lý luận: Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là chế độ chính trị của chế độ
xã hội chủ nghĩa, nghĩa là nước nào đi theo lối xã hội chủ nghĩa thì không thể đa nguyên đa đảng
đối lập.  Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không bảo đảm được dân chủ đích thực, vì bản chất
của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn thực hiện được dân chủ thì trước tiên người
lao động phải xây dựng nên một chính đảng cùng một chính phủ duy nhất đại diện cho quyền lực
của mình. Cùng với đó, trong lịch sử Việt Nam đã sớm xuất hiện đa nguyên, đa đảng vào thế kỉ
18. Đây là thời điểm giai cấp tư sản đóng vai trò là lực lượng tiến bộ, tích cực đi tiên phong trong
đấu tranh chống phong kiến, bảo vệ quyền bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau,
phát triển quyền tự do, dân chủ tư sản. Chủ nghĩa đa nguyên phủ định tính thống nhất của thế
giới, cường điệu cái riêng; phủ nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai
cấp; chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên tắc đa lực lượng, đa đảng phái
và các tổ chức đảng phái này quan hệ với nhau theo nguyên tắc hiệp thương. Nếu áp dụng quan
điểm này vào chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của Đảng Cộng Sản - đội tiên phong của
giai cấp công nhân thành một tổ chức tầm thường và nguy cơ phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản
Về thực tiễn:  sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn
tất yếu của lịch sử; là ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Điều này được lịch sử minh chứng rõ
ràng. Vượt lên trên tất cả những hạn chế về đường hướng, phương pháp của những phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ 20, phong trào cách mạng vô sản ở Việt
Nam đã hướng theo chủ nghĩa Marx - Lenin, do Nguyễn Ái Quốc truyền bá và phát triển mạnh
mẽ. Đáp ứng đòi hỏi đó, trải qua quá trình được chuẩn bị chín muồi về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, ngày 3-2-1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời và đã khẳng định lấy “chủ nghĩa Lenin
làm cốt”. Trải qua hơn 90 năm ra đời và lãnh đạo, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định được
vị trí, vai trò không thể thay thế đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Với mô hình nhất
nguyên chính trị, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc đạt được nhiều thành tựu to lớn: kinh tế không
ngừng phát triển; đời sống chính trị - xã hội ổn định; chế độ dân chủ được đề cao, được bảo đảm
và ngày càng càng được thực hành rộng rãi hơn, thực chất hơn; quyền và lợi ích hợp pháp của
đông đảo nhân dân được tôn trọng và bảo vệ; nhân dân Việt Nam đã trở thành người chủ thực sự
của đất nước. Cùng với đó là dư luận quốc tế, chính phủ và nhân dân các nước dân chủ, tiến bộ
trên thế giới đều đánh giá cao, ủng hộ Đảng cộng sản Việt Nam và chế độ nhất nguyên ở Việt
Nam. Họ bày tỏ sự khâm phục và ủng hộ chế độ chính trị ở Việt Nam, thừa nhận sức sáng tạo,
thành tựu thực tế họ thấy được về công cuộc đổi mới do ĐCSVN khởi xướng và lãnh đạo.
Hiện nay không thiếu các thế lực thù địch và những người bất mãn với chế độ đòi đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam bằng lý lẽ:
“Không thể có dân chủ trong chế độ một Đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam”. Bằng cả
phương diện thực tiễn và lý luận đã chứng minh rằng dân chủ không phụ thuộc vào chế độ một
đảng hay đa đảng mà phụ thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền: đảng cầm quyền đó có mang
bản chất cách mạng, tiên phong hay không, có bảo vệ quyền và lợi ích cho đa số nhân dân lao
động hay chỉ một bộ phận thiểu số trong xã hội. Dân chủ và phát triển không đồng nghĩa với đa

-- pg. 17
nguyên, đa đảng. Trong chế độ một Đảng cầm quyền, dân chủ trong xã hội Việt Nam không
những không bị mất đi, không bị hạn chế mà còn được đảm bảo, được phát huy sâu rộng trong
thực tế mà phát triển lên đỉnh cao của nó, đó là dân chủ xã hội chủ nghĩa. Và một điều cần chắc
chắn rằng Việt Nam không cần thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng.
Thứ hai, Việt Nam không cần thực hiện chế độ đa đảng vì sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam là sự lựa chọn của dân tộc.
Trong thời kỳ 1930 - 1945, lịch sử Việt Nam đã chứng minh, chỉ có Đảng Cộng Sản Việt
Nam chứ không cần thêm bất cứ một tổ chức, đảng phái chính trị nào khác lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành chính quyền mà đỉnh cao là Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đã mở ra một
kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã
hội- đó chính là công lao to lớn của Đảng cộng sản Việt Nam.
Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên, với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện, đã một lần nữa khẳng định tính tất
yếu khách quan: Đảng Cộng Sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc mà không cần sự tồn tại của nhiều đảng.
Nhờ có Đảng Cộng Sản Việt Nam, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng
được cải thiện; dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng; quốc phòng, an ninh được giữ vững; văn
hoá, xã hội có nhiều bước phát triển; vị thế, uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao
trong khu vực và trên trường quốc tế. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đạt được những tiêu chí cao nhất trong hoạt động chính trị
của một đảng cầm quyền (dù là chế độ đa đảng hay một đảng đều phải hướng tới vấn đề cốt tử
nhất), đó là: chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng, văn hoá, xã hội phát triển bền vững, an sinh xã
hội được bảo đảm. Chính thực tiễn này đã khẳng định, ở Việt Nam hiện nay không cần đa đảng
và cũng đúng với nhận định của đồng chí Nguyễn Phú Trọng: “Ở Việt Nam chưa thấy sự cần
thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ”.
Tóm lại, thực chất luận điệu đòi thiết lập “chế độ dân chủ đa nguyên”, coi đó là “mệnh
lệnh” của đất nước là nhằm hướng lái nền chính trị nước ta sang chính trị tư sản. Điều tệ hại dẫn
đến sẽ là: Đất nước diễn ra cảnh hỗn loạn, mất ổn định, đổ vỡ nền kinh tế, rơi vào thảm họa như
đã từng xảy ra ở một số nước. Thảm họa đó chắc chắn sẽ giáng cả lên đầu nhân dân. Và nhân dân
chỉ là cái cớ cho sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái.
Phải là người Việt Nam yêu nước thực sự mới thấm thía hết được giá trị của những thành quả mà
nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam gần chín thập kỷ qua, mới
có thể nhận thức được đâu là “mệnh lệnh” đích thực của đất nước và quyết tâm phấn đấu theo
“mệnh lệnh” đó.

-- pg. 18
Tài liệu tham khảo
1. Đạt, Đặng Viết. Luận điệu, thù địch xuyên tạc " Không có dân chủ trong chế độ một đảng
cộng sản duy nhất cầm quyền" hay trò bịp cổ xúy cho nền dân chủ đa nguyên. Tapchicongsan.
org.vn
2. Đảng, Trương Thị Hoan – Phó trưởng khoa Xây dựng. Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước
ngoặt vĩ đại của cách mạng nước ta. 2020.
3.
Hap, Thich Ho. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu khách quan của lịch sử xã hội Việt
Nam thời Pháp thuộc. 2017.
4. Hưởng, PGS.TS Nguyễn Mạnh. Vì sao Việt Nam không cần đa Đảng. Báo TNVN
5. Minh, Hạnh Liên & Bảo. Đa nguyên, đa đảng có phải là "mệnh lệnh" đổi mới của đất nước?
6. Nam, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước ngoặt quyết
định của cách mạng Việt Nam.
7. PGS, TS Vũ Trọng Lâm. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà và xã hội là tất yếu khách
quan. 2020.
8. Tú, PGS.TS. Nguyễn Xuân. Việt Nam không cần và không chấp nhận đa Đảng. 2018.
9. Vịnh, TS. Lê Văn Vịnh. Sự ra đời và sứ mệnh của Đảng cộng sản Việt Nam.2018.
10.Quỳnh, Trần Thị. Việt Nam thực hiện chế độ xã hội chủ nghĩa không đa đảng

pg. 19

You might also like