Professional Documents
Culture Documents
1
PHẦN I
BỘ MÔN ĐIỀN KINH
Giới thiệu bộ môn điền kinh
Điền kinh là môn thể thao có lịch sử phát triển lâu đời
nhất, được ưa chuộng và phổ biến rộng rãi trên thế giới. Với
nội dung phong phú và đa dạng, môn điền kinh chiếm một vị
trí quan trọng trong chương trình giảng dạy môn giáo dục thể chất trong
các trường phổ thông, các trường đại học và trường nghề…Nhiệm vụ cụ
thể của các giờ thể dục thể thao trong nhà trường là giáo dục cho học sinh
những hiểu biết và những kỹ năng cần thiết của sự tập luyện thể dục thể
thao, trên cơ sở này đảm bảo phát triển thể lực toàn diện đáp ứng cho nhu
cầu học tập và lao động. Trong những bài tập nhằm phát triển thể lực toàn
diện, các bài tập điền kinh đóng vai trò chủ yếu. Những hình thức như
chạy, nhảy, ném luôn được đưa vào trong từng giờ tập thể dục thể thao.
I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI MÔN ĐIỀN KINH:
Điền kinh hiện đại bao gồm năm nhóm: Đi bộ thể thao, chạy, nhảy,
ném - đẩy và nhiều môn phối hợp. Mỗi nhóm lại có nhiều dạng khác
nhau:
1. Đi bộ thể thao: Được tiến hành trong sân vận động ở các cự ly: 3,
5, 10, 15, 20, 50km. Trên đường nhựa ở các cự ly: 20, 30 và 50km. Ngoài
ra người ta còn tổ chức đi theo giờ: 1giờ, 2 giờ…
2. Chạy:
Cự ly ngắn: 30m đến 400m gồm: 100m, 200m, 400m.
Cự ly trung bình: 500m đến 2.000m gồm 800m, 1.500m.
Cự ly dài: 3.000m đến 30.000m. Gồm 3.000m, 5.000m, 10.000m.
Chạy vượt chướng ngại vật: 100m rào (nữ), 110m rào (nam), 400m rào
(nữ, nam), 3.000m vượt chướng ngại vật (28 rào + 7 rào có hố nước).
Chạy tiếp sức 4 x 100m, 4 x 400m, 4 x 800m. 4 x 1.500m, TS Hỗn
hợp 800m + 400m + 200m + 100m.
Chạy trong điều kiện tự nhiên: Chạy việt dã (tối đa là 15 km).
Chạy Marathon: 42km 195. Half Marathon: 21km 097
3. Nhảy:
Nhảy qua chướng ngại vật thẳng đứng: Nhảy cao, nhảy sào.
Nhảy để chiếm chiều xa: Nhảy xa, nhảy ba bước.
4. Ném, đẩy:
Ném lao, ném đĩa, ném tạ xích, ném lựu đạn (VN) và Đẩy tạ.
2
5. Nhiều môn phối hợp:
Bao gồm:
5 môn của nam (Pentalong) thi trong một ngày theo trình tự: Nhảy
xa, ném lao, chạy 200m, ném đĩa và chạy 1.500m.
10 môn của nam (decalong) thi trong hai ngày liền theo thứ tự:
ngày đầu: chạy 100m, nhảy xa, đẩy tạ, nhảy cao và chạy 400m.
ngày sau: 110m rào, ném đĩa, nhảy sào, ném lao, chạy 1.500m.
7 môn của nữ (heptalong) thi trong hai ngày liền theo thứ tự:
Ngày đầu: Chạy 100m rào, nhảy cao, đẩy tạ, chạy 200m.
Ngày sau: Nhảy xa, ném lao, chạy 800m.
3
CHẠY CỰ LY NGẮN
I. KỸ THUẬT CHẠY CỰ LY NGẮN:
Chạy cự ly ngắn được chia một cách quy ước thành 4 giai đoạn:
Xuất phát, chạy lao, chạy giữa quãng, về đích.
1. Giai doạn xuất phát:
Trong chạy ngắn người ta thường áp dụng xuất phát thấp vì kỹ thuật
này giúp VĐV sớm đạt được vận tốc cực đại trong khoảng thời gian ngắn.
Để xuất phát nhanh người ta sử dụng bàn đạp xuất phát (hình 1). Bàn đạp
xuất phát bảo đảm cho VĐV có điểm tì vững chắc để đạp sau, ổn định
trọng tâm khi đặt chân vào bàn đạp.
Có 3 cách bố trí bàn đạp xuất phát cơ bản: (hình 2)
a. Cách “thông thường”: Bàn đạp trước cách vạch xuất phát từ 1 – 1,5
bàn chân, bàn đạp sau cách bàn đạp trước một khoảng bằng độ dài cẳng
chân.
b. Cách “kéo dãn”: VĐV rút ngắn khoảng cách giữa hai bàn đạp còn
một bàn chân hoặc ít hơn. Khoảng cách từ bàn đạp trước tới vạch xuất
phát gần hai bàn chân (khoảng cách này được kéo dãn)
c. Cách “làm gần”: VĐV rút ngắn khoảng cách giữa hai bàn đạp còn
một bàn chân hoặc ít hơn, song khoảng cách từ bàn đạp trước đến vạch
xuất phát chỉ còn khoảng 1 – 1,5 bàn chân (như vậy khoảng cách từ bàn
đạp sau đến vạch xuất phát sẽ gần lại)
Việc đặt hai bàn đạp xuất phát gần nhau bảo đảm sự phân bổ lực
đồng thời của cả hai chân khi bắt đầu chạy và tạo cho người chạy gia tốc
lớn hơn ở những bước đấu, song vị trí gần nhau của hai bàn chân và việc
đạp sau gần như đồng thời của chúng gây trở ngại cho việc chuyển tiếp
đạp sau luân phiên của từng chân ở những bước tiếp theo sẽ gần lại.
Mặt tựa của bàn đạp trước nghiêng dưới góc 45 O – 50 O. Mặt tựa của
bàn đạp sau từ 60O – 80O. Góc nghiêng của mặt tựa bàn đạp tùy thuộc vào
khoảng cách giữa bàn đạp và vạch xuất phát.
c b a
h1 h2
Khi nghe lệnh “vào chỗ” VĐV tiến lên phía trước vạch xuất phát,
hai tay chống đất, hai chân thứ tự đặt vào bàn đạp, gối chân sau chạm đất.
4
Hai tay: bốn ngón nhỏ khép kín, ngón cái choải ra hình chữ V đặt sát phía
sau vạch xuất phát (ngón cái và các ngón còn lại tạo thành vòm) hai tay
duỗi thẳng tự nhiên, thân trên thẳng, trọng lượng cơ thể được phân đều ở
hai tay, chân chống trước và đầu gối chân sau.
Khi nghe lệnh “sẵn sàng” VĐV từ từ nâng hông lên cao bằng vai
hoặc hơn vai một ít (tùy thuộc vào lực đạp hai chân của VĐV). Lưu ý là
không nên dồn trọng tâm quá nhiều xuống 2 tay vì điều này sẽ làm tay rời
đất chậm ảnh hưởng đến thời gian xuất phát.
Khi nghe tiếng “súng nổ” VĐV nhanh chóng rời tay khỏi mặt đất,
hai chân đạp mạnh vào bàn đạp, đùi chân sau nâng ra trước, tay ngược
bên đánh lên cao để giữ thăng bằng.
Trong bước đầu tiên góc độ đạp sau của VĐV chạy ngắn cấp cao
khoảng 42O – 45O. Đùi chân sau nâng lên tạo với thân trên một góc gần 30O
tư thế trên giúp cho lực đạp đẩy cơ thể về trước nhiều hơn, tạo điều kiện
thuận lợi cho đạp sau mạnh và giữ được độ nghiêng của cơ thể trong
những bước chạy đầu tiên.
<=
6
Tốc độ chạy cực đại trong cự ly 100m – 200m cần cố gắng duy trì
cho đến cuối cự ly, khoảng từ 10 – 20m cuối tốc độ thường bị giảm từ 3 –
8%. Khi VĐV chạm thân trên vào mặt phẳng đứng đi qua vạch đích, để
nhanh chóng chạm vào dây căng đích (được kéo căng ở độ cao ngang
ngực) VĐV nhanh chóng gập thân trên về trước để chạm ngực vào dây,
cách này được gọi là đánh ngực (a). Người ta còn áp dụng phương pháp
vừa gập thân trên vừa xoay để một bên vai chạm vào dây đích gọi là đánh
vai (b).
Kỹ thuật về đích
Kỹ thuật chạm đích tốt giúp VĐV chạm đích sớm hơn khi có hai
hay nhiếu đối thủ ngang nhau muốn tranh thứ hạng cao hơn. Nếu không
quen hoặc kỹ thuật chưa thuần thục thì nên chạy qua đích với toàn bộ tốc
độ mà không cần nghĩ tới kỹ thuật đánh đích.
Khi trình độ chuyên môn nâng cao thì kỹ thuật chạy có sự thay đổi.
Việc rút ngắn khoảng cách giữa hai bàn đạp và bàn đạp trước với vạch
xuất phát giúp VĐV tạo được cự ly dùng lực dài hơn khi chân rời bàn
đạp.
Tính linh hoạt trong các khớp phát triển tốt cũng làm cho việc tăng
lực nằm ngang của đạp sau, làm tăng độ dài bước. Điều này làm tăng tốc
độ chạy ngay cả khi tần số bước được giữ nguyên.
Đặc trưng của VĐV chạy ngắn là tích cực guồng chân khi kết thúc
đạp sau, điều này giúp họ đặt chân nhanh hơn và giảm lực cản có hại lúc
bắt đầu chống trước để thực hiện bước chạy.
Sự hoàn thiện phối hợp hoạt động cơ bắp toàn thân là đặc điểm nổi
bật của VĐV chạy ngắn. Điều này giúp họ giảm mệt mỏi và duy trì được
tốc độ chạy tối ưu trên toàn cự ly.
7
Ngần Ngọc Nghĩa (Công an ND) Vũ Thị Hương (An Giang) lập
100m nam Việt Nam, kỷ lục chạy 100m nữ Việt nam,
thành tích 10”40 Ngày 10/11/2020 thành tích 11”33 ngày 7/7/2007
tại Hà nội – Giải VĐQG 2020 tại Jordan
8
NHẢY XA
1. KỸ THUẬT NHẢY XA:
Để đạt thành tích trong nhảy xa, VĐV cần có thể hình tốt, có tố chất
nhanh, mạnh tốt và nắm vững kỹ thuật nhảy xa.
Thành tích nhảy xa (S) về cơ bản phụ thuộc vào góc bay của trọng
tâm khi rời đất và tốc độ bay ban đầu (Vo) tốc độ bay phụ thuộc nhiều
vào tốc độ chạy đà có được trước lúc giậm nhảy và giậm nhảy. Về lý
thuyết thành tích của nhảy xa được tính bằng công thức:
S = Vo2 Sin 2 α
g
11
Kỹ thuật nhảy xa kiểu “Cắt kéo”
Nguyễn Tiến Trọng (Quân đội) lập Bùi Thị Thu Thảo (Hà Nội) lập kỷ lục
Kỹ lục nhảy xa nam Việt Nam, thành nhảy xa nữ Việt Nam, thành tích 6m68
tích 7m98 tại giải giải ĐK.VĐQG 2019 tại Kuala Lumpur giải ĐH TT Đông
Tại Tp. HCM ngày 18/9/2019 Nam Á vào tháng 8 năm 2017
12
Mike Powell ( Mỹ ) giử kỷ lục thế giới Galina christyakova ( Nga ) giử kỷ lục
môn nhảy xa nam với thành tích 8m95 lập thế giới môn nhảy xa nữ với thành tích
vào ngày 30/8/1991 tại Tokyo,Nhật bản, 7m52 lập ngày 11/6/1988 tại Leningrad
đang được coi là giới hạn của môn nhảy xa .
13
NHẢY CAO
I. KỸ THUẬT NHẢY CAO
Trong Bộ môn điền kinh, hai môn nhảy chiếm chiều cao là nhảy cao
và nhảy sào. Ở môn nhảy cao hiện nay có 5 kiểu, tên gọi mỗi kỹ thuật
theo tiếng Việt cho ta thấy đặc điểm qua xà của kỹ thuật đó là “Bước
qua”, “Cắt kéo”, “nằm nghiêng”, “Úp bụng” và “Lưng qua xà”. Hiện nay
kiểu “Lưng qua xà” là tiên tiến nhất, các VĐV đang giữ kỹ lục Quốc gia
và thế giới thường sử dụng kỹ thuật nầy. Tuy nhiên nó đòi hỏi phải có
đệm tốt thay cho hố cát. Trong trường hợp nhảy vào hố cát thì kỹ thuật
“úp bụng” vẫn là tối ưu.
Kỹ thuật nhảy cao là một quá trình liên tục được chia làm 4 giai đoạn:
chạy đà, giậm nhảy, bay trên không và rơi xuống đất.
Về lý thuyết độ cao của nhảy cao được tính theo công thức:
S = Ho + Vo2 Sin2 α
2g
Trong đó S là độ cao, Ho là chiều cao của vận động viên, Vo là tốc độ
chạy đà, α là góc bay. g là gia tốc rơi tự do.
Do kỹ thuật nhảy khác nhau, đặc điểm các giai đoạn khác nhau nên
việc phân tích kỹ thuật nhảy cao được trình bày theo từng kiểu nhảy.
14
3. Kỹ thuật nhảy cao kiểu “Nằm nghiêng”
15
Động tác giậm nhảy trong nhảy cao
16
Kỹ thuật nhảy cao kiểu “Úp bụng”
17
5.2. Giậm nhảy:
Ở bước đà cuối, chân giậm đặt vào điểm giậm nhảy cách xà từ 90cm -
100cm bằng cả bàn chân sau đó khụy gối ở góc (140 0 - 1600). Chân lăng
sau khi rời gối gập và dùng sức đá lăng nâng đùi lên cao và hướng đầu gối
hơi ra phía ngoài xà hỗ trợ cho giậm nhảy. Hai tay cũng đồng thời đánh
tích cực từ sau ra trước lên trên gần như kiểu úp bụng tay cùng bên chân
lăng đánh tích cực hơn và hơi hướng khủy tay ra ngoài xà tạo thuận lợi để
xoay lưng hướng vào xà thời gian giậm nhảy rất nhanh 0,14 - 0,17 giây.
Tốc độ bay thẳng đứng ban đầu của trọng tâm có thể đạt 4,1 - 4,3 m/ giây
với góc bay là 750.
5.3. Qua xà:
Sau khi giậm nhảy cơ thể bay trên không, lưng hướng vào xà. Lực li
tâm sinh ra do chạy đà theo đường vòng cùng với lực giậm nhảy giup cơ
thể bay lên cao và vượt qua xà. Phần thân trên sau khi qua xà phải chủ
động hạ xuống thấp để các bộ phận còn lại tiếp tục được nâng cao và
chuyển qua xà thuận lợi. Chú ý khi lưng ở trên xà cần phải tích cực nâng
hông hất nhẹ hai đùi và cẳng chân lên trên để qua xà.
5.4. Rơi xuống:
Để đảm bảo an toàn, khu vực rơi xuống cần có nệm dầy và xốp. Trước
khi chạm nệm cần gập cổ để tiếp xúc nệm bằng hai vai, tay và lưng.
Không được thực hiện nhảy kỹ thuật lưng qua xà ở hố cát vì rất nguy
hiểm.
<= 1
<= 2
18
Bùi Thị Nhung lập kỷ lục nhảy cao nữ Việt Nam, mức xà 1m94
ngày 5/ 4/ 2005 tại Bangkok, Thailand
Nguyễn Duy Bằng lập kỷ lục nhảy cao nam Việt Nam, mức xà 2m25
ngày 29/9/2004 tại giải Điền kinh các ngôi sao Châu Á, Singapore
19
Stefka Kostadinova (Bulgaria) lập kỷ lục nhảy cao nữ Thế giới
, mức xà 2m09 ngày 30/ 8/ 1987 tại Roma, ITA
Javier Sotomayor (Cu Ba) lập kỷ lục nhảy cao nam thế giới
, mức xà 2m45 ngày 27/ 7/ 1993 tại Salamanca, ESP
20
PHẦN II
CÁC MÔN TỰ CHỌN
1. BÓNG ĐÁ
2. BÓNG CHUYỀN
3. BÓNG RỔ
4. CÁC ĐÒN – THẾ TỰ VỆ
21
1. BÓNG ĐÁ
Sơ đồ sân bóng đá
22
A. KỸ THUẬT BÓNG ĐÁ CƠ BẢN
I. KỸ THUẬT ĐÁ BÓNG BẰNG LÒNG BÀN CHÂN:
Chạy đà:
Chạy thẳng với hướng bóng đi, tốc độ bình thường, mắt quan sát bóng
và mục tiêu
Đặt chân trụ:
Từ gót rồi tới mũi bàn chân thẳng hướng bóng đi và cách bóng từ 10
đến 15 cm trong phạm vi mặt cắt trước và sau bóng, gối hơi khụy.
Vung chân lăng:
Sắp kết thúc chân lăng về sau thì đầu gối và bàn chân sẽ mở ra ngoài
đưa về trước tiếp tục chạm bóng, lúc này bàn chân vuông góc với hướng
đá bóng.
Tiếp xúc bóng:
Tam giác phía trong bàn chân tiếp xúc bóng và đi qua tâm bóng
Kết thúc:
Tiếp tục đưa chân về trước xoay cổ chân bước ra trước 1 – 2 bước để
giữ thăng bằng
1. Khớp gối, khớp cổ chân thả lỏng khi tiếp xúc bóng làm bóng đi
không chuẩn và có thể tổn thương cho khớp nếu chịu sức ép nặng.
2. Thân người quá thẳng và đứng ngay trên bóng.
3. Mũi chân đá bóng không xoay ra ngoài nên không mở hông được,
do đó khi tiếp xúc bóng bàn chân không vuông góc với hướng đá bóng
làm cho đường bóng đi không chuẩn .
4. Chân trụ đặt sau bóng quá xa làm chân tiếp xúc bóng bị với nên
bóng đi không có lực (bị tuột hông)
5. Chân trụ quá gần bóng nên khó thực hiện động tác vung chân lăng
nên bị giảm lực khi tiếp xúc bóng.
6. Chân đá bóng bước chéo qua chân trụ sau khi tiếp xúc bóng dẫn tới
khó giữ thăng bằng.
23
II. KỸ THUẬT ĐÁ BÓNG BẰNG MU TRONG
Chạy đà:
Chếch với hướng đá một góc 45O, tốc độ tăng dần, tần số cao, thân
người hơi ngã về trước.
Đặt chân trụ :
Mũi chân đặt thẳng hướng bóng đi, trọng tâm dồn vào chân trụ, chân
trụ cách bóng từ 25 – 30cm về phía sau một ít .
Vung chân lăng:
Vung chân lăng về sau đùi hơi mở, vung chân hơi chếch với chân trụ,
khi vung ra trước duỗi mũi bàn chân mở hết ra ngoài
Tiếp xúc bóng:
Tiếp xúc bóng bằng cạnh trong bàn chân ở ½ bàn chân trước, lực đi
qua tâm bóng, bàn chân hơi mở ra ngoài.
Kết thúc:
Sau khi đá xong tiếp tục bước ra trước 1 – 2 bước .
25
♣ Ngoài ra còn có một số kỹ thuật đá bóng khác để phù hợp với
các tình huống trong thi đấu.
V. KỸ THUẬT ĐÁ BÓNG TRÊN KHÔNG
Khi đồng đội chuyền bóng bổng tới ngang tầm thắt lưng
28
d. Có hành vi cố tình phạm lỗi với đối phương nhằm ngăn cản một cơ
hội ghi bàn rõ rệt.
e. Cố tình dùng tay chơi bóng nhằm ngăn cản một cơ hội ghi bàn rõ
rệt (trừ thủ môn trong khu phạt đền của đội mình).
f. Có lời lẽ kích động, lăng mạ hay thô tục.
g. Nhận thẻ vàng thứ hai trong một trận đấu.
♣ Quyết định 5 của hội đồng luật quốc tế “Động tác xoạc bóng từ phía
sau gây nguy hiểm cho sự an toàn cơ thể của đối phương phải được xem
là hành vi cực kỳ nghiêm trọng” Cầu thủ vi phạm bị truất quyền thi đấu.
2. BÓNG CHUYỀN
31
là sân đất cứng, bê tông, sân cỏ…(nếu giải chuyên nghiệp thì sẽ tổ chức
trong nhà thi đấu và mặt sân bằng gỗ) .
2. Lưới phân cách:
Chiều rộng của lưới là 1m, dài 9,5m. Độ cao của lưới trong thi đấu là
2,43m (nam), 2,24m (nữ).
Lưới phải được kéo thẳng, nếu không bóng sẽ bật ở mép trên lưới .
Hai cọc giới hạn có độ đàn hồi dựng dọc thẳng xuống hai bên lưới chiếu
từ trên xuống đường biên dọc. Phạm vi bóng vượt qua lưới phải nằm
trong khoảng không gian giữa hai cọc giới hạn.
Hình dáng của cột lưới phải tròn, trơn bóng và được cố định trên mặt
sân bằng bê tông hoặc chôn chặt trên mặt đất. Cột lưới phải được đặt ở
cách mép ngoài của đường biên dọc sân khoảng từ 0,5m – 1m.
3. Bóng:
Bóng có hình tròn, chu vi khoảng 65cm – 67cm, trọng lượng từ 260g
– 280g. Bóng được may bằng các miếng da thuộc tự nhiên hoặc nhân tạo,
ruột bóng bên trong bằng cao su.
37
thân người hơi ngã về trước, mắt luôn theo dõi người chuyền bóng để có
thể ước lượng chính xác điểm rơi của bóng để kịp thời điều chỉnh vị trí
dậm nhảy.
1.2 Giậm nhảy:
Bước chạy đà cuối cùng, chân sau bước theo chân trước, đầu gối hơi
khuỵu, hai bàn chân chạm đất từ gót sang mũi, hai tay đánh lăng từ sau ra
trước lên cao, đồng thời với động tác đạp duỗi của chân, đẩy thân người
bật thẳng lên. Toàn bộ động tác từ chạy đà, dậm nhảy và bật lên phải
được thực hiện một cách liên tục theo nhịp độ nhanh dần.
1.3 Đập bóng:
Khi cơ thể đã bật lên cao, người thả lỏng tự nhiên, lúc này thân trên
được dướn ngã về sau kết hợp với đưa tay và chân về sau giống hình cánh
cung. Khi cơ thể ở điểm cao nhất, tay đánh bóng duỗi mạnh từ sau ra
trước, bàn tay khép, đánh vào bóng ở tầm trước mặt. Tay kia từ phía trên
cũng hạ xuống phối hợp . Khi đánh vào bóng cần gập cổ tay, gập bụng để
phối hợp lực đồng thời nhanh chóng thu tay về để khỏi chạm lưới.
1.4 Rơi xuống:
Khi rơi xuống, hai mũi chân chạm đất sau đó đến bàn chân và gót
chân, đồng thời đầu gối khuỵu thấp theo đà rơi để giữ thăng bằng và
nhanh chóng trở về tư thế ban đầu để tiếp tục thi đấu.
1.2 Kỹ thuật phát bóng thấp tay nghiêng mình (phát bóng bằng tay
phải )
Tư thế chuẩn bị:
Người tập đứng, hông cùng bên với tay cầm bóng hướng vào lưới. hai
chân mở rộng bằng vai hoặc hơn vai một chút . Hai bàn chân gần như
41
song song với nhau, trọng tâm dồn đều trên hai chân, tay trái cầm bóng ở
ngang thắt lưng.
Tung bóng:
Tay trái làm động tác tung bóng lên cao từ 40 – 50cm hơi chếch về
phía trước mặt một chút.
Vung tay đánh bóng:
Trong lúc tung bóng người hơi xoay sang phải, hai chân hơi khuỵu,
trọng tâm cơ thể hơi dồn về chân sau, cánh tay phải vung xuống và vung
ngang ra sau, sau đó duỗi thẳng tự nhiên vung từ sau ra trước dùng cùi tay
đánh vào phía sau phần dưới quả bóng ở tầm ngang ngực . Khi đánh vào
bóng, trọng lượng cơ thể chuyển lên trước đồng thời xoay thân sang bên
trái, mặt hướng vào lưới và nhanh chóng bước chân phải lên để giữ thăng
bằng.
42
ở tầm thấp hơn và tay phải đánh bóng tiếp xúc ở chính tâm bóng phía sau
với lực đánh đột ngột và dừng nhanh.
Khi phát bóng VĐV phát bóng (vị trí số 1) có thể đứng bất kỳ ở vị trí
nào phía sau đường biên ngang (vạch cuối sân) để phát bóng.
Trước khi bóng rời tay, tất cà VĐV của cả hai đội phải đứng đúng sơ
đồ vị trí. Ví dụ: số 4 phải đứng trên số 5 và bên tay phải là số 3, tương tự
số 3 phải đứng trên số 6, bên trái là số 4 và bên phải là số 2… Sau khi
bóng rời tay của VĐV phát bóng, VĐV của hai đội có thể di chuyển cũng
như có thể đứng bất kỳ vị trí nào trên sân (phần sân của mình) nhưng
VĐV ở hàng sau không được phép chắn bóng, đập bóng hay bỏ bóng phía
trên vạch 3m
3. Sự luân phiên hoán đổi vị trí của VĐV:
44
Trong tình huống đội phát bóng khi chưa bị mất điểm, VĐV đang
phát bóng sẽ tiếp tục phát bóng. Khi đội đỡ bóng ghi được 1 điểm, VĐV
phải luân phiên hoán đổi vị trí của mình xuôi theo chiều kim đồng hồ.
4. VĐV hàng sau
Theo qui định thi đấu, VĐV hàng sau bị cấm các động tác sau đây:
- Cấm trực tiếp đánh bóng cao tay hơn lưới ở khu vực 3m gần lưới ở sân
mình.
- Không được chắn bóng.
- VĐV hàng sau muốn đập bóng phải nhảy lên từ sau vạch 3m, khi đập
xong, bóng rời tay có thể rơi xuống chạm sân trước vạch 3m.
3.BÓNG RỔ
45
I. SỰ XUẤT HIỆN TRÒ CHƠI:
Một giáo viên Giáo dục thể chất của trường huấn luyện Springphild
(sau này đổi thành trường Cao Đẳng) tại bang Massachuset (Mỹ) là ông
James Naismith vào tháng 12 năm 1891 đã phát minh ra trò chơi mới và
mô tả nó: “Chơi bóng rổ rất dễ nhưng chơi giỏi thì rất khó”. Trò chơi mới
này có nhiều nét sinh động hấp dẫn và hấp dẫn vượt cả những mơ ước táo
bạo của Naismith. Trong thời gian ngắn sau đó trò chơi này lan rộng trong
toàn nước Mỹ Và ngày nay có hàng triệu người trên thế giới chơi trò chơi
này.
Thời kỳ đầu tham gia trò chơi này có cả nam và nữ. Vì lớp tập thể dục
có 18 người nên chia ra làm hai đội mỗi đội có 9 người. Sau nầy số người
chơi giảm còn 7 và sau đó giảm còn 5 người bởi vì số người đông hơn 5
chỉ làm rối trên sân và là điều không cần thiết. Bởi vì bóng ném vào rổ
nên trò chơi này có tên là “Basketball” (Bóng rổ). Tháng 12 năm 1891
Nâysmit đã soạn thảo những điều luật thi đấu đầu tiên của trò chơi mới
này và áp dụng tổ chức trận bóng rổ đầu tiên. Năm 1892 ông đã ấn hành
sách “luật chơi bóng rổ” Gồm có 15 điều luật mà phần lớn trong số những
điều luật này, dưới hình thức này hay khác vẫn được tiếp tục sử dụng đến
ngày nay.
46
Bắt bóng bằng hai tay được coi là phương pháp bắt bóng đơn giản
nhất, đồng thời cũng chắc chắn nhất.
Giai đoạn chuẩn bị:
Nếu như bóng bay gần tới VĐV ở tầm ngang ngực hay trên đầu, thì
cần đưa tay ra đón bóng bằng hai bàn tay và các ngón tay tạo thành hình
cái phễu, kích thước không lớn hơn chu vi quả bóng
Giai đoạn cơ bản:
Vào thời điểm tiếp xúc với bóng cần bắt bóng bằng các ngón tay
(không bắt bằng lòng bàn tay) đồng thời khép cổ tay gần nhau, hai tay hơi
gập lại ở khớp khuỷu tay và kéo về ngực . gập cánh tay là chuyển động tự
động làm giảm lực lao tới của bóng .
Giai đoạn kết thúc:
Sau khi nhận bóng thân trên hơi lao về phía trước, bóng được bảo vệ
trước đối thủ bằng hai khuỷu tay tách ra, ở tư thế chuẩn bị thực hiện các
động tác tiếp theo. Nếu bóng bay thấp hơn tầm ngực một chút, thì VĐV
cần khuỵu gối thấp hơn mức bình thường, để hạ chiều cao của hai vai
ngang tầm bay của bóng. Để bắt bóng bay cao trên đầu, cần phải bật nhảy
và hai tay giơ cao (khoảng cách giữa hai ngón cái khoảng vài cm, các
ngón còn lại mở rông tự nhiên) ở thời điểm bóng chạm các ngón tay, thì
cổ tay khép lại gần nhau, xoay vào phía trong để giữ chặt bóng. Hai tay
vừa gập ở khuỷu tay vừa hạ thấp kéo bóng về phía thân người. Khi bắt
bóng bay thấp thì hai tay hạ xuống, cổ tay và các ngón tay tạo thành hình
cái bát khoảng giữa hai ngón út không quá xa.
47
Khi bóng vừa chạm các ngón tay, cần đưa tay ra sau xuống thấp
dường như tiếp tục chuyển động theo đường bay của bóng (hoãn xung)
quay người một chút về phía tay bắt bóng để hỗ trợ cho động tác này.
Giai đoạn kết thúc:
Cần giữ bóng bằng một tay. Sau đó giữ chặt bằng hai tay để sẵn sàng
thực hiện ngay động tác tiếp theo.
Để nhảy bắt bóng trên cao bằng một tay cần hơi ưỡn thân người một
chút, nhanh chóng hạ bóng và giữ bóng bằng tay kia, rồi kéo bóng về phía
thân người. Sau khi bắt bóng VĐV cần giữ thăng bằng ngay, di chuyển
hai khuỷu tay về gần người đề phòng đối phương cướp bóng.
2. CHUYỀN BÓNG
48
2.2 Chuyền bóng hai tay từ trên cao:
Kỹ thuật này thường sử dụng ở khoảng cách trung bình khi đối
phương phòng thủ chặt. Vị trí bóng ở trên đầu tạo ra khả năng ném bóng
chính xác cho đồng đội vượt qua tay của người phòng thủ.
Giai đoạn chuẩn bị:
VĐV nâng bóng bằng hai tay hơi gập ở trên đầu và đưa bóng về phía
sau đầu.
Giai đoạn cơ bản:
Bằng động tác ra tay nhanh mạnh, VĐV vừa gập khuỷu tay vừa làm
động tác vẩy hai bàn tay để chuyền bóng cho đồng đội.
Giai đoạn kết thúc: (giống như chuyền bóng hai tay trước ngực)
2.5 Chuyền bóng một tay từ trên đầu hay trên cao:
Là động tác cho bóng đi khắp sân tới đồng đội của mình ở khoảng
cách từ 20 – 25m
Giai đoạn chuẩn bị:
Nâng tay có bóng lên, tay còn lại hỗ trợ giữ bóng và hơi đưa tay ra sau
đầu, đồng thời xoay thân người. Như vậy sẽ đạt được biên độ vẩy cổ tay
thích hợp.
Giai đoạn cơ bản:
Bóng được dùng lực cổ tay rất lớn, duỗi thẳng tay nhanh, đồng thời
gập cổ tay và xoay mạnh thân người.
50
2.6 Chuyền bóng một tay móc câu:
Được áp dụng khi chuyền bóng ở khoảng cách trung bình và rất xa
vượt qua tay giơ cao phòng thủ của đối phương.
Giai đoạn chuẩn bị:
VĐV quay hông về phía chuyền bóng, tay có bóng đưa lên cao theo
hướng ra sau xuống dưới, bóng nằm trên lòng bàn tay và được giữ chặt
trên các ngón tay. Tay kia đưa ra phía trước một chút, VĐV hầu như thoát
khỏi sự phòng thủ của đối phương.
2.7 Chuyền bóng một tay dưới thấp:
Động tác này thực hiện ở khoảng cách gần và trung bình trong những
tình huống khi đối phương cố gắng giành bóng từ trên cao, bóng chuyền
cho đồng đội ở dưới tay của đối phương.
Giai đoạn chuẩn bị:
Tay thẳng và gập lại đưa về sau lấy đà, bóng nằm trong lòng bàn tay
và các ngón tay giữ chặt cộng thêm lực ly tâm khi vung tay về sau.
Giai đoạn cơ bản:
Đưa bóng dọc theo đùi theo hướng ra trước lên trên. Khi chuyền bóng
bàn tay mở và các ngón tay đẩy mạnh vào bóng. Chiều cao quỹ đạo
đường bay của bóng phụ thuộc vào thời gian mở đúng lúc của bàn tay và
các ngón tay. Thường chuyền bóng một tay ở dưới thấp thực hiện với sự
kết hợp bước chân ngược bên tay ném lên trước.
Ném rổ bằng hai tay trước ngực Ném rổ bằng hai tay từ dưới thấp
52
3.3 Ném rổ bằng hai tay từ dưới thấp
Sử dụng hiệu quả nhất trong các lần đột phá tới bảng và tấn công rổ,
trong khi ném hai tay phía dưới hai tay phá bóng của người phòng thủ.
3.4 ném rổ bằng hai tay từ trên cao xuống thấp
Thường được những VĐV có chiều cao và sức bật tốt sử dụng. Đối
phương gần như không cản phá được phương pháp ném rổ nầy. Bởi vì
bóng bay chỉ theo chiều đi xuống, theo quỹ đạo rất ngắn với tốc độ lớn.
53
3.7 Ném rổ một tay trên cao trong khi nhảy
Đây là phương pháp tấn công cơ bản trong bóng rổ hiện đại. Trong
nhiều giải của các đội mạnh thế giới (Nam), 70% số lần ném rổ được thực
hiện bằng phương pháp nầy, từ các khoảng cách khác nhau. Có một vài
biến thế của phương pháp ném rổ nầy. Việc lựa chọn biến thế nào phụ
thuộc vào khoảng cách và đặc điểm của người phòng thủ.
56
Nếu bạn bị đối phương ôm choàng từ phía sau, thì đừng cố vùng vẫy
mà hãy bình tĩnh rùn người thấp xuống, nghiêng người về phía trước giữ
chặt tay đối phương, xốc người đối phương lên đổ về phía trước, đồng
thời xoay hông giữ thẳng chân đá vòng ra sau, đòn nầy sẽ làm đối phương
mất thăng bằng và bị quăng về phía trước.
4. ĐÒN TỰ VỆ CHỐNG BÓP CỔ TRƯỚC
Bóp cổ là hành động của những tên côn đồ dùng để uy hiếp kẻ yếu.
Điều quan trọng là phải hành động thật nhanh. Hãy bình tĩnh thả lỏng cơ
bắp, người dồn trọng tâm sang một bên, đưa tay thuận lên cao vòng qua
tay đối phương, đưa tay trái nắm lấy cổ tay phải của đối phương bẻ mạnh
đồng thời chặt tay phải vào khuỷu tay đối phương và áp dụng thế khóa để
khống chế đối phương.
57
6. ĐÒN TỰ VỆ CHỐNG KẸP CỔ CỦA ĐỐI PHƯƠNG
Trường hợp đối phương dùng tay kẹp cổ bạn ghì xuống, thì bạn phải
nhanh chóng tìm cách thoát khỏi tình huống này bằng cách xoay người ra
trước vung mạnh tay còn lại bên ngoài đánh về phía trước vào giữa hạ bộ
của đối phương.
Trường hợp 2:
59
Khi đối phương đâm từ dưới lên hoặc thẳng ra trước. Bạn dùng hai
tay đan chéo qua nhau để đỡ sau đó chụp lấy cổ tay của đối phương bẻ
xoắn lại.
60
PHẦN III
BÀI ĐỌC THÊM
Bài 1
NHỮNG THỂ THỨC THI ĐẤU ĐƠN GIẢN ĐỂ TỔ CHỨC
CÁC GIẢI THỂ THAO PHONG TRÀO
I. Thể thức thi đấu loại trực tiếp một lần thua:
Đội hoặc đấu thủ nào thua một trận sẽ bị loại khỏi cuộc đấu.
1.Ưu điểm: Thể thức nầy rút ngắn được thời gian, ít tốn kém kinh phí
giải . Số trận đấu tính theo công thức
Y = A – 1 (không có trận tranh hạng 3)Với A là tổng số đội, đấu
thủ . 2. Khuyết điểm: Khó đánh giá chính xác được trình độ
thực tế của từng đội, từng đối thủ
3. Cách lập hồ sơ theo dõi cuộc đấu:
n
- Nếu tổng số đội hoặc đấu thủ tham gia đúng với các số là 2 (2, 4, 8,
16, 32…) thì sơ đồ được lập ra rất dễ dàng. Cứ từng cặp 2 đội hoặc đấu
thủ sẽ gặp nhau, ai thua sẽ bị loại khỏi cuộc đấu. Lúc này chỉ cần chọn
những hạt nhân đưa vào các nhánh khác nhau để không gặp nhau ở các
trận thi đấu quá sớm. Các đội còn lại chỉ bốc thăm để xếp vào lịch thi đấu.
n
- Nếu tổng số đội hoặc đấu thủ tham gia không đúng với các số là 2 .
thì sẽ có một số đội phải tham gia thi đấu vòng 1 để vòng 2 còn lại số đội
n
hoặc đấu thủ đúng với số 2 .
n
Công thức tính số đội phải thi đấu vòng 1 là: X = (A - 2 ) . 2
Với X là số đội phải thi đấu vòng 1, A là tổng số đội hoặc đấu thủ,
n n+1
2 là cơ số, n là lủy thừa (với 2 < A < 2 )
Vòng 2: còn lại 4 đội với lịch thi đấu như sau:
1
61
2
62
3. Cách lập sơ đồ theo dõi trận đấu:
Tính vòng đấu theo công thức:
D = A – 1 (Nếu số đội hoặc đấu thủ tham dự thi đấu là số chẵn)
D=A (Nếu số đội hoặc đấu thủ tham dự thi đấu là số lẻ)
Bài 2
CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG DÀNH CHO NGƯỜI TẬP LUYỆN TDTT
Luyện tập thể dục thể thao là một hoạt động rất tốt cho sức khỏe của
con người cả thể chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên để TDTT đem lại hiệu quả
63
thì đòi hỏi người tập phải tuân thủ theo nguyên tắc nhất định, đặc biệt là
phải có một chế độ dinh dưỡng phù hợp.
Luyện tập thể dục thể thao mang lại cho bạn cơ thể dẻo dai, tinh thần
thư thái, đẩy lùi bệnh tật. Vậy bạn đã lập quy trình cho việc tập luyện
TDTT một cách hợp lý chưa? Bạn có biết thực phẩm hàng ngày ảnh
hưởng đến thể lực và sức khỏe như thế nào không?
Theo khảo sát và tìm hiểu, thể trạng của thanh niên Việt Nam còn
thấp bé. Chiều cao trung bình của nam ở lứa tuổi 18 là 1m64 và nữ là
1m54. So với Nhật Bản và Hàn Quốc thì chúng ta thấp hơn 8cm (nam) và
4cm (nữ). Cũng có thể do vấn đề di truyền từ bố, mẹ sang con nhưng sau
này người ta đã chứng minh được chiều cao của con người có thể phát
triển tốt nếu biết được tầm quan trọng của vấn đề dinh dưỡng và tập luyện
thể thao.
I. Vấn đề dinh dưỡng:
Đối với người thường lượng calorie tiêu thụ hàng ngày khoảng
1.800 kcal (nữ), 2.100 kcal (nam). Một số người tập luyện nhiều cần tới
2.000 kcal (nữ), 2.700 kcal (nam). Đối với vận động viên tập với khối
lượng vận động lớn, cường độ vận động cao thì cần từ 2.400 – 2.800 kcal
(nữ), từ 3.000 – 3.500 kcal (nam).
II. Cân bằng tỷ lệ dưỡng chất:
Carbohydrates (Chất bột đường như: gạo, bánh mì, khoai…) chiếm
ít nhất 55% số lượng calorie tiêu thụ. Sự co bóp của cơ tim, trí não, điều
khiển sự vận động và sản sinh ra nhiệt do các hoạt động vật lý cần nguồn
năng lượng luôn sẵn sàng: Đường từ thực phẩm hiện diện trong cơ thể
dưới dạng glucose và glycogen.
Lipit (Mỡ chứa trong chất béo, dầu thực vật…) chiếm từ 20% đến
30% trong tổng số calorie tiêu thụ. Acid béo là nguồn năng lượng trong
suốt quá trình tập luyện nhưng không cần quá nhiều acid béo.
Protein (Chất đạm có trong thịt động vật, cá, trứng…) chiếm 15%
dành cho sự phát triển cơ bắp, tất cả các môn thể thao đều cần protein.
Vitamin và chất khoáng: Vitamin A,B,C,E góp phần bảo vệ các tế
bào trong cơ bắp trong suốt quá trình luyện tập và giúp hồi phục các tế
bào . Chế độ ăn uống phải đầy đủ các loại thực phẩm như rau tươi, thịt,
cá, trứng và ngũ cốc.
Muối khoáng cũng là yếu tố quan trọng trong việc mất khoáng qua
đường bài tiết (mồ hôi). Sắt (Fe) là yếu tố quan trọng trong việc vận
chuyển oxy đến các tế bào và các cơ quan vận động (có nhiều trong thịt,
sò, trái cây sấy khô…) Ma nhê (Mg) giữ vai trò thiết yếu trong hoạt động
cơ bắp và cho chức năng của hệ thống thần kinh (có trong nước khoáng,
ngũ cốc, chocolate…) Can xi (Ca) là thành phần thiết yếu cho cho xương
vững chắc (có trong sản phẩm bơ, sữa, trái cây và rau củ…) Natri (Na) là
64
thành phần thiết yếu cho quá trình chuyển hóa trong cơ thể (có nhiều
trong muối)
Nước: Khi luyện tập nhiệt độ trong cơ thể tăng . Để tránh tình trạng
nhiệt độ quá cao (phụ thuộc nhiều vào cường độ tập luyện, nhiệt độ và độ
ẩm trong không khí…) cơ thể sẽ thoát mồ hôi để giải phóng nhiệt do đó
cơ thể sẽ mất nước điều này làm cho hiệu quả sự tập luyện giảm và sẽ dễ
bị chấn thương.
III. Dinh dưỡng cho từng môn tập luyện
Tùy theo đặc điểm của từng môn tập luyện, khối lượng và cường độ
tập luyện mà có chế dinh dưỡng cho phù hợp.
Chạy cự ly dài: Cơ thể cần hỗn hợp cacbon hydrat và protein để duy
trì năng lượng. Lượng nước và muối khoáng cần thiết để bù đắp cho
lượng mồ hôi mất đi trong tập luyện.
Bơi lội: trước khi tập luyện khoảng 20 – 30 phút nên uống một ít café
hay trà xanh nhằm cung cấp adrenaline thúc đẩy quá trình tạo năng
Lượng. Ăn chuối, xoài, đào… giàu chất đường thúc đẩy quá trình tạo
đường trong cơ thể. Uống nước sẽ giúp lợi tiểu. Sau khi tập nên ăn những
thức ăn kết hợp giữa cacbon hydrat và protein. Ăn thêm trái cây để kịp
thời bỗ sung vitamin C, betacaroten và các chất oxy hóa khác.
Xe đạp: Nên ăn bỗ sung năng lượng cho cơ thể ở dạng lỏng vì khi đi
xe đạp đường dài cơ thể đào thải chất lỏng dễ hơn . Trong quá trình tập
luyện nên uống nước hoặc uống nước tăng lực thường xuyên để tránh quá
trình hydrat hóa . Sau khi tập nên cân bằng lượng cacbon hydrat và
protein để bù lại năng lượng đã mất trong khi tập.
Bóng đá: Bữa ăn giàu cacbon hydrat trước khi tập luyện sẽ mang lại
sinh lực cho cơ thể. Sau khi tập thì bỗ sung protein để các cơ thêm dẽo
dai. Uống thêm nước trái cây để bỗ sung thêm vitamin và chất chống oxy
hóa giúp cơ thể chống lại mệt mỏi
Tennis: Trước khi tập từ 30 – 60 phút chọn những thức ăn giàu dinh
dưỡng như chuối, sữa, cháo, trứng luộc, bánh mì… Sau khi tập bổ sung
thêm cho cơ thể thêm bữa ăn giàu dinh dưỡng, cân bằng giữa cacbon
hydrat, protein, dầu và các chất vitamin.
Tham khảo tài liệu trên mạng http//w.w.w tin 247.com.dinh duong cho
nguoi tap luyen. Tác giả BS Trần Huy Thông. 10 thắc mắc dành cho
người chơi thể thao. Tác giả Dung Nhi. Theo Doctissimo.
Bài 3
PHƯƠNG PHÁP SƠ CẤP CỨU MỘT SỐ CHẤN THƯƠNG
THƯỜNG GẶP TRONG LUYỆN TẬP VÀ THI ĐẤU THỂ THAO
65
Trong tập luyện và thi đấu TDTT, những tai nạn gây nên chấn thương
và vết thương đã hạn chế được nhiều nhờ sự hiểu biết và sự trợ giúp các
phương pháp, phương tiện tập luyện hiện đại. Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề
chấn thương và tai nạn trong thể thao vẫn mang tính thời sự cấp thiết.
Trước những tai nạn đó, các HLV, VĐV và người tập TDTT cần có
những kiến thức y học cần thiết để sơ cấp cứu tự bảo vệ cho bản thân và
cho những người bị nạn. Phương pháp sơ cấp cứu một số chấn thương
thường gặp trong luyện tập và thi đấu thể thao có vai trò đặc biệt quan
trọng, bởi làm kịp thời và có hiệu quả công việc này sẽ giúp cho người bị
nạn tránh được rủi ro, thậm chí cứu sống tính mạng và tạo điều kiện rất
thuận lợi cho việc cứu chữa tiếp theo tại các cơ sở y tế điều trị chuyên
ngành. Một số chấn thương với những triệu chứng và cách xử trí thường
gặp trong hoạt động TDTT:
1. Đụng dập
Đụng dập là những tổn thương phần mềm, không gây sự phá huỷ hoàn
toàn bộ giải phẫu bề mặt của da. Thường thường nó đi kèm với tổn
thương mạch máu và gây ra hiện tượng xuất huyết dưới da. Đây là một
chấn thương rất hay gặp trong tập luyện hay thi đấu thể thao.
Tại chỗ bị đụng dập sẽ bị đau, phù nề, thay đổi sắc thái da do xuất
huyết dưới da và có thể gây khó khăn hoặc mất chức năng vận động của
các chi tại khớp bị đụng dập. Khi bị đụng dập, người tập ngừng vận động
ngay, nếu tại chỗ đụng dập bị xây xước cần rửa bằng dung dịch Iôd
(Betadin) hoặc dung dịch Xanhmetilen. Nhằm đề phòng tăng xuất huyết
dưới da và giảm đau có thể xịt Chloretil, Chườm lạnh (nếu không có túi
nước đá chuyên dùng có thể dùng nước lạnh, nước đá được gói trong
khăn sạch hoặc gạc sạch chườm lên chỗ tổn thương 15-20 phút). Sau khi
tiến hành băng ép, nếu bị đụng dập ở chân hoặc tay thì cần băng ép chặt
hơn một chút. Khi có xuất huyết dưới da nhiều, thì sau khi bị chấn thương
từ 48 - 72 giờ có thể dùng cách chườm nóng để làm tan máu tụ.
2. Bong gân
Bong gân là những thương tổn bao hoạt dịch, bao khớp, dây chằng
xảy ra ở vùng khớp với những mức độ khác nhau, từ nhẹ đến rất nặng như
dây chằng bị căng, dãn, đứt một phần hay đứt toàn bộ. Những khớp hay bị
bong gân là cổ chân, gối, bàn chân, khuỷu tay và các ngón tay.
Bong gân bao giờ cũng có tổn thương dây chằng, vì vậy quan trọng
nhất là vị trí của điểm đau: ở chỗ bám của dây chằng, trên đường đi của
dây chằng, đau chói khi kéo căng dây chằng, bong gân nhẹ (đau ít, sưng
xung quanh khớp và cơ năng ít bị hạn chế), bong gân nặng (đau nhiều,
khớp sưng rất nhanh, sưng to, thường có tràn dịch, tràn máu khớp).
Trường hợp này, cần ngừng hoạt động ngay ở khớp và chi bị chấn
thương; Chườm lạnh (chườm đá) bằng túi chườm hoặc bọc nước đá áp,
xoa vào vùng khớp bị bong gân; băng ép ngay vùng bị chấn thương để
66
làm giảm chảy máu, tránh phù nề, đồng thời góp phần cố định khớp.
Dùng băng thun là tốt nhất; Sau khi sơ cấp cứu những trường hợp nhẹ có
thể điều trị và chăm sóc tại nhà nhưng những trường hợp nặng phải
chuyển đến các bệnh viện để khám và điều trị bằng các phương pháp
chuyên khoa.
3. Sai khớp
Sai khớp là sự sai lệch các diện khớp xảy ra đột ngột do tai nạn hoặc
do chấn thương. Triệu chứng đau sẽ xuất hiện; sưng một phần do chảy
máu hoặc tổn thương các tổ chức quanh khớp, một phần do các diện khớp
lệch nhau làm gồ vồng cao lên; Khớp bị sai không thể hoạt động được,
tay (chân) ở một tư thế bất thường nhất định không thể thay đổi được,
thay đổi hình dáng khớp ("dấu hiệu hiến dạng")
Cố định là công việc đàu tiên khi xác định có sai khớp. Tổ chức cố
định tại chỗ nếu điều kiện cho phép. Cố định như tư thế tay hoặc chân
hiện có mà không cố gắng kéo thẳng, vì sẽ gây ra đau và tổn thương
thêm. Nếu sai khớp vai cố định tạm thời treo tay bằng khăn. Sai khớp
khuỷu cố định hai nẹp trước và sau có độn bông. Sai khớp háng cố định
như gãy xương đùi, thường để nạn nhân nằm ngửa, kê gối và chèn cho
chân được ở trong tư thế hiện có. Nếu nghi ngờ có gãy xương hoặc sai
khớp cột sống thì tuyệt đối tránh không để thân hình nạn nhân bị xoay,
cho nằm ngửa trên ván cứng, chèn chắc hai bên để khỏi xê dịch. Khi có
sai những khớp lớn phải tiêm thuốc giảm đau, như moocphin 0.01/ml
tiêm bắp hoặc các loại thuốc khác thay thế như Promedon, Dolacgan.
Không được tự ý nắn chỉnh khớp nếu như không phải là các bác sĩ chuyên
khoa, phải nhanh chóng chuyển nạn nhân tới các cơ sở y tế càng sớm
càng tốt, vì nắn sớm dễ và ít đau hơn.
4. Gãy xương
Gãy xương là do xương bị gãy, là mất sự liên tục thường có của
xương, thường xảy ra đột ngột do chấn thương hoặc tai nạn.
Đau tại vùng xương gãy là dấu hiệu rất điển hình, đau tăng lên khi sờ
ấn, hoặc nhúc nhích đoạn kề đó (còn gọi là đau khu trú); sưng nề to khi
gãy xương lớn, chảy máu, đôi khi có bầm tím đặc trưng cho từng loại gãy
xương; giảm hoặc mất chức năng, không thể nhấc chân hoặc tay lên được
vì đoạn gãy không còn là cánh tay đòn để cơ kéo; Thay đổi hình dạng của
đoạn chi (thường là biến dạng), ví dụ đoạn chi đó ngắn hơn, cong, vẹo, lồi
lõm bất thường; Tại đoạn chi gãy thấy di động bất thường mà bình thường
chỉ có di động ở các khớp; Trong trường hợp gãy xương hở, ta có thể nhìn
thấy đầu xương gãy.
Cố định tạm thời làm giảm đau khi bị gãy xương và tránh được các
biến chứng như xương di lệch thêm hoặc gây tổn thương mạch máu, thần
kinh hoặc cơ. Trong trường hợp gẵy xương hở, trước khi cố định cần xử
lý vết thương theo nguyên tắc: không rửa, không đẩy xương thò ra vào
67
sâu, phải lau bẩn xung quanh vết thương, bôi thuốc sát trùng và băng ép
vô khuẩn.
Cố định bằng các loại nẹp y tế tiêu chuẩn như nẹp Tomat cố định gãy
xương đùi, nẹp Cơramer hình bậc thang cố định nhẹ và thông dụng ở mọi
ví trí. Tuy nhiên cũng có thể dùng các nẹp tự tạo hoặc phương tiện có sẵn
nơi xảy ra chấn thương như đòn gánh, đoạn tre, gỗ đủ độ dài,... Nếu gãy
xương đùi cần cố định các khớp háng, khớp gối, khớp cổ chân; Nếu gãy
xương cẳng chân cần cố định khớp gối, khớp cổ chân; Nếu gãy xương
cẳng tay cần cố định khớp khuỷu và khớp cổ tay.
Yêu cầu của cố định: Phải chắc chắn, đủ độ dài, dài quá mức sẽ thừa,
vướng, nhưng ngắn quá sẽ không cố định được chi) và cố gắng cố định
trong tư thế chức năng là dễ chịu nhất và tư thế thường sử dụng nhất.
Khi VĐV hoặc nạn nhân bị gãy xương phải vận chuyển bằng mọi
phương tiện đến cơ sở điều trị nhanh nhất và an toàn nhất, trong đó lấy an
toàn làm chính. Phải chuẩn bị phương tiện và cố định thật tốt mới chuyển.
Gãy xương cột sống phải nằm trên ván cứng, gãy xương đùi cũng phải
vận chuyển trên cáng nằm, còn gãy xương chi trên có thể vận chuyển ở tư
thế ngồi.
Bài 4
LỢI ÍCH VÀ TÁC DỤNG
CỦA TẬP LUYỆN TDTT ĐỐI VỚI SỨC KHỎE CON NGƯỜI
Sự ảnh hưởng của hoạt động thể dục thể thao (TDTT) đối với chức
năng của hệ vận động, hệ thống hô hấp, hệ thống tuần hoàn và hệ thống
thần kinh để bàn về tập luyện TDTT đã tăng cường thể chất như thế nào?
1. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ vận động
Các hoạt động thông thường của con người đều là dựa vào hệ vận
động. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao có thể tăng cường được
các chất của xương, tăng cường sức mạnh cơ bắp, tăng cường tính ổn định
và biên độ hoạt động của các khớp, từ đó mà năng lực hoạt động của cơ
thể đã được nâng lên, xương và khớp được cấu tạo thành. Xương trong cơ
thể là một kết cấu kiên cố, nó bao gồm hơn 200 chiếc xương, những chiếc
xương đó đã cấu tạo thành một chiếc khung giá có tác dụng bảo vệ cho
các cơ quan bộ phận bên trong của cơ thể như não, tim, phổi… Xương
còn có một chức năng khác nữa đó là tạo máu cho cơ thể. Do vậy, sự sinh
trưởng và trưởng thành của xương không chỉ có tác dụng quan trọng đối
với hình thái cơ thể mà còn có sự ảnh hưởng quan trọng đối với năng lực
vận động và lao động của con người.
Thường xuyên tập luyện TDTT có thể cải biến kết cấu của xương, có
thể tăng cường các chất trong xương, làm cho cơ bắp có tác dụng lôi kéo
68
và áp lực đối với xương làm cho xương không chỉ biến hoá về phương
diện hình thức mà còn làm cho tính cơ giới của xương được nâng lên. Sự
biến đổi thể hiện rõ rệt nhất trên phương diện hình thái của xương đó là:
Cơ bắp bám ngoài xương tăng lên nhiều, chất liên kết ở các lớp ngoài của
xương cũng từ đó được tăng lên, sự sắp xếp của các chất mềm (xốp) bên
lớp trong của xương cũng căn cứ vào áp lực và lực kéo của cơ mà thích
nghi. Đây chính là sự tăng lên về sự kiên cố của xương, từ đó có thể chịu
đựng được phụ tải lớn, nâng cao năng lực chống chịu áp lực, trọng lượng
lớn, sự kéo dài và xoay chuyển…của xương.
Thường xuyên tập luyện TDTT thì sự phát triển của xương được nâng
lên rõ rệt. Nó sẽ đẩy mạnh sự phát triển chiều cao của các em thiếu niên
nhi đồng. Chiều cao hoặc tốc độ trưởng thành được quyết định bởi tốc độ
tăng trưởng của thời kỳ dài xương của các em thiếu niên nhi đồng. Đối
với sự phát triển của xương thì đầu mút xương là hết sức quan trọng.
Thường xuyên tập luyện TDTT sẽ tăng nhanh tốc độ tuần hoàn máu, từ
đó mà tăng được lượng vật chất dinh dưỡng mà sự phát triển mà đầu mút
xương đòi hỏi. Thường xuyên tập luyện TDTT còn có thể ảnh hưởng đến
hệ thống nội phân tiết là kích thích sự sinh trưởng của đầu mút xương, do
vậy mà thúc đẩy sự chuyển hoá vitamin D, tăng cường sự cung cấp các
nguyên liệu tạo ra xương, điều này có lợi cho phát triển và trưởng thành
của xương. Căn cứ vào điều tra, khi so sánh những người thường xuyên
và những người không thường xuyên tập luyện TDTT cho thấy chiều cao
chênh lệch từ 4 - 8 cm ( ở các em học sinh lứa tuổi 10 – 14) Trước khi cơ
thể trưởng thành, thông qua tập luyện TDTT có thể cải thiện sự cung cấp
máu của xương, tăng cường sự trao đổi chất, kích thích sự phát triển của
xương, làm cho sự cốt hóa được diễn ra liên tục. Đồng thời rèn luyện thân
thể với các loại động tác cũng có tác dụng kích thích rất tốt đối với sự
phát triển của xương, thúc đẩy tiết kích thích tố.
Nơi các xương trong cơ thể kết nối với nhau và cũng dựa vào đó để
hoạt động gọi là khớp, bao gồm có dây chằng và cơ. Dây chằng có tác
dụng gia tăng sự kiên cố cho khớp, còn cơ thì không những có thể gia
tăng sự kiên cố cho khớp mà còn có tác dụng lôi kéo làm cho khớp vận
động. Khớp là đầu mối quan trọng cho sự liên kết các xương với nhau.
Tập luyện TDTT một cách khoa học, hệ thống vừa có tác dụng làm tăng
tính ổn định của khớp, vừa có thể tăng cường sự linh hoạt và biên độ của
khớp. Tập luyện TDTT có thể gia tăng mật độ và độ dày của mặt khớp,
đồng thời cùng làm phát triển các cơ bao quanh khớp, tăng cường sức
mạnh cho ổ khớp và dây chằng bao quanh khớp. Do vậy, có thể làm tăng
thêm tính ổn định và kiên cố của khớp, tăng cường cho khớp lực chống
đỡ lại các phụ tải tác động lên khớp.
Khi tăng cường tính ổn định và kiên cố của khớp, do vì ổ khớp, dây
chằng và cơ bao quanh khớp được tăng cường về tính đàn hồi và tính co
69
duỗi thì biên độ và tính linh hoạt của khớp cũng không ngừng được tăng
cường. Trong biểu diễn môn thể dục tự do, các khớp của VĐV đã hoạt
động với biên độ rất lớn ví dụ như làm động tác uốn cầu vồng hay xoạc
ngang, nếu như không thường xuyên tập luyện sẽ không thể thực hiện
được. Bất kể vận động nào của con người đều biểu hiện bởi hoạt động của
cơ bắp, do vậy sự phát triển của cơ bắp là hết sức quan trọng đối với việc
nâng cao năng lực lao động và vận động.
Rèn luyện thân thể sẽ cải biến cơ bắp một cách rõ rệt. Ở người bình
thường thì trọng lượng cơ bắp chiếm 35 – 45% trọng lượng cơ thể, nhưng
thông qua tập luyện thể dục TT có thể tăng lên đến 50%. Thường xuyên
tập luyện TDTT thì sẽ có một cơ thể khoẻ mạnh và cân đối. Khi tập
luyện, cơ bắp và xương được tăng cường hoạt động, sự cung cấp máu
được tăng lên, Prôtêin và dinh dưỡng được tăng cường, năng lực dự trữ
của cơ cũng tăng lên, sự phì đại cơ rõ rệt vì vậy mà bắp cơ to dần lên, sức
mạnh của cơ bắp cũng theo đó mà tăng lên. Do các tế bào cơ được tăng
cường, năng lực kết hợp với Ôxy tăng lên, khả năng dự trữ các chất dinh
dưỡng và đường tăng lên, số lượng mao mạch trong cơ bắp tăng lên
nhiều… điều này thích ứng với các yêu cầu của lao động và hoạt động.
Thông qua tập luyện TDTT còn có thể nâng cao năng lực của hệ
thống thần kinh đối với hệ thống cơ bắp, điều này thể hiện bởi tốc độ
phản ứng, độ chuẩn xác và tính nhịp điệu đều được nâng lên. Khi cơ bắp
làm việc, sự tiêu hao năng lượng được giảm xuống nhưng hiệu quả vẫn
được nâng lên. Những điều này làm cho sức mạnh, tốc độ, sức bền và tính
linh hoạt… đều tốt hơn nhiều so với người bình thường. Ngoài ra nó còn
giúp cho cơ thể tránh được các chấn thương do sự hoạt động với cường
độ cao của cơ bắp trong quá trình tập luyện hay trong hoạt động đời sống
hàng ngày.
2. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ thống hô hấp
Chức năng của hệ thống hô hấp mạnh hay yếu phụ thuộc bởi năng lực
hấp thụ Oxy của cơ thể, khi tập luyện thể dục TT cơ thể đòi hỏi nhiều hơn
về Oxy, chính vì vậy mà tần số hô hấp tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu trên,
các cơ quan của hệ thống hô hấp bắt buộc phải cải thiện năng lực làm việc
của bản thân. Do vậy, tiến hành tập luyện TDTT trong thời gian dài có thể
nâng cao năng lực hấp thụ Oxy, từ đó nâng cao được chức năng của các
cơ quan trong hệ thống hô hấp, cải thiện cơ năng hệ thống hô hấp.
Quá trình hoạt động sống của con người là một quá trình tiêu hao
năng lượng, năng lượng đó được lấy từ nguồn dự trữ các chất trong cơ
thể. Những vật chất dự trữ này khi được đem ra để biến đổi thành năng
lượng đòi hỏi phải có một quá trình Oxy hoá, do vậy, cơ thể bắt buộc phải
không ngừng sử dụng Oxy từ môi trường bên ngoài và thở ra CO2. Quá
trình trao đổi này gọi là quá trình hô hấp. Hệ thống hô hấp bao gồm phổi,
khí quản, mũi... trong đó phổi là nơi trao đổi khí, còn lại đều là đường hô
70
hấp..
Chức năng hô hấp được cải thiện ở một số mặt sau:
a. Cơ hô hấp được phát triển dần, có lực, có sức bền, có thể chịu
đựng với lượng vận động lớn.
Cơ hô hấp chủ yếu là cơ hoành cách, cơ gian sườn, ngoài ra còn có
thêm cơ bụng, khi hít thở sâu các nhóm cơ ở ngực, lưng cũng có tác dụng
phụ trợ. Tập luyện TDTT thường xuyên sẽ tăng cường cơ hô hấp do vậy
mà chu vi lồng ngực tăng lên nhiều.
Sự phát triển của cơ hô hấp làm cho biên độ của động tác hô hấp lớn
lên, hô hấp ở người bình thường khi hít vào hết sức và thở ra hết sức sự
chênh lệch về chu vi lồng ngực không nhiều (gọi là hô hấp kém) chỉ có 5-
8 cm, ở người thường xuyên tập luyện thể dục TT sự khác biệt này là có
thể lên tới 9 – 16 cm. Vì vậy tiến hành tập luyện TDTT thường xuyên là
có lợi cho việc nâng cao chức năng của hệ thống hô hấp.
b. Dung tích sống tăng lên, tăng cường hấp thụ Ôxy và thải CO2.
Dung tích sống là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá trình độ sức khoẻ
và sự sinh trưởng phát dục của thiếu niên nhi đồng. Thường xuyên tập
luyện TDTT đặc biệt là làm các động tác gập duỗi ngực có thể làm cho
sức mạnh của cơ hô hấp được tăng cường, lồng ngực to lên từ đó làm cho
dung tích sống tăng lên. Ngoài ra khi tập luyện TDTT với các vận động
hít thở mang tính thường xuyên cũng có thể thúc đẩy sự tăng trưởng của
dung tích sống; Ở người bình thường dung tích sống chỉ khoảng 3500 ml,
ở những người thường xuyên tập luyện TDTT tính đàn hồi của phổi tăng
lên rõ rệt, sức mạnh của cơ hô hấp tăng nhiều, dung tích sống lớn hơn
người bình thường khoảng 1000 ml.
c. Tăng cường độ sâu hô hấp.
Ở người bình thường hô hấp nông và nhanh, khi yên tĩnh tần số yên
tĩnh khoảng 12 – 18 lần/ phút, ở người thường xuyên tập luyện TDTT hô
hấp sâu và chậm lúc yên tĩnh tần số hô hấp khoảng 8 – 12 lần/ phút. Như
vậy có nghĩa là các cơ hô hấp có nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Sự khác
biệt này còn biểu hiện rõ nét hơn trong khi vận động.
Từ thống kê trên có thể thấy, ở người bình thường và VĐV trong cùng
1 phút thì dung lượng hô hấp là tương đồng. Nhưng trên thực tế, thì sự
giao đổi Ôxy và CO2 lại khác nhau bởi lẽ mỗi lần hô hấp thì có khoảng
150 ml không khí được lưu lại trong đường hô hấp mà không thể vào
trong phế bào để tiến hành giao đổi. Do đó lượng khí giao đổi sẽ là:
Ở người bình thường: (300 ml - 150 ml) 32 = 4800 ml.
Ở vận động viên là: (600 ml - 150 ml) 16 = 7200 ml.
Điều này cho thấy khi cơ bắp làm việc thì nhu cầu về Ôxy tăng lên, ở
người bình thường sẽ phải tăng tần số hô hấp để đáp ứng nhu cầu đó do
vậy khi vận động thường thở gấp. Nhưng ở VĐV do vì cơ năng hô hấp
71
được nâng lên, hô hấp sâu. Trong cùng một điều kiện như nhau, tần số hô
hấp chưa cần tăng cao thì đã đáp ứng đủ nhu cầu không khí để trao đổi do
đó có thể làm việc được trong thời gian dài hơn.
Ngoài ra, do kết quả của tập luyện TDTT lâu dài đã cải thiện được
chức năng của hệ thống hô hấp và các hệ thống khác (hệ thống thần kinh,
hệ thống tuần hoàn…) nâng cao năng lực nhả CO 2 và hấp thụ Ôxy khi
trao đổi khí, làm cho VĐV khi hoạt động ở cường độ cao vẫn có thể phát
huy chức năng của hệ hô hấp, điều này đảm bảo cho việc cung cấp đầy đủ
năng lượng khi vận động mà ở người bình thường khó có thể đạt được.
Tập luyện TDTT còn có thể rèn luyện con người nâng cao được năng lực
chịu đựng nợ dưỡng khí (khả năng chịu đựng thiếu Ôxy). Trong điều kiện
thiếu Ôxy vẫn có thể kiên trì thực hiện các hoạt động cơ bắp phức tạp.
3. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với chức năng của hệ tuần
hoàn
Một hệ thống tuần hoàn tốt là điều kiện bắt buộc phải có cho một cơ
thể cường tráng khoẻ mạnh. Tập luyện TDTT có thể nâng cao chức năng
của tim, tăng nhanh tốc độ tuần hoàn máu, nâng cao được chức năng của
hệ thống huyết quản.
Hệ thống tuần hoàn là do tim, máu và hệ thống huyết quản tạo thành
vì vậy mà gọi là hệ thống tuần hoàn máu. Tim là nơi phát ra động lực làm
cho máu lưu động, huyết quản là con kênh dẫn máu đi khắp nơi trong cơ
thể, máu thì phụ trách việc vận chuyển dinh dưỡng, Ôxy, các sản phẩm
thải của quá trình trao đổi chất và CO 2. Tim có tác dụng làm cho máu
luôn lưu động trong huyết quản mang Ôxy và các chất dinh dưỡng để cho
các tổ chức, tế bào, đồng thời đem các chất thải của quá trình trao đổi chất
sản sinh ra cũng như CO2 ra ngoài phổi, thận và da…
Tập luyện TDTT có tác dụng rất tốt đối với các cơ quan, hệ thống
trong cơ thể, đối với hệ thống huyết quản cũng như vậy. Khi tiến hành tập
luyện TDTT sự tiêu hao năng lượng và các sản phẩm thừa của quá trình
trao đổi chất tăng lên trong cơ thể. Lúc này đòi hỏi phải nâng cao chức
năng của tim, tăng nhanh tốc độ lưu truyền máu, đồng thời năng cao chức
năng của hệ tuần hoàn.
a. Tăng cường tính vận động của tim.
Tập luyện TDTT làm tăng cường máu của cơ tim, làm cho cơ tim có
nhiều vật chất dinh dưỡng hơn. Do tập luyện TDTT cơ tim dần dần được
tăng cường, thành tim dầy lên, thể tích khoang tim tăng lên (người bình
thường khoảng 700ml, VĐV là 1000ml). Do vậy thể tích khoang tim của
VĐV lớn hơn một chút so với người bình thường. Hiện tượng này được
gọi là “phì đại tim mang tính vận động” Người thường xuyên tập luyện
TDTT do tập luyện thường kỳ, cơ ở khoang tim sẽ to và khoẻ dần lên,
dùng máy chuyên môn để xem xét có thể thấy khoang tim của họ to hơn
một chút so với người thường, ngoại hình đầy đặn, cơ tim phát triển, lực
72
co bóp tim tăng lên, dung lượng tim cũng tăng lên nhiều, do vậy mà mỗi
lần co bóp tim lượng máu được đẩy ra khỏi tim (lưu lượng tâm thu) cũng
tăng lên.
b. Tần số mạch giảm và chậm khi yên tĩnh.
Ở người bình thường tần số mạch vào khoảng 70 – 80 lần/phút,
thường xuyên tập luyện TDTT tần số mạch đập chỉ khoảng 50 – 60
lần/phút, các VĐV ưu tú có khi giảm xuống tới 40lần/phút. Điều này là
do ở VĐV lưu lượng tâm thu tăng lên do đó tần số mạch giảm xuống
nhưng vẫn cung cấp đủ cho nhu cầu trao đổi chất của toàn bộ cơ thể.
Trong trạng thái yên tĩnh, lưu lượng phút mà cơ thể đòi hỏi khoảng 75
lần. Trong khi đó lưu lượng tâm thu ở VĐV khoảng 90ml, tim chỉ cần co
bóp khoảng 50 lần là đủ cung cấp máu cho cơ thể. Tần số mạch giảm
xuống do đó mà tim có nhiều thời gian nghỉ ngơi.
c.“Tiết kiệm hoá” trong làm việc của tim.
Tiến hành vận động nhẹ nhàng, ở cùng một lượng vận động, tần số
mạch đập và biên độ biến đổi huyết áp ở người thường xuyên tập luyện
TDTT nhỏ hơn người bình thường và không dễ bị mệt mỏi, hồi phục
nhanh. Người không thường xuyên tập luyện sẽ đòi hỏi tần số mạch cao
hơn, do đó thời gian nghỉ ngơi của tim ngắn đi, rất dễ mệt mỏi, sau khi
vận động thời gian hồi phục cũng cần dài hơn. Nguyên nhân chủ yếu là
người thường xuyên tập luyện có lực co bóp tim lớn hơn, lưu lượng tâm
thu lớn hơn, do đó chỉ cần tăng một chút tần số mạch là đã có thể đáp ứng
đủ yêu cầu, đồng thời do việc tập luyện TDTT làm cho huyết quản bảo vệ
và duy trì tốt sự lưu truyền của máu nên ở các VĐV nhẹ nhàng, biên độ
biến hoá về tần số mạch và huyết áp đều nhỏ hơn so với ở người bình
thường. Hiện tượng này được gọi là hiện tượng “tiết kiệm hoá”.
d. Khi hoạt động với cường độ cao, chức năng của tim có thể đạt tới
trình độ cao.
Người thường xuyên tập luyện TDTT thì chức năng của tim rất tốt, đó
là cơ tim khoẻ, dung lượng tim lớn, lực co bóp tim khoẻ. Khi hoạt động
kịch liệt có thể nhanh chóng phát huy chức năng tim, có thể đạt đến mức
độ mà ở người thường không thể đạt tới.
Do vậy có thể đảm nhiệm được những công việc hoặc lao động với
lượng vận động huấn luyện hoặc phụ tải rất lớn, trong khi đó ở người
thường tần số mạch đập tối đa chỉ đạt tới 180 lần/phút, lúc này lượng máu
trở về tim sẽ giảm xuống do vậy lưu lượng tâm thu giảm xuống, tuần
hoàn máu vì thế cũng giảm hiệu quả. Sự tích luỹ các sản phẩm của quá
trình trao đổi chất (axit lactic) làm cho khó có thể duy trì được công việc
thậm chí còn xuất hiện hiện tượng tức ngực, khó thở, loạn nhịp tim, đau
đầu… sự hồi phục sau vận động giảm.
e. Tăng tính dẫn truyền của huyết quản.
Tập luyện TDTT có thể tăng cường được tính dẫn truyền máu của
73
thành mạch, Y học đã chứng minh, thường xuyên tập luyện TDTT sẽ làm
tăng hàm lượng hồng cầu, bạch cầu, có thể cung cấp kịp thời dinh dưỡng
và Ôxy cho cơ thể, mang các chất thải của quá trình trao đổi chất cũng
như CO2 ra ngoài.
việc thường xuyên tập luyện TDTT đóng một vai trò hết sức quan
trọng trong việc giảm tỷ lệ mắc các bệnh liên quan đến tim và hệ tuần
hoàn. Hiện nay đã không có ít người chết vì mắc các bệnh về tim mạch, ở
Liên bang Đức 20 năm trở lại đây, số lượng người chết vì bệnh tim chiếm
52%-53% tổng số ngưới chết. Theo tài liệu thống kê của Tổ chức y tế thế
giới công bố năm 1984 số người chết do mắc các bệnh về tim là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tử vong chiếm tỷ lệ cao nhất.
4. Sự ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ tiêu hoá
Dạ dày và ruột là những cơ quan chủ yếu của hệ thống tiêu hoá trong
cơ thể. Năng lực tiêu hoá của dạ dày và ruột tốt sẽ có những ảnh hưởng
tốt đối với sức khoẻ con người. Thường xuyên tập luyện TDTT sẽ nâng
cao được công năng tiêu hoá của dạ dày và ruột, tăng cường sự khoẻ
mạnh cho gan, đồng thời còn có tác dụng trị liệu và phòng ngừa một số
bệnh về hệ thống tiêu hóa. Do nhu cầu hoạt động của cơ bắp nên dạ dày
và ruột phải tăng cường chức năng tiêu hoá, lúc này dịch và men tiêu hoá
tăng lên nhiều, sự co bóp ở đường dẫn truyền tiêu hoá càng được tăng lên
mạnh mẽ, tuần hoàn máu ở dạ dày và ở ruột cũng được cải thiện. Do phát
sinh các thay đổi nêu trên mà việc tiêu hoá thức ăn và hấp thụ các chất
dinh dưỡng được diễn ra thuận lợi, mặt khác do khi vận động phải hô hấp
sâu, cơ hoành cách hoạt động với biên độ lớn nên đã di chuyển nhiều
xuống phía dưới, cơ bụng cũng hoạt động mạnh, điều này đã có tác dụng
mát xa cho dạ dày và ruột. Gan là một cơ quan nội tạng lớn trong cơ thể
con người, nó đóng vai trò hết sức quan trọng đối với hệ tiêu hoá, thường
xuyên tập luyện TDTT chức năng của gan được tăng cường điều này rất
có lợi cho việc tiêu hoá thức ăn. Khi vận động sự tiêu hao nguồn năng
lượng dự trữ tăng lên, khiến cho gan phải hoạt động tích cực hơn từ đó
mà chức năng gan được tập luyện thường xuyên và phát triển. Lượng
đường đơn trong gan của VĐV và người thường và tốc độ đẩy đường đơn
ra ngoài của gan ở VĐV cũng nhanh hơn người thường. Đường đơn ở gan
là hết sức quan trọng đối với sự khoẻ mạnh của gan, nó có thể bảo vệ cho
gan, vì nguyên nhân này mà các bác sĩ thường yêu cầu những bệnh nhân
gan ăn nhiều hoa quả có đường. Chức năng gan ở VĐV là rất tốt, khả
năng đề kháng với bệnh gan cũng rất cao. Ở người thường xuyên tập
luyện TDTT thì việc sử dụng đường đơn trong gan cũng tốt hơn ở người
thường. Từ những yếu tố trên có thể thấy tập luyện TDTT có thể làm tăng
thêm sức khoẻ cho gan, mà gan có khoẻ thì mới có thể nâng cao được
năng lực lao động và vận động.
5. Ảnh hưởng của tập luyện TDTT đối với hệ thống thần kinh
74
Hệ thống thần kinh khống chế các loại hành vi của con người, thường
xuyên tập luyện TDTT sẽ làm nâng cao năng lực làm việc của các tế bào
thần kinh ở đại não, nâng cao tính linh hoạt và sự hưng phấn của hệ thống
thần kinh, phản ứng nhanh, tăng thêm tốc độ linh hoạt và sự chuẩn xác
nhịp nhàng của động tác. Hệ thống thần kinh là do hệ thống trung khu và
hệ thống thần kinh ngoại biên tạo thành.
Hình thức hoạt động của chúng như sau: Sau khi cơ thể tiếp nhận
được tín hiệu kích thích thông qua các nơron thần kinh để dẫn truyền đến
hệ thống trung khu thần kinh, sau khi hệ thống trung khu thần kinh phân
tích, tổng hợp thì các xung động hưng phấn sẽ được dẫn truyền tới các cơ
quan từ đó tạo ra các phản ứng tương ứng. Vấn đề này đem lại những lợi
ích cho công việc hay những hoạt động sinh hoạt đời thường. Tập luyện
TDTT còn đảm bảo cho việc giữ cân bằng giữa hưng phấn và ức chế của
đại não, từ đó phòng ngừa được sự phát sinh suy nhược thần kinh.
Thường xuyên tập luyện TDTT có thể làm cho sự hưng phấn được tăng
cường, ức chế càng thêm sâu sắc hoặc làm cho hưng phấn và ức chế được
tập trung, như vậy đã nâng cao được tính linh hoạt của quá trình thần
kinh.
Khi tập luyện TDTT do trung khu vận động hưng phấn cao độ làm
cho ngoại vi sản sinh sự ức chế sâu sắc, điều đó khiến cho các tế bào thần
kinh được nghỉ ngơi tốt. Tập luyện TDTT thường yêu cầu phải hoàn
thành những động tác phức tạp, có độ khó cao hơn so với các hoạt động
thường ngày, vì vậy mà cơ thể bắt buộc phải động viên chức năng của bản
thân đến mức cao độ mới có thể thích nghi được với các yêu cầu của
nhiệm vụ. Thông qua tập luyện thời gian dài, không chỉ cơ bắp phát triển,
do động tác có lực, mà tốc độ, tính mềm dẻo, sự linh hoạt… của động tác
cũng được tăng cường, đối với thể lực lao động thì sức bền bỉ cũng được
nâng lên, khả năng phòng bệnh và khả năng thích nghi với các loại kích
thích bên ngoài môi trường cũng được nâng lên. Bởi lẽ vận động có tác
dụng rất tốt đối với hệ thống thần kinh nên phần lớn các bác sĩ thường lấy
tập luyện thể dục TT để làm thành một phương pháp trị liệu, đặc biệt là
điều trị các trở ngại về chức năng của hệ thống thần kinh - nguyên nhân
dẫn đến các bệnh thần kinh. Ở Mỹ một số chuyên gia về bệnh thần kinh
đã mở một lớp gọi là “vận động dự phòng” cho một số người bị suy
nhược thần kinh nhẹ, trong lớp này họ đã lấy chạy bộ thay cho việc dùng
thuốc. Trải qua một tuần tập luyện thì đã có 60%- 85% bệnh nhân xuất
hiện dấu hiệu hồi phục.
6. Thúc tiến phát triển năng lực của não, nâng cao hiệu suất học tập, công
tác
Tập luyện TDTT ngoài việc phát triển thể lực và thể chất ra, nó còn
phát triển năng lực của não, nâng cao hiệu suất công tác. Thường xuyên
tập luyện TDTT có thể nâng cao năng lực làm việc của đại não, từ đó tăng
75
cường trí lực và khả năng ghi nhớ của cơ thể, đồng thời thông qua tập
luyện TDTT cũng làm tăng hiệu suất công việc và học tập.
Con người khi phát triển chịu sự ảnh hưởng của 3 yếu tố: Di truyền;
hoàn cảnh sống và Giáo dục.
Các yếu tố di truyền của cơ thể như kết cấu, hình thái, cảm quan, hệ
thống thần kinh… là những điều kiện tiền đề của sự phát triển tự nhiên
hay sinh lý của con người. Trong khi đó tri thức, tài năng, tính cách, sự
yêu thích… của con người được hình thành bởi sự ảnh hưởng của giáo
dục và hoàn cảnh sống. Giáo dục ở đây đương nhiên trong đó bao gồm cả
nội dung GDTC. Thực tiễn đã chứng minh tập luyện TDTT đã có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển về mặt trí lực, nhận thức, tài năng của con
người, đồng thời cũng có tác dụng nâng cao hiệu suất học tập.
6.1. Rèn luyện thân thể nâng cao năng lực hoạt động trí lực
Trí lực hiểu theo nghĩa thông thường là lấy năng lực tư duy làm hạt
nhân, nó là sự tổng hoà của năng lực nhận thức, nó bao gồm năng lực
quan sát, năng lực ghi nhớ, năng lực tưởng tượng… Trí lực là sản vật của
sự kết hợp giữa di truyền, sự ảnh hưởng của giáo dục, điều kiện sống và
sự nỗ lực cá nhân. Thực tế đã chứng minh trình độ trí lực của con người
có mối tương quan với di truyền (có người cho rằng có thể đạt tới 65%,
thậm chí tới 80%), có mối tương quan mật thiết với hoàn cảnh xã hội,
giáo dục, điều kiện gia đình, mặt bằng kinh tế… Không thể xem nhẹ tác
dụng của tập luyện TDTT đối với sự phát triển trí lực, đã có ngày càng
nhiều các nhà nghiên cứu báo cáo về vấn đề này. Các kết quả nghiên cứu
đã chứng minh, năng lực ghi nhớ và trí lực là một loại mang đặc tính vật
chất hoá học, do một loại phân tử Prôtêin đa vật chất cấu thành, sự vận
động của những vật chất này có liên quan đến trạng thái làm việc của đại
não, càng thích nghi với điều kiện làm việc thì càng tốt, đại não bảo lưu
các tin tức bên ngoài càng kiên cố, sự liên hệ giữa các tin tức đó càng rõ
nét đối với sự phân biệt các tin tức càng rõ ràng mạch lạc. Những hiện
tượng này bình thường chúng ta hay gọi là “mẫn cảm”.
Sự thích nghi giữa một đại não tốt với điều kiện công tác được thể
hiện ở hai mặt sau:
- Cung cấp đầy đủ máu trong não.
- Thích nghi với trạng thái hưng phấn.
6.2. Tập luyện TDTT nâng cao hiệu quả công tác và học tập
Học tập các tri thức văn hoá khoa học là những hoạt động thần kinh
cao cấp của đại não. Trong quá trình học tập đòi hỏi đại não phải hoạt
động tư duy căng thẳng cao độ và liên tục, những hoạt động dựa vào sự
chuyển hoá tương hỗ không ngừng và sự cân bằng giữa hai chức năng
hưng phấn và ức chế của tế bào thần kinh.
Nếu làm việc trong thời gian quá dài các tổ chức não sẽ sản sinh ra tác
dụng ức chế để bảo vệ, lúc này hiệu suất làm việc của não sẽ giảm xuống,
76
biểu hiện ra ngoài đó là năng lực chú ý và tư duy kém, nặng hơn là chóng
mặt, đau đầu… lúc này đòi hỏi phải nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi có hai kiểu, đó
là nghỉ ngơi tiêu cực (ngủ) và nghỉ ngơi tích cực (tập luyện TDTT). Khi
tập luyện TDTT các tế bào thần kinh vận động sẽ được hưng phấn cao,
mặt khác làm gia tăng thêm sự ức chế các tế bào ghi nhớ và tư duy từ đó
làm cho sự mệt mỏi mất đi. Do vận động làm cho hệ tuần hoàn hoạt động
tích cực dẫn đến các tế bào được cung cấp dinh dưỡng và Ôxy đầy đủ
hơn, làm thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc đào thải sản phẩm thừa của quá
trình trao đổi chất, điều này rất có lợi cho chức năng hồi phục của cơ thể.
Tóm lại: Tiến hành tập luyện TDTT một cách khoa học không những
có tác dụng rèn luyện thể chất và thể lực cho cơ thể mà còn có tác dụng
rất lớn đối với việc thúc đẩy và nâng cao các hoạt động của não. Thường
xuyên tập luyện TDTT có thể nâng cao chức năng của các cơ quan trong
cơ thể, thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát dục ở thanh thiếu niên, phát
triển các tố chất cơ thể, nâng cao năng lực hoạt động cơ bản của con
người...
ʘ Bộ chương trình GIÁO DỤC ĐẠI HỌC ĐẠI CƯƠNG (Ban hành
theo quyết định số 3244/ GD và ĐT ngày 12 / 09 / 1995 của Bộ giáo
dục và Đào tạo)
ʘ Chương trình GIÁO DỤC THỂ CHẤT dùng cho các trường trung
cấp nghề, trường cao đẳng nghề (Ban hành theo quyết định số
06/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 18/02/2008)
ʘ PGS-TS Dương Nghiệp Chí và nhóm biên soạn - ĐIỀN KINH
(sách giáo khoa dùng cho sinh viên Đại học TDTT)
77
ʘ Trường Đại học Sư phạm TDTT Thành phố HCM - GIÁO
TRÌNH ĐIỀN KINH - NXB TDTT Hà Nội - năm 2017.
ʘ UBTDTT - LUẬT BÓNG ĐÁ - NXB TDTT Hà Nội - năm 2018
ʘ UBTDTT - LUẬT BÓNG RỔ - NXB TDTT Hà Nội - năm 2018
ʘ UBTDTT - Luật bóng chuyền - NXB TDTT Hà Nội - năm 2018
ʘ Richard Alagich - Huấn luyện bóng đá hiện đại – Biên dịch: Nguyễn
Huy B, Phạm Anh Thiện - NXB TDTT Hà Nội 2016.
ʘ Nguyễn Công Hân – Tập luyện kỹ năng các môn thể thao trong trường
học - NXBTDTT - 2017
( Tham khảo thêm các trang web để lấy thông tin liên quan đến môn học)
78