Professional Documents
Culture Documents
NGÔN NG Và VĂN HÓA KO HO
NGÔN NG Và VĂN HÓA KO HO
NGÔN NGỮ
&
VĂN HOÁ
KƠ HO
MỤC LỤC
CHƯƠNG I................................................
LỊCH SỬ DÂN TỘC KƠ HO...................
DẪN NHẬP.......................................................
I. NHÓM GIÁO SƯ ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM SÀI GÒN...............................................
II. NGUYỄN KHẮC NGỮ VÀ
PHẠM ĐÌNH TIẾU...........................................
III. HỒ VĂN ĐÀM..........................................
IV. BÌNH NGUYÊN LỘC...............................
V. LINH MỤC ĐAMINH
NGUYỄN HUY TRỌNG................................
KẾT LUẬN.....................................................
CHƯƠNG II.............................................
NIỀM TIN CỦA NGƯỜI KƠ HO
...................................................................
DẪN NHẬP.....................................................
I. THẦN, THẦN LINH,
THƯỢNG ĐẾ, THIÊN CHÚA …
(YÀNG).............................................................
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 7
CHƯƠNG I
LỊCH SỬ DÂN TỘC KƠ HO
DẪN NHẬP
Người Kơ Ho là ai ? Họ từ
đâu mà đến ? Đó là công việc
của nhà nhân chủng học trong
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 8
1
J. M. PHÙNG THANH QUANG, Lạc quan trên miền Thượng, 1974, Tr. 91
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 9
cư ngụ tại vùng cao nguyên Lâm highland; or the word "mọi",
"thượng" of the Vietnamese as
Viên.
well as "montagnard" of the
French. Therefore, in terms of
II. NGUYỄN KHẮC NGỮ VÀ
anthropology, there is no ethnic
PHẠM ĐÌNH TIẾU3.
group called the K'Ho.
Khác với đồng bào thiểu số ở Additionally, people usually
miền Bắc, chỉ sinh sống trên miền refer K'Ho language to a type of
núi, đồng bào thiểu số miền Nam language commonly used among
sống cả ở dưới đồng bằng. a number of ethnic groups living
in the Lam Vien plateau.
Khu vực của đồng bào thiểu
số miền Nam ở từ đèo Ngang trở II. Nguyen Khac Ngu &
vào, một phần ở trên các cao nguyên
gọi là đồng bào Thượng, một phần ở Pham Dinh Tieu
dưới các đồng bằng vốn là các sắc
dân xưa kia đã lập quốc trên giải đất
này như Chàm, Căm-bốt. Đứng về Unlike the ethnic minorities in
phương diện nhân chủng, người ta có the North, who only live in the
thể chia các sắc dân thiểu số miền mountains, their Southern
Nam thành hai nhóm : Nhóm gốc counterparts also live in the
Mã Lai – Đa đảo và nhóm Môn – plains.
Khmer.
The area of the Southern ethnic
1. Nhóm gốc Mã Lai – Đa đảo: minorities is located from Ngang
Pass onward to the South; some
Theo các nhà nhân chủng học, live on the plateau called
những sắc dân thuộc nhóm này thuộc “Montagnard” (người Thượng),
giống dân hải đảo phía Nam. Nhóm others who were the ancient
này nói tiếng Mã Lai – Đa đảo – nên ethnic groups founding the
country on this land live under
một sắc dân nói lên, các sắc dân
the plains such as Cham and
3
NGUYỄN KHẮC NGỮ & PHẠM ĐÌNH TIẾU, Địa Lý Việt Nam, Cơ Sở Xuất
Bản Sử Địa, 1970, Tr. 126-137
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 11
khác trong nhóm có thể nghe hiểu Cambodia. From the point of
view of anthropology, scientists
được. Các sắc dân trong nhóm Mã
can divide the Southern ethnic
Lai – Đa đảo đều theo chế độ mẫu minorities into two groups: the
hệ. Trong xã hội này, người đàn bà Malay-Polynesia group and the
cưới chồng về nhà mình, con cái Mon-Khmer group.
theo họ mẹ, tài sản chỉ truyền cho
con gái. 1. The Malay-Polynesia group
Khu phía Bắc cao nguyên Raglai people, Churu people and
H'roi people.
miền Nam có các sắc dân Ba-na, Sê-
đăng. Khu phía Nam cao nguyên 2. The Mon-Khmer group
miền Nam có các sắc dân Mạ, Srê,
Mnông và ở Nam phần có sắc dân According to anthropologists, the
Khmer, Stiêng v.v. Các sắc dân này Mon-Khmer group is an ethnic
nói tiếng Khmer ở Căm-bốt và tiếng group from the Western part of
the Indochina Peninsula coming
Môn ở miền Nam Miến-điện, Thái
to the Southern plateau before
Lan. the Malay-Polynesia group.
Trình độ văn minh của các sắc However, due to their lack of
dân này còn thấp kém, y phục rất sơ influence, they have lost their
lands to the hands of the Malay -
sài, phần nhiều còn ở trần.
Polynesian group; more
Khu phía Bắc tương đối còn specifically, the plains (taken by
tiến bộ hơn khu phía Nam nhưng tất Cham people), the rich plateaus
cả so với nhóm Mã Lai – Đa đảo thì (taken by Rhade people in Dak
còn kém xa. Lak and by Jarai people in
Pleiku). Therefore, there are only
Nhóm Môn-Khmer theo chế 3 areas left:
độ phụ hệ.
The Northern region of the
Southern plateau is inhabited by
Xứ Mạ (Che-Ma) (Xứ Mạ the Bahnar and Xo Dang ethnic
thuộc khu phía Nam) groups. The Southern region of
the Southern plateau has the
Người Mạ vốn dòng dõi Maa, Sre, and Mnong ethnic
người Phù Nam và Chân Lạp ở phía groups; and the Southern part
Tây di cư lên. has the Khmer, Stieng, etc.
These ethnic groups speak
Trước thế kỷ XVII, người Mạ Khmer in Cambodia and Mon in
sống thành một vương quốc do ông Southern Myanmar and
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 13
Người Mạ nói chung còn sống The Mon - Khmer group follows
thô sơ, đàn ông chỉ đóng khố, đàn bà patrilineality.
quấn một sa-rông.
Ngày hội hè hay đi xa họ mặc
thêm một áo giản dị gồm một mảnh
vải cắt ở giữa để chui đầu qua. Đàn
ông và đàn bà đều để tóc dài, rồi búi
ra phía sau. Cả hai đều đeo hoa tai và
nhiều chuỗi hạt, hay vòng ở cổ, ở tay
và cả ở chân nữa.
Người Mạ còn giữ phong tục
cà răng và căng tai bằng những vòng
lớn.
Người Mạ thường ở nhà sàn.
Ở vùng người Srê (Bảo Lộc và Di
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 14
4
HỒ VĂN ĐÀM, Phong Quang tỉnh Darlac, 1967, Tr. 13-14. 75
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 15
7
LM. ĐAMINH NGUYỄN HUY TRỌNG, Phác hoạ chân dung dân tộc Kơ Ho
qua niềm tin cơ bản và phong tục tập quán, Phương Đông, 2017, Tr.18-23
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 27
KẾT LUẬN
CHƯƠNG II
NIỀM TIN CỦA NGƯỜI
KƠ HO
DẪN NHẬP
(Sồp-swàn)
2. Âm phủ
(Làng bồc )
phân.
có tai nạn…
5. Vậy là từ ý niệm, ngôn
ngữ đến cách diễn tả, đều có sự
phân biệt rõ ràng giữa Thần linh
và Quỷ thần. Có thể tóm gọn
trong hai từ : Tác sinh (Tơngkis)
và Tác tử (Tơnchơt). Trong
niềm tin dân gian cũng diễn tả
rằng : khi nào, nơi nào có Thần
linh hiện diện thì không thể có
Quỷ thần, hoặc Thần linh vô
hiệu hoá Quỷ thần. Thế nên
muốn tránh quỷ là phải ở xa nó,
phải cầu nguyện luôn, phải tìm
mọi dịp để có thể Tế Thần (Lơh
Yàng). Lúc đó tâm hồn họ được
thảnh thơi và vô tư nhất. Khi
được ở gần Thần, được Thần ở
gần, ở với, đậu lại…thì người ta
không còn sợ bất cứ cái gì, kể cả
quỷ.
6. Nơi người Kơ Ho không
có nghi thức tế quỷ. Ngược lại
mọi nghi thức tế thần là để trừ
quỷ, xin Thần tiễu trừ quỷ.
Trong mọi lời cầu đều có ý
tưởng xin Thần đừng để quỷ tác
hại đến mình, kể cả các công
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 59
A. Lai lịch.
được.
Swàn theo nghĩa đen là đá
quí, ngọc thạch…từ đó hình
thành nhiều ý nghĩa khác như vật
quý, cái tinh chất, cái tinh hoa,
cái sống của một vật.
3. Xét theo nội dung từ
ngữ, thì cũng như quan niệm
chung thường hiểu. Đó là cái
phần thượng ở chung với cái
phần hạ, cái nội dung ở trong cái
hình thức, cái ruột ở trong cái
vỏ.
4. Theo niềm tin : Linh hồn
là giống thiêng liêng, không thể
thấy, không thể chết. Hơn thế,
nó còn làm cho vật chất có sự
sống, có bản lãnh, có sự sung
túc. Là cái gì đó thật bền vững,
không suy suyển, dù bất cứ tình
huống nào, ngay cả cái chết phần
xác.
5. Linh hồn vừa làm cho
vật chất có sự sống, nhưng nó
còn có sự sống riêng, có thể tách
rời. Ngược lại, vật chất nào
không có nó, thì kể như vô dụng.
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 71
B. Âm phủ (Làng-bồc)
KẾT LUẬN
CHƯƠNG III
NGÔN NGỮ VÀ VĂN VẦN
KƠ HO
DẪN NHẬP
3. Âm vận :
dài.
5. Dễ biến dạng :
1. Đơn giản :
2. Phức hợp
Tê kồs đơr
: Tay chuốt giang
Bơr cahrơna
: Miệng xét xử
Glah siah piăng
: Nồi nấu cơm
Đồng ngkhiăng kòi
: Nia sảy lúa
Sùng jòi lòng : Rìu
kiếm củi
Lơh lu reh : Làm đá
nhẵn
Teh lu ring : Đẽo đá
phẳng
Tur cing àng : Thụi
chiêng sáng
Hòi Yàng ngai : Cầu
Thần ngày.
Bạn đọc sẽ thấy cũng những
cặp từ, cụm từ như nhau ở nhiều vần
A, B, C khác nhau. Thậm chí ở chỗ
khác nhau trong cùng một vần ( Cho
dù đã phải hạn chế đi rất nhiều).
Mục đích là để các bạn làm quen với
các kiểu diễn tả khác nhau của nó.
Khi đã hiểu rõ được các cung cách
sử dụng rồi, thì cũng dễ dàng ráp nối
ra được các kiểu cách tương tự khác,
với một số nguyên tắc sẽ giải trình ở
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 98
số mục sau.
bồ
He Kòn-cau geh Srơđèn ăt bồ
He Kòn-cau geh Yàng ăt bồ
: Heo có thể thống
: Gà có trật tự
: Chúng mình người Thượng
có trưởng bối cầm đầu
: Chúng mình người Thượng
có vị Trung Gian chủ trì
: Chúng mình người Thượng
có Thần linh lãnh đạo
Kồn rơnàng
: Cậu bàn bạc
Pàng rơna
: Cụ xét xử
Wa tơnggit
: Bác cho biết
Đây là đề mục có liên hệ hữu
cơ tới “chế độ mẫu hệ” và “bộ luật
dân sự”. Nếu được so sánh thì gần
như gồm cả 3 hệ thống quyền lực, mà
hầu hết các quốc gia trên thế giới
đang thực hành phổ biến cách nào đó:
Lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhưng một điều cần ghi nhận luôn
cho dễ đi vào đề mục này. Đó là có
một khác biệt cơ bản cần nắm vững.
Với các chính thể ở các quốc
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 142
Adăt hìu-bơnhă.
Trải qua hàng chục thế kỷ tồn tại,
dân số cũng dần dần gia tăng, lãnh
thổ càng ngày càng mở rộng tự
nhiên, tức không có kiểu xâm canh
xâm cư hay lấn chiếm của ai. Đương
nhiên hệ thống quyền lực này cũng
được bổ túc và hoàn thiện thêm từng
bước, làm sao vừa đầy đủ vừa bao
trùm. Và tới một lúc nào đó đã có
danh xưng Dân tộc Kơ Ho , quốc gia
Kơ Ho : Nòi-jơi Kơ Ho , Lơgar Kơ
Ho . Trong ngôn ngữ Kơ Ho , từ
thuở nào rồi, đã diễn tả ra là thế, như
đã chứng minh trên đây : Lơgar Kòn
Pàng, Lơgar Kòn Oh, Lơgar Kòn
Hền.
Từ một quốc gia tổ, mở rộng
ra thành các quốc gia con. Tất cả đều
ở trong một đại quốc gia. Nó có dạng
một liên bang quốc gia, một liên hiệp
quốc. Nhưng chặt chẽ hơn hẳn các
nội dung ý mà người ta thường hiểu
và cư xử với nhau như hiện nay. Vì
chỉ có một Dân tộc, một hệ thống
quyền lực duy nhất. Cụ thể hơn là
Dân tộc Kơ Ho đã hình thành và
củng cố vững vàng được một niềm
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 144
a. Chế độ Mẫu hệ
8
NGUYỄN KHẮC NGỮ, Mẫu hệ Chàm, 1967, Tr. 9-10
9
NGUYỄN KHẮC NGỮ, Mẫu hệ Chàm, Tr. 14
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 146
10
X.NGUYỄN KHẮC NGỮ & PHẠM ĐÌNH TIẾU, Địa Lý Việt Nam, Tr. 135
11
NGUYỄN KHẮC NGỮ, Mẫu hệ Chàm, Tr. 29-30
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 151
HUY TRỌNG, Vài chuyên đề về Dân tộc Kơ Ho, A. Chế độ Mẫu hệ, I.1
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 152
b. Xử sự và xét xử
KẾT LUẬN
CHƯƠNG IV
Ngôn ngữ và Văn hoá Kơ Ho 165