You are on page 1of 16

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TIỂU LUẬN
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI : PHÂN TÍCH LÀM RÕ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN
BẮC VÀ CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở MIỀN
NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1954 – 1975.

Giảng viên hướng dẫn : Cô Đinh Thị Điều

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 10/2021


1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
PHẦN NỘI DUNG 3
A. CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC 3
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ Ở MIỀN BẮC. 3
II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC. 3
B. CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở
MIỀN NAM. 9
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ Ở MIỀN NAM. 9
II. CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở MIỀN NAM
(1954 - 1975). 9
C. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH
MẠNG Ở MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1954 –
1975. 14
I. VAI TRÒ CỦA CÁCH MẠNG MIỀN BẮC. 14
II. VAI TRÒ CỦA CÁCH MẠNG MIỀN NAM. 14
III. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG. 14
PHẦN KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17

2
PHẦN MỞ ĐẦU

Trong quá trình nghiên cứu môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, nhận
thấy được những bài học rút ra từ lịch sử, từ tư duy lãnh đạo của Đảng, tinh thần
đoàn kết đấu tranh của toàn thể dân tộc ta luôn truyền cảm hứng cho bao thế hệ trẻ
Việt Nam. Nhất là từ các cuộc cách mạng của dân tộc, do đó nhóm sinh viên chọn
đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa chiến lược Cách mạng
Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
giai đoạn 1954 – 1975.
Bài viết bao gồm ba phần chính: Phần chiến lược Cách mạng Xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc; phần Cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cuối cùng
là phần mối quan hệ biện chứng giữa hai chiến lược cách mạng.

PHẦN NỘI DUNG

A. CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC


I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ Ở MIỀN BẮC.
Sau khi ký hiệp định Giơnevơ vào ngày 7/7/1945, Việt Nam tạm thời bị chia cắt
thành hai miền, với hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc hoàn toàn được giải
phóng. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành, tạo điều kiện cho
miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở MIỀN BẮC.
1. Sự nghiệp cách mạng ở Miền Bắc (1954 - 1965).
a. Hoàn thành cải cách ruộng đất (1954 - 1957).
Sau khi hoàn toàn được giải phóng, miền Bắc tiếp tục tiến hành 5 đợt cải cách
ruộng đất.  Kết quả đã thu được 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 1.8 triệu nông
cụ từ tay địa chủ chủ cho 2 triệu nông hộ. Khẩu hiệu “người cày có ruộng” đã hoàn
thành.
Việc cải cách ruộng đất đã đưa đến xóa bỏ triệt để chế độ sở hữu ruộng đất
phong kiến. Sau cải cách, bộ mặt nông thôn miền Bắc có nhiều thay đổi, khối liên
minh công nông được củng cố.
b. Bước đầu xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (1961
– 1965).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) đã xác định
nhiệm vụ chiến lược chung của cách mạng cả nước là đẩy mạnh cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam; tiến tới hòa bình thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập và dân chủ; xây

3
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp
phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình thế giới.
Bên cạnh đó, Đại hội cũng xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng mỗi
miền. Đó là miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành cải
tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm giải phóng
miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước. 
c. Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước năm năm (1961 – 1965).
Mục tiêu của kế hoạch Nhà nước năm năm là bước đầu xây dựng cơ sở vật chất
– kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Trong thời gian này, xuất hiện nhiều phong trào thi
đua yêu nước sôi nổi đã diễn ra trên miền Bắc, đặc biệt là phong trào "Mỗi người
làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt".
Bên cạnh đó, kinh tế ở Miền Bắc cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể, như:
Trong nông nghiệp: Hai ngành sản xuất phát triển mạnh nhất là chăn nuôi và
trồng trọt; diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng
lên: năm 1965, miền Bắc chỉ có 7 huyện và 640 hợp tác xã đạt mức sản lượng 5
tấn/ha/năm đến năm 1967 tăng lên 30 huyện và 2.628 hợp tác xã đạt đến mức sản
lượng trên. Tỉnh Thái Bình, huyện Thành Trì (Hà Nội), huyện Đan Phượng (Hà
Tây) trở thành “quê hương 5 tấn” đầu tiên.
Trong công nghiệp: Các cơ sở sản xuất lớn sau khi sơ tán, phân tán đã dần dần
đi vào sản xuất ổn định trở lại, đảm bảo cung cấp, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu
của sản xuất, chiến đấu và đời sống.
Công nghiệp quốc phòng được tăng cường và đặc biệt công nghiệp địa phương
phát triển rất mạnh.
Trong giao thông vận tải: Nhân dân miền Bắc đã bất chấp bom đạn, ra sức khôi
phục và bảo vệ các mạch máu giao thông của miền Bắc và hệ thống đường vận tải
chiến lược Bắc – Nam, đáp ứng nhu cầu vận tải phục vụ công tác chi viện cho miền
Nam.
Trong lĩnh vực tài chính – thương mại: đảm bảo được việc cung ứng vốn, hàng
hóa phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế thời chiến và yêu cầu chiến đấu.
Trong văn hóa, giáo dục và y tế: nền giáo dục vấn tiếp tục phát triển, đặc biệt là
giáo dục đại học, số sinh viên tăng gấp 3 lần so với trước chiến tranh phá hoại; số
cán bộ có trình độ đại học năm 1965 là 20.000, đến năm 1969, lến đến 40.000
người.
Các ngành văn hóa, nghệ thuật hoạt động sôi nổi phục vụ cho quần chúng, y tế
đã có những thành tựu mới về chuyên môn …
Mặc dù kế hoạch này phải bỏ dở, vì từ ngày 5 – 8 – 1964, đế quốc Mĩ tiến hành
chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhưng những kết quả đạt được là rất đáng tự hào.

4
Nhờ đó, miền Bắc đứng vững trong thử thách của chiến tranh và hoàn thành nghĩa
vụ hậu phương đối với tiền tuyến miền Nam.
2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ
vừa thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn (1965 – 1973).
a. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ
(1965 – 1968).
a1. Âm mưu của Mĩ.
Phá tiềm lực kinh tế, quốc phòng, phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc.
Ngăn chặn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam.
Uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mĩ của nhân dân Việt Nam.
a2. Thủ đoạn của Mĩ.
Tấn công phá hoại miền Bắc là một kế hoạch được tiến hành song song với
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam nhằm đánh vào hậu phương của cách
mạng miền Nam. Để có cớ tấn công miền Bắc, ngày 31/7/1964, Mĩ dựng lên “sự
kiện vịnh Bắc bộ” và cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như
sông Gianh (Quảng Bình), Vinh – Nghệ An…
Ngày 7/02/1965, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn
Cỏ, chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
a3. Diễn biến chiến dịch.
Về phía địch.
Mĩ đã huy động hàng nghìn máy bay tối tân, thuộc 50 loại khác nhau, trong đó
có cả máy bay B52, F111 cùng các loại vũ khí hiện đại và một lực lượng hải quân
thường xuyên có mặt ở Thái Bình Dương, các căn cứ hải quân ở Nam Việt Nam và
các nước Đông Nam Á khác.
Lực lượng không quân và hải quân Mĩ đã ném bom, bắn phá liên tục với cường
độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày, miền Bắc phải hứng chịu khoảng 1.600
tấn bom đạn của Mĩ trút xuống. 
Mục tiêu tấn công của Mĩ không chỉ là các căn cứ quân sự mà còn bao gồm cả
những mục tiêu dân sự: các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trình thủy lợi, khu
dân cư, trường học, bệnh viện, nhà thờ, nhà trẻ, chùa chiềng…
Về phía ta.
Để phù hợp với tình hình mới, tháng 01/1965, Hội đồng quốc phòng đã họp và
đề ra nhiệm vụ, phương hướng công tác trước mắt của miền Bắc là tăng cường công
tác phòng thủ, trị an, sẳn sàng chiến đấu.

5
Để chống chiến tranh phá hoại của Mĩ, miền Bắc đã thực hiện “quân sự hóa
toàn dân”, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào, phân tán dân khỏi những vùng
trọng điểm để tránh thiệt hại lớn, đảm bảo đời sống ổn định cho người dân.
Nhân miền Bắc đã huy động toàn dân chống giặc; bên cạnh lực lượng phòng
không, hải quân với vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, lực lượng dân quân,
du kích, tự vệ chiến đấu của toàn dân không ngừng ngày đêm hỗ trợ, phục vụ chiến
đấu và khắc phục hậu quả do chiến tranh tàn phá.
Trong hơn bốn năm (từ 5/8/1964 – 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn
rơi 3.234 máy bay Mĩ (trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F.111) diệt và bắt
sống hàng nghìn giặc lái Mĩ; bắn chìm và bị thương 43 tàu chiến và tàn biệt kích.
a3. Kết quả.
Cùng với những thất bại ở chiến trường miền Nam, đặc biệt là sau cuộc tổng
công kích, tổng khởi nghĩa tết Mậu Thân – 1968, Mĩ buộc phải tuyên bố ném bom
hạn chế miền Bắc từ vì tuyến 20 trở ra kể từ ngày 31/3/1968 và đến ngày
01/11/1968, Mĩ ngừng ném bom, bắn phá miền Bắc hoàn toàn.
b. Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2 (1972 -1973).
b1. Âm mưu của Mĩ.
Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2 diễn ra do Mĩ muốn cứu vớt tình thế cho
chiến lược đang có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn là “Việt Nam hóa chiến tranh”;
“Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ vào cuối năm 1964 - đầu năm 1965 đứng trước nguy
cơ phá sản hoàn toàn. Chính vì vậy để cứu vãn tình thế Mĩ bắt buộc phải thay đổi
chiến lược.
Đế quốc Mĩ muốn rút khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam do các thất bại nặng nề.
Trên chiến trường miền Nam vào tháng 10/1972, quân dân ta liên tục giành được
các thắng lợi vang dội. Tình hình này có tác động to lớn đến tình hình chính trị cũng
như kinh tế của đế quốc Mĩ. Để tránh thiệt hại lớn về người và của Nhà Trắng buộc
phải tìm cách để rút chân ra khỏi chiến tranh Việt Nam.
Vào đầu năm 1972 quân ta liên tiếp giành được thắng lợi trên cả ba mặt trận
chính trị, quân sự và ngoại giao. Trước tình thế này Tổng thống Mĩ Ních – xơn ra
lệnh tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2 vào ngày 6/4/1972.
Đây cũng được coi là cuộc chiến tranh với tính chất ác liệt hơn, tàn bạo hơn so với
chiến tranh lần thứ nhất.
b2. Thủ đoạn của Mĩ.
Vào ngày 6/4/1972, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2 được Tổng
thống Mĩ Ních – xơn chính thức phát động.
Để cuộc chiến tranh đảm bảo phần thắng và tiết kiệm thời gian Mĩ sử dụng máy
bay chiến lược B52 đánh phá một số tỉnh thành như Nghệ An, Hải Phòng, Thanh
Hóa, Quảng Bình,…

6
Tổng thống Mĩ Ních- xơn tiến hành cuộc tập kích đường không với tên gọi
“Chiến dịch Linebacker 2” vào miền Bắc nước ta vào ngày 17/12/1972.
b3. Diễn biến chiến dịch.
Về phía địch.
Sau cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân dân ta ở miền Nam, Nich –
xơn ra lệnh ném bom, bắn phá trở lại miền Bắc và ồ ạt tham chiến ở miền Nam
nhằm cứu vãn tình thế.
Ngày 06/4/1972, Mĩ đã cho không quân và hải quân đánh phá một số nơi thuộc
khu IV cũ. Ngày 16/4/1972 Nich – xơn tuyên bố chính thức mở rộng chiến tranh
phá hoại miền Bắc lần thứ 2.
Về phía ta.
Miền Bắc đã nhanh chóng chuyển mọi hoạt động sang thời chiến. Các lực lượng
vũ trang nhân dân của ta đã được chuẩn bị trước và luôn trong tư thế thế sẵn sàng
chiến đấu. Nhờ vậy, quân dân miền Bắc đã chủ động, lập tức chống trả địch ngay từ
trận đầu. 
Chỉ trong vòng 1 tháng (6/4 – 8/5/1972), ta đã bắn rơi 90 máy bay địch, bắn
cháy 20 tàu chiến và bắt sống nhiều giặc lái; đồng thời vẫn đảm bảo thông suốt các
tuyến đường chiến lược chi viện cho tiền tuyến.
Từ ngày 18 đến hết ngày 29/12/1972, Mĩ mở cuộc tập kích chiến lược không
quân bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác ở miền
Bắc nước ta.
Với cách đánh linh hoạt, sáng tạo, ngay trong đêm đầu tiên địch bắn phá, ta đã
hạ 3 chiếc B52. Tổng cộng trong suốt 12 ngày đêm cuối năm 1972, ta đã hạ 81 máy
bay, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111, 21 máy bay F4, 12 máy bay A7,
1 máy bay F105, 4 máy bay A6, bắt sống 44 giặc lái, bắn chìm và phá hỏng 9 tàu
chiến.
b3. Kết quả.
Sau 12 ngày đêm khói lửa quân và dân ta đã giành chiến thắng tuyệt đối trước
chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2 của đế quốc Mĩ. Do bị thiệt hại quá nặng nề,
ngày 15/1/1973, Mĩ tuyên bố ngưng hoàn toàn các hoạt động chống phá miền Bắc
để kí kết hiệp định Pari. Lịch sử còn ghi nhận đây chính là “Điện Biên Phủ trên
không” của quân và dân ta. Làm thất bại hoàn toàn chiến tranh phá hoại miền Bắc
lần 2 cũng như kế hoạch của Mĩ.
b5. Ý nghĩa chiến thắng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2.
Thắng lợi của quân và dân ta trong chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2 của Đế
quốc Mĩ đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Chiến thắng này góp phần làm chuyển
biến căn bản cục diện chiến tranh, quyết định thành công của công cuộc chống Mĩ
cứu nước của nhân dân Việt Nam.
7
c. Miền Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn.
Suốt 21 năm chiến tranh, nhất là từ sau Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ
15 của Ðảng (1959), miền Bắc tổ chức chi viện sức người, sức của cho miền Nam,
cho cách mạng Lào và sau đó, cho cách mạng Campuchia. Sự chi viện đó là to lớn,
toàn diện, liên tục, với nhịp độ ngày càng tăng, đáp ứng đòi hỏi của chiến trường. 
Năm 1959, miền Bắc đưa vào miền Nam hơn 500 người. Năm 1964, con số đó
tăng lên hơn 17 nghìn. Trong thời gian diễn ra những cuộc tiến công chiến lược
(1968, 1972, 1975), nhân lực động viên ở miền Bắc phục vụ nhu cầu chiến tranh
tăng gấp bốn, năm lần so với trước. Chưa tính số quân bảo vệ miền Bắc, làm lực
lượng dự bị chiến lược, chiến đấu và công tác trên tuyến vận tải 559, chỉ tính riêng
số quân đưa vào miền Nam trong các năm kể trên như sau: năm 1968 là 141 nghìn,
năm 1972 xấp xỉ 153 nghìn, năm 1975 là 117 nghìn. Ngoài lực lượng trực tiếp chiến
đấu, các lực lượng vận tải, bảo đảm giao thông, mở đường và các lực lượng bảo
đảm khác gồm hàng trăm nghìn người cũng được động viên từ miền Bắc.
Về vật chất, miền Bắc đã tổ chức tiếp nhận hàng triệu tấn vật chất, vũ khí,
phương tiện kỹ thuật do nước ngoài viện trợ; tổ chức nghiên cứu, thiết kế, cải biên,
cải tiến nhiều loại vũ khí, khí tài; tổ chức vận chuyển vượt hàng nghìn km dưới bom
đạn đánh phá của địch tới các chiến trường, các vùng giải phóng. 
Trong những năm từ 1965 đến 1968, miền Bắc đưa vào miền Nam khối lượng
vật chất gấp 10 lần so với những năm từ 1961 đến 1964. Con số đó trong những
năm chống chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh còn tăng gấp nhiều lần.
Bên cạnh việc chi viện sức người, sức của cho chiến trường, miền Bắc còn tiếp
nhận hàng trăm nghìn cán bộ, chiến sĩ, con em miền Nam tập kết; đón tiếp gần
310.000 thương binh,  bệnh binh và hơn 350.000 lượt người từ tiền tuyến ra hậu
phương chữa bệnh, học tập... Miền Bắc vừa là tiền tuyến đánh bại cuộc chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mĩ, đồng thời thật sự là chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho
những người ra trận, cho đồng bào, cán bộ, chiến sĩ ta đang ngày đêm chiến đấu ở
miền Nam, đặc biệt trong những lúc cách mạng miền Nam bị tổn thất, gặp nhiều thử
thách, khó khăn...
Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, trong hai năm 1973 và 1974, 250
nghìn thanh niên miền Bắc gia nhập lực lượng vũ trang, 150 nghìn quân từ biệt hậu
phương vào nam chiến đấu, hàng chục nghìn cán bộ, nhân viên kỹ thuật, thanh niên
xung phong miền Bắc tới các vùng giải phóng ổn định tình hình. Lực lượng công
binh, bộ đội đoàn 559, ngành vận tải miền Bắc cùng hàng chục nghìn dân công hỏa
tuyến dồn sức sửa rộng đường Trường Sơn, đặt thêm đường ống dẫn dầu. Trong hai
năm này, 397 nghìn tấn vật chất từ miền Bắc được chuyển tới mặt trận, bằng 54%
tổng khối lượng vật chất giao cho các chiến trường trong suốt 16 năm trước đó.
3. Miền Bắc tiếp tục tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Để phù hợp với tình hình mới, Đảng đã chủ trương chuyển hướng nền kinh tế
miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, tập trung vào việc xây dựng và phát triển

8
kinh tế vùng, kinh tế địa phương nhằm bảo đảm cho mỗi vùng, miền, mỗi địa
phương chủ động hơn trong việc duy trì và đẩy mạnh sản xuất, tự cung, tự cấp
những mặt hàng thiết yếu trong điều kiện chiến tranh ác liệt.
Nhân dân miền Bắc đã vượt qua được những khó khăn, thách thức, dấy lên một
cao trào cách mạng rộng lớn chưa từng có trong lao động sản xuất; Tất cả nhân dân
miền Bắc chung sức, chung lòng vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội với
tinh thần “tất cả cho tiền tuyến tất cả để chiến thắng” và “mỗi người làm việc bằng
hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu
một người”.
B. CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở MIỀN
NAM.
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ Ở MIỀN NAM.
Sau hiệp định Giơnevơ (ký kết ngày 7/7/1945) nước ta  tạm thời bị chia cắt
thành hai miền, với hai chế độ chính trị khác nhau. Ở miền Nam, tháng 5-1956,
Pháp rút quân khỏi miền Nam. Mĩ thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm
chính quyền, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc
địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ. Bằng cách thực hiện nhiều cuộc hành quân
đàn áp, những chính sách khắc nghiệt với khẩu hiệu “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”,
chúng thẳng tay bắt và giết cán bộ nhân dân miền Nam lên đến con số hàng chục
vạn người.
II. CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở MIỀN NAM
(1954 - 1975).
Đường lối kháng chiến.
Quyết tâm và mục tiêu chiến lược với khẩu hiệu: “Quyết tâm đánh thắng giặc
Mĩ xâm lược”, “Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ
trong bất kỳ tình huống nào”, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chủ
nhân dân, thực hiện sứ mệnh thống nhất đất nước.
Chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng phát động cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mĩ xâm lược trong toàn quốc, coi chống Mĩ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng
liêng của cả dân tộc từ Nam ra Bắc.
Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam, thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa và
sức chính mình, càng đánh càng mạnh, cố gắng đến mức độ cao.
 Tư tưởng và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và phát triển thế
tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. “Tiếp tục kiên trì phương
châm: Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi
giáp công”, đánh địch trên cả ba  vùng chiến lược.
1. Giai đoạn 1954 - 1965: Miền Nam đấu tranh chống Mĩ và chính quyền
Sài Gòn.

9
Giai đoạn này, chúng ta có những ưu thế nổi bật về chính trị và xã hội trong
cuộc đấu tranh. Điển hình là có được sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, quân đội và
nhân dân ta cũng trưởng thành hơn về nhiều mặt. Bên cạnh đó, miền Bắc đã được
giải phóng và trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam. Nhân dân ta quyết
tâm kháng chiến, luôn tin tưởng vào Đảng. Vì đã tích được nhiều kinh nghiệm từ
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, có thể nói về thế và lực chúng ta đã mạnh
hơn nhiều so với trước.
Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều khó khăn đang tồn tại lúc bấy giờ. Kẻ thù có sức
mạnh về kinh tế lẫn quân sự quá lớn, trong khi vũ khí của chúng ta còn đang lạc hậu
và nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Chúng thẳng tay đàn áp và tiêu diệt
các phong trào cách mạng, gây tổn thất nặng nề cho ta về cả người và của.
a. Âm mưu xâm lược của Mĩ đối với miền Nam.
Đế quốc Mĩ muốn biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài Việt
Nam. Xây dựng miền Nam thành một căn cứ quân sự để tiến công miền Bắc và hệ
thống xã hội chủ nghĩa từ phía Đông Nam khi có điều kiện.
b.Thủ đoạn của Mĩ nhằm nhanh chóng thiết lập bộ máy chính quyền tay sai.
Về quân sự, chúng xây dựng lực lượng quân đội cảnh sát, mật vụ được trang bị,
vũ khí phương tiện chiến tranh hiện đại. Về kinh tế, Mĩ thực hiện chính sách củ cây
gậy và củ cà rốt. Về chính trị, Mĩ đã ban bố độc lập giả hiệu cho chính quyền Ngụy.
Và về văn hóa, chúng đào tạo đội ngũ trí thức phục vụ cho Mĩ, Ngụy.
Bên cạnh đó, chúng còn thi hành quốc sách “tố cộng, diệt cộng”, lập “khu trù
mật”, “khu dinh điền”, nhằm mục đích bắt bớ, trả thù tất cả những người yêu nước
kháng chiến cũ, thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định
Giơnevơ của các tầng lớp nhân dân; gây ra nhiều vụ thảm sát đẫm máu ở Bến Tre,
Quảng Nam, Phú Yên.
Ngày 5/1959, chính quyền Sài Gòn ban hành Luật 10 – 59, đặt cộng sản ngoài
vòng pháp luật, làm cho lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề. Cuộc đấu tranh ở
miền Nam đòi hỏi phải có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng tiến lên.
c. Đường lối đánh bại chiến lược Chiến tranh đơn phương của Mĩ Ngụy
( 1954 – 1960 ).
 Từ ngày 15 đến ngày 17/7/1954, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng chỉ rõ: “Hiện nay đế quốc Mĩ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và
nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên
mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mĩ”.
Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 9-1954, nêu rõ 3 nhiệm vụ cụ thể trước mắt của
cách mạng miền Nam là: Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định; Chuyển hướng công tác
cho phù hợp điều kiện mới; Tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình,
thống nhất, độc lập, đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền bù nhìn thân Mĩ, hoàn thành
thống nhất Tổ quốc.

10
Hội nghị thứ 13 ban chấp hành Trung ương khóa II, Đảng ta nhận định: “ta
đang đồng thời chấp hành hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu chung của cả hai cuộc cách
mạng là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”.
Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 1/1959) khẳng
định con đường cách mạng bạo lực, chuyển cách mạng miền Nam tiến lên đấu tranh
vũ trang.
Thắng lợi của “Đồng khởi” dẫn đến sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam (20/12/1960), giương cao ngọn cờ đoàn kết mọi tầng lớp nhân
dân miền Nam, đấu tranh chống Mĩ và tay sai, nhằm thực hiện một miền Nam Việt
Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
d. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”( 1960-1965 ).
Vào cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai Ngô Đình
Diệm bị thất bại, Mĩ buộc chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt”.
Chúng vạch ra những âm mưu và thực hiện nhiều thủ đoạn. Thực hiện liên tiếp
hai kế hoạch: “Kế hoạch Xtalây – Taylo” và “Kế hoạch Giôn xơn – Mắc Namara”.
Tăng cường xây dựng quân đội Sài Gòn với nhiều vũ khí và phương tiện chiến
tranh hiện đại. Ra sức dồn dân, lập “Ấp chiến lược”.
d1.  Diễn biến.
Từ 1961 - 1962: quân giải phóng đẩy lùi nhiều cuộc tiến công của địch, đấu
tranh chống và phá “Ấp chiến lược”. Cuối năm 1962, ta kiểm soát trên nửa tổng số
ấp với 70% nông dân ở miền Nam.
Trên mặt trận quân sự: 2/1/1963, quân dân ta thắng lớn ở trận Ấp Bắc. Nhờ đó
đã dấy lên phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”.
Đấu tranh chính trị diễn ra mạnh mẽ khắp đô thị lớn, nổi bật là cuộc đấu tranh
của đội quân tóc dài. Góp phần đẩy nhanh quá trình suy sụp của chính phủ Ngô
Đình Diệm.
Ngày 1/11/1963, Mĩ giật dây Dương Văn Minh đảo chính lật đổ Ngô Đình
Diệm. Chính quyền Sài Gòn lâm vào tình trạng khủng hoảng.
Đông Xuân năm 1964 -1965, ta thắng lớn ở trận Bình Giã ( 02/12/1964), đánh
bại chiến lược “trực thăng vận” và “thiết xa vận”. Sau đó tiếp tục giành thắng lợi ở
An Lão, Ba Gia, Đồng Xoài…
Tháng 6/1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ bị thất bại.
d2. Ý nghĩa.
Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược thứ hai của quân dân miền Nam, đồng
thời là thất bại có ý nghĩa chiến lược lần thứ hai của Mĩ, buộc Mĩ phải chuyển sang

11
chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân Mĩ vào tham chiến ở miền
Nam.
2. Giai đoạn 1965-1973: Nhân dân miền Nam chiến đấu chống đế quốc Mĩ
xâm lược.
a. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968).
Khi chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, Mĩ phải chuyển sang chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. Đây là hình thức chiến tranh xâm lược
thực dân kiểu mới, được tiến hành bằng quân Mĩ, đồng minh và quân đội Sài Gòn
với phương tiện chiến tranh hiện đại. 
Mĩ nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hỏa lực  có thể áp đảo quân chủ lực
ta  bằng chiến lược: “tìm diệt”, đẩy ta về phòng ngự, buộc ta phải phân tán nhỏ,…
làm cho chiến tranh tàn lụi dần.
Với ưu thế về quân sự, Mĩ cho mở cuộc hành quân “tìm diệt” vào Vạn Tường
và 2 cuộc phản công 2 mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967 nhằm “tìm diệt” và
“bình định” vào vùng căn cứ kháng chiến hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và lực
lượng kháng chiến của ta.
Chúng ta đã thực hiện tấn công khắp nơi và đập tan được các cuộc hành quân
của Mĩ. Từ thành thị đến nông thôn, nhân dân nổi dậy đấu tranh trừng trị ác ôn, phá
“Ấp chiến lược”, đòi Mĩ rút về nước, đòi tự do dân chủ. Uy tín Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam gia tăng. Cương lĩnh của Mặt trận được 41 nước,
12 tổ chức quốc tế và 5 tổ chức khu vực ủng hộ.
b.  Chiến đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa
chiến tranh” (1969-1973)
 Sau thất bại của “Chiến tranh cục bộ”, Mĩ phải chuyển sang chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh”, nhằm thực hiện chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh”.
“Việt Nam hóa chiến tranh” có sự phối hợp về hỏa lực, không quân, hậu cần của
Mĩ, do cố vấn Mĩ chỉ huy. Nhằm chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam
thành một quốc gia riêng biệt, thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ.
Mĩ thực hiện hàng loạt các thủ đoạn như: “dùng người Việt Nam đánh người
Việt Nam”, “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”, tìm cách thỏa
hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô, nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước
này đối với nhân dân Việt Nam, sẵn sàng Mĩ hoá trở lại cuộc chiến tranh khi cần
thiết.
Trước tình hình đó, quân đội Việt Nam phối hợp với quân dân Lào, Campuchia
thực hiện các cuộc hành quân và giành được nhiều thắng lợi cách mạng. Đặc biệt,
thắng lợi của cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 đã giáng đòn nặng vào chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại chiến
tranh xâm lược (thừa nhận thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”).

12
Song song, chúng ta còn giành được những thắng lợi về chính trị và ngoại giao.
Ngày 6/6/1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được
thành lập, được 23 nước công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại
giao.Tháng 4/1970, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia, biểu
thị quyết tâm của nhân dân 3 nước đoàn kết chiến đấu chống Mĩ. Ngày 27/1/1973,
Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được kí kết.
Thắng lợi trên là sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao, mở ra
bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của dân tộc. Nhờ đó, nhân
dân Việt Nam căn bản hoàn thành nhiệm vụ đánh cho Mĩ cút, làm so sánh lực lượng
ở miền Nam thay đổi cho cách mạng, tạo ra điều kiện thuận lợi để tiến lên giải
phóng hoàn toàn miền Nam.
3. Giai đoạn 1973 - 1975: Miền Nam đấu tranh chống địch “bình định – lấn
chiếm” tạo thế và lực tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam.
a. Miền Nam đấu tranh chống địch “bình định – lấn chiếm”.
Ngày 29/3/1973, toán lính của Mĩ cuối rút khỏi miền Nam, nhưng Mĩ vẫn theo
đuổi mục tiêu Việt Nam hoá chiến tranh. Trước ngày ký Hiệp định Pari, Mĩ chuyển
giao các căn cứ quân sự Mĩ cho chính quyền Sài Gòn cùng với viện trợ khẩn cấp
một lượng vật chất khổng lồ. Mĩ dung túng và cùng với chính quyền Sài Gòn phá
hoại Hiệp định Paris, nhất là ba vấn đề: ngừng bắn, thả tù chính trị và thực hiện các
quyền tự do dân chủ ở miền Nam. Chính quyền Sài Gòn tiến hành chiến dịch “tràn
ngập lãnh thổ”, mở những cuộc hành quân “bình định – lấn chiếm” vùng giải
phóng.
Tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần 21, nhận
định kẻ thù vẫn là đế quốc Mĩ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu; xác định nhiệm vụ
cơ bản của cách mạng miền Nam là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân; khẳng định con đường cách mạng bạo lực, nắm vững chiến lược tiến công, đấu
tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao.
Thực hiện nghị quyết 21, cuối năm 1973, quân và dân miền Nam đã chủ động
mở các cuộc tiến công, trọng tâm là đồng bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ,
giành thắng lợi vang dội ở Đường 14 – Phước Long (6/1/1975). Trận trinh sát chiến
lược Phước Long cho thấy rõ sự suy yếu của quân đội Sài Gòn và khả năng can
thiệp của Mĩ là rất hạn chế.
b. Giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
 Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng (mở rộng) cuối năm 1974 đầu năm
1975 đề ra chủ trương, kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm
1975 – 1976. Hội nghị nhấn mạnh, nếu thời cơ chiến lược đến vào đầu hoặc cuối
năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975, cần phải
tranh thủ thời cơ đánh nhanh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân
dân.

13
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Miền Nam Việt Nam
hoàn toàn được giải phóng.

C. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG
Ở MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1954 – 1975.
I. VAI TRÒ CỦA CÁCH MẠNG MIỀN BẮC.
Giai đoạn 1954 - 1957: hoàn thành cải cách ruộng đất, củng cố được khối liên
minh công nông.
Giai đoạn 1961 - 1965: bước đầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội; thực hiện kế hoạch nhà nước năm năm đạt được nhiều thành tựu về
công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải, y tế…
Giai đoạn 1965 - 1973: chiến đấu, chiến thắng chiến tranh phá hoại của Mĩ. Đặc
biệt, chiến thắng trận “Điện Biên phủ trên không”.
Như vậy ở giai đoạn này, miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng và đang trong
quá trình dựng xây Xã hội chủ nghĩa. Đạt được nhiều thành tựu, trở thành hậu
phương lớn cho miền Nam.
II. VAI TRÒ CỦA CÁCH MẠNG MIỀN NAM.
Giai đoạn 1954 – 1960: Đánh bại chiến lược chiến tranh đơn phương của Mĩ
Ngụy.
Giai đoạn 1961 – 1965: Đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.
Giai đoạn 1965 – 1968: Đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.
Giai đoạn 1969 – 1973: Đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và
“Đông Dương hóa chiến tranh”.
Giai đoạn 1973 – 1975: Đánh bại toàn bộ âm mưu xâm lược của Mĩ, Tổng tiến
công giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam.
Sau hàng loạt những cuộc tiến công chiến đấu và chiến thắng, miền Nam Việt
Nam là mặt trần, là tiền tuyến, ở đó đã thể hiện được sức mạnh kiên cường của toàn
dân toàn quân, sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ, tinh thần đoàn kết chống
giặc. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam đã đi đến thắng lợi, góp sức
trong công cuộc thống nhất đất nước.

III. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG.


Hai chiến lược cách mạng tuy vị trí khác nhau nhưng có mối quan hệ biện
chứng, quy định và tác động lẫn nhau, nên phải tiến hành đồng thời. Cách mạng ở
miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc 2 chiến lược khác nhau song trước mắt
đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất
nước cho nên quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Đó là quan hệ giữa hậu phương với tuyền tuyến.
14
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ sau tháng 7/1954 đến tháng 5/1975 chứng
minh đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền của Đảng
Lao động Việt Nam là đúng đắn và sáng tạo, thể hiện tính nhất quán của đường lối
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Đảng đề ra trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đảng thống nhất lãnh đạo một nước tạm
thời chia cắt làm đôi, tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng khác nhau, đó là
đặc điểm lớn nhất cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7/1954 –
tháng 5/1975.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam (9/1960) nhận
định rằng nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “nhiệm vụ quyết
định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp
thống nhất nước nhà của nhân dân ta”. Còn cuộc cách mạng miền Nam “có tác
dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”. 
Trong sự phát triển của toàn bộ cuộc cách mạng, cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc là “nhiệm vụ quyết định nhất” bởi vì miền Bắc phải càng vững
mạnh thì miền Nam mới có hậu phương càng vững chắc. Miền Bắc tiến lên xã hội
chủ nghĩa mới có thể trở thành nền tảng để thực hiện cách mạng giải phóng miền
Nam nói riêng và củng cố nền hòa bình cho toàn Đông Dương nói chung.
Trong sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò “quyết định trực tiếp” bởi vì miền
Nam là mặt trận, luôn trong tư thế tập hợp lực lượng, củng cố niềm tin khối đại
đoàn kết dân tộc để sẵn sàng đưa Mĩ vào thế bị động, nhằm chiến thắng mọi âm
mưu phá hoại của bọn đế quốc.
Hai cuộc cách mạng diễn ra song song, đồng thời, luôn tạo áp lực thúc đẩy lẫn
nhau. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phát triển sẽ tạo sức mạnh về vật
chất, tinh thần để thúc đẩy cách mạng cả nước và cách mạng miền Nam phát triển.
Ngược lại cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam phát triển càng tạo
điều kiện để bảo vệ miền Bắc, nhanh chóng thống nhất đất nước và cùng đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Tóm lại, cả hai cuộc cách mạng đều nhằm hướng đến giải quyết mâu thuẫn
chung đó là mâu thuẫn giữa Đảng, nhân dân ta với đế quốc Mĩ và bọn tay sai. Đều
hướng đến một mục đích là thống nhất lãnh thổ toàn quốc. Do đó, tuy mỗi cuộc
cách mạng giải quyết một vấn đề nhưng tựu trung lại cả hai luôn gắn bó chặt chẽ,
phối hợp, tạo điều kiện cho nhau. Tất cả tạo nên mối quan hệ biện chứng giữa cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam năm 1954-1975.

PHẦN KẾT LUẬN

15
Bài tiểu luận này đã phân tích hai cuộc cách mạng ở hai miền nhằm làm rõ mối
quan hệ biện chứng giữa chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975. Với mong
muốn hiểu biết lịch sử dân tộc cũng như rút ra bài học kinh nghiệm nhằm đóng góp
một phần nhỏ vào công cuộc xây dựng bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Bài tiểu luận không tránh khỏi các mặt hạn chế. Do đó, nhóm rất mong nhận
được góp ý của cô để tích lũy kinh nghiệm cho những bài viết sau được hoàn thiện
hơn. Cuối cùng, nhóm xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Đinh Thị Điều vì đã hỗ
trợ tạo điều kiện cho nhóm tiếp xúc và hoàn thành đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội 2019, NXB Chính Trị
Sự Thật.
2. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III: https://daihoidang.vn/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-
hanh-trung-uong-dang-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-iii/399.vnp
3. Báo cáo về Nhiệm vụ và phương hướng của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
phát triển kinh tế quốc dân (1961 - 1965): https://daihoidang.vn/bao-cao-ve-
nhiem-vu-va-phuong-huong-cua-ke-hoach-5-nam-lan-thu-nhat-phat-trien-
kinh-te-quoc-dan-1961-1965/397.vnp
4. Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung Ương: https://tuyengiao.vn/ban-can-
biet/thang-9-1960-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-iii-cua-dang-131749
5. Tạp chí Cộng sản: https://www.tapchicongsan.org.vn/truyen-thong-hien-
tai/-/2018/35427/hau-phuong-mien-bac-xa-hoi-chu-nghia-trong-khang-
chien-chong-my%2C-cuu-nuoc.aspx
6. Báo Nhân dân: https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien

16

You might also like