Professional Documents
Culture Documents
Jesus đã từng sống hàng năm với người xứ Essener, một cộng đồng người theo
đạo Kabbalah.
Vì vậy người ta đoán rằng người xứ Essener thông qua đó đã hiểu biết rất
rộng về các môn trị bệnh bằng tự nhiên, và những phép thuật…
Thời trung cổ “tăm tối”
Có rất ít nguồn thông tin về Thôi miên xuất phát từ
thời Trung cổ. Một trong những nguyên nhân, đó là, theo
toà án Dị giáo (theo đạo Thiên Chúa Giáo) thời đó thì tất
cả mọi thuật chữa bệnh có được thành công là do phép của
ma quỷ (ma thuật) và có lẽ vì thế mà mọi ghi chép và
thông tin về thuật chữa bệnh đều bị đốt, hủy.
tiếng về việc biết đến tác dụng chữa bệnh bằng những ám thị tích cực. Vị bác sĩ
đã từng đi nhiều và biết rộng này tin rằng người bác sĩ tốt nhất của mỗi con
người chính là “người bác sĩ trong tâm” của chính họ. Với sự khám phá này ông
đã tiến xa hơn rất nhiều so với những đồng nghiệp cùng thời.
Ông miêu tả và phân tích việc sử dụng quả cầu pha lê của những thầy tu và
thông qua đó đã tạo ra sự thư giãn tuyệt đối (giấc ngủ Thôi miên…). Trong giấc
ngủ đó, những ám thị tích cực đã được Vô thức chấp nhận, và vì vậy, việc chữa
bệnh đã được tiến hành thành công (khỏi bệnh). Ông đặc biệt khuyên mọi người
nên sử dụng liệu pháp Thôi miên để điều trị cho các bệnh thần kinh và liên quan
tới thần kinh.
Mùa thu năm 1775 lãnh chúa vùng Bayern, Max Joseph đã lập ra một hội
đồng đặc trách, chịu trách nhiệm điều tra và nghiên cứu về những việc thực
hành và hành nghề phép thuật.
Mesmer sinh ngày 23 tháng 5 năm 1734 tại Iznang, vùng ven bờ hồ
Bodensee của Đức. Ông đã theo học Y khoa tại Viên và tại đó đã cưới một bà vợ
hơn tuổi nhưng giàu có.
Những buổi dạ hội của ông đã được mọi người rất ưa chuộng. Trong số
những người tham gia có cả gia đình Mozart vẫn thường tới tham dự. Thậm chí
vở nhạc kịch “Bastien và Bastienne” của Mozart đã được trình diễn lần đầu tiên
tại vườn của gia đình Mesmer. Cuộc sống nên thơ của Mesmer bị hoàn toàn thay
đổi khi ông bị gán vào một vụ Scandal khi chữa trị cho một phụ nữ trẻ bị mù.
Nữ bệnh nhân của ông, cô Maria Theresa Paradis là con gái vị thư ký riêng của
nữ lãnh chúa. Maria Theresa Pradis đã không khỏi bệnh và sau đó cô đã được
nhận khoản lương hưu từ nữ lãnh chúa cho phần khả năng và năng khiếu của
mình, nhưng lại cũng có phán đoán cho rằng, đó chỉ vì lòng thương hại mà thôi.
Theo như hiểu biết ngày nay thi căn bệnh cua Maria Theresa Pradis là một
dạng bệnh mù hysteria (không có những nguyên nhân hữu cơ), trong ICD
(International Statistical Classification of Diseases and Related Health
Problems) bệnh này được gọi là “rối loạn nhận thức phân ly”.
Mesmer bị buộc tội là lang băm và phải rời khỏi Viên vào năm 1778.
Mesmer chuyển đến Paris, nơi ông đã cùng với một đồng nghiệp người Pháp mở
một “phòng điều trị bằng phương pháp nhân điện”.
Dòng người đổ về phòng khám của Mesmer tại Paris mỗi lúc một đông,
đông đến nỗi Mesmer đã phải vận dụng đến những phương pháp vô cùng khác
thường:
Mesmer đổ đầy nước, mạt sắt và mảnh thuỷ tinh vào một cái bồn bằng gỗ.
Điện từ do Mesmer truyền vào bồn sẽ cùng lúc chữa lành bệnh cho tất cả các
bệnh nhân.
Trong trường hợp này, theo cách hiểu ngày nay thì sức mạnh của ám thị từ
những lời nói của Mesmer và lòng tin tuyệt đối vào vị “Thầy thuốc kỳ tài”
Mesmer của những bệnh nhân, đã là nguyên nhân chủ yếu làm cho tất cả mọi
người gần như cùng lúc khỏi bệnh (tự ám thị…)
Vào tháng ba năm 1780 nhà vua Pháp Ludwig XVI đã thành lập một hội
đồng để điều tra về việc chữa bệnh của Mesmer. Hội đồng đã khẳng định những
hiện tượng nhân điện chỉ là những ảo tưởng, nhưng hoàn toàn đồng ý công nhận
và không hề nghi ngờ gì về kết quả và những thành công trong việc chữa bệnh
của Mesmer. Mặc dù đã bị điều tra nhưng phương pháp trị liệu nhân điện của
Mesmer thậm chí lại bắt đầu tiếp tục lan rộng hơn. Tại nhiều thành phố của Pháp
ngày đó đã có những Hiệp hội với cái tên «Sociétés de l‘Harmonie» được thành
lập và quảng bá rộng rãi cho phương pháp trị bệnh của Mesmer. Cuộc cách
mạng Pháp đã đặt dấu chấm hết cho phòng khám của Mesmer ngày đó. Ông bị
mất hết tài sản và quay trở lại quê hương Bodensee của mình. Một số tài liệu của
Mỹ thì cho rằng ông đã trở nên rất nghèo khó, tuy nhiên, thực tế lại có vẻ không
hẳn là như vậy.
Với một khoản lương hưu của Pháp, ông đã đi tiếp cuộc đời một cách thanh
thản. Cho đến năm ông 75 tuổi thì ông lại được một bác sĩ người Thụy Sĩ tái
phát hiện. Một bệnh viện nhân điện ở Béc Lin đã mời ông về làm giám đốc
nhưng ông đã từ chối với lý do tuối tác đã cao.
Ngày mùng 5 tháng 3 năm 1815, ông đã trút hơi thở cuối cùng tại căn nhà
mà hiện nay chính là nhà bảo tàng rượu vang của thành phố Meersburg.
Puységur.
Phương pháp điều trị nhân điện tại những quốc gia nói tiếng Đức.
Tại những quốc gia nói tiếng Đức, phương pháp nhân điện được phổ biến
rộng rãi, đó là nhờ công một người bạn của Goethe, cha đạo dòng tin lành người
Zürich Pastor, Johann Caspar Lavater.
Tất cả những ca trị liệu và kinh nghiệm về phương pháp Nhân điện của Bác
sĩ Wienholt, đã được ông tổng hợp lại và xuất bản thành một tài liệu quý của
ngành y gồm ba cuốn sách.
Ông đã có rất nhiều những bài viết liên quan và có nguồn gốc từ thuật gây
tê của Mesmer trước đó.
Đi đầu trong ứng dụng kỹ thuật trị liệu bằng liệu pháp Thôi miên và nhân
điện của Mesmer phải kể đến James Esdaile, một bác sỹ người Scotlen. Năm
1845, ông vốn đang là một nhân viên của công ty Đông Ấn (East India
Company), thì được bổ nhiệm làm giám đốc một bệnh viện nhỏ tại Kalkutta.
Ông đã ghi chép lại đầy đủ những chi tiết của tất cả
các cuộc phẫu thuật từng được ông trực tiếp thực hiện
bằng phương pháp gây mê của Mesmer, trong đó có cả
những ca phẫu thuật cắt bỏ chân hoặc tay.
Vị phó thống đốc Băng-gan đã cho kiểm tra và thẩm định lại những kết quả
và những kết luận về phương pháp nhân điện của Esdaile, và ngay sau đó kỹ
thuật này đã được chính thức công nhận.
Ngay cả sau những năm 1846, khi mà khí ête và chloroform đã được đưa
vào sử dụng trong y học, thì bác sĩ Esdaile vẫn tiếp tục sử dụng kỹ thuật của
Mesmer, bởi theo ông kỹ thuật này sẽ làm cho quá trình lành bệnh của bệnh
nhân được tiến hành nhanh và tốt hơn. Tuy nhiên, thông thường Esdaile chỉ để
các cộng sự của mình thực hiện việc Thôi miên, còn ông thì tập trung hoàn toàn
vào việc phẫu thuật vì công việc đó cần rất nhiều thời gian.
James Braid
Lúc đầu Braid cho rằng Thôi miên là một dạng giống như giấc ngủ. Vì vậy,
ông gọi hiện tượng này là “Neurypnologie” (giấc ngủ thần kinh) và sau đó là
“hypnosis”, từ này bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp. Hypnos nghĩa là vị thần giấc ngủ.
Một thời gian ngắn trước khi qua đời, Braid đã thay đổi quan điểm của mình và
giải thích Thôi miên là “sự hoàn toàn tập trung và chú ý đồng thời là sự nâng
cao sức mạnh ước vọng”. Ông đã muốn thay thế khái niệm “hypnosis” bằng
“monoideismus” cho phù hợp. Nhưng lúc đó, từ “hypnosis” đã được phổ biến
quá sâu và rộng rãi.
Thôi miên tại Pháp (thế kỷ 19)
Tại Pháp ngày đó, Thôi miên được sử dụng chủ yếu tại bệnh biện
Salpêtrière. Đó là một bệnh viện thần kinh tại Paris, được xây dựng theo lệnh
của Vua Ludwigs XIV. Ngày nay, bệnh viện ấy vẫn thuộc trường Đại học mang
tên Hôpital Pitié Salpêtrière.
Jean-Martin Charcot
Là vị giáo sư y khoa tại Trường Đại học tổng
hợp Paris và là một trong những nhà thần kinh học
nổi tiếng và quan trọng nhất thời bấy giờ. Ông được
mời đến làm việc tại bệnh viện Salpêtrière vào năm
1862. Tại nơi đó, ông đã từng chữa bệnh, nghiên cứu
và giảng dạy trong nhiều năm ròng. Rất nhiều học
sinh của ông sau này đã trở thành những nhà thần
kinh học nổi tiếng như Babinski và Gilles de la
Jean Martin Charcot
(1825-1893)
Tourette.
Charcot đã từng chứng minh rằng chứng liệt hysteria (tên gọi ngày nay là
“rối loạn vận động phân ly”) sẽ được chữa khỏi bằng liệu pháp Thôi miên,
nhưng lại không thực hiện được với chứng liệt hữu cơ. Mặc dù Charcot đã có
công trong việc khiến thuật Thôi miên được xem xét một cách nghiêm túc với tư
cách là hiện tượng cần được nghiên cứu, nhưng lý thuyết mà ông đưa ra lại hoàn
toàn sai lầm. Ông chỉ nghiên cứu Thôi miên ở một số ít các bệnh nhân bị bệnh
hysteria, mà ông cũng chưa từng tiến hành Thôi miên họ. Ông chỉ giao nhiệm vụ
này cho những bác sĩ trợ lý của mình thực hiện.
Pierre Janet
Người từng làm việc dưới quyền Charcot tại bệnh
viện Salpêtrière, đã chỉ ra rằng, ba trạng thái của “grand
hypnotisme” mà Charcot đưa ra lại không hề có gì khác
biệt với bất kỳ những cách thức hành vi nào được những
bệnh nhân tiếp nhận từ nhà Thôi miên.
Tuy nhiên, chính ông cũng vẫn tiếp tục nghiên cứu về Thôi miên và phát
hiện ra rằng một số bệnh nhân khi được Thôi miên đã có những trải nghiệm rằng
mình là một người khác (chứng đa nhân cách hoặc theo cách nói hiện nay là bị
rối loại nhân cách phân ly).
Những công trình nghiên cứu của Janet không những chỉ gây ảnh hưởng
cho Freud và Breuer trong những nghiên cứu về hysteria, mà còn ảnh hưởng tới
cả tâm lý học cá thể của Adler và thuyết phức hợp của Jung.
bệnh đau hông (sciatica), khi mà người này đã từng được Hippolyte Bernheim
(1837-1919), giáo sư của viện Y học tại Nancy điều trị mà không khỏi, vì vậy
ngay sau đó bản thân Bernheim cũng đã nghĩ Liébeault chính là một trong số
những lang băm thời đó. Nhưng rồi sự việc lại diễn ra khác hắn…
tiếng như Forel và Bechterew. Rồi sau ngày mất của Charcot thì lý thuyết
trường Nancy được công nhận một cách hoàn toàn và đã hoạt động một cách
tích cực.
Emile Coué
(Người sáng lập ra môn tự ám thị hiện đại).
Câu tự ám thị nổi tiếng “Tất cả mọi lĩnh vực trong cuộc sống đối với tôi cứ
mỗi ngày một tốt đẹp hơn” chính là của Coué. Những tự ám thị kiểu này thường
bị các nhà phân thần học phê phán, vì họ cho rằng ám thị như thế thì chẳng khác
gì là ám thị cho tình thế hiện tại mỗi lúc một xấu đi.
Cũng giống như Mesmer và sau này là Milton Erickson, Coué đã trở thành
nhân vật được tôn thờ; ở một số nước đã có các hiệp hội Coué vẫn đang tiếp tục
phổ biến những tư tưởng của ông.
Sigmund Freud
“Người đã đão nấm mồ chôn thuật Thôi miên”
Sigmund Freud là người đầu tiên đã nghiên cứu về
Vô thức hay Bản Năng của con người bằng khoa học.
Tuy nhiên, theo tưởng tượng của ông về Vô thức hay
Bản năng thì nó lại chỉ giống như một món súp thập cẩm
của những động lực và những ức chế đã bị dồn nén mà
thành (nhất là những ức chế về sinh lý và những ức chế
của sự chán sống). Nhưng ngược lại, lý thuyết Thôi miên
ngày nay lại khẳng định rằng, Vô thức hay Bản năng con
Sigmund Freud
(1856-1939)
Người là một “người bạn” thân nhất, và hoàn thiện nhất
của chính chúng ta, vì thế mà ta chỉ cần phải lập trình làm sao cho đúng nữa mà
thôi.
Freud đã từng làm việc với Charcot vào những năm 1885-1886 và sau đó
với trường Nancy. Năm 1892 thì ông chính thức công bố đồng tình và đi theo lý
thuyết của trường phái Nancy. Việc sau này Freud quay lưng lại với thuật Thôi
miên đã từng được bàn luận rất nhiều. Nhưng chắc chắn qua việc đó, ông đã đẩy
thuật Thôi miên đi vào một “Giấc ngủ quên trong Rừng của nàng Công chúa”.
Nghề Thôi Miên trình diễn đã giúp cho thuật Thôi Miên không hoàn toàn
bị quên lãng…
Sau khi Sigmund Freud quay lưng lai với thuật
Thôi miên, thì ngành Thôi Miên y học đã bị rơi vào
“Giấc ngủ quên trong rừng của nàng Công chúa”.
Nhưng rất may, nghề Thôi Miên trình diễn đã giữ cho
Thôi Miên vẫn còn có một vị trí đứng như ngày nay.
Trong thời gian của hai cuộc chiến tranh thế giới
cũng như trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, ngành
Clark Leonard Hull
(1884-1952)
Thôi Miên đã trải qua được một giai đoạn phục hưng,
nhờ vào việc điều trị thành công cho những nạn nhân bị sốc đạn trái phá (rối
loạn sau chấn thương). Ở đây có thể kế đến các nhân
vật như Clark Leolard Hull và George Hoben
Estabrooks.
Tại khối nói tiếng Đức, kỹ thuật Thôi Miên của Erickson trước tiên được
đề cập tới trong tương quan với những kiểu ám thị gián tiếp và không ép buộc
thông qua những ẩn dụ. Tuy nhiên, Erickson cũng có thể thẳng thắn và độc
đoán, mỗi khi ông nhận thấy rằng bệnh nhân của mình đã có phản ứng tốt với
Thôi miên.
Erickson đã là một nhà trị liệu vô vùng sáng tạo và cống hiến rất nhiều cho
ngành Thôi Miên hiện đại ngày nay.
Dave Elman
(Nhà Thôi miên độc đoán và hiệu quả)
Elman là một nhà Thôi Miên trình diễn. Một số nguồn khác lại cho rằng bố ông
từng bị bệnh hiểm nghèo và được một nhà Thôi Miên trình diễn điều trị cho khỏi
bệnh. Sau đó, ông đã được đi theo và học nghề của người này.
Cách tiến hành của Dave Elman hoàn toàn ngược lại với Erickson, độc
đoán và thẳng thắn. Câu nói cửa miệng của Elman là “Người nào muốn được
thôi miên, thì bắt buộc phải nghe theo những ám thị. Chỉ có đơn giản là như vậy
thôi”.
Ormond McGill
(Cây đại thụ trong làng Thôi miên Mỹ).
Ormond McGill (1913-2005) là một nhà Thôi miên
trị liệu và nhà Thôi miên trình diễn nổi tiếng người Mỹ.
Ông là tác giả của hàng chục cuốn sách nổi tiếng trong đó phải kể đến các
cuốn sách có thể nói là kinh điển đó là “Bách khoa toàn thư mới về Thôi miên
biểu diễn”, “Bách khoa Thôi miên trị liệu của Mc Gill”, “Bách khoa sự thật về
Thôi miên trình diễn: chỉ dành cho các nhà ảo thuật” - được coi là kinh thánh
của Thôi miên trình diễn”, “Thôi miên và sự huyền bí ở Ấn Độ”….
Tuy nhiên, theo quan điểm của một số chuyên gia thì NLP chỉ là kiểu “bình
mới, rượu cũ” và giống như một chiếc bong bóng marketing. Đặc biệt Bandler
không có được một hình ảnh nghiêm túc cho lắm, vì phong cách sống rất khác
người của ông, và một Bản án đã từng treo trên đầu ông với tội danh giết người
vô cùng hiếm thấy , xảy ra năm 1988. Có lẽ chỉ là nhờ vào hệ thống luật pháp
phức tạp của Mỹ mà ông mới được xử trắng án. Những điều này đã tạo cho
Bandler một hình ảnh không mấy được nghiêm túc.
Milton Erickson đã nói về Bandler và Grinder “Họ muốn lấy ở tôi thứ nước
cốt, nhưng bây giờ họ chỉ nhận được cái vỏ không”.
NGH là một tổ chức Thôi miên uy tín không chỉ trong nước Mỹ mà có tầm
ảnh hưởng trên toàn thế giới. Chứng nhận của NGH là một trong những chứng
nhận có giá trị đối với những nhà thôi miên chuyên nghiệp. Để được nhận chứng
nhận này bạn phải trải qua các khóa đão tạo và bài kiểm tra nghiêm ngặt của
NGH.
Đóng góp to lớn của NGH, dưới thời của tiến sỹ Dwight F. Damon đó là
đưa Thôi miên trở thành một nghề riêng biệt như bao ngành nghề khác.
Hai ấn phẩm hàng năm và nổi tiếng, ngoài các chương trình đão tạo, hội
thảo, sách, đĩa…, đó là “The Journal of Hypnotism” và “The Hypno-Gram”.
Đây là hai ấn phẩm đầu tiên về lĩnh vực Thôi miên trên thế giới.
Các thành viên của NGH đều là những nhà Thôi miên và Thôi miên trị liệu
nổi tiếng. Danh sách rất dài, chỉ có thể kể ra ở đây một vài cái tên nổi tiếng như:
Rexford L. North, Dwight F. Damon, Don Mottin, Cal Banyan, Ron Eslinger…
Thông tin và những đóng góp của họ đối với lĩnh vực Thôi miên được đăng tải
trên trang web của NGH (ngh.net) và các trang cá nhân của các thành viên.
Bộ sách dày 551 trang, được chia thành 5 tập. Tập Một:
Bìa Bộ sách
Thôi Miên Thực Nghiệm 1; Tập Hai: Thôi Miên Thực Thôi-miên-học
Nghiệm 2; Tập Ba: Thôi Miên Yếu Lý Học Thượng; Tập Bốn: Thôi Miên Yếu
Lý Học Hạ; Tập năm: Thần giao cách cảm.
Bộ sách cũng là tiếng vang lớn và được đông đảo mọi người đón nhận,
được thể hiện khi ấn phẩm này được tái bản đến lần thứ tư.
Phạm Học Tân
Là một nhà Thôi miên sống ở đầu thế kỷ 20, ông đã có
25 năm kinh nghiệm trước khi xuất bản cuốn sách “Thuật
Thôi miên”. Không có nhiều thông tin để lại nhưng qua cuốn
sách cho chúng ta biết được rằng Phạm Học Tân có một hiểu
biết rất sâu và rộng về lĩnh vực thôi miên cũng như việc thực
Cuốn sách của
hành và ứng dụng của ông. Phạm Học Tân
Mặc dù còn nhiều hạn chế so với ngày nay bởi trình độ phát triển chung
của nền Thôi miên trên toàn thế giới nhưng với kiến thức hiểu biết của mình ông
đã làm nổi bật được tính khoa học của thôi miên. Nhưng điều đáng tiếc là Thôi
miên thời đó được xếp vào lĩnh vực Khoa học huyền bí nên chỉ ít người trong
tầng lớp trí thức và đam mê những điều huyền bí được biết đến và không được
phổ biến rộng rãi trong xã hội.
Cũng theo cuốn sách “Thuật thôi miên” có giới thiệu tác giả Phạm Học Tân
sẽ xuất bản cuốn sách thứ hai về chủ để Thôi miên đó là cuốn “Thôi miên thực
dụng” nhưng có lẽ là do thời gian và quá trình lưu trữ và truyền bá tác phẩm nên
hiện này cuốn sách này không còn thấy.
Thần Huyền
Là một nhà Thôi miên Việt Nam, nhưng không có
nhiều thông tin về ông. Thông tin ít ỏi về ông được biết
đến qua hai cuốn sách “Thôi miên là gì” và “Học Thôi
miên và thực hành” xuất bản đầu năm 1972.
Có thể, cũng có nhiều người nghiên cứu, thực hành về Thôi miên nhưng họ
không muốn công bố hoặc chỉ được ứng dụng trong một phạm vi nhất định nên
Thôi miên không được nhiều người biết đến.
Ông cũng là Nhà huấn luyện Thôi miên, là Nhà sáng lập Trường đão tạo
Thôi miên y khoa Tiếng Việt đầu tiên tại Berlin - CHLB Đức.
Năm 2011, ông thành lập Trung tâm Nghiên cứu Phát triển sức khoẻ Thể -
Tâm - Trí trực thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và sau đó
là Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng khoa học Thôi miên Việt Nam
trực thuộc liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam. Các thông tin về ông Quân
được đề cập chi tiết trên trang web thoimien.vn.
Công lao lớn nhất của ông Quân là đưa Thôi miên trở thành một bộ môn
khoa học được công nhận bởi luật pháp Việt Nam, đó là, cho ra đời Trung tâm
nghiên cứu phát triển sức khỏe Thể - Tâm - Trí. Qua đó, đưa Thôi miên đến
công chúng một cách khoa học; ứng dụng Thôi miên trong việc phát triển con
người, chữa bệnh và khai thác khả năng của bộ não và đặc biệt là ông đã đão tạo
ra được những Nhà Thôi miên y khoa trị liệu để hỗ trợ giúp đỡ mọi người trong
mọi lĩnh vực của cuộc sống bằng liệu pháp Thôi miên.
Ông cũng là người đóng góp công lớn trong việc hạn chế sự phát triển quá
mức lĩnh vực ngoại cảm ở Việt Nam.
Ông đã tạo ra một hệ thống kiến thức và tài liệu Thôi miên bằng tiếng Việt
phục vụ cho việc đão tạo các khóa học ngắn ngày ứng dụng trên nền tảng của
Thôi miên và các khóa học đão tạo Nhà Thôi miên y khoa trị liệu, và hệ thống
thông tin về thôi miên tương đối đầy đủ trên trang web thoimien.vn, nhưng vì
khối lượng công việc quá nhiều và giá thành các khóa học còn cao nên việc phổ
biến Thôi miên đến số đông mọi người còn bị hạn chế.
Những nhà Thôi miên và Thôi miên trị liệu “tự xưng”
Ngay sau những ồn ảo thuở ban đầu của Thôi miên Việt Nam, khi Thôi
miên còn đang trong thời gian khẳng định là một bộ môn khoa học được pháp
luật thừa nhận, nhiều người đã nhìn ra được tiềm năng to lớn của Thôi miên
nhưng lại muốn đi đường tắt nên họ đã tạo ra những Nhà Thôi miên và Thôi
miên trị liệu “tự xưng” theo một trong hai cách.
Thứ nhất, sang nước ngoài học một khóa đão tạo về Thôi miên và Thôi
miên trị liệu rồi về Việt Nam tự xưng là nhà Thôi miên hoặc Thôi miên trị liệu
mà chưa được sự chấp thuận bởi một đơn vị có thẩm quyền của Việt Nam.
Thứ hai, Một số doanh nghiệp, tổ chức mời một số Nhà thôi miên, thôi
miên trị liệu ở nước ngoài về đão tạo một vài chương trình trong khoảng thời
gian ngắn và cấp cho các học viên tham dự danh hiệu Nhà Thôi miên, Nhà Thôi
miên trị liệu, trong khi chính doanh nghiệp, tổ chức đó chưa được công nhận là
tổ chức được phép đão tạo nhà Thôi miên, nhà Thôi miên trị liệu.
Với những nhà Thôi miên, nhà Thôi miên trị liệu không được đão tạo kỹ
lưỡng và qua kỳ kiểm tra gắt gao dưới sự giám sát của của các đơn vị có thẩm
quyền được luật pháp chỉ định thì chất lượng đầu ra cũng chỉ các doanh nghiệp,
tổ chức đó biết mà thôi.
Những Nhà Thôi miên đã được đão tạo và chứng nhận tại Việt Nam
Mặc dù chưa thể được đưa vào lịch sử Thôi miên Việt Nam nhưng các nhà
Thôi miên được đão tạo và chứng nhận sau chương trình đão tạo Nhà Thôi miên
y khoa trị liệu dài ngày của Trung tâm nghiên cứu phát triển Thể - Tâm - Trí và
Trung tâm UNESCO nghiên cứu ứng dụng và phát triển Thôi miên Việt Nam,
dưới sự giảng dạy trực tiếp của ông Nguyễn Mạnh Quân, cũng đang miệt mài
góp phần để đưa Thôi miên dưới danh nghĩa là một bộ môn khoa học đến với
nhiều người hơn và ứng dụng Thôi miên và Thôi miên trị liệu trong việc hỗ trợ
trị liệu nâng cao sức khỏe và phát huy khả năng vô hạn của não bộ cũng như
trong việc phổ biến Thôi miên ra cộng đồng bằng nhiều hình thức khác nhau để
đưa Thôi miên trở thành một bộ môn được chấp nhận rộng rãi như các bộ môn
khoa học khác, xứng tầm với những giá trị to lớn mà Thôi miên có thể đem lại
cho xã hội như Thôi miên ở các nước phát triển trên thế giới.
Tài liệu tham khảo
1. Tài liệu nghiên cứu và đão tạo Thôi miên trị liệu trình độ 1&2 của Trung
tâm nghiên cứu phát triển sức khỏe Thể - Tâm - Trí.
2. Trang web: thoimien.vn; ngh.net
3. Wikipedia
4. Bộ sách “Thôi Miên Học” - Tân Sanh
5. Sách “Thuật Thôi miên” - Phạm Học Tân
6. Sách “Học Thôi miên và thực hành” - Thần huyền