You are on page 1of 35

CHƯƠNG III: CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG TIỂU THUYẾT “LÃO GORIOT”

 I. Bối cảnh lịch sử – xã hội của tác phẩm


Tiểu thuyết “Lão Goriot” được sáng tác và xuất bản năm 1834. Tiểu thuyết lấy bối cảnh kinh đô Paris
năm 1819. Đây là giai đoạn sau khi Napoléon thất bại ở trận Waterloo và nhà Bourbon quay trở lại
nắm vương quyền Pháp. Việc Lui XVIII lên ngôi đã châm ngòi cho sự đối kháng về quyền lợi của giới
quý tộc cũ vừa quay lại nắm vương quyền và giới tư sản vừa phất lên sau cuộc cách mạng.
Xã hội Pháp thế kỉ XIX có nhiều biến động chính trị dữ dội. Lúc này, xã hội tư sản đang trên đà phát
triển. Nó như sự phát triển vượt bậc của cơ thể thanh niên đang trưởng thành. Thật ra từ thời Phục
hưng khoảng thế kỉ XIV, XV, XVI thì giai cấp tư sản đã cất tiếng nói khẳng định quyền sống của mình
nhưng chưa giành được chính quyền. Đó là sự đấu tranh chống lại phong kiến và lễ giáo thần quyền.
Đến thế kỉ XVII là sự hòa hoãn giải lao của giai cấp tư sản và phong kiến. Mãi đến một thế kỉ sau –
thế kỉ XVIII, cuộc Cách mạng tư sản 1789 giành thắng lợi và thành lập nền cộng hòa tư sản. Đây là
giá trị lớn lao nhất trong lịch sử nước Pháp. Nó có ý nghĩa to lớn vì đánh đổ nhà nước phong kiến cầm
quyền thay vào đó là nền cộng hòa dân chủ. Và đến thế kỉ XIX này, giai cấp phong kiến thỉnh thoảng
giành lại chính quyền nhưng nó không còn là chính quyền phong kiến như xưa. Mà chính quyền này
chấp nhận tư sản trong bộ máy quản lí. Vua, quan về hình thức là phong kiến nhưng thật ra là tư sản.
Họ có thể là chủ một ngân hàng hay một giám đốc nào đó… Chẳng những thế, Quốc hội cũng đều là tư
sản. Vì vậy sự ngoi dậy của giai cấp phong kiến không làm thay đổi được gì.
Ở giai đoạn này, vẫn có nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống lại nhà nước tư sản như cuộc khởi nghĩa năm
1830-1832, năm 1848, năm 1871. Do mâu thuẫn nội bộ của xã hội tư sản. Xã hội tư sản vẫn chưa
thật sự ổn định. Các cuộc khởi nghĩa đó nhằm chống lại những chính sách chưa phù hợp của Pháp. Các
cuộc khởi nghĩa đều bị dập tắt. Cuối cùng giai cấp tư sản vẫn là giai cấp chiến thắng tuyệt đối. Tuy
nhiên nó lại mắc sai lầm. Tức là, khi công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ thì giai cấp tư sản càng
phát triển và trở thành một thanh niên cường tráng. Nếu không đủ cung cấp thì sẽ dẫn đến tình trạng
thiếu hụt. Giai cấp tư sản Pháp cũng vậy, nó đói thị trường, đói nguyên vật liệu… Để cứu đói, họ tiến
hành xâm chiếm thuộc địa, mở rộng thị trường, khai thác tài nguyên.
Dù lịch sử thế kỷ XIX còn phải đi qua nhiều khúc quanh thì thế kỷ XIX dù muốn hay không cũng trở
thành một tổng thể lịch sử – văn hóa với rất nhiều thay đổi ngoạn mục. Chính cái tổng thể lịch sử –
văn hóa mới sẽ là nguồn chất liệu dồi dào cho giới văn nghệ sĩ. Chứng kiến trước những biến động của
xã hội, Hugo, Balzac và các nhà trí thức hầu như rất bất mãn với xã hội tư sản. Hugo nhà lãng mạn
tích cực đã cất lên những tiếng nói cảm thương cho “Những người khốn khổ” trong xã hội tư sản bấy
giờ. Nhà văn đòi hỏi giai cấp tư sản và quý tộc hãy mở rộng lòng và dành tình yêu thương cho đẳng
cấp thứ ba. Bởi tư sản đều xuất thân từ đẳng cấp này. Hugo không đả kích mà chỉ thiết tha yêu cầu,
kêu gọi họ hãy thực hiện lời hứa ban đầu. Để chuyển tải những lời kêu gọi đó, Hugo đã tạo ra hình
tượng lãng mạn bất hủ Jean Valjean [36].
Giữa thế kỉ XIX, quan niệm thẩm mĩ của giới văn nghệ sĩ cũng thay đổi. Nó có sự chuyển biến rõ rệt.
Không bay bổng lãng mạn họ quay về với thực tại cuộc sống, lấy hiện thực xã hội làm chất liệu cho
việc sáng tác của mình. Balzac là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực. Bằng sự quan sát của mình,
Balzac đã làm cho bạn đọc thỏa mãn trí tò mò và khao khát hiểu biết hiện thực đang sống. Đó là hiện
thực xã hội với quy luật cạnh tranh khốc liệt: kẻ nào mạnh, kẻ nào có tiền thì kẻ đó chiến thắng. Cụ
thể là những con người trong tiểu thuyết “Lão Goriot”. Dù Balzac lấy bối cảnh xã hội Paris nhưng qua
đó nhà văn đã khái quát toàn bộ xã hội Pháp nửa đầu thế kỷ XIX. Dù phơi bày những xấu xa trong xã
hội tư sản nhưng Balzac không hề phản động hay đứng lên tiến hành một cuộc cách mạng lật đổ tư
sản. Mà điều cốt yếu là ông muốn rằng xã hội sẽ không còn những cảnh đau lòng phải rơi lệ. Nhà văn
muốn mọi người hãy dùng trái tim mình để sưởi ấm bao trái tim nhân loại.
II. Tiểu thuyết “Lão Goriot”
  1. Giới thiệu vài nét về tiểu thuyết “Lão Goriot”
“Lão Goriot” tên tiếng Pháp là “Le Père Goriot”. Tiểu thuyết “Lão Goriot” là một tiểu thuyết được nhà
văn xếp vào “Những cảnh đời tư”. Thuộc phần “Khảo luận phong tục”.  Tiểu thuyết được xuất bản năm
1834, đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong con đường nghệ thuật tiểu thuyết của Balzac. Tác
phẩm lấy bối cảnh Paris 1819, đề cập đến vấn đề nóng bỏng của xã hội – sức mạnh của đồng tiền
trong xã hội tư sản.
Toàn bộ xã hội Pháp thế kỉ XIX được nhà văn thu nhỏ trong tiểu thuyết này, cụ thể là quán trọ
Vauquer, nơi dừng chân tạm thời của những con người, những nạn nhân của xã hội kim tiền. Tất cả
đều bị cuốn hút theo danh lợi và địa vị. Đó là lão phó mì Goriot suốt đời chỉ biết hy sinh vì hai cô “công
chúa” bé nhỏ. Trong khi hai cô này vô tư, không hề để ý đến cảm xúc của cha. Một tên tù khổ sai vượt
ngục cáo già chuyên “săn” những thanh niên trẻ tuổi đầy tham vọng như Rastignac, chàng trai hiếm
hoi trong tác phẩm có tâm hồn trong sáng nhưng cuối cùng cũng biến chất thành kẻ xấu xa, dối trá.
Như đã nói, “Tấn trò đời” là tập hợp nhiều tác phẩm đơn lẻ. Các tác phẩm đó vừa gắn kết với nhau,
vừa có thể tồn tại độc lập. Cốt truyện hoàn toàn khác nhau, chỉ có nhân vật được lặp đi lặp lại nhiều
lần. Đây là thủ pháp tái xuất hiện được xem là độc đáo và tài ba nhất của Balzac. Ở “Lão Goriot”,
chàng thanh niên tỉnh lẻ Rastignac vẫn còn là con người lương thiện. Ở chàng chỉ mới là thái độ “thách
thức” thông qua việc ăn tối nhà bà ngân hàng Nucingen. Chàng sinh viên ngành luật này thật sự tha
hóa và biến thành kẻ tha hóa ở các tác phẩm sau. Đồng thời, tiểu thuyết “Lão Goriot” còn thể hiện rõ
bộ mặt xấu xa của giới thượng lưu, quý tộc xa hoa, trụy lạc. Qua đó, Balzac còn cảm thông, thương
xót cho số phận những con người bất hạnh trong xã hội Paris. Đó là nàng Victorine Taillefer hiền lành
đáng thương cùng với người dì Coutere tội nghiệp. Và một số con người lầm lũi sống âm thầm tẻ nhạt
không ánh sáng, không hy vọng vào tương lai nơi quán trọ tồi tàn rẻ tiền ở Paris.
@Tiểu kết
Tóm lại, với “Lão Goriot” Balzac đã tập hợp tất cả mọi loại người, mọi giai tầng xã hội với mọi thói hư
tật xấu, mọi cảnh đời ngang trái. Đó là bộ mặt xã hội Pháp lúc bấy giờ khi dòng dõi Bourbon phục
hoàng. Thông qua lão Goriot, Rastignac và các nhân vật khác trong tiểu thuyết, nhà văn Balzac muốn
bộc lộ cái nhìn bi quan trước sự thay đổi của xã hội đó. Và có thể khẳng định rằng “Lão Goriot” là tiểu
thuyết điển hình cho chủ nghĩa hiện thực phê phán.
2. Tóm tắt cốt truyện
Tác phẩm gồm có các nhân vật sau:
– Lão Goriot: Chủ cửa hàng bột mì
– Rastignac: Chàng sinh viên nghèo ngành Luật
– Vautrin: Tên tù khổ sai vượt ngục
– Bà tử tước Beauséant: Dì họ hàng xa của Rastignac.
– Anastasie: Con gái lớn lão Goriot
– Bá tước Restaud: Chồng Anastasie.
– Delphine: Con gái út lão Goriot
– Nam tước (nhà ngân hàng) Nucingen: Chồng Denphine
– Bà Vauquer: Chủ quán trọ
– Coutere: Vợ góa của Ủy viên tư lệnh nước Cộng Hòa Pháp
– Victorine Taillefer: Cô gái hiền lành tội nghiệp, con rơi của tỷ phú ngân
hàng Taillefer
– Bianchon: Sinh viên ngành Y, bạn của Rastignac.
– Sylvie: Chị đầu bếp quán trọ
– Christophe: Cậu làm công ở quán trọ
– Poiret : Người đàn ông bí ẩn
– Michonneau: Cô gái già bí ẩn
Tiểu thuyết “Lão Goriot” đề cập đến nhiều loại người trong xã hội. Trong đó nổi bật là số phận, cuộc
đời lão Goriot và Rastignac. Nhờ vào sự chăm chỉ, tần tiện và hơn hết là khả năng nhạy bén biết tận
dụng thời cơ nên lão phó mì Goriot giàu lên một cách nhanh chóng và trở thành triệu phú. Lúc nào lão
cũng khao khát được trở thành quý tộc nên đã kết hôn với người phụ nữ quý tộc. Vợ lão sinh ra hai cô
con gái là Anastasie và Delphine. Gia đình lão sống êm đềm và hạnh phúc. Nhưng không lâu sau vợ
lão mất, tất cả tình thương lão dành hết cho con của mình. Càng lớn Anastasie và Delphine càng xinh
đẹp. Vì quá thương con, lão muốn con mình trở thành giới thượng lưu quý tộc, một lần nữa lão lại kết
thân với gia đình quý tộc. Lão tìm cho Anastasie một bá tước Restaud, tìm cho Delphine một chủ ngân
hàng nam tước Nucingen. Khi lấy chồng, lão đã cho hai cô con gái rất nhiều trang sức, vàng ngọc hồi
môn nhưng hai cô luôn chạy theo sự phù hoa của quý tộc và bắt đầu sa đọa. Và cứ thế hai nàng thản
nhiên bòn rút tiền của bố. Anastasie và Delphine không hề ý thức hành động tồi tệ của mình. Hai nàng
vô tình biến cha mình thành cái máy in tiền, muốn lấy bao nhiêu thì đến than khóc với ông lão. Hai
chàng rể quý tử mà lão chọn chẳng xem lão ra gì. Chúng xem thường một lão già tư sản chỉ có tiền,
mọi thứ thì thấp kém. Chúng khó chịu với ông bố vợ này. Kể cả hai cô con gái cũng bị chồng mình quý
tộc hóa. Cảm nhận được sự lạnh nhạt, khó chịu đó, lão Goriot tự mình rút lui để con mình được vui và
hạnh phúc. Lão phải ở trong quán trọ bà Vauquer. Lão ra đi mà không hề oán trách con gái mình dù
chỉ một lời. Ở nơi quán trọ tồi tàn lúc nào lão phó mì cũng trông chờ hai cô con gái đến thăm. Thỉnh
thoảng chúng đến một lần và thay phiên nhau đi. Đến thăm cha mà hai cô cải trang không muốn cho
ai phát hiện và rất sợ nếu ai đó nhận ra mình. Bởi một bà quý tộc đi xe có huy hiệu lại có thể đến nơi
xó xỉnh và bẩn thỉu như thế này. Mỗi lần họ đến là lão mất đi một món quý giá. Dần dần lão Goriot trở
thành một kẻ nghèo túng.
Trong quán trọ có những khách thuê phòng dài hạn như Vautrin – tên tù khổ sai vượt ngục; Victorine
– cô gái nhà tỷ phú ngân hàng Taillefer, bị cha ruồng bỏ, dành tất cả tài sản cho con trai; bà Coutere
hết mực yêu thương và cưu mang nàng; chàng sinh viên ngành Luật từ tỉnh lẻ lên Paris học, De
Rastignac. Và cùng với một số khách trọ ngắn hạn khác.
Rastignac chán ngán cuộc sống nghèo khó, khao khát được gia nhập vào giới thượng lưu. Chàng viết
lá thư nhờ người dì họ hàng xa là bà tử tước Beauséant giúp đỡ. Chàng làm quen được với Anastasie.
Chàng cũng từng bị hút hồn bởi vẻ đẹp của nàng nhưng sau bị nàng hất hủi. Một lần khác, nhờ vào sự
chỉ dẫn của bà Beauséant, Rastignac quen được Delphine và yêu say đắm nàng. Cuối cùng chàng cũng
chinh phục được trái tim kiêu kì của Delphine. Dù biết Delphine có gia đình, có nhân tình bảnh bao,
Rastignac vẫn không hề bỏ cuộc. Hai người yêu nhau say đắm và chân thành. Khi Rastignac hiểu ra
quan hệ giữa lão Goriot, Anastasie và Delphine thì chàng đã thổ lộ thật về mối tình của mình với lão
Goriot. Lão vốn thân với Rastignac thì bây giờ càng yêu quý chàng hơn. Lão tìm mọi cách cho họ được
ở bên nhau. Lão đã dùng hết số tiền còn lại 12000 franc để mua căn nhà cho hai người và cùng họ
sống chung ở đó. Đúng thời gian đó, hết cô chị đến cô em đến khóc lóc về chuyện gia đình. Lão buồn
và ốm nặng. Hai cô con gái không hề đến thăm chỉ có Rastignac và Bianchon chăm sóc ông. Khi ông
lão sắp trút hơi thở cuối cùng họ cũng không đến dù Rastignac đã đến nhà thông báo.
Thật ra họ không phải hoàn hoàn mất tính người, khi nghe cha mình sắp chết họ cũng hoảng hốt
nhưng cả hai cô đều không thể đi vì kẹt chuyện gia đình. Cuối cùng khi lão tắt thở thở, cô chị mới chạy
đến một lúc và ngất xỉu. Cô em không đến vì khi chuẩn bị đi thì cãi vã kịch liệt với chồng rồi cũng ngất
xỉu. Thế là lão chết trong sự tủi hờn, uất ức, cô đơn.
Lễ tang được tổ chức sơ sài bằng những đồng tiền ít ỏi của Rastignac, thậm chí Rastignac còn vay tiền
của Christophe để trả tiền công cho hai phu huyệt. Lúc đưa tang, người ta thấy có hai chiếc xe mang
gia huy của hai dòng họ Restaud và Nucingen nhưng trên xe trống rỗng. Tác phẩm khép lại với hình
ảnh Rastignac nhìn xuống phố phường Paris với hành động thách thức đầu tiên là đến ăn tối nhà bà
ngân hàng Nucingen.
3. Lão Goriot, một bức tranh hiện thực rộng lớn và sinh động
3.1 Cách đặt tên tác phẩm “Lão Goriot”
Trong lĩnh vực nghệ thuật, nội dung và hình thức là hai vấn đề gây nhiều tranh cãi. Thậm chí ở Việt
Nam còn sinh ra cả hai phái hoàn toàn đối lập nhau. Một bên cho rằng một tác phẩm chỉ cần mang
đến nội dung hay, hấp dẫn người đọc là được, hình thức không quan trọng. Ngược lại, một bên cho
rằng văn chương đầu tiên phải là đẹp, vì mục đích nghệ thuật, thẩm mĩ, tức là văn chương phải “vị
nghệ thuật” không phải “vị nhân sinh”. Thiết nghĩ, chúng ta cần phải dung hợp cả hai hình thức và nội
dung. Có như thế mới thực sự mang đầy đủ ý nghĩa là một tác phẩm văn chương. Nội dung và hình
thức phải song đôi với nhau, không thể tách rời nhau. Chính vì thế, khi tạo ra một tác phẩm, ngoài
việc nhà văn chăm chút nội dung từng câu, từng chữ của văn bản, điều cũng không kém phần quan
trọng là cách đặt tên nhan đề tác phẩm. Vì nhan đề tác phẩm cũng hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Có
nhiều cách đặt tên cho nhan đề. Ở nhà văn này thì lấy nội dung bao trùm tác phẩm để đặt tên. Lại có
nhà văn lấy tên nhân vật làm nhan đề. Và tiểu thuyết “Lão Goriot” là một trong những số đó – lấy tên
của một ông lão làm tên tác phẩm. Cách đặt tên cho nhan đề bằng nhân vật được nhiều giới văn nghệ
sĩ ưa dùng. Đó là “Chí Phèo” (Nam Cao), “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài), “Anna Karenina”  ( L.N. Tolstoi),

Khi đọc nhan đề “Lão Goriot” người ta có thể hình dung một cách sơ lược về tác phẩm mặc dù chưa
tiếp xúc với văn bản. Mọi người sẽ dễ dàng biết được đó là câu chuyện về ông lão tên Goriot. Nhan đề
là một trong những ý đồ nghệ thuật của tác giả. Nó là một trong những mật mã giải đáp ẩn số của tác
phẩm. Có nhiều cách đặt tên cho tác phẩm nhưng Balzac lại lựa chọn cách đặt tên tác phẩm bằng tên
nhân vật mà không đặt tên nhan đề bằng nội dung bao trùm nào đó. Chẳng hạn như: Tình người
Paris, sức mạnh đồng tiền, mặt trái Paris,… Nếu muốn biết câu trả lời, chúng ta sẽ giả thuyết từng
trường hợp. Nếu lấy nhan đề “Tình người Paris” thì mọi người chỉ thấy được một khía cạnh. Đó là tình
người bạc bẽo trong xã hội Paris lúc bấy giờ. Nhan đề này không thể khái quát toàn bộ nội dung tác
phẩm. Tương tự như thế, nếu lấy nhan đề “Sức mạnh đồng tiền” hay “Mặt trái Paris” cũng không ổn.
Bởi tác phẩm đâu chỉ có thế mà vốn chứa đựng rất nhiều vấn đề. Chính vì thế, Balzac đã lựa chọn cho
tác phẩm mình một cái tên nhân vật cụ thể. Bởi vì thông qua số phận và cuộc đời lão phó mì Goriot,
Balzac nói đến rất nhiều vấn đề. Đó là tình người bạc bẽo, phẩm chất nhân cách đang bị tha hóa, con
người cam tâm làm nô lệ của đồng tiền với những tham vọng điên cuồng… Khi đó đến với tác phẩm,
mọi người sẽ có cách cảm nhận riêng tùy theo khả năng. Điều này có nghĩa là bạn đọc đã đồng sáng
tạo cùng nhà văn. Balzac không hề bó buộc, quy định cách hiểu mà cho độc giả dùng kiến thức và sự
trải nghiệm của bản thân để giải quyết vấn đề.
Chỉ có một nhan đề mà liên hệ với biết bao nội dung. Đấy là ý đồ sáng tạo nghệ thuật của Balzac. Số
phận và cuộc đời lão Goriot nói lên rất nhiều vấn đề gay gắt trong xã hội Paris ngày ấy. Cái tình giữa
người và người đã không còn, nó chẳng đáng giá một xu. Và ở giữa hai con người không phải là người
– tình – người mà là người – tiền – người. Xã hội chỉ có tiền và tiền. Sức mạnh của đồng tiền làm
đảo điên cả xã hội. Bằng chứng là làm đảo điên cuộc đời của lão Goriot đáng thương và những con
người nhỏ bé trong quán trọ Vauquer.
Khi đặt tên cho tác phẩm là tên của một nhân vật thì nhân vật đó sẽ là nhân vật chính trong tác phẩm
thông thường là như vậy. Nhưng tiểu thuyết này chúng ta cần phải lưu ý. Đồng ý rằng lão Goriot là
nhân vật chính trong tác phẩm nhưng không có nghĩa là nhân vật chính chỉ có lão Goriot. Mà ở đó còn
có cả chàng sinh viên ngành Luật De Rastignac. Chúng tôi xin làm phép đối chiếu sau. Thứ nhất, đối
chiếu lão Goriot với tất cả nhân vật khác ngoại trừ Rastignac thì tất nhiên lão Goriot là nhân vật chính.
Thứ hai, đối chiếu lão Goriot và Rastignac. Giữa hai nhân vật này, thiết nghĩ lão Goriot chỉ là cái nền,
cái kết quả, một bài học cho chàng sinh viên bước vào đời. Nếu hình dung quãng đường mà Rastignac
thâm nhập vào cuộc sống bằng các nấc thang thì lão Goriot chính là nấc thang cuối cùng làm bàn đạp
cho chàng tiến sâu vào cái xã hội đáng sợ đó. Bởi vì sao? Chàng sinh viên này đã chứng kiến từ đầu
đến cuối cuộc đời bất hạnh của lão Goriot. Lão bị các con đối xử như thế nào và cuối cùng là cái chết
đau đớn thương tâm, Rastignac là người thấu hiểu nhất. Để rồi, Rastignac nhận ra được sự bạc bẽo
tình người. Xã hội hiếm hoi người tốt, người tốt thì chịu hậu quả cay đắng, bất hạnh như lão Goriot.
Chính cái chết của lão Goriot làm cho chàng sinh viên ngây thơ non nớt thức tỉnh. Lão Goriot là một
bài học đường đời cay đắng mà bất cứ ai cũng không muốn đón nhận. Lão hiểu rằng, phàm con người
sống trên đời quá hiền lành chân thực sẽ bị xã hội đào thải và triệt tiêu. Một bài học cay đắng mà cả
cuộc đời lão phó mì đến phút cuối mới nhận ra “Thế giới này chẳng đẹp đẽ gì”. Đó là lời hấp hối sau
cùng mà lão nói với Rastignac. Ông lão đã gửi toàn bộ bài học lĩnh ngộ được trao tặng tất cả cho
chàng sinh viên. Ông không muốn sẽ có một lão Goriot thứ hai, thứ ba… như chính ông vậy. Và lão
Goriot mong rằng Rastignac sẽ có cuộc đời tốt đẹp hơn mình. Đúng như tâm nguyện của ông, chàng
sinh viên lăn xả vào đời mà không hề gục ngã. Bởi chàng rất sợ sẽ trở thành lão Goriot tiếp theo. Một
chàng sinh viên có trái tim nhân hậu đã biến thành một con quỷ không tình người vô cùng đáng sợ ở
các tác phẩm tiếp theo.
@Tiểu kết
“Lão Goriot”, một nhan đề ngắn gọn mà vô cùng độc đáo và đầy ý nghĩa sâu xa. Và tin chắc rằng cái
tên này luôn đọng mãi trong lòng người đọc. Đó là hình ảnh Paris tăm tối nhưng thấp thoáng đâu đó
lóe lên tia sáng của một người cha có tấm lòng thương con vô bờ bến. Và ở đâu đó có những tiếng thở
dài, vài giọt nước mắt rơi giữa đêm tối trong Paris hào nhoáng, xa hoa.
3.2 Nghệ thuật miêu tả và xây dựng cốt truyện
Bất kì một tác phẩm văn chương nào cũng phải đảm bảo hai mặt: nội dung và nghệ thuật. Nội dung
hay hấp dẫn người đọc thì nghệ thuật chuyển tải những nội dung đó cũng phải điêu luyện và lôi cuốn.
Nếu xem nội dung là cốt lõi thì nghệ thuật sẽ là cái khung giá đỡ vững chắc, tô nền cho nội dung thêm
phong phú sinh động. Một tác phẩm dù có nội dung hay đến đâu, cảm động đến mức nào mà không
có sự góp mặt của nghệ thuật biểu hiện thì tin chắc rằng tác phẩm đó sẽ không được hoan nghênh
đón nhận. Dù có được đón nhận đi chăng nữa cũng sẽ xóa theo thời gian.
Trong tác phẩm của mình, Balzac luôn dung hòa giữa nội dung và nghệ thuật. Chính vì thế các tác
phẩm của ông dù cách ta hàng mấy thế kỉ nhưng lại thấy như mới hôm qua. Một trong những tiểu
thuyết làm nên sức mạnh to lớn đó là “Lão Goriot”. Ở tiểu thuyết này, Balzac đã vận dụng thành công
và có hiệu quả nghệ thuật miêu tả và cách xây dựng cốt truyện.
3.2.1 Nghệ thuật miêu tả
Miêu tả là cách dùng lời văn tả lại, vẽ lại sự việc, vấn đề chính mắt người viết chứng kiến một cách có
nghệ thuật, hấp dẫn người đọc. Mục đích của việc miêu tả là gợi trí tưởng tượng và gây tình cảm ở
người đọc. Balzac là một trong những cây bút có sức miêu tả dồi dào. Chính vì thế, ông trở
thành “mẫu mực của mọi sự miêu tả” [37]. Ở tiểu thuyết “Lão Goriot” nghệ thuật miêu tả đạt đến
mức nhuần nhuyễn và tài tình. Nhà văn miêu tả toàn bộ xã hội Pháp chỉ trong một quán trọ. Từ con
người cho đến đồ vật, tất cả đều được miêu tả một cách cụ thể và sinh động bằng cặp mắt tỉ mỉ và bộ
óc minh mẫn, tinh tường.
Mở đầu tác phẩm nhà văn miêu tả rất tỉ mỉ và chân thật về quán trọ Vauquer “Ngôi nhà trọ gồm có ba
tầng, những phòng trên cùng có mái được xây bằng đá và quét một lớp ve vàng, thế là tự nó bỗng
dưng tạo ra cho bản thân một sự hèn kém so với tất cả những ngôi nhà thời ấy ở Paris. Những tấm
rèm che các khung kính của năm ô cửa sổ không cái nào giống cái nào nghĩa là mỗi cái một màu,
chẳng hề ăn nhập vào nhau”. Qua cách miêu tả chi tiết như thế người đọc có thể hình dung được đó là
một quán trọ nghèo nàn, tồi tệ, tù túng, rách nát và khủng khiếp nhất ở ngoại ô Paris. Ở đâu đó trong
xã hội Paris phồn hoa vẫn có những nơi nghèo hèn và quái dị đến thế. Đồng thời, thông qua cách miêu
tả đó, gợi cho nhiều người đọc nỗi buồn sâu xa, một niềm thương vô tận. Quán trọ ảm đạm như thế
thì liệu con người nơi đó sẽ như thế nào? Con người cũng như quán trọ, cũng thê lương, tẻ nhạt và
buồn chán vô cùng. Quán trọ tồi tàn điều dĩ nhiên là nơi dừng chân của những hạng người bình
thường, nghèo nàn. Và nếu có là nơi dừng chân của những khách thượng lưu quý tộc thì họ cũng thuộc
dạng “sa cơ lỡ vận”, không còn chốn để đi… Và dù có ở hạng người nào nhưng chắc chắn một điều
rằng hầu như tất cả con người trong quán trọ “mỗi người đều có một sự dửng dưng trộn lẫn với việc
không tin tưởng đối với những kẻ kia, do cảnh ngộ riêng tư của mỗi người. Nó cho thấy sự bất lực
trong việc chia sẻ nỗi đau của họ”. Những con người ấy không chỉ nghèo về vật chất mà còn nghèo
nàn về mặt tâm hồn, nghèo nàn tình cảm. Trong tiểu thuyết, Balzac ghi nhận một cách chân thật và tỉ
mỉ bằng chính mắt nhà văn chụp được về những con người nơi quán trọ của bà Vauquer. Những con
người lúc nào cũng “tỉnh bơ đi trên đường phố trước một người mù, nghe kể chuyện về một người bất
hạnh không chút cảm xúc và nhìn thấy ở người chết là giải pháp cho vấn đề nghèo khổ, điều đó làm
cho họ lạnh lùng trước cảnh hấp hối kinh hoàng nhất”.
Chỉ vài nét miêu tả, Balzac đã khái quát lên cụ thể tính cách của con người Paris lúc bấy giờ. Họ lạnh
lùng, vô cảm, dửng dưng trước những nỗi đau khổ của con người xung quanh. Việc miêu tả những con
người như thế là hoàn toàn có dụng ý. Trong một quán trọ nghèo nàn, một góc của Paris, nơi mà con
người bình dân có thể gần gũi và giúp đỡ lẫn nhau, thế mà nó còn bạc bẽo đến thế thì ngoài xã hội
thượng lưu phồn hoa, xô bồ, nhộn nhịp kia, con người còn tệ hại biết chừng nào. Miêu tả cái này nhằm
làm nổi bật lên cái kia là thủ pháp miêu tả tài tình và điêu luyện. Nét tài tình và điêu luyện ấy còn
được Balzac thể hiện qua việc miêu tả cụ thể từng chi tiết bên trong nhà trọ. Nhà văn miêu tả từ ngoài
vào trong không bỏ sót chi tiết nào. Thậm chí làm cho người đọc như đang đứng trước nhà trọ
đó “Chính diện của nhà trọ là vườn hoa nhỏ… Dọc theo mặt tiền này, giữa ngôi nhà và vườn hoa nói
trên là một lối đá cuội rộng chừng 2m trũng xuống như lồng chảo, hai bên xếp hai dãy bình lớn màu
xanh da trời hoặc trắng trồng toàn cây mỏ hạc, cây trúc đào hoặc cây lựu”. Không chỉ chứng kiến tận
mắt toàn bộ nhà trọ mà người đọc còn ngồi vào bàn ăn của bà Vauquer và được leo lên các nấc thang
mà các khách trọ thường hay lên xuống. Bên cạnh đó, tác phẩm còn thể hiện các chi tiết rất thực và
gần như là sự chính xác. Đó là những con số cụ thể và ngắn gọn mà Balzac đã dùng trong đám tang
của lão Goriot: lễ cầu hồn kéo dài 20 phút, 5 giờ 30 đi ra nghĩa địa, 6 giờ hạ huyệt… Những chi tiết ấy
thật ngắn gọn, cụ thể làm cho câu chuyện thêm độ chính xác và hiện thực. Người đọc như đang cùng
các nhân vật đưa tang lão Goriot và cùng trải mình thương xót cho số phận con người bất hạnh. Chắc
chắn rằng bạn đọc sẽ thắc mắc vì sao Balzac lại miêu tả các chi tiết cụ thể và ngắn gọn như thế? Thiết
nghĩ, đó không chỉ đơn thuần nhà văn tuân theo phương pháp sáng tác hiện thực mà đó còn là một ý
đồ nghệ thuật của nhà văn. Balzac như một nhà họa sĩ vẽ lại toàn bộ xã hội Pháp bằng từng nét một
và từng nét nhỏ nhất, để cho bức tranh hiện thực của mình thêm sinh động và nhiều góc cạnh. Nhà
văn muốn tất cả những gì của xã hội sẽ phơi bày tất cả dù đó chỉ là chi tiết nhỏ, để tất cả mọi người
có thể nhìn thấy toàn vẹn hiện thực nhà văn đang sống, đang chứng kiến và đang trải nghiệm. Balzac
đứng bên ngoài và chứng kiến tất cả các vấn đề. Nhà văn ghi chép lại bằng sự khách quan lạnh lùng
của một người thư kí thời đại. Nhưng đằng sau sự lạnh lùng đó là một trái tim ấm áp tình người, lúc
nào cũng đau với nỗi đau của nhân loại.
Một trong những nét đặc sắc ở nghệ thuật miêu tả của Balzac là miêu tả các chi tiết nghệ thuật. Theo
như dự định ban đầu, chúng tôi định tách chi tiết nghệ thuật thành  một phần độc lập nhưng sau khi
xem xét kĩ chúng tôi nhận thấy khả năng tạo ra những chi tiết nghệ thuật chính là khả năng miêu tả
của nhà văn. Hay nói cách khác đó là nghệ thuật miêu tả các chi tiết nghệ thuật.
Chi tiết nghệ thuật được xem như là một bộ phận có ý nghĩa và quan trọng trong tác phẩm nghệ
thuật. Nhờ có chi tiết nghệ thuật mà thế giới nghệ thuật trong tác phẩm hiện ra hấp dẫn và sinh động.
Chi tiết nghệ thuật có khả năng “thể hiện, giải thích, làm  minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn,
trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm”  [38]. Thật vậy, chi tiết nghệ
thuật càng đặc sắc càng làm cho người đọc nhớ mãi và khắc sâu trong trí nhớ mỗi lần nhắc đến tên
của tác phẩm. Trong tiểu thuyết hiện thực phê phán, chi tiết nghệ thuật đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Vì nó là cơ sở tạo nên những hình tượng điển hình.
Trong tiểu thuyết “Lão Goriot”, Balzac sử dụng nhiều chi tiết nghệ thuật vô cùng đắt giá. Chi tiết “…
đúng vào lúc chuyển quan tài lên xe thì có hai chiếc xe trang hoàng lộng lẫy nhưng trống rỗng của hai
người con rể tới” làm cho người đọc phải đau xé lòng. Hai chiếc xe mang huy hiệu hai dòng họ báo
hiệu sự có mặt của chúng. Lúc còn sống hai con rể quý tử này đã không đối xử tử tế với lão Goriot và
đến khi lão lìa khỏi cuộc đời chúng cũng chẳng hề đếm xỉa. Đối với chúng như thế đã là ân huệ quá
lịch sự với lão già nghèo nàn và bệnh tật. Tang của cha mà cấm con gái ruột đi đưa, lại xem như
không có chuyện gì, chỉ có chiếc xe đưa tang lộng lẫy đủ thấy sự bạc bẽo tình người biết dường nào.
Tóm lại, hai chiếc xe mang hai huy hiệu là một biểu thượng mang hai tầng ý nghĩa. Thứ nhất, nó
chứng tỏ tình cảm của những cô con gái và những chàng rể cũng trống rỗng như hai chiếc xe đó. Và
kể từ đây tình cha con sẽ không còn. Bởi vì hai chiếc xe đó đã cắt đứt hoàn toàn sợi dây tình nghĩa cha
con. Thứ hai, hai chiếc xe ngầm báo hiệu mơ ước trở thành quý tộc của lão Goriot đã thành sự thật.
Và để có được niềm vinh dự đó, danh hiệu quý tộc cao sang đó, lão Goriot phải đánh đổi tất cả, đánh
đổi cả cuộc đời, đánh đổi hai con gái mà ông yêu thương nhất, đánh đổi bằng tất cả hạnh phúc gia
đình mình.
Có thể nói trong toàn bộ tiểu thuyết, chi tiết đạt đến mức nghệ thuật nhất, đặc sắc nhất và để lại ấn
tượng sâu đậm trong lòng người đọc nhất là chi tiết ở cuối tác phẩm. Chàng sinh viên ngành Luật De
Rastignac “cúi nhìn lần nữa ngôi mộ, giọt nước mắt cuối cùng của chàng trai trẻ lăn dài, giọt nước mắt
trào ra vì những rung cảm thiêng liêng của trái tim trong trắng, nó rơi xuống mặt đất rồi từ từ vút lên
trời cao”. Thương xót cho số phận bạc bẽo, hẩm hiu của lão Goriot lúc nào Rastignac cũng bên cạnh
động viên, an ủi và chăm sóc những lúc ông buồn, ông vui cũng như lúc ốm đau. Chàng xem ông như
một người cha già đáng kính. Trước cái chết cô đơn của ông lão, Rastignac vô cùng đau xót, bên cạnh
đó còn là sự căm phẫn cao độ. Chàng chán ghét con người, chán ghét cả xã hội Paris, chán ghét
những con người giả tạo sống bằng bộ mặt giả dối sang trọng. Rastignac khóc cho số phận tủi hờn của
những con người thấp hèn mà lão Goriot là một trong số đó. Chàng khóc cho lão Goriot nhưng đó
không phải là cái khóc nức nở, gào thét, oán than mà là cái khóc ngậm ngùi khó tả “Giọt nước mắt
cuối cùng… lăn dài,… rơi xuống đất… từ từ vút lên trời cao”. Hình ảnh giọt nước mắt của chàng sinh
viên gợi cho người đọc bao điều suy nghĩ. Ở đây không phải là giọt nước mắt bình thường mà đó
là “giọt nước mắt cuối cùng”. Càng đặc biệt hơn giọt nước mắt này “rơi xuống đất” rồi “vút lên trời
cao”. Hình ảnh giọt nước mắt mang giá trị nhân văn sâu sắc. Thứ nhất, giọt nước đó xuất phát từ nơi
sâu thẳm của những “rung cảm thiêng liêng”, nó xuất phát từ tâm hồn và trái tim trong trắng của
người thanh niên trẻ tuổi cảm thông cho số phận bất hạnh của lão phó mì Goriot – một con người
đáng thương và đáng trân trọng. Thứ hai, chúng ta cần lưu ý chi tiết lãng mạn “Giọt nước mắt cuối
cùng”, giọt nước mắt sau cùng của chàng thanh niên Rastignac. Phàm cái gì cuối cùng thì sẽ không có
cái tiếp theo. Điều này có nghĩa là bắt đầu từ đây, từ giờ phút này chàng sinh viên non nớt, giàu tình
thương ngày nào sẽ không rơi giọt nước mắt nào nữa. Rastignac sẽ không còn tình thương, không vì ai
mà khóc. Chính giọt nước mắt ấy ngầm báo hiệu sự thay đổi về con đường và tính cách về sau của
Rastignac. Rastignac ngày nào đã chết, đã không còn một chàng thanh niên tỉnh lẻ đầy nhiệt huyết và
tốt bụng mà chỉ có một Rastignac vô cảm không khóc vì người khác mà chỉ làm quen làm cho người
khác phải khóc. Bởi lẽ, giọt nước mắt tình thương duy nhất và cuối cùng của chàng đã vút lên trời cao,
trao trả lại cho Chúa. Theo quan niệm văn hóa phương Tây thì Đức Chúa trời là tối cao và quyền lực
nhất có thể tạo ra vạn vật, tạo ra mọi tình cảm và cảm xúc của con người. Và tình thương là một
trong những món quà của thượng đế ban tặng. Khi Rastignac nhận ra bản chất thật sự của xã hội và
kinh tởm chúng thì trái tim của chàng không còn ngăn nào chứa tình thương. Một khi con người đã
không còn thậm chí không cần tình thương thì trao trả cho thượng đế là điều tất nhiên. Rastignac đã
làm điều đó. Chàng trả cho Đức Chúa trời tối cao tất cả tình thương mà Người ban tặng.
@ Tiểu kết
Thật đáng sợ nếu một con người không có tình thương. Càng đáng sợ hơn khi cả Paris toàn là những
con người ghẻ lạnh, thiếu tình người, chỉ biết lợi ích bản thân. Balzac đã dùng ngòi bút của mình phơi
bày tất cả hiện thực nhức nhói của Paris, hiện thực làm đau lòng người đến tột độ. Bằng những chi tiết
nghệ thuật điển hình, mang tính chất biểu tượng cao, nhà văn kí gửi vào lòng người đọc bao điều trắc
ẩn. Chi tiết nhỏ nhưng mang ý nghĩa khái quát cao. Đó là một trong những bí quyết, thủ thuật làm
cho các tác phẩm của Balzac có một sức sống mãnh liệt không gì cản nổi. Cũng chính vì thế nhà văn
được tôn là bậc thầy của giới tiểu thuyết và bậc thầy trong sự miêu tả. Đặc biệt là nghệ thuật miêu tả
các chi tiết nghệ thuật. Những chi tiết đặc sắc đi vào lòng người như có phép mầu nhiệm.
3.2.2  Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
Xây dựng cốt truyện là một trong những nghệ thuật khá đặc sắc và đầy dụng ý của Balzac. Cốt truyện
là hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu về tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo
thành bộ phận cơ bản và quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại
tự sự và kịch [39].
Cũng như bao tiểu thuyết cùng thời, “Lão Goriot” cũng gồm nhiều nhân vật. Cốt truyện trong tiểu
thuyết là loại đa tuyến. Gồm nhiều tuyến nhân vật. Tác phẩm tập trung tái hiện cuộc đời, quá trình
hình thành tính cách của một vài nhân vật chính. Đó là lão Goriot, Rastignac. Tuy nhiên cốt truyện dù
có sự đan chéo nhưng rất rõ ràng, mạch lạc và hợp logic. Cuộc đời lão Goriot từ lúc lập nghiệp đến
giàu có rồi bệnh tật qua đời song song và đan chéo với quá trình hình thành phát triển tính cách của
chàng sinh viên Rastignac khi bước vào thế giới thượng lưu. Và xen vào đó là tên tù vượt ngục Vautrin
tại quán trọ. Trong đó chủ yếu cuộc đời của lão Goriot và Rastignac là nổi bật hết thảy.
Trong tiểu thuyết, cuộc đời lão Goriot có liên quan đến nhiều nhân vật. Thông qua cách xây dựng cốt
truyện có sự đan xen nhiều nhân vật, Balzac từng bước khắc họa tính cách từng người một. Những
tính cách đó bộc lộ cụ thể và sinh động. Khi lão Goriot đến quán trọ Vauquer thì bà chủ nhà trọ càng
lộ rõ bản chất ti tiện và hám lợi. Bốn mươi tám tuổi nhưng lúc nào cũng bảo mình ba mươi chín, vẫn
còn sức hấp dẫn của một người đàn bà góa. Mụ ăn mặc chải chuốt trưng diện, đôi lúc lố bịch trước lão
Goriot nhằm lấy điểm. Vì mụ ta mang trong lòng ý muốn “tái sinh thành người nhà Goriot”, trở thành
bà quý tộc giàu có. Hay đó là hai cô con gái lão Goriot, Anastasie và Delphine. Để cha một mình nơi
nhà trọ tồi tàn không chăm sóc chỉ lo vui chơi sa đọa “Cha có những vòng bạc, sáu bộ đồ ăn, những
thứ đầu tiên mà cha đã từng có trong đời. Cuối cùng cha chỉ còn có một nghìn hai trăm franc tiền lợi
tức”. Qua các sự kiện đó, nhà văn để tính cách của Anastasie và Delphine tự bộc lộ. Đồng thời cũng để
bạn đọc cảm nhận và tự đánh giá, nhận xét về hai cô. Chắc chắn mọi người sẽ cảm thấy Anastasie và
Delphine thật đáng khinh bỉ.
Trong sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật nổi bật nhất là sự phát triển tính cách của
Rastignac. Chứng kiến cuộc đời lão Goriot, chàng sinh viên trẻ tuổi dần dần thay đổi tính cách. Lúc
đầu, Rastignac từng lên tiếng khuyên ngăn thậm chí là chỉ trích việc làm và hành động của Anastasie
và Delphine. Nhưng sau này chính bản thân chàng sẽ còn gian trá tàn nhẫn hơn. Quyến rũ con gái và
dan díu với mẹ chiếm gia tài và địa vị
nhà ngân hàng Nucingen… Đó là những việc làm tồi tệ của Rastignac sau khi hoàn toàn là con người
khác. Tính cách và quá trình phát triển về tính cách con người Rastignac sẽ được bài nghiên cứu trình
bày rõ ràng và cụ thể ở phần nhân vật Rastignac.
Bên cạnh đó, thông qua các sự kiện về cuộc đời lão Goriot, Balzac tái hiện những mối xung đột xã hội
gay gắt. Đó là xung đột giữa tình thương và tiền bạc, giữa tình người và tham vọng. Balzac đưa tất cả
xung đột không thể giải quyết vào tác phẩm thông qua cốt truyện. Có thể nói đây là xung đột gay gắt
và quyết liệt. Trong xã hội Paris bấy giờ để giải quyết xung đột ấy hoàn toàn không phải chuyện dễ.
Nó có tính chất một mất một còn. Nếu chọn tình thương sẽ có kết cục như lão Goriot. Ngược lại nếu
chọn tiền tài, tham vọng thì tình thương sẽ không còn. Kết quả này được minh chứng qua cuộc đời và
số phận của lão Goriot và Rastignac. Xã hội Paris đã bị đồng tiền chi phối. Đồng tiền là thước đo cho
các chuẩn mực xã hội. Con người sống với nhau bằng những gương mặt “bôi vôi”, giả tạo. Cũng trong
xã hội đó, con người phải biết cách sống, sống phải biết ác, phải biết nhẫn tâm thì mới tồn tại lâu dài.
@Tiểu kết
Tóm lại, cốt truyện được nhà văn xây dựng khá thành công và hấp dẫn. Cốt truyện có nhiều tình tiết
sự kiện. Chúng đan chéo nhưng không phức tạp, khó hiểu. Cốt truyện là môi trường tương tác tốt nhất
để tính cách nhân vật tự bộc lộ. Tóm lại, từ nghệ thuật miêu tả đến xây dựng cốt truyện, mặt nào
Balzac cũng tỏ ra già dặn kinh nghiệm.
3.3 Kết cấu của tiểu thuyết
Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ thì cũng là một chỉnh thể nghệ thuật. Trong chỉnh
thể đó có nhiều bộ phận, nhiều yếu tố. Các bộ phận, yếu tố được sắp xếp theo một trình tự nhất định.
Đó là kết cấu. Kết cấu tiếng Pháp là Composition. Cần phân biệt kết cấu và bố cục. Nếu như bố cục chỉ
đơn giản là các sự kiện, hành động, biến cố,… trong tác phẩm thì kết cấu là một khái niệm rộng lớn
hơn. Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm. Nó là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác
phẩm.
Ở “Lão Goriot” Balzac lựa chọn cho tác phẩm mình một kết cấu thật hoàn chỉnh và đầy dụng ý. Kết
cấu bên ngoài của tiểu thuyết chia làm 4 phần:
Phần I: Nhà trọ bình dân
Phần II: Vào đời
Phần III: Kẻ đào tẩu
Phần IV: Cái chết của người cha
Cách phân chia giữa các phần có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bốn phần tương ứng với trình tự phát
triển của tác phẩm. Tất cả các nhân vật đều xuất phát từ “Nhà trọ bình dân”. Nơi đây xảy ra nhiều sự
việc, nhiều vấn đề. Nó là nơi nung nấu ý chí và tham vọng của chàng sinh viên để bước “Vào đời”. Biết
bao lần chàng thất vọng tưởng chừng như gục ngã. Cũng từ “Quán trọ bình dân” đó phát hiện ra
một “Kẻ đào tẩu”, tên tù khổ sai vượt ngục và ẩn trốn với bộ dạng và cái tên hoàn toàn khác. Không
chỉ thế chính quán trọ này là nơi diễn ra cảnh thương tâm nhất trên đời, một thảm kịch khiến bao
người phải rơi lệ “Cái chết của người cha”, một cái chết tủi hờn, cô đơn của lão phó mì Goriot. Có thể
hình dung cụ thể bằng sơ đồ sau:
                                         Nhà trọ bình dân
                                                 (Phần I)
Cái chết của người                                  
Kẻ đào tẩu
Vào đời cha  
(Phần III)
(Phần II) (Phần IV)  
Vautrin
Rastignac Lão Goriot Cách kết cấu của
Balzac dựa vào các lớp
thời gian theo quá trình của các nhân vật chính. Từ quán trọ bình dân các nhân vật chính lần lượt xuất
hiện. Chàng thanh niên tỉnh lẻ có tham vọng gia nhập vào giới thượng lưu và có những mối quan hệ
phần nào trong xã hội đó, thế là có phần “Vào đời” – Rastignac. Và tương tự như thế có phần “Kẻ đào
tẩu” – Vautrin và “Cái chết của người cha” – Goriot. Không phải tác phẩm chỉ có ba nhân vật mà cốt
truyện xoay quanh chủ yếu ba nhân vật này. Dù kết cấu trên bề mặt vẫn là kết cấu bên ngoài nhưng
cũng thể hiện mối liên kết thống nhất và toàn vẹn giữa văn bản với tư tưởng của nhà văn.
Tác phẩm được kết cấu theo nhiều tuyến nhân vật tịnh tiến và đan chéo nhau nhưng tập trung chủ
yếu vào tuyến chính là lão Goriot, nhằm tái hiện nguyên vẹn cuộc sống và quá trình hình thành, phát
triển tính cách của Rastignac. Kết cấu tịnh tiến là mỗi nhân vật, mỗi tuyến cứ đi tới. Trong tiểu thuyết,
kết cấu tịnh tiến thể hiện ở các nhân vật như Rastignac, Goriot, Vautrin, bà Vauquer, Victorine,
Anastasie, Delphine,… tất cả đều được nhà văn miêu tả bình thường và tiếp tục đi tới song song và kết
chặt cùng cuộc đời của lão Goriot. Mỗi nhân vật đều có hành động, lời nói, tính cách và kết cục khác
nhau. Cụ thể là chàng thanh niên Rastignac nhận cú va chạm mạnh từ giới thượng lưu, tên tù khổ sai
Vautrin bị vạch mặt và bị bắt, lão Goriot nhận cái chết thương tâm, Victorine đáng thương cuối cùng
được người cha nhìn nhận. Kết cấu đan chéo trong tác phẩm thể hiện ở chỗ Rastignac và lão Goriot
đều ở cùng một quán trọ. Rastignac quen và yêu lần lượt hai con gái lão Goriot. Không chỉ thế chính
cuộc đời và số phận lão Goriot tác động mạnh mẽ đến Rastignac, đến nỗi chàng thay đổi cả tính cách.
Balzac xây dựng hai nhân vật này có sự đan chéo, gắn chặt với nhau. Đan chéo nhưng không rắc rối,
vẫn đảm bảo sự mạch lạc của kết cấu.
Cách sắp xếp nhân vật trong tác phẩm phần nào cũng nói lên dụng ý của nhà văn. Đó là bộ ba, lão
Goriot – Rastignac – Vautrin. Bộ ba này không thể tách rời nhau. Nếu thiếu một trong ba thì tác phẩm
sẽ giảm đi giá trị nghệ thuật. Nếu như Vautrin là kẻ xúi giục, đầu độc, lôi kéo Rastignac tiến sâu hơn
vào con đường tội lỗi thì lão Goriot là thiên thần cứu lấy cuộc đời Rastignac. Chính lão Goriot khiến
chàng phải xót thương và nhỏ giọt nước mắt dù đó là giọt nước mắt cuối cùng. Điều này chứng tỏ ở
đâu đó trong con người chàng vẫn có tình thương. Để rồi, sau cái chết của lão Goriot, chàng sinh viên
trẻ
cảm thấy mất lòng tin vào con người, sợ hãi con người. Giữa các nhân vật luôn có sự tác động qua lại
dù đó là nhân vật đối kháng.
Bên cạnh đó, người đọc còn thấy ở tác phẩm cách dẫn truyện hấp dẫn, bất ngờ và hợp lí. Tác giả để
cho mọi người trong quán trọ tò mò dẫn đến hiểu lầm lão Goriot hết lần này đến lần khác. Tất cả mọi
người trong quán trọ kể cả Rastignac – người bạn gần gũi và thông cảm nhất của lão cũng phải có đôi
lúc nghi ngờ, khó hiểu. Bởi lão Goriot lúc nào cũng ít nói cứ lầm lì, thậm chí có những hành động vô
cùng quái gở. Giữa đêm khuya lão đứng trước cái bàn như người thợ làm mì dùng hết sức đục khoét
cạy một vật gì đó, có hành động thân mật với hai cô gái trẻ xinh đẹp, quý phái và kèm theo đó là món
tiền kha khá… Chứng kiến lần lượt hai cô gái trẻ đẹp thay phiên nhau đến phòng lão Goriot mọi người
rất bất ngờ và không có lời giải thích nào thích hợp hơn là lão đang làm trò giống các thương gia giàu
có bỏ tiền ra để mua vui giải trí. Thế là lúc nào nhà trọ cũng lấy lão ra làm chủ đề bàn tán dù lão
Goriot đã phân trần bảo đó là con gái. Nhưng ông lão không thể giải thích rõ các món tiền mà ông đã
nhờ Christophe gửi cho hai cô gái. Với cách dẫn truyện hấp dẫn như thế nhà văn luôn làm cho bạn đọc
tò mò, lý thú tìm hiểu tác phẩm. Nó không gây cảm giác buồn chán và nặng nề khi đọc tác phẩm. Vì
đây là một tác phẩm văn xuôi không thuộc dòng lãng mạn trữ tình tuôn chảy như thơ. Nhưng Balzac
không hề kể chuyện khô khan mà dẫn dắt bạn đọc từng bước từng bước khám phá và phát hiện vấn
đề.
@Tiểu kết
 Tóm lại Balzac đã mở lối đi riêng cho tác phẩm mình bằng những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Kết
cấu là một trong những nghệ thuật đó. Nhà văn tạo cho tiểu thuyết của mình một kết cấu chặt chẽ và
hợp logic. Từ kết cấu bên ngoài đến kết cấu bên trong, Balzac đều thông thạo. Thông qua việc xây
dựng kết cấu, Balzac làm bật rõ chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Và không chỉ riêng ở tiểu thuyết “Lão
Goriot” mà toàn bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời”, mỗi tác phẩm là một kết cấu độc đáo mang đầy sáng tạo
của Balzac.
3.4 Quán trọ Vauquer –  sân khấu nhỏ của “Tấn trò đời”
Trong tác phẩm, nhà văn miêu tả các không gian như: không gian quán trọ Vauquer, không gian
phòng khách của bà tử tước Beauséant, phòng khách của bà bá tước Restaud và phòng khách bà chủ
ngân hàng Nucingen. Trong các không gian này, không gian phòng khách của giới thượng lưu chỉ là
điểm phụ. Điểm chính là không gian quán trọ Vauquer. Bởi số phận và cuộc đời của các nhân vật trong
tác phẩm đều diễn ra trong quán trọ bình dân này. Quán trọ được Balzac giới thiệu cụ thể và tỉ mỉ
ngay phần đầu tiểu thuyết “Nhà trọ bình dân” (Phần I). Đó là “khu nhà trọ bình dân ở phố Neuve –
Sainte – Geneviève nằm lọt thỏm giữa khu la tinh và khu ngoại ô Sainte – Marceau”. Gọi là quán trọ
bình dân vì nơi đây “đón nhận tất cả mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi của xã hội tới đây ngủ nghỉ mà không
cần phải để ý đến bất cứ lời xầm xì bàn tán nào cả”. Chính vì thế nhà trọ có tên đầy đủ là “Quán
Vauquer và nhà trọ bình dân cho nam giới, nữ giới và mọi người”. Cách giới thiệu và quảng cáo nhà
trọ gây cho người đọc cảm giác buồn cười. Đồng thời, cũng thể hiện đôi chút về giọng châm biếm, mỉa
mai của tác giả. Một cái tên bảng hiệu dài lượm thượm. Có cần thiết phải chú thích nhà trọ dành cho
nam giới, nữ giới rồi mọi người. Qua cách đặt tên bảng hiệu có thể hình dung ra chủ của quán trọ đó
cũng lố bịch không kém. Đó là bà lão Vauquer, người quản lí toàn bộ khu nhà trọ suốt bốn mươi năm
nay. Chính ngôi nhà trọ bình dân này xảy ra một “tấn thảm kịch” làm cho “người ta xúc động tới tận
con tim”. Đến nỗi khi “gập trang sách lại, bạn đọc thấy lòng mình xót xa, còn trên khóe mắt thì lệ rơi
lã chã”. Vậy đây là nhà trọ như thế nào? Có điều bí mật gì che giấu nơi đây? Hay nhà trọ này mang
một lời nguyền truyền kiếp? Xin thưa, tất cả đều không. Quán trọ Vauquer rất bình thường và bình
thường như bao quán trọ khác. Nó chỉ có cái khác người nhất là sự tồi tàn, mục nát đáng sợ. Quán trọ
thuộc vùng ngoại ô của Paris nằm trong thung lũng giữa các ngọn đồi Montmartre và dãy núi
Montrouge. Một thung lũng khi “ngửa mặt nhìn lên chỉ thấy những mảng thạch cao lở toác ra như sắp
rơi xuống những suối đặc quánh bùn đen”. Một nơi tạo cho người ta cảm giác ghê sợ và đau khổ. Cái
thung lũng luôn dự báo “khổ đau thì đầy ắp và là thực tế, còn những niềm vui thì hiếm hoi đến nỗi trở
thành hão huyền”. Chỉ vài lời giới thiệu, Balzac đã vẽ lên bức tranh thủy mặc về khu phố nhà trọ. Một
bức tranh thủy mặc vô cùng đặc biệt, chỉ nổi bật hai màu đen và trắng, đó là màu của những đám
mây như những “mảng thạch cao” và màu của dòng suối bùn đen đặc quánh. Sự liên tưởng thú vị và
đầy chất thơ. Nhưng chất thơ ở đây không thể làm cho cảnh vật sinh động, gợi tình mà nó càng tôn
lên vẻ buồn thương sầu muộn, gợi lên bao điều đau khổ .
Khu nhà trọ nằm dưới đoạn phố Neuve – Sainte – Geneiève nên rất “hiếm khi ngựa nghẽo đi qua” vì
nơi đây sườn dốc gập ghềnh nguy hiểm. Chính vì vậy đường phố tuy rất nhiều và đan chéo nhau
nhưng lại rất yên tĩnh. Khung cảnh nơi này từ đường xá đến nhà cửa, mỗi thứ đều nhuốm màu lạnh
lùng tối tăm, nghèo nàn và cũ kĩ. Sự yên tĩnh, buồn tẻ của khu phố còn được bổ sung bởi “hai công
trình kiến trúc là nhà thờ Van de Grâce và điện Pastheon. Hai tòa nhà này tung vào bầu không khí nơi
đây màu vàng khè và làm tất cả tối tăm hơn bởi màu sắc khô khan tỏa ra từ các mái vòm. Người ta
toàn nhìn thấy những viên gạch lát khô cứng, những đường cống rãnh không có cả bùn lẫn nước, còn
các bức tường thì cỏ leo bám đầy”. Nếu nội ô Paris phồn hoa, náo nhiệt bao nhiêu thì khu phố nơi nhà
trọ này nghèo nàn, buồn tẻ bấy nhiêu. Nhà cửa nơi đây thì vẫn là một chữ nghèo “Những bức tường
im ỉm và cũ mốc như tường của nhà tù”. Không gian khu phố hiện lên một nỗi sầu truyền kiếp. Một vẻ
mặt buồn rười rượi như đang than khóc, cầu cạnh làm cho khách qua đường dù là người “vô tâm
nhất” cũng phải “cảm thấy buồn phiền”. Ôi! thật không còn nơi nào của Paris khủng khiếp và nhàm
chán hơn, đến nỗi “tiếng kẽo kẹt của chiếc xe ngựa cũ nát qua đây thôi cũng đủ là một sự kiện”. Có
thể nói đây là nơi của sự nghèo khổ – buồn chán, già cỗi – chết chóc, chôn giấu tuổi thanh xuân, tẻ
nhạt và khủng khiếp.
Trong dãy phố nghèo nàn, nhà trọ bình dân sừng sững hiện lên cũng không kém phần tẻ nhạt. Nó hòa
mình vào khu phố và nổi bật nhất khu phố, nổi bật với sự nghèo nàn, tàn tạ. Có thể nói đây là quán
trọ tồi tệ vào hạng nhất ở Paris. Đó là một nơi xó xỉnh giữa đại dương Paris mênh mông không ai biết
và càng không ai muốn biết. Và càng đáng sợ hơn khi đó là nơi tàng ẩn của những kẻ bị cơn bão đời
xô giạt, sa cơ lỡ bước hay những kẻ ẩn nấp chờ cơ hội xông ra cuộc sống. Vì vậy, thành phần khách
trọ nơi này rất phức tạp, đủ mọi loại người, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp… tất cả đều hội tụ. Nào là sinh
viên, thương gia, quý tộc, công chức, cả mật thám, thậm chí còn có tù khổ sai vượt ngục … Quán trọ
Vauquer tập hợp những con người rất kì quái và vô cùng bí ẩn. Mỗi người mang trong lòng một quá
khứ bí mật không thể cho người khác biết. Đó có thể là một quá khứ vàng son của một thời ngang
dọc. Cũng có thể là quá khứ của những chuỗi ngày ngây thơ an lành đáng nhớ… Hay là quá khứ của
biết bao tội lỗi đầy máu và nước mắt.
Đây là quán trọ bình dân nên khách trọ hầu hết cũng không thuộc loại sang trọng. Nơi đây đàn ông
“mặc áo Rơđanhgôt mà màu của nó đã cũ đến nỗi khó nhận ra được, đi những đôi giày giống như
những đôi bị vứt ở cột mốc trong những khu phố lịch sự, quần áo lót sờn rách không còn gì nữa”. Phụ
nữ thì “mặc những chiếc váy phai màu được nhuộm lại rồi lại phai màu với viền đăngten cũ kĩ và lỗi
mốt, đi những đôi găng tay trơ láng vì dùng nhiều, khoác chiếc cổ áo xếp luôn luôn có màu hung và
khăn choàng vai rút sợi”. Thế nhưng thượng đế rất công bằng. Ngài đã lấy đi sự giàu sang của họ nên
ban tặng cho họ sức chống chịu dẻo dai và mạnh mẽ trước hoàn cảnh. Bởi hơn ai hết họ cần có thể
trạng tốt, sức chịu đựng tuyệt vời để chống chọi với những bão táp của cuộc đời. Có lẽ vì va chạm
nhiều với cuộc sống nên gương mặt họ lúc nào cũng khô khan và lạnh giá. Ở họ là sự thiếu vắng tình
cảm đến đáng sợ. Họ chỉ biết bản thân và lạnh lùng với tất cả mọi người. Thậm chí họ sẵn sàng lấy
một con người bất hạnh ra để làm cuộc vui. Họ bất cần cảm xúc của người bị trêu chọc. Họ chế giễu,
cười cợt, châm biếm, mỉa mai lão Goriot khi hiểu lầm ông là người có mối quan hệ mờ ám với hai cô
gái. Họ vui cười sảng khoái mặc cho lão Goriot tội nghiệp thanh minh.
Tóm lại nhà trọ và con người nơi nhà trọ là một, cùng nghèo hèn và tàn tạ như nhau. Nhưng chúng ta
cũng cần thông cảm cho những con người nơi đây. Phải chăng chính sự tàn tạ của cuộc sống, sự
nghèo nàn của khu nhà trọ đã biến họ thành những con người nghèo tình cảm đến vậy. Thiết nghĩ họ
là những con người bất hạnh chịu nhiều cú va chạm từ cuộc sống, vì thế chúng ta cần dành cho họ
một sự cảm thông. Bởi không tình cảm là nguyên nhân dẫn đến những tội lỗi không thể cứu vãn.
Từ nhà trọ nhìn xuống cửa sổ ban ngày sẽ thấy “một cái vòm cung bằng đá xanh do một nghệ sĩ của
khu phố trang trí. Bên trong là một bức tượng thần tình yêu bán thân”. Trước cảnh hiền hòa yên tĩnh
pha lẫn sự lãng mạn, Voltaire trở về Paris năm 1777, cảm hứng thốt lên:
                                           “Dù bạn là ai, đây, muôn thuở người tình
                                            Nếu không trước, cũng sau và mãi mãi”
Đây là hai câu thơ Voltaire đề tặng khu phố ngày nào. Có lẽ trước kia khu phố này tuy không giàu có
náo nhiệt như nội ô Paris nhưng chắc chắn một điều rằng khu phố khi đó không tồi tàn, mục nát
khủng khiếp như bây giờ. Khi đó, nơi đây vẫn còn nữ thần tình yêu che chở nhưng hiện tại cuộc sống
quá xô bồ và ồ ạt, con người chỉ biết có tiền không hề để ý tới tượng thần tình yêu, cứ để bức tượng
phai mờ theo năm tháng. Có thể nói đây là chi tiết lãng mạn giàu chất thơ. Balzac tạo ra những nét
mới lạ độc đáo trong tác phẩm của mình.
Trên đây là không gian bên ngoài, xung quanh nhà trọ bình dân. Đi sâu vào nhà trọ là một cấu trúc
được thiết kế bằng con đường kinh doanh của bà Vauquer. Nhà trọ chia làm hai loại khách, khách ăn
nội trú và khách ăn ngoại trú. Nhà trọ có ba tầng và chia làm tám phòng riêng biệt. Trong dó có sáu
phòng dành cho khách nội trú và hai phòng còn lại bà Vauquer dành cho các loại khách ngoại trú. Cụ
thể như sau:
Số Loại phòn Tiền
Tầng Khách trọ Đặc điểm khách trọ
phòng g phòng
Phòng khách Dành cho cả khách ăn    
Trệt 2
Phòng ăn nội trú và ngoại trú    
Bà góa của ủy viên tư
Bà Coutere lệnh
Tốt nhất 1200
Nàng Victorine Con gái tỷ phú bị
I 2 phơ-
ruồng bỏ
răng
Vauquer (chủ
Ti tiện, hám tiền Tốt
trọ)
Poiret Kẻ mật thám ẩn danh 72 Phơ-
II 2 Trung bình
Vautrin Tù khổ sai vượt ngục răng
Michonneau Cô gái già
Lão phó mì (buôn mì
Lão Goriot sợi) đã nghỉ kinh
doanh 45 phơ-
III 4 Tệ nhất
Dành cho khách răng
Sinh viên nghèo:
ngoại trú hoặc
Rastignac, Khách ăn
tạm trú ngắn
ngoại trú: Bianchon
hạn
Christophe Cậu bé làm công Kho chứa
Thượng 2
Sylvie Đầu bếp quán trọ đồ
Vì mục đích kinh doanh nên căn phòng đầu tiên của tầng trệt “trông khá sáng sủa với hai cửa kính
thông ra hành lang làm lối đi vào”… Đây là phòng khách. Tuy nhiên, phòng khách lại trang bị rất
kém “Thật là một cảm giác buồn tẻ khi nhìn vào căn phòng được trang bị bởi những chiếc ghế bành và
ghế tựa bọc vải nhồi sợi chỗ xỉn chỗ sáng”. Đồ đạt nơi đây cũ kĩ và bình thường như ở các gia đình khu
phố “Một chiếc bàn tròn mặt làm bằng thứ đá hoa cương Sainte Anne, trên bàn đặt một khay chén
bằng sứ trắng có chỉ vàng đã bị mờ đi một nửa, thứ khay chén ngày nay có thể bắt gặp ở bất cứ nơi
nào”. Thậm chí căn phòng ăn này còn tệ thêm bởi những thứ trang trí giả tạo và rẻ tiền “Lò sưởi bằng
đá, mặt bếp sạch sẽ đã chứng thực nó chỉ được đốt lửa vào những dịp trọng đại, người ta trang trí bếp
lò bằng hai bình cắm đầy hoa giả cũ mèm đi kèm với một chiếc đồng hồ quả lắc bằng đá hoa cương
màu xanh nhạt còn kém thẩm mĩ hơn”. Không chỉ cách bố trí phòng kém thẩm mĩ mà phòng đầu
tiên này “tỏa ra một thứ mùi không có tên gọi trong ngôn ngữ và có lẽ nên gọi là mùi nhà trọ”. Một
thứ mùi “có vẻ như mùi của chỗ không thoáng khí, mùi mốc, mùi oi khét; nó tạo ra sự lạnh lẽo, ẩm
ướt xông lên mũi, nó xâm nhập vào quần áo; nó có mùi vị như tất cả các mùi vị hợp lại: mùi nhà tế
bần”. Phòng tiếp khách dù không sang trọng cũng sạch sẽ, vệ sinh nhưng ở quán trọ này lại hiện lên
tồi tàn và bẩn thỉu.
Có lẽ, do phòng khách ăn thông với phòng ăn mà phòng ăn lại cách nhà bếp chỉ một buồng cầu thang
bằng gỗ nên tất cả mùi hôi đều hội tụ nơi đây. Thế nhưng, dù phòng đầu tiên này có đáng sợ và ghê
tởm đến đâu thì so với phòng ăn bên cạnh nó còn “quá lịch sự và thơm tho biết bao”. Phòng ăn và
phòng khách được bố trí gần nhau và gần với nhà bếp để tiện cho bà Vauquer quản lí và tiết kiệm.
Cách bố trí này thật không hợp lí. Phòng ăn phải là nơi sạch sẽ và thoáng mát để khách trọ có thể ăn
ngon miệng nhưng nó lại cách nhà bếp một cầu thang. Vốn dĩ nhà bếp là nơi dùng để nấu nướng nên
ít nhiều sẽ tạo ra các vết bẩn và những mùi của thức ăn. Trong khi đó, phòng khách là nơi để tiếp
khách ở trọ, nơi của những tiệc tùng đình đám, hay là nơi tổ chức những buổi lễ kỉ niệm. Tóm lại đó
phải là nơi sạch sẽ và thoáng mát để khách trọ thư giãn và trò chuyện. Thế nhưng phòng khách của
bà Vauquer lại không đạt cái tiêu chuẩn đó. Phòng khách – phòng ăn – nhà bếp, cách bố trí này bất
hợp lí về cấu trúc lẫn thẩm mĩ và vệ sinh. Không gian hiện lên chật hẹp và tù túng. Không chỉ thế
phòng ăn nơi đây còn hiện lên với bộ mặt khủng khiếp và đáng sợ. Đó là phòng được ghép bằng gỗ,
phai màu đến nỗi không thể nhận dạng “Phòng ăn đó hoàn toàn được ghép bằng gỗ, không rõ trước
kia được sơn bằng gì mà giờ đây không còn nhận biết được nữa, nó trở thành cái nền mà trên đó cáu
ghét đã vẽ nên những khuôn mặt kì dị”. Qua chi tiết này, người đọc có thể nhận biết ngay mà không
cần phải suy nghĩ. Đó là căn phòng lâu năm quá cũ kĩ và chưa hề được chủ quan tâm tu sửa. Vậy
nguyên nhân nào khiến nó tồi tệ đến thế. Phải chăng do chi phí tu bổ không có vì việc kinh doanh
không mang lại lợi nhuận cao? Hay do chính bản thân người chủ keo kiệt trong các chi tiêu tu bổ?
Dường như cả hai nguyên nhân này đều có thể xảy ra. Chúng đều góp phần cho sự nhếch nhác của
quán trọ. Khách trọ nơi đây như đã giới thiệu, hầu như họ không phải thuộc dạng giàu có. Và bà
Vauquer vốn tiết kiệm và hám tiền. Chính vì thế, với những khách trọ không sang trọng thì nhà trọ
như thế này đã là quá đủ. Thậm chí nhiều lúc bà Vauquer còn tỏ ra mình là người có công trong việc
cứu vớt “tế bần” những con người bất hạnh, giúp họ có mái nhà mỗi khi mưa gió và có cái ăn mỗi khi
đói lòng với giá bình dân mà bà cho là rẻ mạt, một giá cả khó kiếm nhất nơi đây. Người đời có
câu “tiền nào của nấy”. Quán Vauquer là một trong số đó.
Bấy nhiêu chưa đủ để hình dung sự nghèo nàn của quán trọ. Đồ đạc nơi phòng ăn này toàn những thứ
tồi tệ và quá hạn “Những tủ đựng chén bát đồ đạc dính dớp, phía trên là những hình nhỏ bụng tròn
hoặc những hình chữ V đã bị hỏng”. Những thứ ấy không hư bảy phần mười cũng thuộc dạng bỏ đi.
Chẳng những đồ đạc nơi đây xuống cấp mà còn mất vệ sinh “Một góc phòng có đặt một chiếc hộp
nhiều ngăn đánh số dùng để đựng những chiếc khăn có vết bẩn hoặc là có vết rượu màu của khách
trọ”. Cách trang trí phòng của quán trọ càng tăng thêm sự khủng khiếp. Thông thường đồ trang trí sẽ
làm lộng lẫy thêm cho căn phòng nhưng phòng ăn này lại hoàn toàn ngược lại. Bởi đó là những thứ
trang trí rẻ tiền, thiếu tính thẩm mĩ, dơ bẩn, bề bộn và lung tung “Những bức tranh kinh tởm làm mất
cảm giác ăn ngon miệng được lồng trong khung gỗ đánh vec-ni có mạ vàng; một chiếc khung treo
đồng hồ bằng đồi mồi có khảm đồng, một chiếc chảo màu xanh, những chiếc đèn dầu Argrard đầy bụi
bặm lẫn vào dầu, một chiếc bàn dài phủ khăn trải bàn bằng vải hồ khá bẩn đủ để một người ngoại trú
viết tên của mình lên đó bằng ngón tay, những chiếc ghế tựa khập khễnh, những tấm chùi chân thảm
hại bằng hàng đan dịch chuyển lung tung nhưng không bao giờ mất đi đâu và sau nữa là cái lò sưởi vỡ
lỗ, bản lề chệch, củi trong đó đã cháy thành than”. Cách giới thiệu của nhà văn có phần hài hước và
hóm hỉnh. Phòng ăn bẩn đến nỗi bụi bám dày có thể viết chữ lên được mà không một ai quét dọn.
Thật không còn nơi nào đáng ghê sợ và kinh tởm như nơi đây. Chắc hẳn bạn đọc sẽ bất ngờ và ngạc
nhiên trước sự miêu tả phòng ăn của Balzac. Liệu có một nhà trọ nào như trong miêu tả của ông
không? Hay đó chỉ là sự tưởng tượng phong phú của tác giả. Bởi Balzac là người có bộ óc tài năng và
bút lực phi thường. Đồng ý rằng nhà văn phần nào có dùng thủ pháp phóng đại nhưng đó là chi tiết
rất nhỏ. Thật sự trong ngoại ô Paris có một “quán trọ bình dân” như thế. Một quán trọ thực sự nghèo
nàn như trong miêu tả của nhà văn.
Tóm lại, quán trọ Vauquer hiện lên với tất cả sự “cũ kĩ, nứt nẻ, mục nát, yếu ớt, mòn vẹt, què cụt, tồi
tàn, hoang phế, hấp hối”. Và thật khó để lí giải được vì sao nó lại như thế. Bởi nếu đi lí giải sự nghèo
nàn đó thì cần đến “một bài văn miêu tả”. Thế nhưng, đây không phải là điều quan trọng mà cái cốt
lõi là tấm thảm kịch nơi đây xảy ra như thế nào. Chỉ biết một điều rằng sự nghèo nàn đó “không thể
xóa bỏ được, chúng không tồn tại ở khắp nơi nhưng lại hiện diện ở đây như nó phải thế, như những
tàn tích đặc trưng cho nền văn minh của những người bị bệnh nan y”  và “tóm lại là cái nghèo ngự trị
không khoan nhượng lên tất cả đời sống trong sự dè sẻn, cô đọng và trơ sờn. Nếu như nó chưa lấm
bùn đen thì nó cũng đang có những vết bẩn và nếu như nó không thủng lỗ cũng không rách rưới, thì
rồi nó cũng sẽ rơi vào tình trạng mục nát mà thôi”.
@Tiểu kết
Bằng bộ óc quan sát tinh tế và nhạy bén, Balzac đã chụp lại được một khoảnh khắc “tuyệt vời”, một
lát cắt của hiện thực cuộc sống. Đó là cảnh nghèo hèn và đen tối, đen tối như chính bản thân của nó.
Chính nơi đây diễn ra những “Tấn trò đời” dở khóc dở cười đau đớn. Qua đó, Balzac phác họa lên hiện
thực xã hội Pháp thế kỉ XIX với bao ung nhọt và hôi thối. Ngay phần mở đầu tiểu thuyết nhà văn đã
lên tiếng cảnh báo cho toàn xã hội. Chính xã hội đó đã gieo xuống những mầm bệnh cho những con
người bé nhỏ đáng thương và đáng được trân trọng. Đó là lão Goriot bất hạnh, chàng thanh niên
Rastignac nhiệt tình và nàng Victorine Taillefer đáng thương. Những con người này đáng lẽ phải có
cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc. Nhưng không, xã hội đó sẽ không trừ một ai nếu đi ngược lại quy tắc
của nó. Hơn nữa, họ sẽ không có kết quả tốt đẹp nếu xã hội vẫn còn những thế lực của bóng đêm, đại
diện là Vautrin, gã tư sản Taillefer và các con rể lão Goriot.
3.5 Xây dựng hai nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình
Văn chương là lĩnh vực nghệ thuật làm đẹp trái tim và tâm hồn mỗi con người. Nơi đó con người tự do
thể hiện những cảm xúc và tình cảm bản thân. Và đây cũng chính là nơi để nhà văn kí thác những tâm
tư hoài niệm, những điều vang vọng của con tim. Phương tiện để nhà văn chuyển tải thành công
những suy tư trăn trở đó là hình tượng. Hình tượng trong tác phẩm có thể là sự vật, động vật, con
người. Những hình tượng đó là những đứa con đẻ của nhà văn. Trong tiểu thuyết của mình, Balzac
luôn xây dựng hình tượng nghệ thuật là những con người, cá nhân cụ thể. Ở “Lão Goriot”, Balzac đã
xây dựng khá thành công hai nhân vật điển hình là lão Goriot và Rastignac. Hai nhân vật này đã trở
thành những điển hình bất hủ trong những sáng tác văn chương của Balzac.
Nói về điển hình, nhà phê bình Nga Bêilinxki nói “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu nổi bật
của tính mới mẻ trong sáng tạo”. Có thể nói rằng “Tính điển hình là huy chương của   nhà văn. Điển
hình là người lạ đã quen biết”. Điều này có nghĩa là nhân vật điển hình đại diện cho một nhóm người
nào đó. Như lão Goriot là nhân vật điển hình, đại diện cho những nhà tư sản có quan niệm hạnh phúc
lầm lạc – ước mơ trở thành nhà quý tộc. Và Rastignac điển hình cho những thanh niên đầy những
tham vọng. Còn vấn đề hoàn cảnh điển hình thì Balzac cũng đã giải thích rõ ràng thông qua tác phẩm.
Đó là hoàn cảnh để nhân vật tự bộc lộ tính cách và việc làm của bản thân. Hoàn cảnh điển hình trong
chủ nghĩa hiện thực là hoàn cảnh chứa đầy mâu thuẫn và thách thức. Nếu con người không có sức
chống chọi sẽ bị hoàn cảnh đó bóp chết hạnh phúc, làm biến dạng con người. Để hiểu rõ nhân vật điển
hình trong hoàn cảnh điển hình như thế nào, nó biểu hiện ra sao chúng ta sẽ lần lượt khám phá và tìm
hiểu hai nhân vật Lão Goriot và Rastignac.
3.5.1 Lão Goriot – người cha thương con vô bờ bến nhưng quan niệm sai lầm về hạnh phúc
Để khẳng định mình, bất cứ nền văn học hay một trường phái nghệ thuật nào đều xây dựng cho mình
một hình tượng nghệ thuật điển hình. Thông qua mẫu người đại diện đó người nghệ sĩ thể hiện tư duy
nghệ thuật, quan niệm sáng tác, tài năng nghệ thuật và thái độ trước cuộc sống. Hình tượng điển hình
nghệ thuật đó là dấu ấn phong cách cá nhân và thể hiện sở trường của nhà văn. Balzac tạo ra một lão
Goriot như một nhân vật rất “sống” và rất “người”. Trong quán trọ Vauquer, lão Goriot là nhân vật nổi
bật nhất. Một lão phó mì khôn ngoan và nhạy bén. Nhờ sự xoay trở, may mắn và nhạy bén trong kinh
doanh, lão già làm mì sợi trở thành một tư sản giàu có “Jean-Joachim Goriot trước cách mạng, đơn
giản lão chỉ là một công nhân làm mì chuyên cần, thành thạo, tiết kiệm và khá là táo bạo khi mua lại
hẳn cả cơ nghiệp của ông chủ mình, ông này là nạn nhân trong cuộc nổi loạn năm 1789”. Không chỉ
lão Goriot là người duy nhất được tài sản kếch sù mà đây là vấn đề chung của số người nhạy bén biết
nắm bắt thời cơ. Đó là lão Grandet, nhờ cuộc cách mạng đã tậu được vườn nho. Hay là lão Séchard
cũng tậu được xưởng máy in với giá rẻ mạt.
Khi đến quán trọ Vauquer, lão Goriot mang theo quá khứ bí mật, chẳng một ai trong quán trọ biết rõ
về quá khứ và cuộc đời trước kia của ông. Họ chỉ biết lão là một thương gia mì sợi giàu có và hiện tại
đang nghỉ việc kinh doanh. Với giọng thương xót thông cảm sâu xa, Balzac đã giới thiệu một cách khái
quát và sơ lược về cuộc đời của lão Goriot “Lão Goriot, mà trên đầu lão, một họa sĩ cũng như một nhà
sử học đã đổ vào đấy tất cả ánh sáng của bức tranh. Bởi sự tình cờ nào mà sự miệt thị nửa thù hằn,
sự không tôn trọng kẻ bất hạnh trộn lẫn với lòng thương xót lại đập vào người khách trọ cao tuổi
nhất? Có phải ông lão đã gây ra một vài trò nực cười và kì cục mà người ta khó tha thứ cho nó hơn là
tha thứ cho những thói hư tật xấu khác chăng? Những câu hỏi này liên quan đến phần nhiều những sự
bất công trong xã hội. Có thể nó nằm trong bản chất của con người là khiến cho những ai hoàn toàn
đau khổ bởi sự tự ti, bởi sự yếu đuối hay sự lãnh đạm đều phải chịu đựng tất cả”.  Qua cách giới thiệu
của Balzac người đọc có thể phần nào hình dung về cuộc đời và số phận của lão Goriot. Cuộc đời ẩn
chứa bao nỗi đau khổ và bất hạnh. Một nhà tư sản kết thân cùng dòng dõi quý tộc thì làm sao bất
hạnh? Các bạn chớ vội tưởng rằng người giàu có thì không đau khổ. Đôi khi chính sự giàu và địa vị đó
là nguyên nhân dẫn đến những bi kịch không thể tưởng tượng. Nghèo hèn có nỗi đau khổ riêng của
nghèo hèn. Giàu sang phú quý thì có sự đau khổ của giàu sang phú quý. Lão Goriot là một trong số
đó. Bi kịch cuộc đời lão chính thức bắt đầu ở quán trọ Vauquer. Thật ra, bi kịch này đã nhen nhóm từ
rất lâu, ngay trong cái gia đình bé nhỏ êm ấm của Goriot. Sau bảy năm chung sống hạnh phúc thì bất
hạnh ập xuống ngôi nhà bé nhỏ:“vợ ông chết”. Thế là “tình yêu dành cho người vợ đã chết không tròn
vẹn nên ông chuyển hết sang cho hai cô con gái và lúc đầu họ làm cho ông lão cảm thấy mãn
nguyện”.
Khi miêu tả và giới thiệu về lão Goriot Balzac không trực tiếp miêu tả mà thông qua cuộc đối thoại với
các nhân vật khác làm bật nổi tính cách của người cha thương con này. Qua cuộc đối thoại với bà chủ
Vauquer, lão Goriot hiện lên với đầy đủ chi tiết và hình ảnh. Đó là một lão già ngoài sáu mươi đã nghỉ
việc kinh doanh đặt phòng thượng hạng nhất. Trước sự giàu có và kiểu cách sang trọng của vị thượng
khách làm mọi người trong quán trọ phải ngưỡng mộ và ganh tị  “Goriot đến ở mang theo một tủ quần
áo đầy, những quần áo đẹp của một thương nhân”. Rồi bà chủ quán phải “thán phục mười tám chiếc
áo sơ mi kiểu Hà Lan mà nét tinh tế của nó lại càng nổi bật hơn khi lão Goriot đeo trên cái lá sen cố
định trước ngực hai chiếc ghim gắn liền với nhau bởi một sợi dây chuyền nhỏ, mỗi chiếc có gắn một
viên kim cương lớn”. Dường như ông lão sắp định cư ở đây mãi mãi. Bởi lão mang theo tất cả kỉ vật
của gia đình “Hộp đựng thuốc lá của lão cũng bằng vàng, đựng một chiếc dây chuyền hình trái tim
đeo ảnh và bên trong đầy tóc, làm ông cụ ra vẻ phạm vào chuyện nhân tình nhân ngãi gì đấy”. Không
một ai trong nhà trọ biết đó là kỉ niệm duy nhất của lão và hai con gái. Rồi  “những chiếc tủ của lão
đầy ắp bát đĩa bằng bạc…những chiếc muôi, chiếc bát đựng nước sốt, rất nhiều đĩa, bộ chén đĩa ăn
sáng với món mì sợi, tóm lại là các loại ít nhiều đều đẹp”  mà  “ông không muốn bán đi”. Bởi chính
những món đồ đó “gợi cho lão nhớ lại những chuyện trọng đại trong đời sống gia đình”. Và hơn hết là
kỉ vật quá cố của vợ  “Cái này – lão nói với bà Vauquer trong khi nắm chặt một chiếc đĩa và một chiếc
cốc nhỏ trên nắp có hình hai con chim cu gáy đang gậm mỏ nhau âu yếm – là món quà đầu tiên vợ tôi
tặng cho tôi. Vào ngày kỉ niệm ngày cưới… Tôi thà phải bốc đất để ăn còn hơn phải xa rời những thứ
này”. Thậy vậy, chúng là những thứ quan trọng mà cả cuộc đời lão còn lưu lại.
Có thể nói, lão Goriot là một người đàn ông hoàn mĩ. Tuy không phải thuộc người đẹp trai lịch lãm
nhưng trong con đường kinh doanh lão là một người thành đạt và khôn khéo. Trong gia đình là một
người cha hết lòng thương con, một người chồng chung thủy và có trách nhiệm “Nhiều người giàu có
muốn gả con gái cho Goriot, nhưng ông nhất định không ưng ai mặc dù họ đưa ra rất nhiều cám dỗ”.
Bởi vì lão không muốn ai thay thế vợ mình, lão luôn cho rằng không một ai có thể như bà. Người đã
ban cho ông Anastasie và Delphine đáng yêu và tuyệt trần. Phải chăng lão Goriot thấu hiểu cảnh mẹ
ghẻ con chồng, ông lo sợ. Và điều quan trọng là lão không muốn san sẻ tình cảm của mình dành cho
con đến một ai khác. Tức là lão toàn tâm toàn ý yêu thương hai con gái mà ông quý như thiên thần.
Có thể thấy lão Goriot là người cha có tấm lòng yêu thương con vô bờ bến, một người cha “cho chúng
cuộc sống, đã cho mỗi đứa năm hoặc sáu trăm nghìn franc của hồi môn để tạo hạnh phúc khi gả
chồng cho chúng và chỉ giữ lại cho mình từ tám đến mười nghìn franc lợi tức”. Thậm chí lão Goriot còn
cho cả cuộc đời mình. Thế mà những đứa con thiên thần đó “chỉ trong hai năm…đã đuổi ông ra khỏi
cuộc đời chúng như một người khốn khổ”. Thật là những đứa con lầm lạc. Lão Goriot yêu thương họ
hơn cả tính mạng bản thân vậy mà họ không hề trân trọng. Hai mươi năm, một con số không nhỏ chút
nào. Có lẽ, hậu quả ngày hôm nay mà lão Goriot nhận được là một phần do sự lầm lạc trong việc giáo
dục con “Sự giáo dục con cái của của ông ngày càng vô lý. Một người có tới hơn sáu mươi ngàn franc
lợi tức nhưng chỉ dành cho cuộc sống của mình một nghìn hai, còn bao nhiêu chỉ lo thỏa mãn những
đòi hỏi ngông cuồng của các cô con gái và điều ấy là hạnh phúc của ông”. Vì quá được cưng chiều nên
hai cô nàng trở nên kiêu kì và đỏng đảnh thậm chí dối gạt cha, lấy cha mình ra làm cuộc vui chơi tùy
thích “Một hôm, do sự ghen ghét của hai cô con gái, một cô đã nói rằng chiếc xe chở cô chị vừa bị lật
ngược, mong muốn ông đi khỏi nhà để tâm tình với một gã cùng buôn bán”. Để rồi, người cha đáng
thương đã lập tức mắc mưu, “sợ hãi tái nhợt mặt mũi” và “ốm mấy ngày liền”. Chính tình yêu thương
mù quáng dần dần đẩy lão Goriot tiến gần đến thảm kịch.
Không chỉ thế, ước mơ bước tới giới thượng lưu, trở thành một quý tộc của lão Goriot là một nguyên
nhân chính dẫn đến tấm thảm kịch gia đình. Lão tung ra cho hai con gái của hồi môn kếch sù nhằm
quyến rũ giới quý tộc. Thế là Anastasie được bá tước Restaud “đưa cô rời khỏi nhà bố đẻ mình để bước
chân lên những nấc thang xã hội quyền lực”. Còn Delphine được giám đốc ngân hàng gốc người Đức
Nucingen rước về và trở thành nam tước Saint –Empire. Kết quả là hai cô con gái ông tư sản bột mì
trở thành giới quý tộc như lão mong ước. Và chính cái địa vị quý tộc đó đã phá tan tành gia đình bé
nhỏ mà bấy lâu lão gầy dựng và vun đắp.
Tóm lại, yêu thương con quá mức, nuông chiều chúng một cách điên cuồng quá đáng sẽ là con dao hai
lưỡi. Nếu sử dụng không đúng thì nó sẽ gây ra hậu quả khôn lường. Và hậu quả đó đã ập xuống đầu
lão Goriot. Qua đó, Balzac muốn cảnh tỉnh đến người đọc và hơn hết là cho những ai sắp làm cha và
đang làm cha, một chân lý vĩnh hằng: nếu anh quá nuông chiều con cái tức là anh đang tự đào mồ
chôn bản thân. Cái chân lý này lão Goriot đến lúc sắp tắt thở mới nhận ra “Ta phải đền tội vì đã quá
yêu thương chúng”. Và vấn đề thứ hai, nhà văn muốn nhắn gửi đến bạn đọc: đừng quá tham vọng,
mơ ước những địa vị cao sang quý tộc, nếu không sẽ trả giá rất đắt. Chính lão Goriot đã trả giá cho
ước muốn đó – sự tan vỡ gia đình. Đây là hai nguyên nhân chủ quan dẫn đến bi kịch gia đình lão
Goriot. Bên cạnh nguyên nhân chủ quan đó còn có nguyên nhân khách quan. Đó là hiện thực xã hội
bấy giờ, một xã hội nửa tư sản, nửa quý tộc lẫn lộn. Và dẫn đến những lẫn lộn về các giá trị đạo đức
và thẩm mĩ. Xã hội đó gồm toàn những sự tàn bạo và lợi dụng lẫn nhau. Mọi thứ bị đảo lộn, con người
dần dần mất đi những phẩm giá tốt đẹp ban đầu.
Tất cả tiền tài, danh vọng, địa vị và cả tình thương, thậm chí là mạng sống của Anastasie và Delphine
đều do lão Goriot ban cho. Vậy mà họ vô tư không nhận ra tình cảm của cha mình. Thế tại sao lão
Goriot đến phút cuối mới nhận ra bản chất thật sự của hai cô con gái. Trong tác phẩm lão là một “nhà
buôn bán đại tài”  biết “nhìn xa trông rộng” nhưng quay về cuộc sống gia đình ông là “một người thợ
ngu độn và thô lỗ, một con người không hiểu biết thậm chí không biết suy luận, không mảy may ham
muốn những niềm vui tinh thần, tóm lại chỉ là người giỏi ngu ngốc mà thôi”. Phải chăng đây là một
nguyên nhân. Thật ra dù không hiểu hết bản chất thật sự của họ thì lão Goriot cũng hiểu đôi điều.
Nhưng tình yêu thương con quá lớn, lão không thể cưỡng lại. Chính điều này đã làm trái tim lão bị tổn
thương và rỉ máu. Khi nhận thấy “các con lão phải xấu hổ vì mình”, lão tự cảm thấy mình là kẻ có tội,
cái tội “gây ra mối nguy hại cho các cậu con rể của mình mà các cô con gái của ông thì yêu thương
chồng chúng”. Trước những nhận thức và lập luận đau đớn đó, lão Goriot tự nhận thấy “cần phải hy
sinh”. Tình yêu của lão Goriot dành cho con thật mù quáng và có phần bản năng. Để biện hộ cho việc
làm của mình, biện hộ cho sự hy sinh mù quáng đó, lão bảo rất đơn giản chỉ vì “ông là bố”. “Ông là
bố”, nghe đơn giản nhưng lại gây chua xót bao lòng người. Người bố đáng thương, tội nghiệp đã hy
sinh, loại trừ cả bản thân dù đau khổ và bế tắc. Bởi khi thấy “các cô con gái hài lòng, ông lão hiểu
rằng ông lão làm thế là đúng”. Dẫu biết rằng bậc làm cha làm mẹ phải hy sinh vì con cái. Điều này tất
nhiên. Nhưng đó không phải là một phía mà nó đòi hỏi ở cả hai. Bổn phận con cái phải hiếu thảo đáp
trả công ơn trời biển của cha mẹ. Sự hy sinh của cha mẹ sẽ trở nên vô nghĩa nếu đó là sự hy sinh một
phía, một phía kia thì vô tâm hờ hợt. Anastasie và Delphine là những đứa con như thế. Dù bản chất
hai nàng không độc ác tàn nhẫn nhưng hai nàng đã mù quáng, lầm lạc trong cuộc sống quý tộc,
không quan tâm đến người cha già. Khi bước lên đỉnh vinh quang của quyền lực và địa vị hai cô con
gái quên mất xuất thân ban đầu của mình, dường như muốn quên luôn bố. Để rồi, ông lão phải tự rút
lui cùng với tất cả kỉ vật thân thương nhất đến quán trọ Vauquer, bắt đầu chuỗi ngày đau đớn – bi
kịch cuộc đời ông. Lão Goriot làm tất cả vì niềm vui của hai cô con gái. Người đọc cảm thấy mình nhỏ
bé trước tấm lòng của lão Goriot, tấm lòng sâu hơn cả đại dương mà đại dương thì không thể thấy bến
bờ.
Một mình nơi quán trọ chờ đợi con đến thăm, dù chỉ một thoáng “Nếu như tôi được ở chỗ chúng, chỉ
cần được nghe giọng chúng nói, biết là chúng ở đấy, nhìn chúng đi lại, ra vào, như khi chúng còn ở với
tôi, chỉ chừng ấy đủ cho tôi vô cùng vui sướng”. Bấy nhiêu là hạnh phúc của lão Goriot. Những cô con
gái yêu quí đến với ông không vì chuyện tiền bạc cũng vì chuyện gia đình. Nhưng không sao, đối với
lão điều đó vẫn tốt, lão vẫn gặp chúng. Lúc nào Anastasie và Delphine cũng than vãn, kể lể này nọ, rồi
khóc lóc kêu than. Điều đó làm lão Goriot buồn phiền đến sinh bệnh và cuối cùng là cái chết thương
tâm “Cứ đến, các con cứ đến đây mà than thở, lòng cha rộng lớn, đón nhận được hết. Phải, dù các con
đã làm lòng cha tan nát, tấm lòng tả tơi muôn mảnh vẫn là lòng người bố. Cha muốn gánh nỗi buồn
cho các con, đau thay các con”. Một thương gia giàu có với số tiền lợi tức lên đến tám nghìn franc mỗi
năm thì khách sạn hạng sang nơi Paris là không thiếu. Nhưng lão Goriot lại chọn quán trọ Vauquer, nơi
tồi tàn bẩn thỉu và hẻo lánh. Thật ra quán trọ càng hẻo lánh lão Goriot càng thích. Đó không phải là
cái sở thích quái gở mà đó là vì con. Lão biết rõ, nếu trọ trong nội ô Paris thì sẽ gặp được con nhiều
hơn. Nhưng lão càng biết rõ hơn, số tiền dưỡng già chỉ cho phép mình ở nơi quán trọ này đến hết
quãng đời còn lại. Ở quán trọ, lão Goriot có thói quen rất kì lạ làm mọi người phải thắc mắc. Ông lão
thường ra ngoài rất sớm và trở về đúng buổi cơm trưa. Vậy khoảng thời gian đó lão làm gì? Chỉ có lão
mới biết. Có phải lão Goriot đang mưu đồ làm việc gì đây? Những thời gian đó lão “bí mật” theo sau cô
con gái. Lão gặp con mà không dám gọi, không dám đến gần chỉ biết đứng từ xa dõi mắt theo từng
bước chân con. Nhìn thấy các con gái xinh đẹp lộng lẫy và mạnh khỏe, bấy nhiêu là lão đủ vui. Và nếu
chạm mặt nhau trên đường thì cô nàng chỉ dành cho lão một nụ cười thắm thiết. Đối với lão thế là đủ.
Dù có xấu xa, bẩn thỉu, thấp hèn hay bệnh hoạn, rách rưới thì cha mẹ vẫn là cha mẹ, vẫn là người
thân yêu nhất, cao quý nhất – người đã nuôi dạy chúng ta khôn lớn. Và khi khôn lớn rồi phải biết
phụng dưỡng cha mẹ. Anastasie và Delphine làm cho người đọc dâng lên niềm khinh bỉ dù hai nàng
không thực sự độc ác. Nếu đọc Eugénie Grandet, người đọc căm ghét lão Grandet keo kiệt tàn nhẫn
với người con gái ngây thơ Eugénie bao nhiêu thì càng khinh bỉ Anastasie, Delphine và càng yêu quí
lão Goriot bấy nhiêu. Trên giường bệnh, lão Goriot đau quằn quại và miệng gọi tên hai đứa con không
ngớt “Tối nay, ông ấy đã nói với tôi hàng trăm lần rằng: “Chúng đang nhảy kìa! Con bé đã có cái áo
của nó”. Ông ấy gọi tên của họ. Ông cụ làm tôi phát khóc với cái giọng thế này: “Delphine! Delphine
bé nhỏ của cha! Nasie!”.  Nỗi đau về thể xác đối với lão Goriot chẳng là gì, mà chính nỗi đau tinh thần
đã giết chết ông. Một “khuôn mặt co giật, trắng bệt và hết sức yếu ớt” lúc nào cũng muốn gặp mặt
con lần cuối “Hãy nói với chúng rằng ta cảm thấy không khỏe, rằng ta muốn ôm hôn chúng, muốn gặp
chúng một lần cuối trước khi chết. Hãy nói với chúng như thế nhưng đừng làm chúng hoảng sợ”. Cái
chết gần kề, lão Goriot không hề sợ mà chỉ lo sợ con mình phải hoảng hốt, lo sợ rồi ảnh hưởng đến
sức khỏe và càng không muốn chúng khóc “Ta không muốn chết để khỏi làm cho chúng phải
khóc”. Bởi đối với ông “địa ngục chính là không có những đứa con”. Một mong ước nhỏ nhoi của một
người sắp chết “Nếu chỉ cần có những bàn tay của chúng trong tay ta, ta sẽ không còn đau một chút
nào nữa” thế mà “không có đứa nào…không, chúng không đến!”. Trong suốt thời gian dài, chính xác là
cả đời, lão Goriot dành tất cả cho họ. Từ một phú thương lừng lẫy biến thành một lão già kiết xác “Lão
nằm trên chiếc giường cũ kỹ chỉ có một tấm chăn mỏng và một tấm đệm được làm với những mảnh
vải giống như cắt từ những chiếc áo dài cũ của bà Vauquer. Cửa sổ thì ẩm ướt và đầy bụi bặm”.  Thậm
chí nơi ở ông lão tồi tàn đến nỗi “kẻ ở đợ trong quán của bà Vauquer chắc còn được bố trí khá hơn là
tình cảnh của lão Goriot”. Lão Gioriot không nghèo khốn sao được khi mỗi lần hai cô con gái yêu đến
là những thứ quý giá lần lượt không cánh mà bay mất. Kể cả kỉ vật người vợ thân yêu, thứ mà ông thà
chết đói chứ không bán. Cứ mỗi lần Anastasie và Delphine đến, lão Goriot vừa vui lại vừa buồn. Vui vì
được gặp chúng, ôm chúng vào lòng. Lão buồn vì cuộc sống của chúng không hạnh phúc như lão
tưởng. Có thể nói, lão Goriot ngày càng nghèo về vật chất lẫn suy kiệt tinh thần và sức khỏe. Để
người đọc dễ tiếp nhận sự thay đổi đó, chúng tôi xin tóm lược quá trình từ lão Goriot giàu có đến ông
già nghèo hèn kiết xác bằng bảng sau:
– Ở phòng tốt nhất của quán trọ à Gọi là ông Goriot.
 
– Ăn tối ở ngoài phố.
Năm đầu àĐầu
– Sau đó ăn tối 2 lần/tháng ở ngoài.
năm thứ 2
– Và cuối cùng ăn tối đều đều ở quán trọ.
– Xuống tầng 2 và giảm tiền trọ xuống 9 franc.
  – Tiết kiệm mọi thứ, thậm chí không đốt lò sưởi vào mùa
Cuối năm thứ Đông.
2 à Đầu năm thứ – Mọi người gọi là lão Goriot.
3 – Cuối cùng hạ mức giá ăn ở xuống 900 franc.
– Bà Vauquer gọi lão là con mèo già.
Cuối năm thứ 3 – Giảm hẳn chi tiêu.
– Lên tầng 3 à loại tệ nhất.
– Không hút thuốc.
– Chẳng cần đến việc rắc phấn lên tóc.
– Màu tóc xám bạc lem nhem.
– Nét mặt mang vẻ buồn rầu bí hiểm ngày càng trở nên
sầu muộn hơn.
– Tình trạng thể lực và tinh thần giảm súc trầm trọng.
– Quần áo bị sờn, lão mua những mảnh vải trúc bâu rẻ
tiền để thay thế những cái cũ.
– Kim cương, hộp đựng thuốc lá bằng vàng, dây chuyền,
đồ trang sức dần dần biến mất.
– Lão mặc áo riđinhgôt bằng dạ màu vàng nặng nhọc, cả
mùa đông cũng như màu hè, một áo gi lê bằng lông dê,
một chiếc quần xám bằng len.
– Lão trở nên gầy gò hơn, bắp chân nhão ra, bộ mặt béo
phì vì cuộc sống sung túc trước kia nay đã hoàn toàn biến
mất: trán thì nhăn nheo, hàm nhô ra.
Lão hoàn toàn đổi khác
– Lão buôn mì ở độ tuổi ngoài 60 đã không còn cái vẻ bề
ngoài của độ tuổi 40. Giờ đây như đã mang sức nặng của
Năm thứ 4 tuổi 70 đần độn, đi đứng lảo đảo, vẻ mặt nhợt nhạt.
– Đôi mắt màu xanh vốn lanh lợi đã hơi lờ đờ, nhuộm màu
xám xịt, chúng có vẻ bị mờ đi, không còn chảy nước mắt
nữa, viền mắt đỏ như màu máu.
Qua bảng liệt kê đó, chúng ta có thể thấy được tấm lòng lão Goriot bao la biết dường nào. Tất cả mọi
người đều thấy chỉ ngoại trừ Anastasie và Delphine là vô tư đến phút cuối mới nhận ra. Trái tim người
cha với bao hy vọng và tình thương tan vỡ thành từng mảnh vụn và làm cho “giọt nước mắt chảy
quanh mắt mà không sao rơi xuống được”. Goriot khóc không phải vì căn bệnh mà lão khóc vì nhận ra
được chân lý đau đớn “tiền không mang lại tất cả kể cả những đứa con”. Và giọt nước mắt ấy đã nhận
ra rằng “ít nhất khi một con người bất hạnh được yêu thương, thì ông ta có thể chắc chắn mình được
yêu thương thật”. Người duy nhất yêu thương lão thật sự không phải con gái lão mà là Rastignac –
người bạn, người con chăm lo cho lão suốt khoảng thời gian ở quán trọ. Chỉ có chàng thanh niên đó
không chê bai một lão già nghèo hèn vô tích sự “A! con trai yêu quý của ta, đứa con duy nhất của ta,
ta lại yêu quý việc bị bỏ rơi và nỗi khổ của ta”. Lúc nào lão Goriot cũng tự lừa dối bản thân “Ta biết
điều này từ mười năm nay. Ta tự nhủ với mình vài lần nhưng ta lại không dám tin điều đó”. Lão bào
chữa cho con mình, tự an ủi bản thân. Vì tình yêu ông dành cho con là thứ tình yêu “vô tiền khoáng
hậu”. Một thứ tình yêu “hoàn toàn không bị tì vết vì một chút lợi ích cá nhân nào”. Trong tác phẩm,
Balzac không ngớt lời ca ngợi tình yêu cao cả đó “Thần tượng của người cha luôn trong sáng và đẹp
đẽ, và tình yêu con tha thiết đã lớn dần lên trong quá khứ cũng như trong tương lai”. Thế rồi, sự thật
vẫn là sự thật. Sự thật thì bao giờ cũng phũ phàng không như mong tưởng “Một người cha cần phải
luôn luôn giàu, ông ta cần kìm chặt những đứa con như kìm chặt những con ngựa xảo trá”. Những đứa
con bé bỏng, người thân yêu duy nhất trong đời lại là người làm tim lão rỉ máu. Họ tạo cho lão một vết
thương lòng không thể xóa mờ “Tất cả đều rất khéo léo và chúng đã đâm thủng trái tim ta. Ta thấy rõ
ràng đó là những điều giả dối, những nỗi đau này không có thuốc gì chữa được”.
Nếu lúc đầu lão Goriot còn biện hộ cho hai đứa con gái thì đến khi nhận ra điều tuyệt vọng, ông lão đã
lên tiếng nguyền rủa hai đứa con và nói rất nhiều với Rastignac những bài học đường đời đau đớn. Hai
mươi năm “ông dành trọn tình thương của một người mẹ, tình yêu của một người cha cho các con
mình; rồi một ngày ông cụ cho đi tất cả cơ nghiệp của mình”. Để rồi, “Ôi chúa ơi, làm sao ngài có thể
hiểu được nỗi khốn khổ, những nỗi đau đớn mà con đã phải chịu, làm sao ngài có thể đếm được hết sự
phản trắc mà con đã nhận được vào lúc mà con già đi, thay đổi, kiệt sức, bạc đầu, vì sao ngày hôm
nay ngài còn làm con đau đớn đến như vậy?”. Lão đau đớn nói trong mê sảng và giận dữ. Nhưng có lẽ
đây là lúc lão tỉnh táo nhất. Lão vô cùng tỉnh táo khi nhận ra nỗi đau khổ mà mình mang không phải
tại Chúa mà là lỗi của bản thân “Tất cả đều là lỗi của ta”, “ta phải đền tội vì đã quá yêu thương”. Dù
đau đớn oán trách, nguyền rủa con nhưng từ trong thâm tâm lão lúc nào cũng muốn gặp con “Con gái
của ta, con gái của ta, Anastasie, Delphine! Ta muốn gặp chúng”.
Cuối cùng, lão Goriot cũng tìm ra được nguyên nhân sâu xa của sự sa đọa ở hai cô con gái “Ta đã làm
hư hỏng chúng”. Ông nhận ra được lối giáo dục sai lầm của mình trong suốt thời gian qua: “Ta đã luôn
cho phép chúng thỏa mãn sự ngông cuồng của những cô gái trẻ. Khi mười lăm tuổi chúng đã có xe
riêng! Không có gì có thể chống lại chúng. Chính ta là thủ phạm nhưng ta làm thế vì tình yêu”. Sự đau
khổ và tuyệt vọng làm cho lão Goriot gần như mê sảng “Tôi đã bị con cái bỏ rơi, đó là phần thưởng
cho tôi sao? Thật là độc ác và bẩn thỉu. Ta ghê tởm chúng, ta nguyền rủa chúng, kể cả khi đêm đến,
ta cũng sẽ thức dậy từ quan tài để nguyền rủa chúng, bởi vì chúng ăn ở quá tệ”. Lão Goriot vẫn không
hề biết mình nói gì: “Ta vừa nói gì nhỉ”. Nhưng lão luôn tỉnh táo khi nghĩ đến con “Delphine đến rồi
đấy chứ? Nó là đứa con gái tốt nhất của ta đấy. Eugène ạ cậu như con trai của ta. Cậu cũng yêu quý
nó chứ. Hãy đối xử với nó như một người cha ấy”. Dù nhận ra sự lầm lạc của con nhưng lão vẫn không
hề oán ghét, dù lão có vài tiếng nguyền rủa. Tình yêu thương đó không phải ai cũng hiểu. Chỉ có
chàng sinh viên nghèo Rastignac mới có thể thấu hiểu và chia sẻ thứ tình yêu bao la “Còn Nasie bất
hạnh nữa. Số phận của chúng ra sao đây! Ôi chúa ơi, ta sắp chết rồi, ta đau đớn quá. Cắt bỏ đầu ta
đi, chỉ để lại cho ta mỗi trái tim thôi”. Lão Goriot không cầu mong gì hết, không cầu mong được sống
mà chỉ là cầu mong mãi mãi là trái tim yêu thương và che chở cho hai đứa con những lúc khó khăn
nhất, những lúc chúng cần đến lão.
Qua bi kịch đau đớn của lão Goriot, Balzac muốn người đọc nhận ra rằng nếu sống trong xã hội, con
người quá chân thực, sống bằng tình thương thì sẽ có kết cục đau đớn. Khi đó, người ấy sẽ bị chính
tình thương đè bẹp. Phải biết chôn chặt tình yêu thương đó, không cho nó nảy nở dù chỉ một thoáng.
Quy luật xã hội này, bà Beauséant, người từng là nạn nhân của chính tình yêu thương đã kịp nhận ra
và dạy cho Rastignac “Nếu có tình cảm thành thực, giấu kín như một vật báu, đừng bao giờ cho người
khác đoán thấy. Cậu sẽ không được là đao phủ nữa mà thành nạn nhân”. Bi kịch của lão Goriot là một
minh chứng hùng hồn nhất. Số phận lão Goriot không hề mang tính chất cá nhân, riêng biệt mà nó
mang ý nghĩa chung cho xã hội. Trong xã hội đương thời xấu xa bẩn thỉu đó, xã hội của tiền tài và địa
vị, tham vọng và mưu đồ, thì con người sẽ là nạn nhân đau đớn và bất hạnh. Càng bất hạnh hơn khi
đó lại là người quá giàu tình thương như lão Goriot. Lão là nạn nhân của môi trường xã hội đó. Chính
xã hội thượng lưu “tăm tối mù mịt” cũng đã tha hóa nhân cách của Anastasie và Delphine. Có thể cho
rằng, sự tan vỡ của gia đình lão Goriot là hậu quả của xã hội mà thế lực đồng tiền ngự trị.
Bi kịch cuộc đời lão Goriot gợi người đọc nhớ đến bi kịch nổi tiếng của Shakespeare “Vua Lia”. Lão
Goriot và vua Lia là hai người cha đáng thương và đáng trân trọng. Họ đều là nạn nhân của những cô
con gái yêu quý. Để rồi, hôm nay “Vua Lia của thế kỉ XIX”  – Lão Goriot, nhận thấy tính chất chung của
sự đổ vỡ cá nhân “Tổ quốc sẽ bị diệt vong nếu như những người cha bị giày xéo dưới chân. Điều đó rất
rõ, xã hội, thế giới dựa trên tình cảm cha con, tất cả sẽ sụp đổ nếu những đứa con không còn yêu
thương cha chúng nữa”. Những lời lẽ kêu than của lão Goriot như ngàn mũi kim xâu xé tim gan người
đọc. Thượng đế đã ban cho con người cuộc sống tốt đẹp nhưng bản chất thực sự của nó thì vô cùng tồi
tệ “Chúa ơi! Ôi chúa ơi! Người đã muốn cho chúng con một thế giới tươi đẹp nhất mà thế gian lại vô
nghĩa”. Tình thương và tiền bạc, đây là hai con đường mà tất cả mọi người phải chọn. Hai con gái lão
Goriot đã chọn con đường tiền tài địa vị mà tạm thời quên lãng tình cha con.
Đến đây tấm thảm kịch cuộc đời lão Goriot hiện lên nguyên hình của nó. Đỉnh điểm của thảm kịch đó
là cảnh đám tang ở phần cuối tác phẩm. Một đám tang sơ sài, ảm đạm, thê lương khiến người đọc
phải rơi lệ. Không một ai thân thích, không con cái người thân, chỉ duy nhất người bạn Rastignac. Cả
cuộc đời lão chẳng thu lại kết quả gì tốt đẹp. Một chiếc “quan tài…mua ở bệnh viện với giá rẻ mạt”. Có
con là các bà hoàng quý tộc Paris mà một cỗ quan tài ra trò cũng không có. Nhìn cảnh tượng đó
Rastignac đau đớn rơi lệ “Chàng nhìn thấy chiếc quan tài được phủ tấm ga giường màu đen, đặt  trên
hai chiếc ghế dựa. Nhìn cảnh tượng đó, chàng không cầm nỗi nước mắt”.
Cũng như bao nghi lễ khác, lão Goriot cũng được đưa đến nhà thờ. Đó là một giáo đường gần phố
Neuve Sainte – Geneviève , “một giáo đường thấp và tối om”. Cũng lại là Rastignac, chàng cầm cố
chiếc đồng hồ lo đám tang cho lão. Trên chiếc xe tang chật hẹp chỉ có bốn người “một linh mục, một
chú bé cùng Eugène và Christophe”. Đám tang chỉ có bốn người, thật buồn cười, cười đến trào nước
mắt. Có thể nói, đây là đám tang chưa từng thấy, chưa từng thấy bởi sự bi hài của nó. Tang lễ sơ
sài “kéo dài chừng hai mươi phút” với những vị linh mục “tiến hành tất cả những nghi lễ xứng đáng với
giá tiền bảy mươi quan”. Ngoại trừ Rastignac, tất cả đều chỉ biết tiền “Sylvie cũng đòi mười franc tiền
công khâm liệm cho lão”. Một nghĩa địa với hai gã đào huyệt “hất vài xẻng đất lên nắp quan
tài” thì  “chạy vội tới bên Rastignac đòi tiền công”. Ở đây, Balzac rất chú ý đến thời gian. Thời gian
diễn ra nhanh chóng, gấp gáp, nghi lễ đơn giản, vị linh mục thì “chúng ta cũng phải thật nhanh lên,
giờ đã là năm rưỡi rồi”. Hay “sáu giờ đúng – chiếc quan tài bắt đầu hạ huyệt, đầy tớ của hai con gái
lão Goriot chuồn ngay lập tức cùng các tu sĩ khi mà một bài kinh ngắn mà Eugène trả tiền dứt
lời”. Đặc biệt, Balzac cũng rất chú ý đến không gian. Không gian ở đây là “một cảnh hoàng hôn ảm
đạm”. Nó làm cho cảnh đám tang thêm thê lương đau đớn. Thời gian – không gian – hành động, ba
yếu tố này Balzac vận dụng nó một cách linh hoạt trong việc tạo dựng một đám tang bi hài.
Qua cảnh đám tang, nhà văn còn nói lên một vấn đề liên quan đến tôn giáo. Tôn giáo vốn có địa vị rất
cao trong xã hội phương Tây ở những thế kỉ trước. Nhưng đến đây tôn giáo thật rẻ mạt. Trong xã hội
tư bản bấy giờ, tôn giáo chỉ là công cụ, là nô lệ của đồng tiền và địa vị, thế giới tâm linh chỉ là phù
phiếm. Tất cả đều bị cuốn hút vào đồng tiền.
Hai cô con gái để cha mình phải chết trong tủi hờn, cô độc. Chỉ có “hai chiếc xe trang hoàng lộng lẫy
nhưng trống rỗng của hai người con rể tới”. Hai con rể bố thí cho ông lão như bố thí cho một kẻ xa lạ,
một kẻ ăn xin ngoài đường, bố thí cho ước vọng trở thành quý tộc lão Goriot. Hai chiếc xe mang huy
hiệu quý tộc là cái danh hiệu cao quý nhưng rỗng tuếch mà hai con rể ban bố cho lão.
@Tiểu kết
Qua tiểu thuyết “Lão Goriot”, Balzac đã xây dựng thành công hình tượng điển hình bất hủ lão Goriot.
Đó là một người cha giàu lòng yêu thương con và vô cùng lương thiện “Ông lão quả là người nhân
hậu, chất phác chưa bao giờ ông ấy làm hại ai và coi thường ai cả”. Nhưng điều đáng trách nhất là lão
có quan niệm hạnh phúc lầm lạc, ước mơ trở thành quý tộc. Bên cạnh đó, còn có cách giáo dục con vô
lý. Đồng thời, qua bi kịch gia đình lão Goriot, Balzac chứng minh quy luật của xã hội tư bản thế kỉ XIX.
Quy luật ấy nằm ở mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh. Tức là con người tạo ra hoàn cảnh, đồng
thời là nạn nhân của hoàn cảnh.
3.5.2 Rastignac – điển hình cho thanh niên tỉnh lẻ đầy tham vọng – nhân vật chính của tiểu
thuyết
Song song với nhân vật lão Goriot, Balzac còn xây dựng hình tượng khá độc đáo là Rastignac, một
sinh viên khoa Luật. Gorki từng nhận xét về “Lão Goriot” rằng đây là “cuốn sách thứ hai mà tôi được
đọc… Lần này tôi hoàn toàn bị thuyết phục và trong một thời gian dài tôi cảm thấy mình là Rastignac
đang hăm dọa thế giới sẽ trả thù phẩm giá của con người bị chà đạp, trả thù cho những nỗi đau
thương mà thế giới đã làm tràn đầy cả tâm hồn con người”  [40].
Rastignac theo lời giới thiệu của Balzac là một thanh niên có “khuôn mặt đặc biệt của người miền
Nam, nước da trắng trẻo, tóc đen, mắt xanh”. Chàng xuất thân trong dòng dõi quý tộc nhưng đến đời
của chàng chỉ còn danh hiệu. Từ nhỏ, Rastignac được giáo dục trong truyền thống tốt đẹp. Chàng ăn
mặc tiết kiệm, giản dị và là thanh niên có ý chí “Chàng thường mặc chiếc áo Rơđanhgốt cũ, một chiếc
gi lê xấu xí, thắt chiếc cà vạt đen nhầu nhĩ đáng ghét, cẩu thả theo kiểu sinh viên, một chiếc quần dài
vừa vặn và đi đôi giày bốt đã được thay thế mới”. Cũng như bao chàng sinh viên khác Rastignac có
khát vọng và hoài bão riêng. Chàng rời vùng quê thanh bình với bao kỉ niệm tuổi thơ yên ả đến nơi
náo nhiệt Paris để học hành và lập nghiệp. Khi đến nơi này “chàng sinh viên thông minh hơn, có
những tham vọng cuồng nhiệt xuất phát từ những ý nghĩ về người cha và gia đình”. Cũng chính nơi
này “anh lột bỏ nhưng điểm yếu, trưởng thành dần và cuối cùng thì nhận được liên tiếp những thăng
tiến trong xã hội”. Một sinh viên nghèo với mức chi tiêu một năm là 1200 franc thì quán trọ Vauquer là
nơi thích hợp nhất. Vì là gia đình quý tộc sa sút nên chi tiêu hằng năm của cậu sinh viên này được
trích ra từ “phần thu nhập khoảng 3000 franc không ổn định được đem lại từ sản phẩm rượu nho công
nghiệp” của gia đình. Vì thế Rastignac luôn sống trong “những ngày tháng thiếu thốn”. Rastignac rất
yêu thương những người thân trong gia đình, đó là những người thân yêu lúc nào cũng “chắt chiu tiết
kiệm từng li từng tí trong những vụ thu hoạch, rồi thì việc cả gia đình phải uống một thứ nước ép lại
từ bã nho đã ép kiệt”. Mục đích Rastignac lên Paris là để tạo dựng cuộc sống mới đem lại hạnh phúc
cho người thân. Cuộc sống nghèo khổ, tù túng nơi quê nhà đã gieo vào đầu chàng sinh viên biết bao
niềm đam mê và khát vọng. Đó là khát vọng đổi đời “và còn không biết bao thứ nữa đã khiến chí tiến
thủ, lòng khát khao danh vọng của chàng tăng thêm gấp mười lần. Và chàng muốn bằng tài trí của
mình để đạt được những tham vọng đó”. Khát vọng của Rastignac vô cùng chân chính. Bởi vì
Rastignac đi bằng hai chân của mình chứ không hề dựa dẫm người khác. Chàng như một chú chim non
ngây thơ và trong sáng say sưa với vòm trời Paris tráng lệ. Lúc đầu, trước những lời cám dỗ và dạy đời
của Vautrin, Rastignac không hề nghe theo, thậm chí còn chán ghét hắn. Tâm hồn, suy nghĩ và hành
động của Rastignac luôn trong sáng “Thời thanh xuân của mình vẫn còn xanh trong như bầu trời
không một gợn mây, mong muốn được trở nên vĩ đại và giàu có, thế mà phải dối trá, phục tùng, luồn
cúi, gắng gượng, nịnh bợ, che giấu ư? Vì thế mà tự chấp nhận trở thành đầy tớ của những kẻ dối trá,
xu nịnh và luồn cúi ư? Trước khi trở thành đồng bọn chúng thì phải phục tùng chúng. Thật lầm lạc!
Không. Mình muốn làm công việc thanh cao, trong sạch; mình muốn làm việc cả ngày lẫn đêm, chỉ để
tạo ra cơ đồ bằng chính nghề nghiệp của mình. Đó là cách tạo lập cơ nghiệp chậm nhất, nhưng mỗi
ngày đầu mình sẽ được đặt trên gối mà không mảy may một ý xấu xa nào. Có gì đẹp hơn là lặng
ngắm cuộc đời mình và thấy nó thanh khiết như một bông hoa bách hợp”. Thế nhưng “chàng vốn dĩ là
con người có tố chất miền Nam. Nên khi chàng bất đầu vào việc thì lại phân vân y như một người lần
đầu tiên đi biển, giữa đại dương không biết hướng con thuyền đi về đâu”. Khi đến với Paris chàng
chứng kiến biết bao điều phải suy nghĩ. Xã hội thượng lưu giàu có, xa hoa đối lập hoàn toàn với sự
nghèo nàn nơi quán trọ. Và rồi, ý chí chàng thanh niên càng bị nung nấu quyết liệt “Ở đây chàng đã
nhận ra, như những con vật vục đầu trong những cái máng, mười tám vị khách mời đang ăn thỏa
thích. Cảnh tượng về những kẻ khốn cùng và khung cảnh của căn phòng này đã làm cho chàng phát
ớn đến kinh tởm. Sự chuyển biến thật quá đột ngột, sự tương phản thì quá lớn, chúng làm tăng thêm
khát vọng của chàng”. Bởi “một bên là bức tranh với những hình ảnh tươi đẹp duyên dáng của xã hội
thanh lịch, những bộ mặt tươi trẻ sâu sắc say mê thi ca say sưa với những vẻ đẹp nhất của nghệ
thuật. Một bên là bức tranh bi thảm xấu xí được viền bằng lớp bùn mà những bộ mặt trên đó chỉ còn
lại sự cũ kĩ và trần trụi”. Chàng sinh viên chợt nhận ra được con đường thực hiện khát vọng ban đầu
chỉ là hư ảo, không thực tế trong hoàn cảnh Paris lúc bấy giờ. Rastignac muốn bước tới khát vọng một
cách nhanh chóng và tuyệt đối vì chàng không còn đủ kiên nhẫn. Chàng không đủ kiên nhẫn với
những cám dỗ của sự hào nhoáng từ xã hội thượng lưu. Nếu như “lúc đầu chàng toàn tâm toàn ý vào
việc học hành” thì “chẳng bao lâu chàng nhận thấy phải gây dựng mối giao du với những người phụ nữ
mà theo chàng thì họ có một thế lực rất lớn trong đời sống xã hội”. Rastignac quyết định “hòa nhập
với thế giới thượng lưu của Paris bằng việc tìm cho được một người phụ nữ có thế lực đỡ đầu”. Đến
đây chàng sinh viên ngây thơ trong sáng ngày nào đã không còn, chỉ còn hiển hiện một chàng sinh
viên với bao toan tính. Điều này có nghĩa là Rastignac đã mất dần đi khát vọng chân chính và thanh
cao của mình. Giờ đây khát vọng đã biến thành tham vọng điên cuồng. Chàng Rastignac đã bị xã hội
thượng lưu đầu độc và thiêu cháy. Xã hội ấy đã tiêm nhiễm vào Rastignac một chất độc và nó đã ăn
sâu vào máu của chàng. Vậy Rastignac đến với tham vọng đó bằng cách nào? Các quý bà hạng sang
là bàn đạp vững chắc và nhanh chóng nhất. Nhưng làm thế nào để có được mối quan hệ đó? Điều này
đối với Rastignac luôn là câu hỏi làm chàng phải đau đầu. Nhưng với chàng trai “thanh lịch có thể nói
là cũng có đôi chút vẻ đẹp cơ bắp cộng với lòng nhiệt tình và có óc hài hước thì lẽ nào lại không có
người phụ nữ quan tâm đến”. Rastignac quyết định chinh phục thế giới bằng mối quan hệ của người
dì “Chàng trai đầy nhiệt huyết đó sực nhớ ra bà dì trước đây đã từng sống trong triều đình và có mối
quen biết với rất nhiều các gia đình đại quý tộc”.
Rastignac là một trong số hiếm hoi thanh niên mang phẩm chất tốt đẹp. Chàng và Bianchon là hai
nhân vật mà Balzac ưu ái nhất. Cả hai người bạn này đều có lòng thương người và trân trọng con
người. Dù biết rằng con đường Rastignac chọn có phần lầm lạc nhưng trong tiểu thuyết chàng sinh
viên này vẫn hiện lên với những việc làm tốt đẹp. Chàng vẫn là “con người đẹp”, chưa tha hóa phẩm
chất. Chàng vẫn còn đó những cảm xúc yêu, ghét, thương, giận. Tại nơi quán trọ tồi tàn Rastignac
dành trọn tình yêu thương cho lão Goriot. Một thứ tình thương chân thành và thiêng liêng “Tình bạn
thiêng liêng của họ được xây dựng trên cơ sở tâm lí đối lập hẳn với thứ tình cảm giữa Vautrin và chàng
sinh viên”. Mọi người trong nhà trọ trừ bà Coutere, Victorine, Bianchon, tất cả đều tìm mọi cách để
trêu chọc lão Goriot, lấy lão ra làm trò vui thì Rastignac là người duy nhất đứng ra bảo vệ ông “Từ nay
nếu ai làm nhục lão Goriot tức là đã làm nhục tôi, Eugène nhìn người ngồi cạnh cụ làm mì nói, tất cả
chúng ta ngồi đây không ai có thể tốt hơn cụ”. Hơn ai hết Rastignac là người thấu hiểu được tấm lòng
người cha thương con vô bờ bến, mù quáng và mang chút ít bản năng thói tật “Tôi yêu những con
ngựa kéo xe cho chúng, tôi muốn làm con chó mà chúng đặt chân lên đầu gối”. Nhờ tấm vé thông
hành của người dì họ – phu nhân Beauséant Rastignac dần dần lui tới được thế giới thượng lưu. Mà cụ
thể là thế giới của hai con gái lão Goriot, bà tử tước Restaud và bà chủ ngân hàng Nucingen sang
trọng và kiều diễm. Từ khi gia nhập vào thế giới thượng lưu Rastignac học được rất nhiều bài học kinh
nghiệm. Để giữ và bảo vệ được người mình yêu thương trước tiên phải có tiền, phải biết đấu kiếm và
bắn súng giỏi “Cậu muốn làm người bảo vệ cho ông cụ một cách có trách nhiệm thì phải biết đấu kiếm
và bắn súng giỏi đấy”.
Khác với lão Goriot, Rastignac có điều kiện thâm nhập vào cả hai môi trường. Môi trường thứ nhất là
nơi của sự tồi tàn nghèo khổ, nơi của những con người bất hạnh với những cảnh đời ngang trái và mọi
khổ đau. Môi trường thứ hai là chốn xa hoa tráng lệ với những kiểu cách sang trọng và không ít sự dối
lừa của giới thượng lưu. Chính vì lẽ đó, Rastignac có khả năng đánh giá, nắm bắt được ý nghĩa của
hoàn cảnh và “thấu hiểu được những bí ẩn của một tình cảnh kinh khủng mà kẻ gây ra cũng che giấu
kĩ càng như người chịu đựng”.
Trong tác phẩm, Rastignac có tính cách và số phận hoàn toàn độc lập. Chàng tiêu biểu cho những
thanh niên tỉnh lẻ đầy tham vọng, một gương mặt khá quen thuộc trong bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời”.
Nhưng hình tượng Rastignac được Balzac xây dựng hoàn toàn khác hẳn và độc đáo. Không giống
Xôren của Standhal có thể thấu hiểu tất cả mọi khía cạnh, rõ từng ngõ ngách trong tâm hồn của người
khác trong khi bản thân mình là một khu rừng bí ẩn và khó hiểu đối với mọi người xung quanh.
Rastignac hoàn toàn ngược lại, chàng cảm thấy thế giới xung quanh mình toàn là điều bí ẩn “Cái quán
trọ này sao mà lắm chuyện bí mật thế!”. Bởi chàng không tài nào giải thích được những hành động kì
lạ. Trong đêm khuya vắng, lão hàng xóm Goriot “đang nhào nặn cái gì đó” rồi “ngắm nhìn thỏi bạc mà
nước mắt giàn dụa rồi lại thở dài”. Chàng không hiểu tại sao Vautrin lại có thể vào nhà trọ khi
Christophe đã khóa chặt cửa ra vào và tiếng bước chân, tiếng vàng va vào nhau trong phòng của
hắn… Không chỉ thế, xã hội thượng lưu cũng làm cho Rastignac không kém phần kinh ngạc. Bà bá tước
De Restaud đi bộ một mình trong phố vắng, ngài bá tước Restaud tỏ ra không hài lòng khi Rastignac
nhắc đến tên người hàng xóm, lão Goriot… Quá trình Rastignac nhận thức thế giới cũng là quá trình
chàng thay đổi nhân cách. Rastignac mất dần những phẩm chất tốt đẹp, không còn mang lí tưởng cao
đẹp như ban đầu khi “chợt nhận ra cuộc chinh phục thế giới thượng lưu còn quan trọng hơn rất nhiều
tấm bằng tốt nghiệp trường Đại học”. Xã hội thượng lưu Paris đã dạy dỗ chàng rất nhiều bài học thực
tế. Mà người thầy đầu tiên của Rastignac là phu nhân Beauséant “Từ gian biệt thất màu xanh của bà
De Restaud đến phòng khách màu hồng của phu nhân De Beauséant, anh đã học được ba niên khóa
bộ luật Paris mà người ta không nói ra lời mặc dù nó là một thứ phán lệ xã hội cao cấp, học thông và
ứng dụng tốt thì điều gì cũng đạt”. Người dì họ hàng xa – Beauséant là người thầy và cũng là người đỡ
đầu của Rastignac. Bà đã dạy cho người học trò mình con đường đạt đến tham vọng một cách hiệu
quả, đó là “muốn thành công” thì không nên “vội vàng”. Phải biết tính toán “càng tính toán lạnh lùng,
cậu sẽ càng đi đến đích trước. Đánh không thương tiếc cậu sẽ được thiên hạ sợ. Chỉ chấp nhận những
người đàn ông và những người đàn bà như những con ngựa đưa thư mà cậu sẽ để nó mệt lử qua mỗi
trạm nghỉ tiếp sức thôi, cậu sẽ đến đỉnh cao của dục vọng”. Không chỉ thế, Rastignac còn được
Vautrin, tên tù khổ sai giấu mình chỉ dạy “Phải tiêu diệt lẫn nhau như những con nhện cùng trong một
cái bình,… phải lao vào những người ấy như một viên đại bác hay phải len lỏi như bệnh dịch hạch.
Lương thiện chẳng được việc gì ráo”. Hai nhân vật, hai con người hoàn toàn khác nhau. Một người xuất
thân từ thượng lưu quý tộc cao sang, một người là tên tù khổ sai bí ẩn nhưng cả hai khi nhìn nhận xã
hội lại tiến tới cùng một điểm chung. Họ là người từng trải và phải chăng bản thân họ đã từng như
Rastignac. Để rồi, họ thốt lên “Hãy đối xử với cuộc đời này như đúng bản chất của nó”. Thấu hiểu được
phần nào những lí lẽ đó, Rastignac lao vào xã hội và đã kiểm chứng được những lời dạy đó hoàn toàn
đúng. Chàng sinh viên này dường như tuyệt vọng, không muốn tiếp tục dấn thân vào xã hội thượng
lưu đó. Ở chàng có sự đấu tranh nội tâm dữ dội. Bởi chàng thấy mình đôi lúc không thích hợp với môi
trường này. Chàng sợ sẽ trở nên đáng ghét và xa lạ. Và càng đau đớn hơn khi chàng biết được để có
tiền cho chàng tiêu vào những việc đi xe ngựa, đi xem hát với quý bà… làm cho mẹ và dì phải bán tất
cả những đồ trang sức, kỉ vật quý giá và thậm chí cầm cố đất đai “Chúng ta đã phải lấy miếng đất nhà
ra thế chấp, đảm bảo cho con có được số tiền lớn như vậy”. Và còn đó những đứa em ngây thơ trong
trắng luôn hy sinh cho người anh này. Lòng Rastignac đau đớn mỗi khi phải gửi những lá thư mà
chàng không hề muốn “Con cần 1200 franc và con cần chúng với bất cứ giá nào”. Khi nhận được tiền
và bức thư hồi đáp thì chàng đã khóc “Bất giác những giọt nước mắt trào ra trên đôi gò má chàng trai,
chàng đi lại trong phòng với nỗi chua xót dâng trào”. Vì ở con người trẻ tuổi đầy tham vọng này “đã
nhận thấy rất rõ sự cao thượng trong trắng của những tâm hồn bị chôn vùi trong sự cô đơn, chàng
cũng đã biết được những vất vả mà chàng gây ra cho hai em gái của mình, cũng như những niềm vui
của họ do chàng đưa tới; với niềm vui sướng họ sẽ kín đáo trao đổi với nhau về ông anh yêu quý”.
Những giọt nước mắt chan hòa ấy phát hiện “trái tim của những cô em gái như những viên kim cương
của sự thuần khiết”. Chàng cảm thấy mình xấu hổ và thật tồi tệ không xứng đáng với những tâm hồn
thanh cao thuần khiết đó. Với sự dằn vặt này chừng tỏ chàng vẫn chưa hoàn toàn mất nhân
cách “Chàng cảm thấy tâm can như bị một ngọn lửa thiêu đốt. Chàng muốn từ bỏ xã hội thượng lưu
mà chàng đang đeo đuổi, chàng không muốn nhận số tiền này nữa”. Một bên là những người thân yêu
với cuộc sống nghèo khổ và một bên là sự cám dỗ đầy xa hoa, lòng Rastignac giằng xé, đau đớn tột
cùng. Dù vậy, Rastignac không thể chống lại sự cám dỗ, tham vọng của chàng là tham vọng tột cùng.
Chàng tự nhủ với bản thân “ta sẽ thành công”. Dù biết số tiền đó là tất cả của gia đình, là mồ hôi nước
mắt của người thân nhưng tương lai của Rastignac hoàn toàn nằm trong khoản tiền cứu trợ này.
Để đạt được mục đích, Rastignac yêu lần lượt hai con gái lão Goriot. Nhưng thứ tình yêu mà Rastignac
dành cho Anastasie là thứ tình yêu choáng ngợp của sắc đẹp và giàu sang. Nhưng đối với Delphine lại
là tình yêu nam nữ. Chàng bị hút hồn trước sắc đẹp kiều diễm của bà nam tước “Khi nhìn thấy bà, lúc
đi vào tôi đã cảm thấy bị hút về phía bà như thể như lực hút của một khối nam châm. Tôi đã nghĩ thật
nhiều về bà nhưng tôi không nghĩ bà đẹp đến thế này”. Bà nam tước Nucingen sẽ là người giúp chàng
hoàn thành tham vọng. Mặc dù khi đến với Delphine, Rastignac mang một ý định vụ lợi nhưng dần dần
tiếp xúc với nàng, Rastignac thật sự đã yêu. Đối với Delphine thì Rastignac cũng chỉ là kẻ làm cho
miệng mỉm cười khi buồn và lòng ấm lên mỗi khi trống vắng. Nhưng cuối cùng nàng cũng bị chàng
sinh viên nghèo chinh phục. Chiếm được lòng của một phụ nữ quý tộc xinh đẹp và quý phái, đối với
Rastignac đây là bước thành công đầu tiên của cuộc đời chàng. Cả hai người đều cảm thấy hạnh phúc
và muốn xây dựng hạnh phúc tương lai. Nếu như không chứng kiến cái chết của lão Goriot thì có lẽ
Rastignac và Delphine sẽ có một mái ấm gia đình tuyệt vời và Rastignac cũng không tha hóa nhân
cách.
Tính cách của Rastignac có sự giằng xé, mâu thuẫn. Trước việc làm của Anastasie, Rastignac lên tiếng
oán trách việc bà bá tước “cầm cố cả cái chết của cha”. Và hôm nay chàng cũng giống bà bá tước,
cũng “bóc lột” tiền cha mẹ “Mi có quyền gì nguyền rủa Anastasie… Mi với Anastasie ai hơn ai?”. Dù
nhận thức được việc làm đó nhưng chàng không thể cưỡng lại tham vọng. Thậm chí khi Delphine
không có ý định đến thăm bố vì nghĩ ông lão giả bệnh. Rastignac cũng không hề lên tiếng la mắng chỉ
trích “Chàng đoán trước một cách mơ hồ rằng nàng có thể bỏ mặc cha mình để đi vũ hội và chàng
không có đủ khả năng để trở thành một người giảng giải lẽ phải trái, cũng không có lòng can đảm để
làm mất lòng nàng: “Nàng không bao giờ tha thứ cho mình vì đã lấy lí do chống lại nàng trong hoàn
cảnh này”. Rastignac tự lừa dối bản thân và tìm mọi cách biện hộ cho người yêu bé bỏng “Nàng không
biết tình trạng bây giờ của cha mình, nếu nàng đến thăm lão, lão lại sẽ đuổi nàng đến buổi lễ
hội”. Rastignac đang yêu nên rất sợ làm phật lòng người yêu. Điều này cũng thật thông cảm với
chàng.  Chàng sợ làm phật ý “người phụ nữ làm hỗn loạn cuộc sống của chàng, đã làm mờ đi gia đình,
đã tịch thu tất cả để mưu cầu sung sướng cho họ”. Tình yêu của hai người xuất phát từ dục vọng
thường thấy trong tình yêu “Rastignac và Delphine gặp nhau trong những điều kiện nhất định để gây
cho nhau thấy niềm thích thú nhất. Niềm đam mê được chuẩn bị rất tốt của họ đã lớn dần lên do một
cái nó giết chết mối tình say đắm, đó là khoái lạc”. Tình yêu của hai người lúc này không phải dựa trên
quan hệ mua bán, bởi ở đó có những cung bậc khác nhau của tình yêu.
Giữa lão Goriot và Rastignac có mối quan hệ khắng khít với nhau. Đối với Rastignac, lão Goriot là chiếc
cầu nối gần nhất để chàng đến với Delphine. Ngược lại, đối với lão Goriot thì chàng sinh viên là người
duy nhất có thể đem Delphine đến với lão. Tình yêu của Rastignac đã làm Delphine dần dần thức tỉnh
và nhận ra những hành động sai trái của mình đối với cha. Mặc dù đó chỉ là sự vô tình gây ra cho ông
lão. Nếu các con làm lão buồn thì Rastignac lại là người mang đến niềm cho lão. Niềm vui mà chàng
sinh viên mang đến cho ông lão không phải những điều gì lớn lao, phi thường mà chỉ đơn giản là kể
cho lão nghe những việc về hai con gái. Họ đi đâu, nói những gì, làm những gì và vẫn khỏe mạnh… chỉ
đơn giản thế. Nói dối người khác là điều không tốt nhưng có lúc lời nói dối không hề có tội nếu nó
không hại ai và ngược lại còn đem đến niềm vui cho người khác thì đôi lúc chúng ta cũng cần phải nói
dối. Rastignac có lần đã nói dối lão Goriot vì chàng không muốn làm mất đi nụ cười của ông lão.
–         Lạy chúa ! Vậy thì cậu đã nghe con bé nói gì về tôi?
–         Chẳng có gì cả, Eugène tự nói với chính mình – Cô ấy nói với tôi, chàng trai cao giọng trả lời,
rằng cô ấy gửi tới ông một cái hôn thắm thiết.
Rastignac cũng mang những nét tính cách bình thường như bao người khác. Dù biết rằng Rastignac là
chàng thanh niên tốt bụng, có trái tim nhân hậu nhưng đôi lúc ở chàng vẫn có sự tính toán. Khi biết
lão Goriot là cha của Delphine thì Rastignac càng yêu thương, chăm sóc lão hơn. Vì lão là cha của
người tình và cũng là cha của người sẽ đưa chàng vào giới thượng lưu, quý tộc. Không một đồng xu
dính túi nhưng Rastignac cùng người bạn Bianchon chăm lo chạy chữa cho lão. Chàng còn cầm cố tất
cả tài sản mình có được để làm đám tang. Nói là tài sản chứ chàng sinh viên nghèo lấy đâu ra của
quý, chỉ có chiếc đồng hồ mà Delphine tặng “Cậu cầm lấy và mang đi cầm đi… tôi không còn một xu
nào cả”. Rastignac chôn cất lão Goriot trong một chiều ảm đạm và tuyệt vọng. Chàng chôn lão Goriot
và chôn luôn giọt nước mắt cuối cùng, chôn bao niềm thương niềm uất hận câm phẫn. Chàng khóc cho
lão Goriot và khóc cho chính mình. Để tang cho lão Goriot là cũng để tang cho chính mình. Đám tang
chôn vùi tất cả, lão Goriot, Rastignac, Anastasie và cả Delphine, tất cả bị chôn vùi dưới lớp đất kia. Sẽ
không còn một Rastignac của ngày nào mà chỉ có một Rastignac hoàn toàn mới, một Rastignac “thách
thức”  với xã hội Paris “bây giờ chỉ còn lại ta và ngươi”. Và hành động đầu tiên thách thức với xã hội đó
là “đến ăn tối ở nhà bà Nucingen”. Cụm từ “ta và ngươi” là từ dùng để chỉ hai người đang trong tư thế
quyết đấu, một chọi một. Vậy Rastignac sẽ làm thế nào để chiến đấu với xã hội, khi chàng không hề
có gì trong tay? Chẳng tiền bạc và địa vị. Đến lúc này, Rastignac mới thật sự thấm thía tường tận
những lời dạy của phu nhân Beauséant và Vautrin. Những lời dạy đó hoàn toàn đúng, chàng không
còn nghi ngờ hay phân vân suy nghĩ. Nói là thách thức nhưng thật ra đó là sự đầu hàng phục tùng xã
hội. Lời tuyên chiến của Rastignac là lời tuyên bố hòa mình vào xã hội đó. Hành động ăn tối ở nhà bà
giám đốc ngân hàng là hành động chứng minh Rastignac và xã hội cùng trận tuyến. Chàng đang đối
xử với xã hội theo đúng bản chất của nó. Rastignac sẽ thích nghi với hoàn cảnh và điều này dự báo
rằng chàng bước lên địa vị cao trong xã hội chỉ trong nay mai. Chính cái chết của lão Goriot và sự bạc
bẽo tình người “Hôm nay có đến sáu mươi người chết. Các người muốn chúng tôi phải thương hại
những người dân Paris đã chết ư? Lão Goriot đã chết rồi còn tốt cho lão ấy!… mười lăm người khách
trọ lại nói chuyện bình thường. Lúc mà Eugène và Bianchon ăn xong, tiếng động của thìa và đĩa, tiếng
cười đùa của các câu chuyện, những thái độ khác nhau của những kẻ háu ăn và vô tâm, sự vô tâm
của họ đã làm cho Bianchon và Eugène cảm thấy ghê sợ” làm cho Rastignac nhận ra được chân lí sống
còn: làm con người phải biết ác và tàn nhẫn. Càng độc ác, càng tàn nhẫn thì càng được xã hội nâng
niu. Có thể nói lão Goriot là người thầy thứ ba của Rastignac. Không trực tiếp dạy chàng cách bước
vào xã hội thượng lưu nhưng cuộc đời và cái chết của ông lão lại là những lời dạy đắt giá nhất.
Lão Goriot và Rastignac có cuộc đời hoàn toàn đối lập. Nếu Rastignac càng tiến lại gần môi trường mà
ban đầu mình phủ nhận thậm chí căm ghét và ghê tởm thì lão Goriot hoàn toàn ngược lại, ông lão
ngày càng tránh xa và cự tuyệt hẳn với nó bằng cái chết. Giữa hai nhân vật có sự nối tiếp. Bởi, khi tác
phẩm kết thúc cuộc đời lão Goriot khép lại, cuộc chinh phục xã hội thượng lưu của Rastignac mở ra.
Nếu lão Giriot được xem là giai đoạn đầu mới phất của chủ nghĩa tư bản thì Rastignac là giai đoạn sau,
khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến một bước vượt bậc nào đó. Lão Goriot – Rastignac là một cặp
đôi mà Balzac đã dụng công thể hiện nhằm phơi bày tất cả bộ mặt của xã hội tư bản mà giai cấp tư
sản đã và đang thắng tuyệt đối.
Bằng thủ pháp tái xuất hiện Balzac cho Rastignac xuất hiện đi xuất hiện lại trong hơn 20 tác phẩm. Từ
đó người đọc có thể thấy được toàn bộ sự phát triển tính cách của chàng trong sự tác động của hoàn
cảnh. Những nét tính cách rõ nhất cũng như giai đoạn thành công nhất của Rastignac thể hiện ở các
tác phẩm như “Bảo trợ tài sản”, “Nhà ngân hàng Nucingen”, “Đại biểu thành Acxi”. Chỉ trong khoảng
thời gian ngắn ngủi hai mươi năm từ năm 1819 đến năm 1939, từ một chàng sinh viên nghèo kiết xác
trở thành nhà ngân hàng rồi đại biểu Hội đồng cấp thành phố. Để được vinh quang này, Rastignac phải
đánh đổi hai mươi năm cuộc đời trai trẻ “Cậu sướng thật đấy! Cuối cùng cậu đã lấy được cô gái thừa
tự bậc triệu phú Nucingen, mà kể cũng đáng… Hai mươi năm khổ sai mà!”. Hai mươi năm Rastignac là
người thật đáng sợ. Dan díu với mẹ vợ, âm mưu đoạt gia tài. Trong “Vỡ mộng” Rastignac là nhân vật
phụ, chỉ xuất hiện qua lời kể của nhân vật. Lúc bấy giờ Rastignac trở thành một quý ông thật sự. Khi
ấy chàng được các quý bà bao quanh nâng niu, chiều chuộng. Điều này khiến Lucien phải ganh tị và
thèm khát được như thế. Hình ảnh Lucien làm cho Rastignac nhớ lại bóng dáng của mình ngày nào.
Vẫn là sinh viên nghèo với bao tham vọng cuồng nhiệt gia nhập vào thế giới thượng lưu. Dường như
thấy được điều này, Rastignac đã làm một việc bất ngờ. Rastignac bảo chị của Lucien hãy ngăn chặn
em trai mình khi Lucien chưa lún sâu vào vũng bùn nhơ. Chàng sợ sẽ có một Rastignac thứ hai, chàng
không muốn người đồng hương phải giẫm lên con đường như mình. Dù nhận ra được việc làm của
mình nhưng Rastignac không thể quay trở lại, không thể làm gì khác ngoài việc đi tới. Nếu dừng lại
Rastignac sẽ có kết cục giống như lão Goriot. Không bao lâu, khoảng năm 1826 đến năm 1836
ở “Ngân hàng Nucingen” Rastignac đã có cổ phần và cùng chồng nhân tình tham gia các việc mờ ám
dẫn đến phá sản. Đây là một trong những kế hoạch của Rastignac. Để đạt được mục đích và thành
công phải đạp người khác xuống làm giá đỡ nâng mình lên. Đến “Đại biểu thành Acxi” Rastignac xuất
hiện đậm nét nhất. Đây là giai đoạn thành công nhất của chàng. Rastignac đắc cử đại biểu trong
những vụ tranh cử năm 1939. Lúc này, Rastignac đã là bộ trưởng lần thứ hai và chàng được phong bá
tước gần như ngoài ý muốn. Bởi vì lúc ấy bố vợ Rastignac là nguyên lão nước Pháp. Và thế là
Rastignac không thể thiếu chân trong hàng ghế nội các. Điều này chứng tỏ con đường tiến thân của
Rastignac đang thênh thang mở rộng. Rastignac sẽ tiến xa hơn nữa, tiến xa ngoài dự định của mình.
 
@Tiểu kết
Đề tài về thanh niên tỉnh lẻ nhiều tham vọng được Balzac thể hiện rất nhiều trong “Tấn trò đời”.
Nhưng có lẽ hình tượng thành công nhất là chàng sinh viên De Rastignac. Những thanh niên
trong “Tấn trò đời” đa số thuộc lớp người trí thức sinh viên. Tuy không trực tiếp lãnh đạo xã hội nhưng
tầng lớp trí thức có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển xã hội. Thông qua hình tượng người trí
thức, Balzac muốn phơi bày hiện thực xã hội. Xã hội sẽ không thể phát triển, văn minh tiến bộ nếu
vẫn còn xuất hiện những trí thức có con đường lầm lạc như thế. Trong “Tấn trò đời” Balzac không hề
hô hào đấu tranh chống lại giai cấp tư sản mà chỉ phê phán giai cấp đó nhằm cải tạo xã hội. Balzac
cũng giống như Hugo muốn giai cấp tư sản ban bố tình thương cho những con người bất hạnh thấp
kém.
3.6 Kí họa một số nhân vật khác tiêu biểu cho hiện thực Paris lúc bấy giờ
              3.6.1 Bà Vauquer – một tiểu tư sản đầy tham vọng và ti tiện
Qua lời giới thiệu của tác giả, bà chủ quán trọ hiện lên với tất cả sự lố bịch và đáng buồn cười như một
bức tranh biếm họa “Bà góa xuất hiện với chiếc mũ nồi bằng vải tuyn kì cục trên một vòng tóc giả
không được chải chuốt tử tế, bà ta vừa đi vừa kéo lê đôi giầy nhăn nhúm. Gương mặt bà có vẻ già cũ,
béo tròn như hạt mít, ở giữa mọc lên một cái mũi khoằm giống như chiếc mỏ của con vẹt, đôi tay nhỏ
béo mũm mĩm, thân hình mập mạp như một con chuột trong nhà thờ, chiếc áo nịt ngực đầy ắp và
phập phồng; tất cả như hài hòa với căn phòng này, nơi sự bất hạnh đang rò rỉ và sự bóc lột đang ẩn
nấp, còn bà Vauquer thì hít thở mùi hôi thối một cách nhiệt tình và không cảm thấy buồn nôn”. Không
chỉ dừng lại ở đó, Balzac còn hình dung độc đáo về bà chủ này “Toàn bộ con người bà thể hiện tính
chất nhà trọ cũng như ngôi nhà trọ bao hàm hình ảnh con người bà. Địa ngục trần gian sẽ không ổn
nếu như không có cai ngục, bạn sẽ không thể nào tưởng tượng ra cảnh này mà không có thứ kia. Tình
trạng phì nộn và nhợt nhạt của người phụ nữ nhỏ bé đó là sản phẩm của cuộc sống này giống như
bệnh truyền nhiễm là hậu quả của mùi xú uế từ một bệnh viện”. Và “khi bà có mặt thì bức tranh ở đây
hoàn tất”. Dù là quán trọ tồi tàn nhưng bà Vauquer vẫn có cái ăn cái mặc, vẫn là người chủ đầy uy
quyền. Cũng như bao người khác bà vốn có nhiều tham vọng. Đó là tham vọng tiền tài vật chất tầm
thường. Thật ra chính bà cũng từng là nạn nhân của những tham vọng đó. Ở độ tuổi chừng 50 bà
Vauquer giống như tất cả những người phụ nữ đã từng đau khổ “Đôi mắt lờ đờ với vẻ vô hại của một
người môi giới sẽ phản khán quyết liệt để được trả giá cao hơn”. Có ai biết rằng người phụ nữ này đã
từng chịu nhiều bất hạnh. Bà có gia đình như bao người nhưng “ông ta đối xử với bà tồi tệ, chỉ để lại
cho bà đôi mắt dành để khóc,…bà hứng chịu tất cả những gì có thể chịu đựng được”. Dù hiện tại bà là
một mụ già ti tiện, hám tiền nhưng xét cho cùng bà vẫn là “người phụ nữ tốt bụng như những khách
trọ thường nói và bà chẳng có của nả gì khi nghe bà phàn nàn rên rỉ và ho giống như họ”.
Bà Vauquer đại diện cho bộ phận tiểu tư sản có tham vọng ngoi lên hàng ngũ tư sản. Cũng như người
phụ nữ khác, bà cũng có khát vọng tình yêu bình thường. Từ khi gặp lão Goriot, lòng bà “như đang bị
thiêu đốt, giống như một con gà bọc trong lá mỡ dưới làn lửa thiêu cháy, bởi lòng ham muốn rời bỏ
tấm vải liệm nhà Vauquer để tái sanh thành người nhà Goriot”. Bà góa chồng, lão Goriot góa vợ, họ
đến với nhau là việc bình thường. Để rồi, hàng ngày bà Vauquer lúc nào cũng gây sự chú ý cho lão
Goriot. Khao khát “trở thành một nhà quý tộc trong khu phố” cứ nung nấu tim gan bà. Lúc nào bà
cũng tự hào cho rằng “mình rất xứng đáng với người đàn ông ấy”.
Thế nhưng, bà Vauquer đặt tình cảm mình không đúng chỗ, đã đặt nhằm đối tượng. Lão Goriot vốn
chung thủy, từ ngày vợ mất lão đặt hết tình cảm vào hai đứa con gái của mình. Trước sự từ chối của
lão Goriot, bà Vauquer cũng chẳng hề trả thù hay một việc làm tội lỗi. Bà làm công việc mai mối, giới
thiệu lão Goriot cho bà bá tước vùng Ambermesnil 36 tuổi, cũng là góa phụ như bà. Thứ nhất, một
mặt nhờ bà bá tước này nói tốt về mình. Thứ hai, là để mong kiếm chác chút lợi nhuận hoa hồng. Việc
tính toán của bà giống như những người tiểu tư sản khác. Thế rồi, bà tử tước cũng bất lực trước
lão Goriot “Bạn thân mến, bà ta nói với mình, bạn sẽ chẳng kiếm chác được gì từ ông ta đâu, ông ta
thật là nực cười, đó là kẻ chẳng có chút tình cảm nào cả, thật tồi tệ, ngu ngốc, ông ta chỉ gây cho bạn
những phiền toái thôi”. Vậy là phi vụ của bà Vauquer thất bại thảm hại. Không chỉ thế, bà còn nhận cú
đòn đau đớn, khi “ngày hôm sau bà bá tước đi mà quên trả tiền sáu tháng trọ, và để lại một mớ quần
áo cũ đáng giá năm franc. Mặc dù đã cố gắng tìm kiếm nhưng bà Vauquer chẳng thể tìm thấy một
thông tin nào về bà bá tước Ambermesnil ở đất Paris cả”. Bà Vauquer tự làm cho bản thân mình phải
chịu thiệt chỉ vì thói tham lam, ti tiện “Có một vài kẻ có lẽ thấy không kiếm chác được gì ở những
người gần gũi thân thiết, lại bị người thân phê phán nghiêm khắc một cách đích đáng; những kẻ đó lại
cảm thấy thèm muốn khát khao những lời phỉnh nịnh cũng như họ thèm tỏ ra những đức tính không
phải của họ, cho nên họ hy vọng ăn trộm được lòng quý mến hoặc tình cảm của những người xa lạ
cho dù đến một ngày có bị mất nốt những tình cảm đó cũng cam lòng. Có những kẻ vốn đầu óc con
buôn chẳng làm điều gì tốt đẹp cho bạn bè người thân như trách nhiệm họ phải làm; trái lại họ giúp
đỡ những người xa lạ để nhận được cái lợi là sĩ diện! Thế là thành ra “xa thương gần thường!” Bà
Vauquer có được cả hai điều ấy: ti tiện, giảo trá, và khả ố”. Trong hoàn cảnh này bà Vauquer thật
đáng thương hại. Tham vọng của bà không đáng lên án vì bà chưa gây ra tội ác, mà chỉ có hành động
lầm lạc xuất phát từ bản chất ti tiện, tham lam. Chỉ có chi tiết bà ta tính toán với cả người chết là
đáng giận. Dù được Rastignac trả tiền ga trải giường dành để liệm lão Goriot nhưng bà ta lại bảo
Sylvie “Cô mang cất những tấm ga đó lại đi, lấy cái số 7. Vì chúa, nó vẫn còn khá tốt với người sắp
chết”.  Tại sao bà lại ti tiện đến thế? Điều này cũng bình thường và dễ hiểu. Lúc trước, còn yêu lão
Goriot và chưa bị lão từ chối thì bà xem trọng và dành cho lão một tình cảm đặc biệt nhưng sau khi
lão Goriot từ chối tình cảm thì bà chủ quán quay trở lại bóc lột người khách. Sự thay đổi về tính cách
của bà cũng bình thường như bao người trong xã hội.
@ Tiểu kết
Bằng ngòi bút tài tình của Balzac, bức chân dung mụ chủ quán hiện lên với tất cả đường nét và màu
sắc. Qua đó, làm cho người đọc có thái độ giễu cợt và xem thường bà, dù biết những phẩm chất của
bà tiêu biểu cho những loại người tiểu tư sản, nhỏ nhen, hám lợi, nhiều tham vọng.
3.6.2 Hai con gái lão Goriot – Nàng Rêgan và Gônơrin của thế kỉ XIX
Vẫn tiếp nối đề tài tình cha con của nhà soạn kịch Shakespeare nhưng Balzac có sự sáng tạo độc
đáo và vượt bậc. Anastasie và Delphine không độc và tàn nhẫn như hai nàng công chúa thời
Phục hưng, Rêgan và Gônơrin, mà ở họ là sự lầm lạc dẫn đến việc bỏ rơi người cha.
Hai nàng công chúa của thế kỉ XIX này cũng được Balzac dành cho một số tình cảm. Anastasie và
Delphine quen sống trong nhung lụa giàu sang có kẻ hầu người hạ, kẻ đưa người rước. Hai nàng luôn
là sự tự hào của lão Goriot. Để cho con gái mình mãi mãi hạnh phúc lão đã tìm cho các nàng những
chàng rể quý tộc xứng tầm. Theo lão cuộc sống giàu sang và địa vị của quý tộc là niềm hạnh phúc
nhất. Anastasie được “bá tước Restaud đưa cô rời khỏi nhà bố đẻ mình để bước chân lên những nấc
thang quyền lực”….  Delphine thì trở thành bà giám đốc ngân hàng. Như vậy đã thỏa chí nguyện của
lão Goriot. Thế nhưng, chính lúc lão bắt đầu say sưa tận hưởng hương vị của quý tộc thì gia đình lão
đang có nguy cơ rạn nứt. Trong xã hội Pháp lúc bấy giờ, giới quý tộc rất coi thường giai cấp tư sản.
Cần phân biệt rõ tư sản và quý tộc. Giai cấp quý tộc là giai cấp mẫu mực, là giai cấp tạo ra mọi giá trị
thẩm mĩ. Nói đến quý tộc là nói đến sự sang trọng. Giai cấp tư sản không tạo ra giá trị thẩm mĩ. Họ
chỉ có tiền. Chính vì thế những người quý tộc rất coi thường những người tư sản. Hai con rể lão Goriot
không hề xem lão ra gì. Dù không lên tiếng chửi mắng xua đuổi nhưng chúng có những thái độ không
thiện cảm và ưu ái với lão. Chúng cảm thấy ông lão chẳng ra gì, thấp hèn như chính giai cấp của lão.  
Anastasie và Delphine từ khi về nhà chồng cũng nhiễm đủ mùi quý tộc. Họ bất đầu ngại ngùng mất tự
nhiên khi có mặt cha trong phòng tiếp khách. Khi không có mặt người khác các cô mới gọi ông là bố
và yêu thương ông. Sự ra đi của lão là tất yếu. Hai cô con gái lão Goriot đã vô tình làm trái tim người
cha bị tổn thương. Họ ngại ngùng vì khi mình đi xe ngựa có huy hiệu còn lão thì chỉ đi xe ngựa thuê.
Cuộc sống quý tộc xa hoa biến Anastasie và Delphine thành quý tộc sa đọa. Họ tiêu sài hoang phí
thậm chí mắc nợ vì nhân tình bên ngoài. Cả hai cô không dám nói với chồng dù một lời và thay phiên
nhau đến khóc than với bố. Hai nàng cho rằng đến xin tiền bố là chuyện bình thường vì hai người chỉ
còn lão là người thân duy nhất. Thế nhưng hai cô không biết mình đang làm tổn thương ông bố. Con
xin tiền cha là chuyện bình thường trong xã hội. Balzac dùng ngòi bút của mình để ghi lại những
chuyện bình thường nhưng bên trong sự việc bình thường đó lại có sự vận động hủy diệt con người.
Anastasie và Delphine là trường hợp như vậy. Họ đã bị tư sản hóa nên dẫn đến những bi kịch tình cha
con. Cả hai đều do hoàn cảnh, cuộc sống lôi cuốn chứ không thật sự tàn nhẫn với bố.
Càng về cuối tác phẩm hai nàng dần dần nhận thấy việc làm của mình. Khi Delphine yêu Rastignac,
nàng mới thật sự nhận thức được việc làm của mình. Thì ra từ bấy lâu nay nàng sống trong nhung lụa
thì cha nàng lại phải đối diện với từng cái ăn, nàng cứ vô tư gây ra vết thương trong lòng ông lão. Để
rồi, Delphine chợt nhận ra chân lí “Tình cảm yêu thương của gia đình là bền chặt nhất. Gia đình luôn
mang đến những tình cảm yêu thương mặn mà”. Gia đình, người thân không bao giờ từ bỏ chúng ta,
dù chúng ta có lầm lỗi, có xấu xa, thậm chí bị xã hội tẩy chay căm ghét. Khi đó gia đình sẽ là nơi thân
yêu nhất bảo vệ chúng ta.
Lúc người cha hấp hối, trên sự thật là hai cô gái không đến. Thật ra hai nàng không đến là có lí do
riêng. Anastasie vì nhân tình Maxime thiếu nợ đến 12000 franc, bị chồng phát hiện và thế là không thể
đi thăm bố. Rastignac đến nhà bà tước Restaud thì thấy “bà ta đang nằm dài trên giường khóc sướt
mướt như thể không muốn sống nữa”. Bà bá tước bị cơn khủng hoảng trầm trọng, mắt sợ hãi nhìn
chồng. Bà nhờ Rastignac bày tỏ tình cảm và tấm lòng của mình đối với cha “Hãy nói với cha tôi rằng
nếu ông ấy biết được tình cảnh tôi bây giờ ông sẽ tha thứ cho tôi”. Bà bá tước không còn tự do đi
thăm cha. Khi hay tin “cha nàng không còn gì để có thể mua nỗi một tấm vải liệm mà ông sẽ mặc tối
nay” Delphine hoảng hốt “Tôi sẽ đến đó ngay, đến ngay”. Nhưng cũng tại những tên rể quý tộc của
lão, chúng tàn nhẫn đến tột cùng “Thưa cậu Eugène đã xảy ra một trận cãi vã kịch liệt giữa ông bà
chủ tôi vì số tiền mà người phụ nữ tội nghiệp ấy đã lấy cho cha mình. Bà chủ ngất đi…luôn miệng kêu
“cha tôi sẽ chết, tôi muốn gặp cha tôi. Đấy là những tiếng kêu thét xé lòng”. Cả hai nàng đều đã hối
hận nhận ra được những việc làm của mình nhưng chồng họ lại không cho phép. Họ là những tên quý
tộc độc ác, tàn nhẫn mất hết tính người.
Có lẽ tình cha con đã chiến thắng nỗi sợ hãi. Anastasie đã lén chồng đến quán trọ Vauquer nhưng đã
quá muộn “Bà bá tước bất ngờ xuất hiện đưa mắt nhìn cái giường của người chết, lờ mờ dưới ánh sáng
yếu ớt của một ngọn nến duy nhất và bật khóc khi nhận thấy trên khuôn mặt của cha bà vẫn còn
đọng lại những cảm giác run rẩy cuối cùng của sự sống”. Bên cạnh thi hài cha, bà bá tước khóc thảm
thiết và tự trách bản thân mình “Cha ơi! Tha thứ cho con. Cha đã bảo là tiếng nói của con có thể gọi
cha từ dưới mồ trở về được cơ mà! Cha sống lại đi, chỉ một lát thôi để cầu phúc cho đứa con gái đang
ăn năn hối lỗi của cha”. Bà tử tước thấy mình là đứa con bất hiếu và tồi tệ nhất vì “đã phản bội người
yêu tôi hết mực” đã “không quan tâm đến cha” và làm cho “cha chán ghét”. Trong khi tất cả mọi
người quay lưng với bà, nào là chồng và nhân tình thì chỉ có lão Goriot yêu thương bà “Tất cả mọi
người đều chán ghét con, chỉ có cha là yêu con”. Những lời đau đớn đó làm cho người nghe phải đau
xé lòng. Ăn năn, hối lỗi dường như đã quá muộn màng. Lão Goriot vẫn nằm yên trong lòng đáy sâu
kia với niềm uất ức. Nhưng thật lòng hai nàng đã hối hận và tự trách bản thân như thế là điều đáng
mừng. E rằng cả hai nàng cứ chạy theo những ảo tưởng phù hoa mà tăm tối không nhận ra lối về.
@Tiểu kết
Có lẽ khi gấp lại trang sách sẽ có rất nhiều người khinh bỉ Anastasie và Delphine. Khinh bỉ vì hai nàng
chỉ nghĩ đến cảm xúc của riêng mình mà chưa bao giờ nghĩ đến cha. Khinh bỉ vì họ vô tâm làm cho
ông lão phải chết trong sự cô quạnh. Thế nhưng, cũng sẽ có người thông cảm cho hai nàng. Những
hành động mà các nàng gây ra dù làm tổn thương người cha già nhưng đó không phải là sự cố ý của
một tính cách độc ác. Suy cho cùng cả hai nàng đều là nạn nhân của xã hội.
3.6.3 Vautrin – Tên tù vượt ngục “săn người” chuyên nghiệp
Nếu Rastignac, lão Goriot đại diện cho thế lực ánh sáng thì trong tác phẩm này Vautrin là đại diện của
thế lực bóng tối. Và chính nhân vật này có sự tác động mạnh mẽ đến cuộc đời của chàng sinh viên
Rastignac. Đồng thời Vautrin là một trong những nhân vật được Balzac tái xuất hiện ở các tác phẩm
khác trong Tấn trò đời. Đây là nhân vật có vai trò khá quan trọng trong việc xây dựng hình tượng
nhân vật Rastignac.
Trong tiểu thuyết, Vautrin là hàng xóm của Rastignac nơi quán trọ. Nơi đây hắn đã tiêm nhiễm vào
tâm trí của Rastignac bao điều đen tối. Hắn lên mặt vì là người từng trải, chỉ dẫn cho Rastignac mọi
thứ về xã hội thượng lưu với những triết thuyết mà hắn thu nhặt bằng kinh nghiệm. Thế nhưng những
vấn đề Vautrin dạy Rastignac không đẫm máu cũng là rơi nước mắt. Chính điều này đôi lúc làm
Rastignac căm ghét và xa lánh hắn. Nhưng nhiều lúc Rastignac cũng có chút lung lay trước những lời
lẽ của hắn.
Thật ra Vautrin là tên tù khổ sai đã vượt ngục. Đến với quán trọ Vauquer, hắn ta thay tên đổi họ và
che đậy cả về ngoại hình. Hắn là tên tù khét tiếng cầm đầu băng nhóm “mười nghìn tên cướp”. Đó là
tổ chức “của những tên trộm có đẳng cấp cao và của những kẻ chuyên hoạt động trên quy mô lớn”. Tổ
chức nguy hiểm này rất thông minh và vô cùng xảo nguyệt “Tổ chức này gồm toàn những tên kì cục
nhất trong số những tên trộm nguy hiểm. Bọn này nắm rõ luật nên chúng chẳng bao giờ bị kết án tử
hình khi bị bắt cả”. Tất cả mẹo cướp này do Collin – Vautrin – kẻ đào tẩu “luôn đem lại niềm tin về
những lời khuyên bảo quý giá cho bọn chúng”. Và thế là dưới sự cầm đầu của Collin băng nhóm
này “dùng tiền bạc và cả bản chất ranh mãnh của chúng để mở rộng thêm, gây tội ác tày trời và hoạt
động như kiểu nhà binh nhưng với mục đích xấu xa đầy hận thù với xã hội”. Chỉ cần tóm được “kẻ đào
tẩu” là bới tróc được gốc rễ cái mầm mống nguy hại này. Gã vượt ngục đó vẫn ung dung sống một
cách bình thường như bao người trong quán trọ. Hắn đổi tên thành Vautrin với bộ tóc hoàn toàn
khác “Bộ tóc của bác ta bám chặt gớm. À! Thì ra nó được dán keo, bác ta đeo tóc giả vì tóc thật của
bác đỏ quạch đây này”. Không chỉ ngoại hình mà tính cách hắn cũng không hề biểu lộ rõ một tay sát
nhân. Có thể nói, hắn ẩn nấp nơi quán trọ một mặt tránh tai mắt mật thám và mặt khác hắn như một
con sói đang nhe sẵn móng vuốt chờ đợi vồ lấy con mồi. Và món săn ngon nhất của hắn là Rastignac,
chàng sinh viên non nớt với bao tham vọng cuồng nhiệt.
Vautrin là kẻ biết lấy lòng mọi người, hầu như đa số mọi người trong quán trọ cảm thấy dễ chịu và yêu
thích đối với sự hào phóng của hắn. Tuy nhiên trong số đó vẫn có người không thích thậm chí muốn
tránh xa hắn, Rastignac là một trong số đó. Bởi ánh mắt hắn “dường như đi sâu vào tận cùng mọi vấn
đề, mọi ý thức và mọi tình cảm”. Hắn có một ánh mắt có thể làm người ta khiếp sợ nhưng đôi lúc làm
người đối diện cảm thấy thương yêu trìu mến. Đây là chiến thuật của một “kẻ đào tẩu đã từng khoác
chiếc áo một người ngay thẳng… từng giao du với giới tư sản Paris và ở trong một nhà trọ bình dân với
vẻ bề ngoài: Rất tử tế”.
Mọi người trong quán trọ không một ai biết rõ về hắn. Họ chỉ biết được loáng thoáng vài điều. Hắn là
một người đàn ông 40 tuổi được điểm tô bởi chòm râu má vẽ sơn. Một người được dân chúng nhận
xét “láu lỉnh nổi tiếng”. Vautrin có “đôi vai rộng, thân trên nở nang, các cơ bắp nổi rõ, đôi bàn tay dài,
vuông và nổi bật các ngón bởi những túm lông rậm rạp với một màu hung dữ dội”. Gương mặt hắn có
nhiều nếp nhăn, hiện lên “dấu hiệu của một sự khắc khổ trái ngược với phong cách mềm mỏng hòa
nhã của ông ta”. Qua cách miêu tả đó người đọc có thể hình dung ra một điều rằng: có lẽ Vautrin là
một kẻ từng trải qua nhiều đau đớn về thể xác. Thế nhưng hắn ta là người nhanh nhẹn và luôn tươi
cười. Điều này làm cho mọi người trong quán trọ rất thích. Họ càng nể phục người hàng xóm này với
tài hiểu biết rộng “Nếu như một ổ khóa nào đó bị hỏng, ông ta lập tức tháo nó ra, lắp ghép, tra dầu,
giũa, ráp lại, vừa làm vừa nói “Cái này tôi biết”. Vả chăng ông ta biết tất cả, những con tàu, biển cả,
nước Pháp, nước ngoài, các vụ làm ăn, những con người, những sự kiện, các luật lệ, dinh thự, nhà trọ
và cả nhà tù”. Ở con người đó hiện lên sự lạnh lùng khó hiểu. Vautrin là một tay lão luyện “Ông ta biết
hoặc đoán biết được công việc của những người ở xung quanh mình trong khi đó thì không gì có thể
xâm nhập vào ý nghĩ cũng như công việc của ông ta”. Gã Vautrin hiện lên là một tên không tốt lành.
Bản chất của Vautrin càng hiện rõ qua những lời hắn dạy Rastignac “Trước tiên cậu phải xơi hết cái bộ
Luật đã… cậu cứ việc cắn thằng trộm, bênh vực thằng giàu và chém đầu những người tốt”. Vautrin là
tay săn người chuyên nghiệp nhưng không có nghĩa gặp ai hắn cũng săn. Gã luôn có sự lựa chọn, tính
toán kĩ càng. Hắn ta chỉ săn những kẻ trí thức, thông minh, tử tế có khả năng thực hiện những phi vụ
lớn của hắn. Rastignac là miếng mồi béo bở đối với Vautrin. Vautrin là người từng trải qua cái thời của
Rastignac và đã từng có tham vọng như chàng sinh viên này nên việc thu phục Rastignac đối với tay
kinh nghiệm như hắn là chuyện không khó khăn. Hằng ngày Vautrin đều tung vào đầu của Rastignac
không phải cách làm giàu nhanh chóng thì cũng là con đường gần nhất để đi đến thành công. Vautrin
chỉ cho Rastignac thấy được toàn bộ xã hội Paris “Cậu quá trẻ để hiểu rõ Paris. Sau này cậu sẽ hiểu
được đây là nơi gặp gỡ của những con người đầy dục vọng”. Và Vautrin còn định nghĩa rõ ràng về loại
con người dục vọng “Những kẻ đó thường có một ý định nào đó nhưng lại không biết thực hiện nó như
thế nào. Họ chỉ khát một thứ nước duy nhất được lấy từ một nguồn nước nhất định mà thường lại là
nước tù đọng: Để uống được thứ nước đó, họ bán vợ bán con bán luôn cả tâm hồn họ cho quỷ dữ. Đối
với kẻ này thì nguồn nước đó là cờ bạc, là thị trường chứng khoán, là bộ sưu tập tranh hoặc côn trùng,
âm nhạc, còn với kẻ khác lại là một phụ nữ biết làm các kiểu loại bánh kẹo”. Những lời nói của Vautrin
rất chính xác với xã hội. Hắn ta có cách nhìn nhận xã hội tư sản thật sắc sảo. Hắn bất mãn với xã hội,
hắn căm phẫn với giới tư sản, quý tộc. Phải chăng Vautrin đã từng sinh ra, lớn lên và trưởng thành
trong chính xã hội đó. Bốn mươi năm Vautrin lăn lộn trong chiến lược làm giàu độc đáo “Để làm giàu,
vấn đề là phải đánh những quả lớn; nói một cách khác là lừa đảo. Nếu như trong hàng trăm nghề
muốn làm, ngươi gặp mười đàn ông chớp nhoáng trở nên giàu có thì cả mười tên đều bị công chúng
gọi là những tên kẻ cắp. Hãy rút ra bài học học cho mình đi, đời là vậy! Điều đó chẳng đẹp hơn gì cái
bếp bẩn bốc mùi, nếu đôi bàn tay có sự nhơ bẩn bởi sự ăn vụng thì phải biết rửa sạch khi xong việc.
Cái đó là một đạo lí trong thời kì hiện nay”. Nếu là một người tốt thì Vautrin sẽ không thốt lên những
lời như vậy. Hắn ta đang làm tê liệt đầu óc của chàng sinh viên nhằm mục đích lôi kéo chàng về phía
mình, làm tay sai cho những việc làm xấu xa. Vautrin đánh đòn tâm lí mạnh vào Rastignac vì hắn hiểu
rõ về chàng “Còn ngươi, ngươi có tham vọng, ngươi có gia đình nhà Beauséant làm đồng minh mà vẫn
phải đi bộ, ngươi muốn một gia sản kếch sù nhưng lại chẳng có lấy một xu. Ngươi thường ăn những
món ở quán này nhưng lại thích những buổi tối xa hoa ở Saint-Germain, ngươi ngủ trên chiếc giường
tồi tàn thế mà lại muốn có cả tòa nhà sang trọng. Cậu bé của tôi có quá nhiều tham vọng đấy nhưng
ta cũng hiểu được”. Đứng trước một người quá hiểu về mình như Vautrin, Rastignac có cảm giác khó
chịu. Làm sao không có cảm giác đó khi có kẻ nhìn thấu tim gan của mình. Thêm vào đó là những lời
lẽ không trong sáng làm cho chàng càng muốn tránh xa hắn. Thế nhưng, Rastignac đôi lúc bị ám ảnh
bởi những lời ma quái đó. Vì khi bước vào thế giới thượng lưu, chàng nhận thấy những lời dạy của
Vautrin không phải hoàn toàn sai. Nhưng lúc này chàng vẫn chưa hoàn toàn tha hóa, vẫn còn tình
người.
Không chỉ thế, tên tù khổ sai còn tiêm vào Rastignac những định nghĩa kì quái về xã hội  Paris, đó
là “một khu rừng của Tân thế giới, nơi trú ngụ của hai mươi loài của các bộ tộc hoang dã, người
Illinois, người Huons, sống nhờ vào các chiến lợi phẩm từ các cuộc chiến đấu với các bộ lạc khác, cậu
là một tay săn bạc triệu. Để lấy được nó, cậu sử dụng bẫy, ống sáo có lưỡi gà, còi nhử. Có nhiều cách
để săn: kẻ này săn của hồi môn, kẻ khác lại săn các loại hối phiếu có giá trị thanh toán; lại có kẻ câu
tư tưởng của người khác hoặc ngược lại tự bán những gì vốn có”. Và sau những cuộc săn đó “những kẻ
nào trở về với cái túi đầy tiền sẽ được xã hội thượng lưu chào mừng, cổ vũ và đón nhận”. Thông qua
lời nhận xét của Vautrin, Balzac đã phơi bày tất cả hiện thực của Paris thế kỉ XIX. Đó là xã hội “người
săn người”. Một xã hội hiện thực rất bình thường nhưng bên trong có sự vận động và biến đổi không
ngừng. Xã hội mà tiền tài vượt lên trên đạo đức, thẩm mĩ. Những nhà triệu phú bỉ ổi sẽ được “Paris
chìa tay đón nhận, sẽ ăn tối và cụng ly để chúc mừng những chiến công mà hắn đạt được”.
Dù Rastignac là con mồi của mình nhưng Vautrin rất khâm phục và dành một tình cảm đặc biệt cho
chàng. Có lẽ, đây là con mồi cừ khôi nhất, béo bở nhất mà từ trước đến nay hắn gặp. Một chàng trai
lịch lãm, có nhân cách, có chí hướng và tham vọng tột cùng. Thế nhưng, thứ tình cảm của Vautrin
không hề mang lại điều tốt đẹp cho Rastignac. Với lòng tốt mà hắn cho là đấng cứu tinh đã biến
Rastignac thành kẻ đồng phạm. Đây là bước đầu trong kế hoạch chinh phục của hắn ta “Tôi giống Don
Quichotte. Nếu Chúa bỗng nhiên mang đứa con trai duy nhất của lão ta thì lão Taillefer sẽ dành mọi
của cải cho đứa con gái… Victorine dịu dàng và tốt bụng… Cô ta có cảm tình với cậu và cậu sẽ lấy cô
ấy. Tôi, tôi sẽ đảm nhiệm vai trò của một thiên sứ, tôi sẽ mang đến những điều tốt lành của
Chúa”. Điều tốt lành của gã là dùng tay chân của mình – những người giống như Rastignac, từng là
đối tượng trong chuyến săn của hắn; tạo ra cuộc thách đấu với ý đồ đen tối. Trong chuyến săn đó để
đạt được con mồi, gã bất chấp tất cả, giết luôn cả anh trai cùng cha của Victorine “Frédéric đã đánh
nhau tay đôi, anh ta đã nhận được một nhát kiếm trên trán, các bác sĩ phải chịu bó tay về vết thương
đó”. Để được mục đích hắn không trừ một thủ đoạn. Mạng người mà Vautrin xem như cỏ rác, như một
con kiến. Dù không chính tay giết người nhưng hắn là tên chủ mưu đầu sỏ. Hắn không mang tội giết
người ngược lại còn được tiếng ông mai tốt. Điều hắn cho là tốt đẹp nhưng đối với người khác lại là
máu và nước mắt.
Người đọc có thể thấy Vautrin là người thầy thứ hai của Rastignac sau phu nhân Beauséant. Người
thầy luôn mong muốn Rastignac theo con đường tội lỗi. Bên cạnh sự xảo trá, quỷ quyệt, nham hiểm,
cáo già thì Vautrin vẫn có những nét tính cách gan dạ và cứng cỏi. Dù có điều kiện trốn nhưng hắn
không làm vậy, bởi “gã cho rằng làm vậy là hèn”. Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra. Tên tù khổ
sai hiện nguyên hình với bộ mặt dữ tợn “Với mái tóc cắt ngắn màu đỏ gạch cùng với tính cách dữ dội,
khiến đầu hắn trông có vẻ như nổi bật hẳn lên như ngọn đuốc được thắp sáng. Mọi người giờ mới hiểu
về quá khứ của ông ta, hiện tại của ông ta và cả tương lai của ông ta nữa”. Dù bị bắt nhưng Vautrin
không hề khiếp sợ “Tôi là Jacquers Collin, biệt danh kẻ đào tẩu, đã bị kết án hai mươi năm tù; và tôi
vừa nhận ra rằng tôi không xứng đáng với biệt danh của tôi”. Bị xiềng xích nhưng Vautrin vẫn không
quên Rastignac, vẫn dành cho chàng sự ưu ái “Trong trường hợp gặp bất hạnh, hãy nói với tôi điều đó.
Người hoặc tiền, tôi có thể bố trí được tất cả”.  Đây là sự thỏa hiệp, gieo kèo sau khi hai bên đã thương
lượng và đồng ý. Dù Rastignac không nói nhưng phải chăng chàng đã ngầm thỏa hiệp với Vautrin. Qua
cách nói của Vautrin, người đọc có thể nhận thấy hắn ta là tên tù khổ sai tài ba và ghê sợ.
Từ hình tượng tù khổ sai Vautrin, chúng ta có thể liên tưởng đến ngay Jean Valjean trong “Những
người khốn khổ” của Hugo. Cả hai đều là tù khổ sai vượt ngục. Nhưng nếu Jean Valjean được mọi
người yêu quý thì Vautrin là kẻ bị mọi người căm ghét. Giữa hai người này có sự khác biệt về tính
cách. Một người đại diện cho tình thương, lương thiện; một người tiêu biểu cho hạng người xấu xa, độc
ác. Sau những hành hạ dã man tàn khốc của chế độ nhà tù, Jean Valjean vẫn là người hiền lành tốt
bụng. Còn Vautrin thì ngược lại, y ta trả thù đời. Thiết nghĩ, đây là vấn đề phân biệt được lãng mạn và
hiện thực. Hugo là nhà lãng mạn nên hình tượng của ông mang màu sắc lãng mạn, tốt đẹp từ đầu đến
cuối. Còn Balzac là nhà văn hiện thực, nên ông luôn tuân thủ quy luật của hiện thực. Vautrin từ tù khổ
sai trở về vẫn độc ác và tàn nhẫn. Thậm chí mức độ càng tăng. Hình tượng này làm ta nhớ đến Chí
Phèo của Nam Cao. Vẫn là nạn nhân của chế độ nhà tù khắc nghiệt.
@Tiểu kết
Như Rastignac, Vautrin cũng là nhân vật tái xuất hiện. Nhân vật này đeo đẳng Rastignac đến khi
chàng sinh viên này thành tay sai của hắn. Và không chỉ dừng lại ở đó, hắn ta còn săn tiếp những
chàng thanh niên tỉnh lẻ đầy tham vọng như Rastignac. Đó là Lucien trong “Vỡ mộng”, Vautrin xuất
hiện dưới áo khoác của một vị linh mục. Tóm lại qua ngòi bút của Balzac, Vautrin hiện lên khá sinh
động, từ ngoại hình đến tính cách nhân vật đều hiện lên rất chân thực và sống động. Vautrin là sản
phẩm hoàn hảo của xã hội tư sản, là hiện thân của những kẻ láu lỉnh và cơ hội, những kẻ xuất hiện
đầy trong xã hội Pháp thế kỉ XIX.
Balzac và Hugo là những nhà phản biện mạnh mẽ đối với chủ nghĩa tư bản phương Tây thế kỉ XIX. Và
đến thế kỉ XX, giai cấp tư sản đã dần dần tiếp thu. Tức là họ đang khắc phục những nhược điểm của
xã hội tư sản, họ đang cố gắng thay đổi và cải thiện mình.
   3.6.4 Giới thượng lưu, quý tộc
Nếu quán trọ Vauquer nghèo nàn đến khiếp sợ thì những dinh thự của giới thượng lưu quý tộc sang
trọng và rực rỡ đến choáng ngợp “Cánh cửa kính được mở ra và chàng trông thấy bọn gia nhân
nghiêm trang như những con lừa đang được chải lông… những nét huyền diệu và thanh lịch của ngôi
nhà mà nó phản ánh linh hồn và phong thái của những người đàn bà quý tộc”. Đó là những choáng
ngợp đầu tiên của Rastignac đến dinh thự bà Beauséant. Không chỉ thế, Rastignac còn đi trên “chiếc
cầu thang lớn trang trí đầy hoa, tay vịn bóng loáng, nền trải thảm đỏ dẫn tới phòng bà phu nhân
Beauséant”. Cuộc sống nơi đây như một cung cấm của các bậc vua chúa. Bà tử tước này có mối quan
hệ tình cảm với quý ông giàu có và nổi tiếng Bồ Đào Nha, ngài hầu tước Ajuda Pinto. Đối với bà tử
tước đây là mối tình trong trắng và gắn bó sâu sắc, không hề chấp nhận kẻ thứ ba. Thật ra bà có gia
đình hẳn hoi nhưng nó không hạnh phúc. Chồng bà là một “kẻ chán ngắt không còn niềm vui nào khác
hơn là những thú vui rẻ tiền; thực ra ông là một tên phát xít của đế chế Louis 18 và của công tước
Escars”.
Người phụ nữ thượng lưu này là người đỡ đầu, người thầy đầu tiên của Rastignac. Bà là quý tộc có tình
người, biết căm phẫn trước những việc làm không tốt. Bà tử tước từng lên tiếng khinh bỉ việc làm của
Anastasie và Delphine và ghê tởm cả xã hội “Con người thật bẩn thỉu”, “thế gian này là một vũng bùn,
chúng ta hãy cố gắng giữ lại những gì gọi là thanh tao”. Biết nhìn nhận cái xấu phê phán cái xấu bà
Beauséant hiện lên với vẻ “đẹp” khó tả “Lúc này, bà thật đẹp, bà bạn thân mến của tôi ạ. Bà có những
sắc thái đẹp nhất mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy”. Đẹp ở đây có ý nghĩa cao hơn sự nhìn thấy. Đó là vẻ
đẹp ẩn sâu bên trong tâm hồn của bà. Đối với Rastignac bà tử tước luôn có thái độ hòa nhã gần gũi và
hết lòng giúp đỡ “Bà Beauséant nhìn chàng sinh viên với ánh mắt chứa chan tình cảm chỉ có ở những
tâm hồn cao thượng’’.
Dù ở hai đẳng cấp khác nhau nhưng phu nhân Beauséant và Vautrin lại có cùng một cách nhìn về xã
hội Paris “Cậu Rastignac hãy đối xử với đời này đúng với bản chất
  của nó”. Đó là xã hội mà “cậu sẽ nhìn thấy sự hư hỏng của người đàn bà nó sâu đến mức nào. Rồi
cậu sẽ cảm thấy khinh bỉ đến độ nào trước tính sĩ diện kiêu căng đến khốn khổ của bọn đàn ông”. Cái
xã hội mà bấy lâu bà vẫn thơ ngây cho là nó tốt đẹp nhưng đến giờ phút này bà tử tước đã nhận ra
được bộ mặt thật sự của nó. Để rồi, bà thốt lên đau đớn “Bây giờ thì tôi biết tất cả”.  Bà tử tước dạy
cho chàng sinh viên chiến thuật để đứng vững trong giới thượng lưu và cả xã hội Pháp: phải tính toán
lạnh lùng và “càng tính toán lạnh lùng, cậu sẽ càng đến đích trước. Đánh không thương tiếc, cậu sẽ
được thiên hạ sợ. Chỉ chấp nhận những người đàn ông và những người đàn bà như những con ngựa
đưa thư mà cậu sẽ để mặc cho nó mệt lử qua mỗi trạm nghĩ tiếp sức thôi, cậu sẽ đến đỉnh cao của
dục vọng”. Qua lời dạy của bà tử tước, chứng tỏ bà cũng từng là nạn nhân của xã hội, là nạn nhân của
những con người mà bà đặt tất cả niềm yêu thương và tin cậy. Bà tử tước học được bài học đau đớn
và san sẻ cùng Rastignac “Nhưng nếu cậu có tình cảm thật sự, hãy giấu nó đi như một tài sản, đừng
bao giờ để tài sản đó bị nghi ngờ, anh bạn sẽ mất tất cả đấy. Cậu sẽ không còn là kẻ tàn nhẫn nữa
nếu cậu trở thành nạn nhân” và “nếu cậu chưa bao giờ yêu hãy giữ lại thành bí mật của mình, đừng
giao nó trước khi biết rõ về người mà cậu muốn mở cửa trái tim mình”. Bài học đường đời đau đớn về
tình cảm đã làm cho con tim bà tử tước chai sạn. Người bà đặt hết niềm hy vọng yêu thương lại tàn
nhẫn ruồng bỏ bà “Ông Ajuda sắp lấy vợ. Ông sẽ lấy cô Rochefide”. Dù đau đớn nhưng phu nhân
Beauséant vẫn giữ nét mặt thanh cao, không hề tàn tạ vì đau khổ “Bà có vẻ bình tĩnh và không biểu
hiện niềm vui giả dối. Không ai có thể đọc được tâm hồn bà ta… Nụ cười của bà với những người bạn
thân thiết đôi khi có vẻ chế nhạo và bản thân bà, vẫn phong độ như hồi bà ta đang sống trong hạnh
phúc thắm tươi, những cử chỉ của bà đã làm cho những người vốn vô cảm nhất cũng phải ngưỡng mộ
bà, cũng như đám thiếu nữ Roma tán thưởng đấu sĩ người biết cười trong khi đang hấp hối”. Xã hội
thượng lưu thật phức tạp, nó không phù hợp cho những người giàu tình cảm. Cuối cùng bà tử tước đầu
hàng trước xã hội và quyết định ra đi “Tôi sẽ không bao giờ còn nhìn thấy Paris và cái thế giới này
nữa. Năm giờ sáng mai, tôi sẽ ra đi để sống ẩn dật ở tận cùng của vùng Normandie”. Người phụ nữ
này bề ngoài tỏ ra cứng rắn của một quý tộc không dễ khuất phục nhưng bên trong cũng yếu mềm
như bao người phụ nữ khác. Bà cũng khát khao yêu thương và cũng cần một vòng tay ấm áp nhưng
tất cả chỉ là giả dối để lại trong lòng bà niềm đau đớn đến “không một lời thốt ra được”. Với sự ra đi
của bà tử tước, Balzac đã chứng minh cho một quy luật của xã hội không thể chối cãi “Điều đó đã
chứng tỏ rằng những người ở tầng lớp cao quý nhất cũng không nằm ngoài quy luật của trái tim và
cuộc sống của họ không phải là không có những điều phiền muộn như một vài kẻ mị dân muốn làm
cho mình tưởng như vậy”.
Trong tác phẩm, Balzac nhắc đến nhiều cái tên quý tộc nhưng họ chỉ xuất hiện với vai trò tên gọi
không mang tính cách và hành động. Bên cạnh bà tử tước Beauséant, Balzac còn tập trung thể hiện
hai gã quý tộc tàn nhẫn và độc ác, Nam tước Restaud và nhà ngân hàng Nucingen. Hay quý ông này
bạc bẽo tình người đến đáng sợ, khinh rẻ bố vợ, gian dối, xảo trá trong kinh doanh“Hắn đang đóng
kịch đấy! Cha đã từng gặp người Đức trong kinh doanh, hầu hết họ là những người có thiện tâm thật
thà, nhưng đó là cái cần thiết. Họ lại trở nên quỷ quyệt và bịp bợm ngay… Chồng con đang lợi dụng
con”. Đây là lời của Delphine khi nhận ra bộ mặt thật sự của người chồng quý tộc. Thậm chí “hắn vừa
gian xảo, vừa bất nghĩa; hắn là một kẻ tồi tệ”. Không chỉ nhà ngân hàng Nucingen tồi tệ mà cả ngài
Nam tước Restaud cũng hèn hạ không kém. Cả hai là kẻ bất nghĩa với bố vợ. Họ tàn nhẫn không cho
vợ mình đến gặp cha lần cuối. Gã quý tộc Restaud lạnh lùng trả lời Rastignac khi chàng đến thông báo
lão Goriot đang hấp hối “Cậu cũng đã thấy đấy, tôi cũng cố gắng để yêu quý ông ấy nhưng ông ấy đã
làm loạn tính nết của vợ tôi, gây tai họa cho đời tôi, tôi coi ông ấy là kẻ thù của sự yên vui trong gia
đình mình. Cho nên, ông ta sống hay chết tôi không hề quan tâm… Còn bà Restaud, bà ấy không thể
ra ngoài”. Đến lúc cuối lão Goriot đã nhận ra chính những đứa con rể quý là “kẻ độc ác, nó làm hư
hỏng con gái ta…thật khủng khiếp, ta căm thù chúng: Chính những thằng con rể đã ngăn cấm các con
ta đến thăm ta”.
@Tiểu kết
Chỉ vài nhân vật mà Balzac có thể phát họa một cách đầy đủ và sắc sảo về giới thượng lưu quý tộc.
Thế giới này vốn rất phức tạp và để gia nhập vào nó phải có những chiến thuật hẳn hoi. Và những
chiến thuật đó được chàng sinh viên Rastignac lĩnh hội sâu sắc thông qua người thầy đáng kính của
mình – phu nhân Beauséant.
3.6.5 Những số phận con người lầm lũi bất hạnh trong quán trọ Vauquer
Quán trọ Vauquer vốn là nơi tập hợp tất cả mọi loại người. Có thể nói là hỗn tạp. Nổi bật lên trong
quán trọ là số phận những con người thấp bé sống lầm lũi không hoài bão, khát vọng.
Đó là Victorine đáng thương, gã Poiret, cô gái già Michonneau, chị đầu bếp Sylvie, Christophe… Những
con người này có đặc điểm chung là nghèo hèn. Victorine là một cô gái hiền lành tốt bụng nhưng lại
chịu nhiều bất hạnh “Một cô gái trắng trẻo ốm yếu, giống như nước da của các cô gái bị bệnh xanh
xao, và dù cô hòa mình với sự đau đớn, nó làm nền cho bức tranh này bởi một nỗi buồn quen thuộc,
bởi một phong cách e ấp, ngượng ngùng, bởi một vẻ nghèo túng và yếu đuối thì gương mặt cô cũng
không cằn cỗi, các cử chỉ và giọng nói của cô vẫn còn nhanh nhẹn, hoạt bát”. Nàng giống như “một
cây con đã có lá vàng, mới bị trồng trong một mảnh đất không phù hợp”. Trời phú cho Victorine một
vẻ đẹp thuần khiết giản dị “sắc diện của cô ửng đỏ, mái tóc màu vàng hung, dáng người quá mảnh
mai, thể hiện sự duyên dáng mà các nhà thơ hiện đại tìm thấy trên các bức tượng nhỏ thời trung
cổ”. Qua ngòi bút của mình, Balzac vẽ nên chân dung tuyệt đẹp về người con gái ngoan đạo “Đôi mắt
màu xám đen biểu hiện một sự dịu dàng, sự ngoan đạo của một tín đồ Cơ Đốc giáo”. Tóm lại,
Victorine có vẻ đẹp thuần khiết và trong sáng. Cuộc đời của nàng có thể viết thành một cuốn sách.
Đáng lẽ nàng có cuộc sống giàu sang, phú quý nhưng người cha tàn nhẫn không thừa nhận cô,
chỉ “cho cô sáu trăm franc mỗi năm và sẽ làm thay đổi số tài sản của cô để chuyển toàn bộ sang cho
con trai của ông ta”. Victorine là đứa con rơi mà gã tỷ phú Taillefer không thừa nhận. Trước sự tàn
nhẫn của bố, Victorine không hề căm hận. Đối với nàng lão ta vẫn là người cha đáng kính. Nàng là cô
gái có tấm lòng lương thiện “Cô yêu mến cha mình, cô hàng năm tìm đến nhà ông ta để đem lời xin lỗi
của người mẹ mà cánh cổng ngôi nhà ấy không bao giờ mở ra”. Nàng không phải vì số tiền tài sản của
bố mà yêu thương ông, cầu phúc cho ông mà đó là sự xuất phát từ tình cảm chân thành tuyệt đối.
Cuộc đời của Victorine tưởng chừng như vô vị và nhạt nhẽo nhưng bỗng lóe sáng lên tình yêu với
Rastignac “Victorine nghĩ rằng mình đang được nghe lời nói của một thiên thần, thiên đường đang mở
ra trước mắt cô, ngôi nhà trọ của bà Vauquer nhuốm đầy những sắc màu kỳ diệu như trong những
bức họa trên sân khấu vậy: cô đang yêu và cô được yêu  !”. Victorine ngây thơ dành tất cả tình yêu
cho chàng sinh viên. Rastignac thấu hiểu được nhưng tình yêu tất cả chàng đã dành cho Delphine, có
chăng đối với Victorine chỉ là tình cảm anh em đáng tôn trọng.
Victorine lương thiện không mừng vui khi sắp được tài sản của cha mà cô đau đớn, khóc thương cho
người anh trai từng đối xử tệ với mình “Victorine hai mắt đẫm lệ, nhìn Eugène như muốn nói: Tôi
không tin là niềm hạnh phúc của chúng ta lại có những giọt nước mắt”. Bởi đối với nàng hạnh phúc
mình sắp có được là do sự đánh đổi mạng sống của anh trai “Nếu anh trai con cần phải chết để cho
con được hạnh phúc thì con thà cứ mãi ở đây”. Cuối cùng người lương thiện cũng được đền đáp “Ông
Taillefer đã nhận Victorine và đồng ý để bà Coutere ở cùng”.
Có thể nói Victorine là một hạt giống thanh cao thánh thiện hiếm hoi mà Balzac đã gửi gấm vào tác
phẩm. Nàng có trái tim nhân hậu luôn ban phát tình yêu thương cho mọi người. Làm cho mọi người
vẫn còn niềm tin và nhận thấy đời vẫn tươi đẹp và đáng sống.
Poiret và Michonneau là hai nhân vật mờ nhạt trong tác phẩm. Ở hai người, có cái gì đó bí ẩn, mà mọi
người xung quanh không thể khám phá hay đúng hơn mọi người chẳng thèm tìm hiểu. Cô gái già
Michonneau có đôi mắt mệt mỏi. Ở bà hiện lên sự chua chát khổ não “Chiếc khăn san của cô với
những viền nhỏ và có hình giọt lệ giống như phủ lên một bộ xương, những gì mà nó che giấu được
đều có hình dạng rất xương xẩu. Sự chua chát nào đã chi phối việc tạo ra những đường nét phụ nữ
của cô?”. Phải chăng người phụ nữ này “đã từng quá yêu, đã từng là người bán phấn buôn son hay chỉ
là một cô gái đĩ?”. Đây là những giả thuyết về quá khứ của cô gái già. Nhưng điều chắc chắn rằng
người phụ nữ này đã hứng chịu bao điều đau khổ “Ánh mắt nhìn của cô trắng dã lạnh lẽo, gương mặt
cằn cỗi đe dọa”. Bởi bà đã từng chăm sóc một ông già bị chứng chảy nước mũi, được ông ta đền đáp
khoản tiền nhưng lại bị giành giật bởi những đứa con bất hiếu của lão.
Về phía Poiret, ông là “loại người kỳ cục” bí ẩn không kém. Người đàn ông này “giống như là một con
lừa ở cối xay gió công cộng của chúng ta, một trong những con chuột Paris”. Cả hai người này luôn tạo
cho mọi người xung quanh những cảm giác xa lạ khó gần. Cũng giống như những người khác, cả hai
cũng cần tiền và tham tiền. Chính Michonneau và Poiret hợp tác cùng kẻ mật thám lật tẩy tên tù khổ
sai Vautrin – người hàng xóm, để nhận thù lao 3000 franc. Và rồi, hai người phải lầm lũi ra đi, rời khỏi
quán trọ với cái tên “kẻ tố giác”.
Bên cạnh đó vẫn có chị đầu bếp to béo Sylvie, cậu làm công Christophe. Tất cả đều hiện lên ảm đạm
không tương lai hy vọng. Họ cứ lầm lũi sống cuộc đời tù túng, nghèo hèn.
@Tiểu kết
Bức tranh xã hội Paris sẽ không hoàn chỉnh nếu thiếu vắng những khuôn mặt của họ. Chính họ đã làm
cho bức tranh thêm sinh động và đầy đủ đường nét. Họ là những con người bất hạnh, là nạn nhân của
xã hội. Cuộc đời của họ rồi sẽ ra sao và đi về đâu ? Đó là câu hỏi mà Balzac luôn trăn trở và đi tìm câu
trả lời.
  III. KẾT LUẬN
“Tấn trò đời”, bộ tiểu thuyết được xem là vĩ đại nhất trong trào lưu văn học hiện thực chủ nghĩa. Qua
bộ tiểu thuyết, Balzac thể hiện tài năng nghệ thuật độc đáo. Đó là khả năng đi sâu vào phản ánh hiện
thực. Từ cốt truyện đến các nhân vật Balzac không bỏ sót chi tiết hiện thực nào. Những chi tiết đó
bình thường nhưng bên trong lại diễn ra sự biến đổi không bình thường. Balzac thật xứng với danh
hiệu nhà hiện thực tài ba.
Nhà nghiên cứu văn học Pháp Jean Fréville đã từng nói “Balzac đã mô tả xã hội tư sản bằng một bức
tranh hết sức tỉ mỉ, hết sức chân thực, hết sức quyết liệt đến nỗi nó mang lời kết án và người chứng
kiến trở thành quan tòa” [41]. “Tấn trò đời” là lời kết án đó. Balzac đã mổ xẻ và phơi bày mọi góc
cạnh của hiện thực đời sống. Tiểu thuyết “Lão Goriot” được xem là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực.
Ở tiểu thuyết này Balzac đi sâu vào khai thác các mối quan hệ gia đình và tham vọng cuồng nhiệt của
thanh niên trí thức. Tuy vấn đề không phải mới mẻ nhưng nó được ngòi bút Balzac thể hiện một cách
độc đáo. Độc đáo ở khả năng quan sát, miêu tả và tái hiện lại cuộc sống. Bi kịch tan vỡ gia đình của
lão Goriot đã chứng minh cho một chân lí: Hạnh phúc gia đình không phải là những thứ cao sang
quyền quý phù phiếm. Bởi tiền tài và danh vọng không mang đến hạnh phúc thật sự cho con người.
Nó chỉ mang đến cho chúng ta những thứ hạnh phúc rẻ tiền và giả dối. Hạnh phúc là cái gì đó rất bình
thường và đơn giản. Nó ở ngay trước mắt mọi người. Nó có thể là một cái hôn ấm áp, một sự quan
tâm chân thành hay đơn giản là một lời chúc tốt đẹp… Ấy vậy mà đã không ít người cố vươn xa để tìm
hạnh phúc. Để rồi, bản thân phải trả giá xứng đáng cho hành động tìm kiếm hạnh phúc đó. Lão Goriot
là một ví dụ. Khát vọng là điều chính đáng của con người nhưng phải xem con đường thực hiện khát
vọng đó như thế nào. Nếu để thực hiện khát vọng đó con người phải đánh đổi tất cả thì đó không còn
là khát vọng chân chính mà là tham vọng điên cuồng. Đó là chàng Rastignac.
Có thể nói, đỉnh cao trong tiểu thuyết hiện thực nói chung và tiểu thuyết “Lão Goriot” nói riêng là xây
dựng thành công những điển hình nghệ thuật. Tức là xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh
điển hình. Không phải Balzac viết tác phẩm này sau khi đã có những lí thuyết hoàn chỉnh về “điển
hình hóa”. Mà đó là cả một quá trình tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo của Balzac. Đồng thời qua tác
phẩm của mình, Balzac cũng thể hiện được mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Hay nói một
cách khác là vấn đề “cái thật trong nghệ thuật”. Nói về vấn đề này, trong “Những bức thư về văn
học”, ông nói “Tôi không ngừng nhắc lại rằng cái thật của tự nhiên không thể, sẽ không bao giờ cái cái
thật của nghệ thuật; nếu nghệ thuật và tự nhiên gặp nhau đúng hệt trong tác phẩm, thì là vì ở đấy tự
nhiên, mà những ngẫu nhiên thật vô kể, đạt tới những điều kiện của nghệ thuật. Thiên tài của nghệ sĩ
là ở chỗ lựa chọn những tình huống tự nhiên trở thành yếu tố của cái thật văn học và nếu anh ta
không hàn gắn chúng lại tốt, nếu những kim loại không làm thành một bức tượng đẹp màu, nguyên
khối, thế thì anh ta đã làm hỏng tác phẩm”. Thật vậy, nghệ thuật không phải là sự sao chép máy móc
hiện thực mà nghệ thuật là sự tinh luyện diệu kì. Ở đó, nhà văn biết sàn lọc và tạo ra những tình
huống rất bình thường như trong xã hội nhưng cách thể hiện và lí giải của nhà văn lại không đơn giản.
Bấy lâu nay, con người luôn hít thở trong bầu không khí hiện thực và chỉ biết chấp nhận nó như một
điều lệ mà không hề đi sâu giải thích và cũng chẳng biết nguyên nhân vì sao. Chẳng hạn hành động
Anastasie và Delphine luôn đến xin tiền cha tiêu vào những cuộc ăn chơi. Xã hội khi ấy không thiếu
những con người như thế. Mọi người cho rằng đó là việc rất bình thường và không hề đi sâu lí giải. Thế
nhưng khi đọc tác phẩm của Balzac người đọc ngoài việc cảm nhận được hơi thở của hiện thực còn
thấy được sự vận động nội tại của cuộc sống. Sự vận động đó sẽ phá hủy nhân cách của con người.
Balzac đã chọn những hoàn cảnh rất bình thường nhưng sự nhìn nhận và giải thích của nhà văn thật
đáng khâm phục.
Không phải là nhà cách mạng càng không phải là nhà cầm quyền, Balzac không hề kêu gọi một cuộc
đấu tranh cải tạo xã hội hay một cải cách nào đó. Mà ở đây, nhà văn dùng ngòi bút của mình để phơi
bày hiện thực, giúp mọi người trong xã hội thấy được những tình trạng tha hóa của con người. Người
giàu có địa vị chẳng hề có tình thương trong khi người nghèo đang rên la thảm thiết. Qua đó, nhà văn
muốn gửi lời nhắn nhủ tha thiết đến tất cả mọi người mà đúng hơn là những người giàu có và địa vị –
giai cấp tư sản và quý tộc, hãy yêu thương và biết quan tâm những người nghèo khổ.
Tóm lại, Balzac hay Hugo đều muốn con người hãy yêu thương nhau. Lời yêu thương đó được Balzac
thể hiện thông qua các hình tượng chân thực và sống động như lão Goriot, Rastignac,Victorine,
Bianchon… Còn ở Hugo, ông gửi hết vào nhân vật Jean Valjean, thông qua câu phát ngôn “Trong đời
chỉ có một điều, ấy là yêu thương nhau”. Bởi khi trao đi những tình cảm yêu thương chân thành chúng
ta sẽ nhận lại những hạnh phúc xứng đáng. Khi đó mọi khổ đau chẳng là gì. Nó đã vơi đi một nửa
trong khi hạnh phúc thì được nhân đôi. Thomas Merton đã từng nhận xét “Nếu chúng ta chỉ biết tìm
hạnh phúc cho riêng mình thì có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy. Hạnh phúc đích thực là biết
sống vì người khác – một tình yêu không vị kỉ, không đòi hỏi phải được đền đáp”. Thật vậy, được yêu
thương là hạnh phúc, nhưng yêu thương người khác còn hạnh phúc hơn. Tình thương sẽ mang lại hạnh
phúc cho con người. Đó chính là lí do tại sao mỗi người phải biết yêu thương và san sẻ lẫn nhau “Cái
đẹp cứu vớt thế giới” [42]. Tình thương là nét đẹp tiềm ẩn sức mạnh vĩ đại, là niềm hạnh phúc quý
giá của con người. Cần biết trân trọng những gì ta đang có, yêu thương và san sẻ để cuộc sống trở
nên có ý nghĩa hơn. Đó là tất cả thông điệp mà Balzac muốn gửi đến bạn đọc.

You might also like