Câu 1: Chủ tịch Ủy ban cạnh tranh quốc gia có quyền giải quyết khiếu nại đối với tất cả các quyết định xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh. Nhận định SAI. Bởi vì: Căn cứ theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 100 Luật Cạnh tranh 2018 quy định về việc giải quyết khiếu nại đối với vụ việc hạn chế cạnh tranh thì Chủ tịch Ủy ban cạnh tranh quốc gia không có quyền giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch Ủy ban cạnh tranh quốc gia ra quyết định thành lập 01 Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh (Chủ tịch Ủy ban cạnh tranh quốc gia là Chủ tịch Hội đồng) để giải quyết khiếu nại đối với vụ việc hạn chế cạnh tranh. Căn cứ pháp lý: điểm a, khoản 1, Điều 100 Luật Cạnh tranh 2018. Câu 2: Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của doanh nghiệp tập trung kinh tế là căn cứ quan trọng nhất để xác định ngưỡng thông báo tập trung kinh tế. Nhận định SAI. Bởi vì: Căn cứ theo quy định tại khoản 2, Điều 33 Luật Cạnh tranh 2018 quy định về các Tiêu chí xác định ngưỡng thông báo tập trung kinh tế thì Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của doanh nghiệp tập trung kinh tế chỉ là một trong các căn cứ để xác định ngưỡng thông báo tập trung kinh tế chứ không xác định tiêu chí Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế là căn cứ quan trọng nhất để xác định ngưỡng thông báo tập trung kinh tế. Căn cứ pháp lý: khoản 2, Điều 33 Luật Cạnh tranh 2018. Câu 3: Thỏa thuận hạn chế đầu tư không thể được xem xét cho hưởng miễn trừ. Nhận định SAI. Bởi vì: Thỏa thuận hạn chế đầu tư được xem là 01 Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (khoản 7, Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018). Căn cứ theo quy định tại khoản 1, Điều 14 Luật Cạnh tranh 2018 quy định về việc Miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm thì Thỏa thuận hạn chế đầu tư nếu có lợi cho người tiêu dùng và đáp ứng được một trong các điều kiện quy định tại điểm a, b, c hoặc d, khoản 1, Điều 14 Luật Cạnh tranh 2018 thì có thể được xem xét cho hưởng miễn trừ có thời hạn. Căn cứ pháp lý: khoản 7, Điều 11 và khoản 1, Điều 14 Luật Cạnh tranh 2018. Câu 4: Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan là nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, không phụ thuộc vào thị phần riêng rẽ của từng doanh nghiệp. Nhận định SAI. Bởi vì: Căn cứ theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 24 Luật Cạnh tranh 2018 quy định về Nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thì Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan là nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh nếu thỏa mãn 02 điều kiện: Một là, cùng hành động gây hạn chế cạnh tranh (thực hiện cùng một hành vi hạn chế cạnh tranh); Hai là, tổng thị phần của hai doanh nghiệp từ 50% trở lên trên thị trường liên quan. Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại khoản 3, Điều 24 Luật Cạnh tranh 2018 thì cả 02 doanh nghiệp trên đều phải có thị phần riêng rẽ cao hơn 10% trên thị trường liên quan. Nếu doanh nghiệp có thị phần ít hơn 10% trên thị trường liên quan thì không được tính vào Nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Do đó, Kể cả 02 doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan nhưng 01 doanh nghiệp trong đó có thị phần riêng rẽ ít hơn 10% thì không được xem là nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh. Căn cứ pháp lý: điểm a, khoản 2 và khoản 3, Điều 24 và khoản 1, Điều 14 Luật Cạnh tranh 2018. Câu 5: Bán hàng dưới giá thành toàn bộ dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm. Nhận định ĐÚNG. Bởi vì: Căn cứ theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018 quy định về Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm thì hành vi bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm. Căn cứ pháp lý: điểm a, khoản 1, Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018. Câu 6: Hành vi đe dọa khách hàng để buộc họ giao dịch với mình là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Nhận định SAI. Bởi vì: Thứ nhất, căn cứ theo quy định tại Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018 quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm thì Hành vi đe dọa khách hàng để buộc họ giao dịch với mình không nằm trong danh mục các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Do đó, hành vi đe dọa khách hàng để buộc họ giao dịch với mình là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Căn cứ pháp lý: Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018. Câu 7: Luật Cạnh tranh 2018 cấm mọi hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. SAI vì điều 14 LCT 2018 có quy định các trường hợp miễn trừ đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Vì vậy nói LCT cấm mọi hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là không chính xác, nếu DN nộp các hồ sơ xin miễn trừ các trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như luật định thì vẫn có thể xem như không bị cấm. Câu 8: Thỏa thuận ấn định giá trực tiếp giữa các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và đại lý bán lẻ hàng hóa là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo LCT2018. SAI vì theo khoản 1 điều 12 LCT 2018 thỏa thuận ấn định giá trực tiếp hoặc gián tiếp giữa các doanh nghiệp trên cùng một thị trường liên quan (tức thỏa thuận theo chiều ngang) mới bị cấm tuyệt đối còn theo khoản 4 điều 12 thì thỏa thuận ấn định giá giữa doanh nghiệp sản xuất hàng hóa với đại lý bán lẻ là thỏa thuận theo chiều dọc nên đây là hành vi bị cấm có điều kiện. Câu 9: Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm. SAI vì theo Khoản 3 điều 12 LCT 2018, thì thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận giữa các doanh nghiệp có thị trường liên quan chỉ bị cấm khi gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường. Câu 10: Theo LCT 2018, doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường khi có thị phần 30% trở lên trên thị trường liên quan. ĐÚNG theo Khoản 1 Điều 24 LCT 2018 thì doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan. Câu 11: Tập trung kinh tế là hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo LCT 2018. SAI. Theo điều 30 LCT 2018, chỉ các hành vi tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam mới bị cấm. Câu 12: Chủ thể của hành vi tập trung kinh tế bị cấm theo quy định LCT 2018 là các doanh nghiệp có trụ sở hoạt động tại Việt Nam. SAI. Bên cạnh tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh có tác động tiêu cực cho môi trường cạnh tranh, TTKT dưới những điều kiện nhất định cũng mang lại những giá trị tích cực được quy định tại điều 32 Luật Cạnh tranh 2018. Nhìn từ góc độ kinh tế học, các giá trị này có thể xem xét từ khía cạnh tính kinh tế của quy mô khi chi phí sản xuất trung bình trong dài hạn của doanh nghiệp sẽ giảm khi quy mô sản xuất gia tăng, hoàn thiện một chuỗi sản xuất khép kín từ sản xuất, đóng gói đến phân phối sẽ giúp cho hoạt động của doanh nghiệp được nhịp nhàng và tiết kiệm chi phí. Gia tăng hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực, đặc biệt là nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành sản xuất trong nước Câu 13: Trước khi tiến hành tập trung kinh tế, doanh nghiệp phải thông báo cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia biết về sự kiện đó. SAI. Vì DN chỉ phải thông báo nếu thuộc ngưỡng thông báo tập trung kinh tế quy định ở Điều 13 Nghị định 35/2020/NĐ-CP và Điều 33 LCT 2018 quy định. Câu 14: Hành vi công bố thông tin gây bất lợi cho đối thủ cạnh tranh là hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo LCT 2018. SAI. Vì theo Khoản 3 Điều 45 LCT 2018 thì cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động của doanh nghiệp đó sẽ bị cấm. Nhưng hành vi được nêu ra ở đây là cung cấp thông tin gây bất lợi cho đối thủ cạnh tranh, nếu thông tin đó là trung thực, chính xác thì không thể coi là vi phạm Luật cạnh tranh. Câu 15: Theo LCT 2018, hành vi của doanh nghiệp so sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác là hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm. SAI vì theo điểm b Khoản 5 Điều 45 LCT 2018 thì so sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của DN khác nếu chứng minh được nội dung thì không bị cấm. Câu 16: Bất kỳ doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nào chủ động đi khai báo trước khi có quyết định điều tra, nếu cung cấp được những bằng chứng có giá trị và hợp tác với cơ quan điều tra suốt quá trình điều tra thì đều được xét để hưởng chính sách khoan hồng. SAI. Vì theo khoản 4 Điều 112 LCT2018 thì doanh nghiệp có vai trò ép buộc hoặc tổ chức cho cho các DN khác tham gia thỏa thuận thì dù chủ động đi khai báo vẫn không được xét để hưởng chính sách khoan hồng. Câu 17: Chỉ có các doanh nghiệp là chủ thể của những hành vi vi phạm pháp luật theo LCT 2018. SAI. Vì theo Điều 2 LCT 2018 thì ngoài doanh nghiệp còn có hiệp hội ngành, nghề hoạt động tại VN và cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài có liên quan cũng có thể là chủ thể của những hành vi vi phạm pháp luật. Câu 18: Bất kì tổ chức, cá nhân nào cũng có quyền khiếu nại đến cơ quan quản lý cạnh tranh. Nhận định này SAI. Theo khoản 1 điều 77 Luật Cạnh tranh thì chỉ những tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh mới có quyền thực hiện khiếu nại đến cơ quan quản lý cạnh tranh. Câu 19: Sáu công ty sản xuất, lắp ráp máy tính ở VN có thị phần 30% trên thị trường liên quan đã ký thỏa thuận hợp tác lắp ráp máy tính giá rẻ với thương hiệu chung và ấn định giá bán loại máy tính này phải dưới 4 triệu đồng. Không vi phạm. Sáu công ty có thị phần 30% không thuộc các trường hợp nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường quy định tại khoản 2 điều 11 Luật Cạnh tranh, do đó việc thỏa thuận chung ấn định giá bán dưới 4tr không thuộc các hành vi bị cấm tại điều 13 Luật Cạnh tranh vì các hành vi này chỉ cấm đối với các doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Câu 20: Mọi hành vi có mục đích hạn chế cạnh tranh đều bị cấm. Nhận định này SAI. Trường hợp thỏa thuận không cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại, đại diện cho thương nhân,... không bị xem là bất hợp pháp. Hoặc có trường hợp thỏa thuận mang tính chất hạn chế cạnh tranh nhưng nó cũng có tác động tích cực đến thị trường chẳng hạn: thỏa thuận phụ là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, nhưng thỏa thuận này nhăm mục đích bổ trợ cho thỏa thuận chính, và thỏa thuận chính này lại có ích cho kinh tế, xã hội,... thì lúc này không xem thỏa thuận có tính chất cạnh tranh là bất hợp pháp. II. CÂU HỎI TÌNH HUỐNG: Công ty CP X bị Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra quyết định áp dụng chế tài phạt tiền với mức tiền cụ thể là 3 tỷ đồng cho hành vi tập trung kinh tế bị cấm (tương đương với 3% doanh thu của Công ty X trong năm tài chính liền trước năm thực hiện hành vi vi phạm). Công ty CP X khiếu nại quyết định trên với lý do công ty này đã tự nguyện khai báo hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định điều tra nên cần được áp dụng chính sách khoan hồng để miễn giảm mức phạt (2 điểm). Thứ nhất, đánh giá về mức phạt. Việc áp dụng chế tài phạt tiền với mức tiền cụ thể là 3 tỷ đồng cho hành vi tập trung kinh tế bị cấm (tương đương với 3% doanh thu của Công ty X trong năm tài chính liền trước năm thực hiện hành vi vi phạm). Căn cứ theo quy định tại khoản 2, Điều 111 Luật Cạnh tranh 2018 thì mức phạt tiền này không vi phạm pháp luật cạnh tranh (Mức phạt tối đa cho phép là 5% doanh thu trong năm tài chính liền trước năm thực hiện hành vi vi phạm). Do đó, hành vi này không vi phạm pháp luật cạnh tranh. Thứ hai, đánh giá về việc áp dụng chế định miễn giảm. Căn cứ theo quy định tại Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 quy định về Chính sách khoan hồng thì Công ty X phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 3 Điều 112 Luật Cạnh tranh 2018 mới được miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng. Trường hợp Công ty X đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định mà Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh không áp dụng miễn hoặc giảm mức xử phạt cho Công ty X là vi phạm pháp luật Cạnh tranh. Trường hợp này Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia quyết định việc miễn hoặc giảm mức xử phạt theo chính sách khoan hồng. Trường hợp Công ty X chưa đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định thì việc Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh không áp dụng miễn hoặc giảm mức xử phạt cho Công ty X là phù hợp quy định pháp luật Cạnh tranh.