You are on page 1of 21

Chương 1

Lịch sử của Thôi miên

Lịch sử Thôi miên thế giới


Bắt đầu kể đến giấc ngủ đền tại Ai Cập…

Giấc ngủ đền tại Ai Cập (500 năm trước CN). Có


những tài liệu viết rằng, thuật Thôi miên đã từng được
sử dụng trong đền thờ Serapis tại Memphis (Ai Cập)
và trong các đền thờ nữ thần Isis nằm dọc sông Nil.
Các thầy tu đã từng đưa người bệnh đi vào một giấc
ngủ khéo dài 9 ngày, “giấc ngủ từ tính”. Trong giấc
mơ, nữ thần Iris hiện ra và đưa cho người bệnh những
thông tin về bệnh tật của họ, đồng thời cho họ những lời khuyên để tự chữa
bệnh, khi ngủ dậy thì bệnh tật sẽ tự biến mất (truyền phép màu…)

Thời kỳ trước công nguyên


Tuỳ vào hệ thống đức tin, người ta có thể mô tả
việc chữa bệnh của Chúa Jesus và những người cùng
thời là một “phép màu” hay là do bản thân những ám
thị và lòng tin vào đấng bề trên mà sức đề kháng của
cơ thể đã chiến thắng được mọi bệnh tật.

Những cuốn kinh Cổ bản Quantan được tìm thấy


tại vùng Biển Đen năm 1947 cũng có ghi lại rằng, Chúa Jesus

Jesus đã từng sống hàng năm với người xứ Essener, một cộng đồng người theo
đạo Kabbalah.

Vì vậy người ta đoán rằng người xứ Essener thông qua đó đã hiểu biết rất
rộng về các môn trị bệnh bằng tự nhiên, và những phép thuật…
Thời trung cổ “tăm tối”
Có rất ít nguồn thông tin về Thôi miên xuất phát từ
thời Trung cổ. Một trong những nguyên nhân, đó là, theo
toà án Dị giáo (theo đạo Thiên Chúa Giáo) thời đó thì tất
cả mọi thuật chữa bệnh có được thành công là do phép của
ma quỷ (ma thuật) và có lẽ vì thế mà mọi ghi chép và
thông tin về thuật chữa bệnh đều bị đốt, hủy.

Paracelsus, vị bác sĩ người Thuỵ Sĩ thời đó đã nổi Paracelsus (1493-1541)

tiếng về việc biết đến tác dụng chữa bệnh bằng những ám thị tích cực. Vị bác sĩ
đã từng đi nhiều và biết rộng này tin rằng người bác sĩ tốt nhất của mỗi con
người chính là “người bác sĩ trong tâm” của chính họ. Với sự khám phá này ông
đã tiến xa hơn rất nhiều so với những đồng nghiệp cùng thời.

Ông miêu tả và phân tích việc sử dụng quả cầu pha lê của những thầy tu và
thông qua đó đã tạo ra sự thư giãn tuyệt đối (giấc ngủ Thôi miên…). Trong giấc
ngủ đó, những ám thị tích cực đã được Vô thức chấp nhận, và vì vậy, việc chữa
bệnh đã được tiến hành thành công (khỏi bệnh). Ông đặc biệt khuyên mọi người
nên sử dụng liệu pháp Thôi miên để điều trị cho các bệnh thần kinh và liên quan
tới thần kinh.

Quỷ ám (thế kỷ 18)


Johann Joseph Gassner (1727-1779), một cha đạo
tại một khu làng nhỏ vùng Ostschweiz (đông Thụy Sĩ)
thường xuyên bị đau đầu và chóng mặt. Ông cho rằng
quỷ sứ đã ám ông và làm cho ông bị đau ốm, vì thế ông
đã sử dụng các nghi thức phù phép của công giáo (đạo
Thiên Chúa Giáo) để tự chữa bệnh cho mình. Sau một
thời gian, ông đã hoàn toàn khỏi bệnh.Vì thế, ông đã áp
dụng những nghi thức này để chữa bệnh cho mọi người
khác và trở thành một nhà trị bệnh được mọi người vô cùng tin tưởng và nổi
tiếng thời đó. Bức tranh đã ghi lại cảnh Gassner đang đuổi một con ma ác ra
khỏi cơ thể một bênh nhân (được miêu tả là một con rồng nhỏ màu đen) trong
lâu đãi Meerseburg tại Đức.

Franz Anton Mesmer

Mùa thu năm 1775 lãnh chúa vùng Bayern, Max Joseph đã lập ra một hội
đồng đặc trách, chịu trách nhiệm điều tra và nghiên cứu về những việc thực
hành và hành nghề phép thuật.

Trong số các thành viên đó đã có Franz Anton


Mesmer, người đã nổi tiếng về thuật nhân điện của mình
sau này. Ông đã khẳng định, sự bố trí không hợp lý điện
trường của cơ thể đã là nguyên nhân chính dẫn đến bệnh tật
mà cơ thể con người bị mắc phải, chính vì vậy, ông đã sử
dụng biện pháp thiết lập lại sự cân bằng của điện trường cơ
Franz Anton Mesmer
(1734-1815)
thể, bằng cách dùng tay gạt trên cơ thể người bệnh để điều
hòa điện trường trong cơ thể của họ.

Mesmer sinh ngày 23 tháng 5 năm 1734 tại Iznang, vùng ven bờ hồ
Bodensee của Đức. Ông đã theo học Y khoa tại Viên và tại đó đã cưới một bà vợ
hơn tuổi nhưng giàu có.

Những buổi dạ hội của ông đã được mọi người rất ưa chuộng. Trong số
những người tham gia có cả gia đình Mozart vẫn thường tới tham dự. Thậm chí
vở nhạc kịch “Bastien và Bastienne” của Mozart đã được trình diễn lần đầu tiên
tại vườn của gia đình Mesmer. Cuộc sống nên thơ của Mesmer bị hoàn toàn thay
đổi khi ông bị gán vào một vụ Scandal khi chữa trị cho một phụ nữ trẻ bị mù.
Nữ bệnh nhân của ông, cô Maria Theresa Paradis là con gái vị thư ký riêng của
nữ lãnh chúa. Maria Theresa Pradis đã không khỏi bệnh và sau đó cô đã được
nhận khoản lương hưu từ nữ lãnh chúa cho phần khả năng và năng khiếu của
mình, nhưng lại cũng có phán đoán cho rằng, đó chỉ vì lòng thương hại mà thôi.

Theo như hiểu biết ngày nay thi căn bệnh cua Maria Theresa Pradis là một
dạng bệnh mù hysteria (không có những nguyên nhân hữu cơ), trong ICD
(International Statistical Classification of Diseases and Related Health
Problems) bệnh này được gọi là “rối loạn nhận thức phân ly”.

Mesmer bị buộc tội là lang băm và phải rời khỏi Viên vào năm 1778.
Mesmer chuyển đến Paris, nơi ông đã cùng với một đồng nghiệp người Pháp mở
một “phòng điều trị bằng phương pháp nhân điện”.

Dòng người đổ về phòng khám của Mesmer tại Paris mỗi lúc một đông,
đông đến nỗi Mesmer đã phải vận dụng đến những phương pháp vô cùng khác
thường:

Mesmer đổ đầy nước, mạt sắt và mảnh thuỷ tinh vào một cái bồn bằng gỗ.
Điện từ do Mesmer truyền vào bồn sẽ cùng lúc chữa lành bệnh cho tất cả các
bệnh nhân.

Trong trường hợp này, theo cách hiểu ngày nay thì sức mạnh của ám thị từ
những lời nói của Mesmer và lòng tin tuyệt đối vào vị “Thầy thuốc kỳ tài”
Mesmer của những bệnh nhân, đã là nguyên nhân chủ yếu làm cho tất cả mọi
người gần như cùng lúc khỏi bệnh (tự ám thị…)

Vào tháng ba năm 1780 nhà vua Pháp Ludwig XVI đã thành lập một hội
đồng để điều tra về việc chữa bệnh của Mesmer. Hội đồng đã khẳng định những
hiện tượng nhân điện chỉ là những ảo tưởng, nhưng hoàn toàn đồng ý công nhận
và không hề nghi ngờ gì về kết quả và những thành công trong việc chữa bệnh
của Mesmer. Mặc dù đã bị điều tra nhưng phương pháp trị liệu nhân điện của
Mesmer thậm chí lại bắt đầu tiếp tục lan rộng hơn. Tại nhiều thành phố của Pháp
ngày đó đã có những Hiệp hội với cái tên «Sociétés de l‘Harmonie» được thành
lập và quảng bá rộng rãi cho phương pháp trị bệnh của Mesmer. Cuộc cách
mạng Pháp đã đặt dấu chấm hết cho phòng khám của Mesmer ngày đó. Ông bị
mất hết tài sản và quay trở lại quê hương Bodensee của mình. Một số tài liệu của
Mỹ thì cho rằng ông đã trở nên rất nghèo khó, tuy nhiên, thực tế lại có vẻ không
hẳn là như vậy.
Với một khoản lương hưu của Pháp, ông đã đi tiếp cuộc đời một cách thanh
thản. Cho đến năm ông 75 tuổi thì ông lại được một bác sĩ người Thụy Sĩ tái
phát hiện. Một bệnh viện nhân điện ở Béc Lin đã mời ông về làm giám đốc
nhưng ông đã từ chối với lý do tuối tác đã cao.

Ngày mùng 5 tháng 3 năm 1815, ông đã trút hơi thở cuối cùng tại căn nhà
mà hiện nay chính là nhà bảo tàng rượu vang của thành phố Meersburg.

Marquis de Puységur (1751-1825)

Trong khi cách chữa bệnh của Mesmer có vẻ ầm ĩ


(cái được gọi là “khủng hoảng từ” bao gồm những co giật
dữ dội và những tiếng la hét lớn), thì người học trò của
ông, ông Marquis de Puységur lại nói đến “khủng hoảng
lặng” hoặc “giấc ngủ từ”. Theo cách nhìn ngày nay, ngay
ở đây ta cũng đã thấy được sức mạnh siêu phàm của ám
thị. Khủng hoảng diễn ra đúng như những ám thị của Marquis de Puységur (1751-1825)

Puységur.

Phương pháp điều trị nhân điện tại những quốc gia nói tiếng Đức.
Tại những quốc gia nói tiếng Đức, phương pháp nhân điện được phổ biến
rộng rãi, đó là nhờ công một người bạn của Goethe, cha đạo dòng tin lành người
Zürich Pastor, Johann Caspar Lavater.

Johann Caspar Lavater

Lavater đã học cách trị liệu bằng phương pháp


Nhân điện từ năm 1785 tại Genf và đã áp dụng để chữa
khỏi bệnh cho chính vợ của ông, bà đã từng bị chứng
đau nửa đầu, thấp khớp và chứng co thắt dạ dày.

Năm 1786, Lavater được bầu là nhà thuyết giáo của


thành phố Bremen và ông đã được hai bác sĩ Arnold
Wienholt và Heinrich Wilhelm Mathias Olbers hết lòng
Johann Caspar Lavater (1741-1801)
sùng bái. Vì dựa vào những hướng dẫn và những
phương pháp chữa bệnh mà ông Lavater dạy. Hai ông đã điều trị thành công và
khỏi bệnh cho những bệnh nhân của mình thông qua những phương pháp trị liệu
mà họ đã học được của Lavater.

Tất cả những ca trị liệu và kinh nghiệm về phương pháp Nhân điện của Bác
sĩ Wienholt, đã được ông tổng hợp lại và xuất bản thành một tài liệu quý của
ngành y gồm ba cuốn sách.

Vương quốc Anh - Từ Nhân điện đến thuật Thôi miên.


Năm 1829, nhà hoá học người Anh Richard
Chenevix (1774-1830) đã từng trình diễn tại Luân Đôn
phương pháp nhân điện mà ông đã học được của nhà
truyền giáo kiêm nhà nhân điện học nổi tiếng người Bồ
Đão Nha, Abbé Faria, dưới sự tham gia theo dõi và học
hỏi của nhiều bác sĩ khắp nơi. Trong số đó đã có cả giáo
sư, bác sĩ John Elliotson.
John Elliotson (1791-1868)

Sau đó, vị giáo sư y khoa của trường đại học tổng


hợp London, John Elliotson đã tiến hành các ca điều trị bằng nhân điện và đưa
phương pháp trị liệu bằng nhân điện vào bệnh viện trường đại học (University
College Hospital) để chữa bệnh.

Ông đã có rất nhiều những bài viết liên quan và có nguồn gốc từ thuật gây
tê của Mesmer trước đó.

Đi đầu trong ứng dụng kỹ thuật trị liệu bằng liệu pháp Thôi miên và nhân
điện của Mesmer phải kể đến James Esdaile, một bác sỹ người Scotlen. Năm
1845, ông vốn đang là một nhân viên của công ty Đông Ấn (East India
Company), thì được bổ nhiệm làm giám đốc một bệnh viện nhỏ tại Kalkutta.

Ông đã ghi chép lại đầy đủ những chi tiết của tất cả
các cuộc phẫu thuật từng được ông trực tiếp thực hiện
bằng phương pháp gây mê của Mesmer, trong đó có cả
những ca phẫu thuật cắt bỏ chân hoặc tay.
Vị phó thống đốc Băng-gan đã cho kiểm tra và thẩm định lại những kết quả
và những kết luận về phương pháp nhân điện của Esdaile, và ngay sau đó kỹ
thuật này đã được chính thức công nhận.

Ngay cả sau những năm 1846, khi mà khí ête và chloroform đã được đưa
vào sử dụng trong y học, thì bác sĩ Esdaile vẫn tiếp tục sử dụng kỹ thuật của
Mesmer, bởi theo ông kỹ thuật này sẽ làm cho quá trình lành bệnh của bệnh
nhân được tiến hành nhanh và tốt hơn. Tuy nhiên, thông thường Esdaile chỉ để
các cộng sự của mình thực hiện việc Thôi miên, còn ông thì tập trung hoàn toàn
vào việc phẫu thuật vì công việc đó cần rất nhiều thời gian.

James Braid

Từ giữa thế kỷ 19, việc nhận thức về Thôi miên


bắt đầu thay đổi và đã được hiểu đó là sức mạnh nội
lực từ phía bệnh nhân, chứ không phải là “sức mạnh
ngoại lực” được phát ra từ nhà Thôi miên, theo cách
hiểu trước đó. Một trong những người đầu tiên khám
phá và giải thích “giấc ngủ từ” là những quá trình nội
lực của chính người bệnh, đó là vị Bác sĩ người Scốt-
len James Braid, người đang hành nghề chữa bệnh tại James Braid (1795-1860)

thành phố Manchester tại Anh quốc lúc đó.

Lúc đầu Braid cho rằng Thôi miên là một dạng giống như giấc ngủ. Vì vậy,
ông gọi hiện tượng này là “Neurypnologie” (giấc ngủ thần kinh) và sau đó là
“hypnosis”, từ này bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp. Hypnos nghĩa là vị thần giấc ngủ.
Một thời gian ngắn trước khi qua đời, Braid đã thay đổi quan điểm của mình và
giải thích Thôi miên là “sự hoàn toàn tập trung và chú ý đồng thời là sự nâng
cao sức mạnh ước vọng”. Ông đã muốn thay thế khái niệm “hypnosis” bằng
“monoideismus” cho phù hợp. Nhưng lúc đó, từ “hypnosis” đã được phổ biến
quá sâu và rộng rãi.
Thôi miên tại Pháp (thế kỷ 19)
Tại Pháp ngày đó, Thôi miên được sử dụng chủ yếu tại bệnh biện
Salpêtrière. Đó là một bệnh viện thần kinh tại Paris, được xây dựng theo lệnh
của Vua Ludwigs XIV. Ngày nay, bệnh viện ấy vẫn thuộc trường Đại học mang
tên Hôpital Pitié Salpêtrière.

Jean-Martin Charcot
Là vị giáo sư y khoa tại Trường Đại học tổng
hợp Paris và là một trong những nhà thần kinh học
nổi tiếng và quan trọng nhất thời bấy giờ. Ông được
mời đến làm việc tại bệnh viện Salpêtrière vào năm
1862. Tại nơi đó, ông đã từng chữa bệnh, nghiên cứu
và giảng dạy trong nhiều năm ròng. Rất nhiều học
sinh của ông sau này đã trở thành những nhà thần
kinh học nổi tiếng như Babinski và Gilles de la
Jean Martin Charcot
(1825-1893)
Tourette.

Charcot đã từng chứng minh rằng chứng liệt hysteria (tên gọi ngày nay là
“rối loạn vận động phân ly”) sẽ được chữa khỏi bằng liệu pháp Thôi miên,
nhưng lại không thực hiện được với chứng liệt hữu cơ. Mặc dù Charcot đã có
công trong việc khiến thuật Thôi miên được xem xét một cách nghiêm túc với tư
cách là hiện tượng cần được nghiên cứu, nhưng lý thuyết mà ông đưa ra lại hoàn
toàn sai lầm. Ông chỉ nghiên cứu Thôi miên ở một số ít các bệnh nhân bị bệnh
hysteria, mà ông cũng chưa từng tiến hành Thôi miên họ. Ông chỉ giao nhiệm vụ
này cho những bác sĩ trợ lý của mình thực hiện.

Pierre Janet
Người từng làm việc dưới quyền Charcot tại bệnh
viện Salpêtrière, đã chỉ ra rằng, ba trạng thái của “grand
hypnotisme” mà Charcot đưa ra lại không hề có gì khác
biệt với bất kỳ những cách thức hành vi nào được những
bệnh nhân tiếp nhận từ nhà Thôi miên.
Tuy nhiên, chính ông cũng vẫn tiếp tục nghiên cứu về Thôi miên và phát
hiện ra rằng một số bệnh nhân khi được Thôi miên đã có những trải nghiệm rằng
mình là một người khác (chứng đa nhân cách hoặc theo cách nói hiện nay là bị
rối loại nhân cách phân ly).

Những công trình nghiên cứu của Janet không những chỉ gây ảnh hưởng
cho Freud và Breuer trong những nghiên cứu về hysteria, mà còn ảnh hưởng tới
cả tâm lý học cá thể của Adler và thuyết phức hợp của Jung.

Ambroise-Auguste Liébeault & Hippolyte Bernheim


Tại thành phố Nancy có một vị bác sĩ địa phương
tên là Ambroise-Liébeault. Ông đã sử dụng thành công
liệu pháp Thôi miên để chữa bệnh sau khi đọc xong
cuốn “Neurypnology” của James Braid. Để không bị
mang tiếng là lang băm, ông đã không lấy tiền của bệnh
nhân khi sử dụng Thôi miên để điều trị. Đối với các
đồng nghiệp của ông thì Ambroise Liébeault lại là người
luôn không có cùng quan điểm.
Ambroise-Auguste Liébeault
Năm 1882, ông đã giúp một bệnh nhân thoát khỏi (1823-1904)

bệnh đau hông (sciatica), khi mà người này đã từng được Hippolyte Bernheim
(1837-1919), giáo sư của viện Y học tại Nancy điều trị mà không khỏi, vì vậy
ngay sau đó bản thân Bernheim cũng đã nghĩ Liébeault chính là một trong số
những lang băm thời đó. Nhưng rồi sự việc lại diễn ra khác hắn…

Giáo sư Bernheim đã bị thuyết phục bởi những kết


quả nghiên cứu và công việc thưc tế của Liébeault, vì
vậy hai người đã tiến tới cộng tác và bắt đầu cho những
công việc sau đó. Trường dậy Thôi miên của thành phố
Nancy cũng từ đó ra đời và cuốn sách của Bernheim về
Thôi miên xuất bản năm 1886 đã thu được một thành
công lớn.
Theo lý thuyết của Bernheim thì Thôi miên là một trạng thái nâng cao sư
cảm thụ, và được tạo ra bởi những ám thị, Quan điểm
Hippolyte Bernheim
này đã được sự đồng tình của các bác sĩ tâm thần nổi (1837-1919)

tiếng như Forel và Bechterew. Rồi sau ngày mất của Charcot thì lý thuyết
trường Nancy được công nhận một cách hoàn toàn và đã hoạt động một cách
tích cực.

Emile Coué
(Người sáng lập ra môn tự ám thị hiện đại).

Vốn là một dược sỹ đã nghiên cứu rất kỹ các tài


liệu của trường Nancy, ông cũng khẳng định rằng chính
ông vẫn thường làm cho một số loại thuốc được trở nên
công hiệu hơn khi ông nói với người sử dụng thuốc
những câu như: “Đây là thuốc đặc hiệu, vì vậy sức khỏe
của ngài sẽ rất nhanh bình phục.”

Coué cũng được cho là người đầu tiên đã thử


Émile Coué (187-1926)
nghiệm hiệu ứng Placebo (giả dược) bằng cách đưa cho
một nữ bệnh nhân một thứ thuốc hoàn toàn không có giá trị dược học và nói với
người bệnh, đó là loại thuốc đau đầu tốt nhất trên thị trường, sau khi sử dụng
xong, nữ bệnh nhân đó vẫn khỏi bệnh mà không hề biết đó chỉ là thuốc giả…

Câu tự ám thị nổi tiếng “Tất cả mọi lĩnh vực trong cuộc sống đối với tôi cứ
mỗi ngày một tốt đẹp hơn” chính là của Coué. Những tự ám thị kiểu này thường
bị các nhà phân thần học phê phán, vì họ cho rằng ám thị như thế thì chẳng khác
gì là ám thị cho tình thế hiện tại mỗi lúc một xấu đi.

Cũng giống như Mesmer và sau này là Milton Erickson, Coué đã trở thành
nhân vật được tôn thờ; ở một số nước đã có các hiệp hội Coué vẫn đang tiếp tục
phổ biến những tư tưởng của ông.

Sigmund Freud
“Người đã đão nấm mồ chôn thuật Thôi miên”
Sigmund Freud là người đầu tiên đã nghiên cứu về
Vô thức hay Bản Năng của con người bằng khoa học.
Tuy nhiên, theo tưởng tượng của ông về Vô thức hay
Bản năng thì nó lại chỉ giống như một món súp thập cẩm
của những động lực và những ức chế đã bị dồn nén mà
thành (nhất là những ức chế về sinh lý và những ức chế
của sự chán sống). Nhưng ngược lại, lý thuyết Thôi miên
ngày nay lại khẳng định rằng, Vô thức hay Bản năng con
Sigmund Freud
(1856-1939)
Người là một “người bạn” thân nhất, và hoàn thiện nhất
của chính chúng ta, vì thế mà ta chỉ cần phải lập trình làm sao cho đúng nữa mà
thôi.

Freud đã từng làm việc với Charcot vào những năm 1885-1886 và sau đó
với trường Nancy. Năm 1892 thì ông chính thức công bố đồng tình và đi theo lý
thuyết của trường phái Nancy. Việc sau này Freud quay lưng lại với thuật Thôi
miên đã từng được bàn luận rất nhiều. Nhưng chắc chắn qua việc đó, ông đã đẩy
thuật Thôi miên đi vào một “Giấc ngủ quên trong Rừng của nàng Công chúa”.

Nghề Thôi Miên trình diễn đã giúp cho thuật Thôi Miên không hoàn toàn
bị quên lãng…
Sau khi Sigmund Freud quay lưng lai với thuật
Thôi miên, thì ngành Thôi Miên y học đã bị rơi vào
“Giấc ngủ quên trong rừng của nàng Công chúa”.
Nhưng rất may, nghề Thôi Miên trình diễn đã giữ cho
Thôi Miên vẫn còn có một vị trí đứng như ngày nay.

Bên cạnh rất nhiều những nhân vật khác, có lẽ


phải kể đến nhà Thôi Miên trình diễn người Đan
Carl Hansen (1833-1897)
Mạch, ông Carl Hansen (1833-1897). Qua những buổi
trình diễn khắp nơi trên thế giới của ông đã khiến nhiều nhà khoa học lại bắt đầu
tìm hiểu và nghiên cứu lại hiện tượng Thôi Miên.
Thuật Thôi Miên tại Hoa Kỳ (thế kỷ 20)
Clark Hull là một trong những nhà tâm lý học lớn
của thế kỷ 20 và một nhà theo thuyết hành vi một cách
triệt để. Cuốn sách “Hypnosis and Suggestibility” đã
được xem là tiếng pháo hiệu xuất phát cho ngành
nghiên cứu Thôi Miên hiện đại.

Trong thời gian của hai cuộc chiến tranh thế giới
cũng như trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, ngành
Clark Leonard Hull
(1884-1952)
Thôi Miên đã trải qua được một giai đoạn phục hưng,
nhờ vào việc điều trị thành công cho những nạn nhân bị sốc đạn trái phá (rối
loạn sau chấn thương). Ở đây có thể kế đến các nhân
vật như Clark Leolard Hull và George Hoben
Estabrooks.

Estabrooks là giám đốc khoa tâm lý học tại trường


Đại học tổng hợp Colgate, ông đã trở nên nổi tiếng một
cách đáng ngờ, vì người ta cho rằng, ông đã sử dụng kỹ
thuật tẩy Não cho những Điệp viên của Chính phủ và George Hoben Estabrooks
(1885-1973)
lập trình “chống lại ý muốn của họ” trong thế chiến thứ
hai. Estabrooks có viết hai tác phẩm quan trọng đó là: “Man the Mechanical
Misfit” (1941) và “Hypnotism” (1944).

Milton Hyland Erickson - Bậc thầy về Thôi Miên của thế kỷ 20


Kể từ thời Franz Anton Mesmer, không có một nhà
trị liệu bằng liệu pháp Thôi Miên nào đã tạo được một
huyền thoại như vị bác sĩ tâm thần người Mỹ gốc Đức
Milton Erickson. Điều này có lẽ không chỉ bởi Jay Haley,
người đã trực tiếp viết cuốn sách nói về các kỹ thuật của
Erickson vào năm 1967 hay bởi hai học trò của ông là
Ernest Rossi và Jeffrey Zeig, những người đã luôn luôn

Milton Hyland Erickson


(1901-1980)
quả quyết bằng mọi cách để nâng cái tính cách tầm phào của Erickson lên mức
thiên tài.

Tại khối nói tiếng Đức, kỹ thuật Thôi Miên của Erickson trước tiên được
đề cập tới trong tương quan với những kiểu ám thị gián tiếp và không ép buộc
thông qua những ẩn dụ. Tuy nhiên, Erickson cũng có thể thẳng thắn và độc
đoán, mỗi khi ông nhận thấy rằng bệnh nhân của mình đã có phản ứng tốt với
Thôi miên.

Erickson đã là một nhà trị liệu vô vùng sáng tạo và cống hiến rất nhiều cho
ngành Thôi Miên hiện đại ngày nay.

Dave Elman
(Nhà Thôi miên độc đoán và hiệu quả)

Có rất ít tài liệu nói về tiểu sử của Dave Elman.


Tuy nhiên, nhiều chuyên gia về Thôi Miên lại cho rằng
ông đã đóng một vai trò rất quan trọng trong lịch sử của
ngành Thôi Miên. Elman là người pha trò và dẫn chương
trình trên đãi phát thanh, trước khi ông cống hiến cuộc
đời mình cho việc giảng dạy Thôi Miên cho các bác sĩ
và nha sĩ.
Dave Elman
Theo một số nguồn tài liệu của Mỹ thì chính bố của (1900-1967)

Elman là một nhà Thôi Miên trình diễn. Một số nguồn khác lại cho rằng bố ông
từng bị bệnh hiểm nghèo và được một nhà Thôi Miên trình diễn điều trị cho khỏi
bệnh. Sau đó, ông đã được đi theo và học nghề của người này.

Cách tiến hành của Dave Elman hoàn toàn ngược lại với Erickson, độc
đoán và thẳng thắn. Câu nói cửa miệng của Elman là “Người nào muốn được
thôi miên, thì bắt buộc phải nghe theo những ám thị. Chỉ có đơn giản là như vậy
thôi”.

Ormond McGill
(Cây đại thụ trong làng Thôi miên Mỹ).
Ormond McGill (1913-2005) là một nhà Thôi miên
trị liệu và nhà Thôi miên trình diễn nổi tiếng người Mỹ.

Sinh ra ở Palo Alto, California , McGill bắt đầu


thích ma thuật khi còn nhỏ, và sau này được coi là huyền
thoại trong giới ma thuật. Sự nghiệp chính của ông là nhà
ảo thuật và nhà Thôi miên biểu diễn du hành khắp nơi Ormond McGill
(1913-2005)
trên thế giới và cũng là một nhà Thôi miên trị liệu lành
nghề và giảng dạy về Thôi miên trị liệu cho đến cuối đời.

Ông là tác giả của hàng chục cuốn sách nổi tiếng trong đó phải kể đến các
cuốn sách có thể nói là kinh điển đó là “Bách khoa toàn thư mới về Thôi miên
biểu diễn”, “Bách khoa Thôi miên trị liệu của Mc Gill”, “Bách khoa sự thật về
Thôi miên trình diễn: chỉ dành cho các nhà ảo thuật” - được coi là kinh thánh
của Thôi miên trình diễn”, “Thôi miên và sự huyền bí ở Ấn Độ”….

NLP - Bandler và Grinder


Đầu thập kỷ 70, hai nhân vật người Mỹ là nhà ngôn
ngữ học John Grinder, và nhà tâm lý học Richard Bandler
đã tìm hiểu rất kỹ lưỡng nhiều nhà trị liệu, và những
phương pháp trị liệu của họ: trong đó có vị bác sĩ kiêm
nhà trị liệu bằng Thôi Miên người Mỹ gốc Đức Milton
Erickson, và cả nữ trị liệu gia về gia đình Virginia Satir
và nhà trị liệu gestalt Fritz Perls.
John Grinder (1940)
Khởi đầu Bandler và Grinder chỉ đề cập đến cái gọi
là “Modelling of Excellence”, sự copy những thành tích và đỉnh cao. Thế nhưng
chính từ đây lại hình thành một lĩnh vực lớn và hoàn toàn mới mẻ trong phạm vi
của ngành tâm lý trị liệu.

Đó là môn lập trình thần kinh-ngôn ngữ học (NLP).

Lập trình thần kinh-ngôn ngữ học (NLP) - Khen


ngợi và chỉ trích

Richard Bandler (1950)


Cái tinh tuý của NLP lại thật sự không phải là kỹ thuật. Chúng phần lớn
dựa vào những trường phái trị liệu đã có. Công lao của Bander và Grinder là
việc đưa ra những kết quả tức thời và quan điểm đứng đằng sau liệu pháp NLP:
Mọi người chúng ta đều sở hữu mọi nguồn lực cần có để khiến chúng ta thay
đổi, và nhà trị liệu chỉ giúp bệnh nhân của mình định hướng tốt hơn trên tấm bản
đồ tâm linh của chính mình mà thôi…

Tuy nhiên, theo quan điểm của một số chuyên gia thì NLP chỉ là kiểu “bình
mới, rượu cũ” và giống như một chiếc bong bóng marketing. Đặc biệt Bandler
không có được một hình ảnh nghiêm túc cho lắm, vì phong cách sống rất khác
người của ông, và một Bản án đã từng treo trên đầu ông với tội danh giết người
vô cùng hiếm thấy , xảy ra năm 1988. Có lẽ chỉ là nhờ vào hệ thống luật pháp
phức tạp của Mỹ mà ông mới được xử trắng án. Những điều này đã tạo cho
Bandler một hình ảnh không mấy được nghiêm túc.

Milton Erickson đã nói về Bandler và Grinder “Họ muốn lấy ở tôi thứ nước
cốt, nhưng bây giờ họ chỉ nhận được cái vỏ không”.

Hiệp hội Thôi miên quốc gia Mỹ - NGH


Được thành lập năm 1950 tại Boston, bang Massachusetts bởi tiến sỹ
Rexford L. North và những nhà Thôi miên tâm huyết. Đến nay, NGH đã có đã
có trên 180.000 thành viên ở 89 quốc gia và vẫn đang tiếp tục gia tăng. Chủ tịch
hiện nay của NGH là tiến sỹ Dwight F. Damon - từng là trợ lý đầu tiên cho tiến
sỹ Rexford L. North.

NGH là một tổ chức Thôi miên uy tín không chỉ trong nước Mỹ mà có tầm
ảnh hưởng trên toàn thế giới. Chứng nhận của NGH là một trong những chứng
nhận có giá trị đối với những nhà thôi miên chuyên nghiệp. Để được nhận chứng
nhận này bạn phải trải qua các khóa đão tạo và bài kiểm tra nghiêm ngặt của
NGH.

Đóng góp to lớn của NGH, dưới thời của tiến sỹ Dwight F. Damon đó là
đưa Thôi miên trở thành một nghề riêng biệt như bao ngành nghề khác.
Hai ấn phẩm hàng năm và nổi tiếng, ngoài các chương trình đão tạo, hội
thảo, sách, đĩa…, đó là “The Journal of Hypnotism” và “The Hypno-Gram”.
Đây là hai ấn phẩm đầu tiên về lĩnh vực Thôi miên trên thế giới.

Các thành viên của NGH đều là những nhà Thôi miên và Thôi miên trị liệu
nổi tiếng. Danh sách rất dài, chỉ có thể kể ra ở đây một vài cái tên nổi tiếng như:
Rexford L. North, Dwight F. Damon, Don Mottin, Cal Banyan, Ron Eslinger…
Thông tin và những đóng góp của họ đối với lĩnh vực Thôi miên được đăng tải
trên trang web của NGH (ngh.net) và các trang cá nhân của các thành viên.

Lịch sử Thôi miên Việt Nam


Lịch sử Thôi miên thế giới vốn đã thăng trầm, có lúc tưởng như không còn
cơ hội để phát triển, nhưng đã được hồi phục và phát triển rực rỡ. Lịch sử thôi
miên Việt Nam có lẽ còn ảm đạm hơn nhiều lần. Có thể nói, Thôi miên tại Việt
Nam vẫn còn đang nằm trong bức màn che phủ của những điều huyền bí hơn là
tính khoa học của Thôi miên dù cũng đã từng được đề cập từ gần 100 năm này.

Thôi miên ở Việt Nam trong thế kỷ 20


Tân Sanh với bộ sách “Thôi miên học”
Có thể nói đây là bộ sách đầu tiên nói về Thôi miên tại
Việt Nam.

Bộ sách “Thôi-Miên-Học” được xuất bản năm 1929 tại


Hà Nội, do Tân Sanh biên tập, bản quyền thuộc về Nhật
Nam Thư Quán.

Bộ sách dày 551 trang, được chia thành 5 tập. Tập Một:
Bìa Bộ sách
Thôi Miên Thực Nghiệm 1; Tập Hai: Thôi Miên Thực Thôi-miên-học

Nghiệm 2; Tập Ba: Thôi Miên Yếu Lý Học Thượng; Tập Bốn: Thôi Miên Yếu
Lý Học Hạ; Tập năm: Thần giao cách cảm.

Bộ sách cũng là tiếng vang lớn và được đông đảo mọi người đón nhận,
được thể hiện khi ấn phẩm này được tái bản đến lần thứ tư.
Phạm Học Tân
Là một nhà Thôi miên sống ở đầu thế kỷ 20, ông đã có
25 năm kinh nghiệm trước khi xuất bản cuốn sách “Thuật
Thôi miên”. Không có nhiều thông tin để lại nhưng qua cuốn
sách cho chúng ta biết được rằng Phạm Học Tân có một hiểu
biết rất sâu và rộng về lĩnh vực thôi miên cũng như việc thực
Cuốn sách của
hành và ứng dụng của ông. Phạm Học Tân

Ông hiểu và nắm vững các trường phái Thôi miên


đương thời trên thế giới, những điểm mạnh và điểm yếu của từng phương pháp
và rút ra cho mình phương pháp riêng để phù hợp trong khi thực hành.

Mặc dù còn nhiều hạn chế so với ngày nay bởi trình độ phát triển chung
của nền Thôi miên trên toàn thế giới nhưng với kiến thức hiểu biết của mình ông
đã làm nổi bật được tính khoa học của thôi miên. Nhưng điều đáng tiếc là Thôi
miên thời đó được xếp vào lĩnh vực Khoa học huyền bí nên chỉ ít người trong
tầng lớp trí thức và đam mê những điều huyền bí được biết đến và không được
phổ biến rộng rãi trong xã hội.

Cũng theo cuốn sách “Thuật thôi miên” có giới thiệu tác giả Phạm Học Tân
sẽ xuất bản cuốn sách thứ hai về chủ để Thôi miên đó là cuốn “Thôi miên thực
dụng” nhưng có lẽ là do thời gian và quá trình lưu trữ và truyền bá tác phẩm nên
hiện này cuốn sách này không còn thấy.

Thần Huyền
Là một nhà Thôi miên Việt Nam, nhưng không có
nhiều thông tin về ông. Thông tin ít ỏi về ông được biết
đến qua hai cuốn sách “Thôi miên là gì” và “Học Thôi
miên và thực hành” xuất bản đầu năm 1972.

Qua hai cuốn sách cho thấy ông là người am hiểu về


Thôi miên, tiếp cận được với Thôi miên thế giới đương
thời và là người có kinh nghiệm trong việc ứng dụng Sách Học Thôi miên
và thực hành
Thôi miên thông qua câu nói “Dù sao cũng có những bí quyết hay là những điều
bí mật về nghề nghiệp, cũng là vì nhiều lý do khác, tác giả không thể nói cho
mọi người được biết”.

Thôi miên ở Việt Nam thế kỷ 21


Kể từ khi bộ sách “Thôi miên học” và cuốn sách “Thuật thôi miên” cũng
như là hai ấn phẩm về Thôi miên được xuất bản thì cho đến trước năm 2010, ở
Việt Nam, chưa thấy có một tác phẩm về Thôi miên nào của người Việt Nam
hoặc nhà Thôi miên Việt Nam nào được công bố hoặc xuất bản một cách phổ
biến và rộng rãi.

Có thể, cũng có nhiều người nghiên cứu, thực hành về Thôi miên nhưng họ
không muốn công bố hoặc chỉ được ứng dụng trong một phạm vi nhất định nên
Thôi miên không được nhiều người biết đến.

Nguyễn Mạnh Quân


(Chuyên gia Thôi miên trị liệu người Việt Nam
đầu tiên trên thế giới, người đưa Thôi miên ra công
chúng Việt Nam dưới danh nghĩa là một bộ môn khoa
học).

Ông Nguyễn Mạnh Quân sinh năm 1964, tại Thái


Bình. Ông là Chuyên gia Tâm lý, chuyên gia Thôi
miên y khoa, thành viên của tổ chức Thôi miên Quốc Nhà Thôi miên
Nguyễn Mạnh Quân
tế NGH.

Ông cũng là Nhà huấn luyện Thôi miên, là Nhà sáng lập Trường đão tạo
Thôi miên y khoa Tiếng Việt đầu tiên tại Berlin - CHLB Đức.

Năm 2011, ông thành lập Trung tâm Nghiên cứu Phát triển sức khoẻ Thể -
Tâm - Trí trực thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và sau đó
là Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng khoa học Thôi miên Việt Nam
trực thuộc liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam. Các thông tin về ông Quân
được đề cập chi tiết trên trang web thoimien.vn.
Công lao lớn nhất của ông Quân là đưa Thôi miên trở thành một bộ môn
khoa học được công nhận bởi luật pháp Việt Nam, đó là, cho ra đời Trung tâm
nghiên cứu phát triển sức khỏe Thể - Tâm - Trí. Qua đó, đưa Thôi miên đến
công chúng một cách khoa học; ứng dụng Thôi miên trong việc phát triển con
người, chữa bệnh và khai thác khả năng của bộ não và đặc biệt là ông đã đão tạo
ra được những Nhà Thôi miên y khoa trị liệu để hỗ trợ giúp đỡ mọi người trong
mọi lĩnh vực của cuộc sống bằng liệu pháp Thôi miên.

Ông cũng là người đóng góp công lớn trong việc hạn chế sự phát triển quá
mức lĩnh vực ngoại cảm ở Việt Nam.

Ông đã tạo ra một hệ thống kiến thức và tài liệu Thôi miên bằng tiếng Việt
phục vụ cho việc đão tạo các khóa học ngắn ngày ứng dụng trên nền tảng của
Thôi miên và các khóa học đão tạo Nhà Thôi miên y khoa trị liệu, và hệ thống
thông tin về thôi miên tương đối đầy đủ trên trang web thoimien.vn, nhưng vì
khối lượng công việc quá nhiều và giá thành các khóa học còn cao nên việc phổ
biến Thôi miên đến số đông mọi người còn bị hạn chế.

Những nhà Thôi miên và Thôi miên trị liệu “tự xưng”
Ngay sau những ồn ảo thuở ban đầu của Thôi miên Việt Nam, khi Thôi
miên còn đang trong thời gian khẳng định là một bộ môn khoa học được pháp
luật thừa nhận, nhiều người đã nhìn ra được tiềm năng to lớn của Thôi miên
nhưng lại muốn đi đường tắt nên họ đã tạo ra những Nhà Thôi miên và Thôi
miên trị liệu “tự xưng” theo một trong hai cách.

Thứ nhất, sang nước ngoài học một khóa đão tạo về Thôi miên và Thôi
miên trị liệu rồi về Việt Nam tự xưng là nhà Thôi miên hoặc Thôi miên trị liệu
mà chưa được sự chấp thuận bởi một đơn vị có thẩm quyền của Việt Nam.

Thứ hai, Một số doanh nghiệp, tổ chức mời một số Nhà thôi miên, thôi
miên trị liệu ở nước ngoài về đão tạo một vài chương trình trong khoảng thời
gian ngắn và cấp cho các học viên tham dự danh hiệu Nhà Thôi miên, Nhà Thôi
miên trị liệu, trong khi chính doanh nghiệp, tổ chức đó chưa được công nhận là
tổ chức được phép đão tạo nhà Thôi miên, nhà Thôi miên trị liệu.

Với những nhà Thôi miên, nhà Thôi miên trị liệu không được đão tạo kỹ
lưỡng và qua kỳ kiểm tra gắt gao dưới sự giám sát của của các đơn vị có thẩm
quyền được luật pháp chỉ định thì chất lượng đầu ra cũng chỉ các doanh nghiệp,
tổ chức đó biết mà thôi.

Những Nhà Thôi miên đã được đão tạo và chứng nhận tại Việt Nam
Mặc dù chưa thể được đưa vào lịch sử Thôi miên Việt Nam nhưng các nhà
Thôi miên được đão tạo và chứng nhận sau chương trình đão tạo Nhà Thôi miên
y khoa trị liệu dài ngày của Trung tâm nghiên cứu phát triển Thể - Tâm - Trí và
Trung tâm UNESCO nghiên cứu ứng dụng và phát triển Thôi miên Việt Nam,
dưới sự giảng dạy trực tiếp của ông Nguyễn Mạnh Quân, cũng đang miệt mài
góp phần để đưa Thôi miên dưới danh nghĩa là một bộ môn khoa học đến với
nhiều người hơn và ứng dụng Thôi miên và Thôi miên trị liệu trong việc hỗ trợ
trị liệu nâng cao sức khỏe và phát huy khả năng vô hạn của não bộ cũng như
trong việc phổ biến Thôi miên ra cộng đồng bằng nhiều hình thức khác nhau để
đưa Thôi miên trở thành một bộ môn được chấp nhận rộng rãi như các bộ môn
khoa học khác, xứng tầm với những giá trị to lớn mà Thôi miên có thể đem lại
cho xã hội như Thôi miên ở các nước phát triển trên thế giới.
Tài liệu tham khảo

1. Tài liệu nghiên cứu và đão tạo Thôi miên trị liệu trình độ 1&2 của Trung
tâm nghiên cứu phát triển sức khỏe Thể - Tâm - Trí.
2. Trang web: thoimien.vn; ngh.net
3. Wikipedia
4. Bộ sách “Thôi Miên Học” - Tân Sanh
5. Sách “Thuật Thôi miên” - Phạm Học Tân
6. Sách “Học Thôi miên và thực hành” - Thần huyền

You might also like