You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC

BỘ MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

MÃ ĐỀ: 19

TIỂU LUẬN MÔN

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Tên đề tài: Chủ trương đẩy mạnh hội nhập quốc tế của Đảng từ Đại hội VIII
(1996) đến nay, và vấn đề thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.

Họ và tên: NGUYỄN VĂN LÂM

Mã sinh viên: 19819120004

Lớp: D14DIENLANH
Hà Nội, 10/2021
MỤC LỤC

I, MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài

II, NỘI DUNG


1, Hoàn cảnh ra đời của đại hội đảng lần VIII
2, Nội dung của đại hội đảng lần VIII
3, Đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề đối ngoại

III, VẬN DỤNG


1, Vai trò và giá trị của đối ngoại trong thời kì hội nhập
a, Vai trò
b, Giá trị
2, Kết quả của hoạt động đối ngoại
a, Thành tựu
b, Hạn chế và nguyên nhân
3, Giải pháp nhằm phát huy vai trò của hoạt động đối ngoại

IV, KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO


BÀI LÀM

I, MỞ ĐẦU
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng và dần bị sụp đổ. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ hiện đại đã và đang
tác động đến tất cả quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Các quốc gia trong cộng đồng
thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại để phù hợp với tình hình mới. Trong bối cảnh
quan hệ quốc tế chuyển từ đối đầu sang đối ngoại, thế hai cực bị phá hoại, từ đó làm nảy
sinh xu hướng đa dạng hóa, đa phương hóa trong quá trình toàn cầu hóa, phát triển và phụ
thuộc lẫn nhau. Việt Nam nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương và ASEAN là khu
vực phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tương đối ổn định. Là một bộ phận
hợp thành đường lối đổi mới của Đảng, đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn của
Đàng và Nhà nước Việt Nam đã cho phép khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch hòng phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam tiến lên. Bằng sự nhạy cảm chính
trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra những giải pháp ngang tầm với những biến
đổi to lớn trong nước và thế giới, tiến hành tự đổi mới để hội nhập với cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển. Trên cơ sở đổi mới chính sách
đối nội đã hình thành và phát triển chính sách đối ngoại mới, giàu sức hấp dẫn đã tranh thủ
được sự ủng hộ của các dân tộc trong cộng đồng thế giới hợp tác với Việt Nam.
Chính vì thế sau hơn 20 năm đổi mới thế và lực của nước ta đã tăng lên đáng kể, Việt
Nam đã và đang hội tụ đủ các điều kiện để đến 2020 trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, vai trò và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
II, NỘI DUNG
1, Hoàn cảnh ra đời của đại hội Đảng lần VIII
Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng
nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới,
quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Bối cảnh quốc tế nói trên ảnh hưởng lớn đến
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được nhiều thành
tựu quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện một
bước đời sống vật chất của đông đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an
ninh được củng cố. Đồng thời, thành tựu 10 năm đổi mới đã tạo được tiền đề cần thiết cho
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta cũng phải đối đầu với nhiều thách thức
như nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế, diễn biến hoà bình, tệ quan liêu, tham nhũng, nguy cơ
chệch hướng XHCN. Tình hình thế giới và thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra cho Đảng ta
những nhiệm vụ và bước đi mới.
Trong hoàn cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng đã diễn ra từ ngày
28-6 đến 1-7-1996, tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho gần 2 triệu 130
nghìn đảng viên trong cả nước.

2, Nội dung của đại hội Đảng lần VIII


Đại hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện
 Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII. 
 Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000. 
 Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi). 
 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá kết quả năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và tổng
kết mười năm đổi mới. Qua chặng đường mười năm đổi mới Đại hội đã rút ra được sáu bài
học chủ yếu sau:
 Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội , nắm vững hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc , kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh . 
 Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị , lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm , đồng thời từng bước đổi mới chính trị . 
 Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần , vận hành theo cơ chế thị trường ,
đi đôi với tăng cường vai thì quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội , giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc , bảo vệ môi trường sinh thái.
 Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân , phát huy sức mạnh của cả dân
tộc
 Mở rộng hợp tác quốc tế , tranh thủ sự đồng tình , ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế
giới , kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại . 
 Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng , coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt

Cùng với việc đánh giá đúng thành tựu và rút ra bài học, Đảng ta cũng chỉ rõ những khuyết
điểm và yếu kém: 
Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản
xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển. Nhà nước còn thiếu chính sách
để huy động có hiệu quả nguồn vốn trong dân. Sử dụng nguồn lực còn phân tán, kém hiệu
quả, chưa kiên quyết tập trung cho các chương trình, dự án kinh tế - xã hội cấp thiết. 
Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Nạn tham
nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước,
đảng và đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực nhà đất, xây
dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu... nghiên trọng kéo dài. Việc làm đang là
vấn đề gay gắt. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa
các tầng lớp dân cư tăng nhanh. 
Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng.
Chậm tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn. 
Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội, các hoạt động khoa học và công nghệ, bảo vệ tài
nguyên và môi trường sinh thái, giáo dục, đào tạo, thông tin, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn
nghệ chưa tốt. 
Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu quả lãnh đại của Đảng,
hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị, xã
hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình.

3, Đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề đối ngoại
Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam diễn ra cùng
một lúc trên bốn mặt
Một là , tạo dựng và củng cố môi trường hòa bình , ổn định cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc . Việc củng cố và thúc đẩy các mối quan hệ song phương , nhất là quan
hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này . Nhận thức rõ điều đó , hoạt động đối ngoại đã tập
trung giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc . Đồng thời
triển khai mạnh mẽ các hoạt động ngoại giao song phương cấp cao với các nước ASEAN ,
chủ động tham gia các hoạt động của Hiệp hội và năm 1995 , Việt Nam chính thức tham gia
ASEAN . Hoạt động đối ngoại cũng đã góp phần kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và
hành động lợi dụng chiêu bài " nhân quyền " . " dân chủ " và " tự do tín ngưỡng " để can
thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam . Toàn bộ các hoạt động đã góp phần quan trọng và
thiết thực vào việc tạo dựng môi trường khu vực tương đối ổn định và thuận lợi cho đất nước
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là , ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi góp phần vào công cuộc
phát triển đất nước , mở rộng hợp tác kinh tế . Đây là một nhiệm vụ trọng tâm của ngoại giao
Việt Nam thời kỳ đổi mới . Nhờ những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới và chính
sách đối ngoại rộng mở , đa phương hóa , đa dạng hóa quan hệ quốc tế , Việt Nam đã làm
thất bại chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và đồng minh , mở rộng và đa dạng hóa thị
trường , thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại song phương với hơn 130 nước và lãnh thổ ,
đón nhận nguồn đầu tư trên 36 tỷ USD của hơn 60 nước và lãnh thổ , tranh thủ hơn 13 tỷ
USD từ nguồn viện trợ ưu đãi chính thức của các chính phủ và các tổ chức quốc tế và hàng
tỷ USD viện trợ không hoàn lại của nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế thuộc hệ thống
Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ . Việc tạo dựng môi trường quốc tế hòa bình ,
tăng cường hợp tác , mở rộng thị trường , tranh thủ vốn , công nghệ phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng đất nước cũng là sự đóng góp trực tiếp và thiết thực cho yêu cầu bảo đảm an ninh .
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ , lực lượng sản xuất phát triển
nhanh và quốc tế hóa cao độ , đẩy nhanh xu thế toàn cầu hóa . Trong bối cảnh đó , các nước
đều tìm cách giành cho mình một vị thế xứng đáng trong phản công lao động quốc tế , tranh
thủ vốn , công nghệ , kỹ năng quản lý để phát triển , đấu tranh để bảo vệ lợi ích của mình .
Nhận rõ xu thế đó , Việt Nam đã đề ra chủ trương hội nhập và kiên trì thực hiện chủ trương
đó. Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định " đẩy nhanh quá trình
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới ".
Ba là , nâng cao vị thế nước nhà trên trường quốc tế . Thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ , đa dạng hóa , đa phương hóa , đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao
với 167 nước thuộc tất cả các châu lục và lần đầu tiên trong lịch sử có quan hệ bình thường
với tất cả các nước lớn , các ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc . Có
thể nói ngoại giao đa phương là một điểm sáng trong hoạt động ngoại giao thời đổi mới.
Bốn là , chủ động tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa
bình , độc lập dân tộc , dân chủ và tiến bộ xã hội . Các hoạt động đối ngoại phong phú , đa
dạng cả theo đường Đảng lẫn Nhà nước và các hoạt động quốc tế nhân dân đã góp phần duy
trì và củng cố quan hệ đoàn kết hữu nghị với các đảng phái chính trị , trước hết là các Đảng
cộng sản và công nhân , các tổ chức tiến bộ đấu tranh cho hòa bình , độc lập dân tộc , dân
chủ , từ đó tranh thủ sự hỗ trợ về chính trị có lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc . Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu : Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ , hoà bình , hợp tác phát triển , chính sách đối ngoại rộng mở , đa phương hoá , đa dạng
hoá các quan hệ quốc tế . Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế , đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác . Việt Nam là bạn , đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế , tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực . Chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình , phù hợp với chiến lược phát triển đất nước

III, VẬN DỤNG


1, Vai trò và giá trị của đối ngoại trong thời kì hội nhập
a, Vai trò
Chính sách đối ngoại của một quốc gia, còn được gọi là chính sách ngoại giao, bao
gồm các chiến lược do nhà nước lựa chọn để bảo vệ lợi ích của quốc gia mình và đạt được
các mục tiêu trong môi trường quan hệ quốc tế.
Chính sách đối ngoại có vai trò chính đó chính là chủ động tạo ra mối quan hệ quốc tế
thuận lợi để đưa nước ta hội nhập với thế giới; góp phần tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
đất nước, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.

b, Giá trị
Hoạt động đối ngoại đã góp phần quan trọng vào việc duy trì và củng cố môi trường
quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với hoạt động đối ngoại sôi
động, tích cực, chúng ta đã mở rộng và nâng lên tầm cao mới các mối quan hệ hợp tác, đối
tác với nhiều quốc gia, trong đó có tất cả các nước lớn, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng
rãi của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta. Chính bản chất
nhân nghĩa, hòa hiếu, khoan dung của dân tộc đã giúp ngoại giao Việt Nam xóa bỏ hận thù
và san lấp khoảng cách giữa nước ta với các nước, kể cả với những nước vốn là cựu thù của
đất nước ta.
Hoạt động đối ngoại đã góp phần xứng đáng vào nhiệm vụ giữ vững chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Chúng ta đã hoàn thành thực hiện phân giới
cắm mốc với Lào, Trung Quốc; đang thúc đẩy phân giới cắm mốc với Cam-pu-chia, đàm
phán phân định biển và hợp tác cùng phát triển với Trung Quốc ở khu vực ngoài cửa Vịnh
Bắc Bộ, đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia, xử lý các vấn đề liên
quan đến thềm lục địa mở rộng với Malaysia. Công tác đối ngoại tham gia tích cực vào việc
giữ vững và xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với
các nước láng giềng; kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán
và các lợi ích quốc gia trên Biển Đông, không để các tranh chấp leo thang thành xung đột.
Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại,  đấu tranh kiên quyết trong vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn
giáo, kịp thời xử lý các khía cạnh đối ngoại phức tạp, góp phần bảo đảm ổn định chính trị –
xã hội của đất nước.
Hoạt động đối ngoại đã chủ động, tích cực triển khai mạnh và hiệu quả chủ trương
lớn về Hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế đã được triển khai mạnh mẽ trên tất cả các kênh,
gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại của Quốc hội, đối ngoại nhân dân, diễn
ra trên hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nỗ lực trong hoạt động đối ngoại
đã phát huy vai trò của nước ta trên nhiều diễn đàn và tổ chức quốc tế, tranh thủ có được
những vị trí xứng đáng trong Hội đồng Bảo an, Ủy ban Nhân quyền, Hội đồng kinh tế – xã
hội của Liên hợp quốc…
Hoạt động đối ngoại đã có nhiều đóng góp thiết thực vào việc tranh thủ tối đa các
nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Có nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ,
tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Đàm phán thành công nhiều hiệp định thương
mại tự do với 55 quốc gia, mở ra triển vọng huy động thêm các nguồn lực từ bên ngoài để
phát triển.

2, Kết quả của hoạt động đối ngoại


a, Thành tựu
Qua 25 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, nước ta đã
đạt được những kết quả:
Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc tham gia ký Hiệp định Pari (ngày 23-10-1991) về một giải pháp toàn diện cho
vấn đề Campuchia đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và cộng đồng
quốc tế.
Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (ngày 10-11-1991); tháng 11-
1992, Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam; bình thường hóa
quan hệ với Hoa Kỳ (ngày 11-7-1995).
Tháng 7-1995 Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của nuớc ta với khu
vực Đông Nam Á.

Hai là, giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan.
Đã đàm phán thành công với Malaixia về giải pháp "gác tranh chấp, cùng khai thác"
ở vùng biển chồng lấn giữa hai nước. Thu hẹp diện tích tranh chấp vùng biển giữa ta và các
nước ASEAN. Đã ký với Trung Quốc: Hiệp ước về phân định biên giới trên bộ, Hiệp định
phân định Vịnh Bắc bộ và Hiệp định họp tác về nghề cá.

Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể
cả 5 nước ủy viên Thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc; tất cả các nước lớn đều coi
trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á. Đã ký Hiệp định khung về hợp tác với EU (năm
1995); năm 1999 ký thỏa thuận với Trung Quốc khung khổ quan hệ "Láng giềng hữu nghị,
hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai"; tháng 5-2008 thiết lập quan hệ đối
tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc; ngày 13-7-2001, ký kết hiệp định
thương mại song phương Việt Nam — Hoa Kỳ; tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược với
Nga (năm 2001); khung khổ quan hệ đối tác tin cậy và ồn định lâu dài với Nhật Bàn (năm
2002).
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 171 nước trên thế giới.
Tháng 10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm ủy viên không thường
trực Hội đồng bảo an nhiệm kỳ 2008 — 2009.
Năm 2010 Việt Nam đã đảm nhiệm thành công cương vị Chủ tịch ASEAN; tích cực
tham gia và có những đóng góp cho nhiều hoạt động đa phương khu vực và trên thế giới,
như tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu về an ninh hạt nhân và giải trừ vũ khí hạt nhân,
phòng chống tội phạm, biến đổi khí hậu....

Bốn là, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế.


Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
như: Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á
(ADB); sau khi gia nhập ASEAN (tháng 7-1995) Việt Nam đã tham gia khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA); tháng 3-1996, tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là
thành viên sáng lập; tháng 11-1998, gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á -
Thái Bình Dương (APEC); ngày 11-2007, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150
của tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Năm là, mở rộng thị trường , tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quàn lý.
Về mở rộng thị trường: Đến năm 2010, Việt Nam có quan hệ thương mại, đầu tư với khoảng
230 nước và vùng lãnh thổ, đưa tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu so với GDP lên trên 170%. Thực
tế cho thấy, nền kinh tế nước ta đã gắn kết chặt chẽ vào nền kinh tế thế giới. Nếu năm 1986
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 789 triệu USD, đến nắm 2007 đạt 48 tỷ USD;
năm 2008 đạt khoảng 62,9 tỷ USD; năm 2010 ước đạt 71,6 tỷ USD.
Hội nhập quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất
tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Đồng thời,
thông qua các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp
nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại.

Sáu là, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường
cạnh tranh.
Trong quá trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý,
nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát
triển.
Tư duy làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội ngũ các
nhà doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, đánh giá: "hoạt động đối ngoại,
hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao".
 Những kết quà trên đây có ý nghĩa rất quan trọng: đã tranh thủ được các nguồn lực
bên ngoài kết hợp với các nguồn lực trong nước hình thành sức mạnh tổng họp, góp
phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn. Góp phần giữ vững và củng cố độc lập,
tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia và bản sắc văn hóa
dân tộc; Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nhận định: nước ta "có quan hệ
quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới".

b, Hạn chế và nguyên nhân


Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế
cũng bộc lộ những hạn chế:
Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động.
Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau với các nước.
Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng
quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế; hệ thống luật pháp chưa, hoàn chỉnh, không đồng bộ,
gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức quốc tế.
Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập quốc tế và một
lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.
Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ;
trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các
ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và có chi phí cao bơn
các nước khác trong khu vực.
Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nói chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số
lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về pháp luật quốc tế, về kỹ thuật kinh
doanh.
Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra những hạn chế, như: "Công tác nghiên cứu, dự báo
chiến lược về đối ngoại có mặt còn hạn chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại
giao của nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa đối
ngoại chưa thật đồng bộ".
 Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế từ năm 1986 đén năm 2011
mặc dù còn những hạn chế, nhưng thành tựu là cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng: góp
phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh tế Việt Nam có
bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Các
thành tựu đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là
đúng đắn và sáng tạo.

3. Giải pháp nhằm phát huy vai trò của hoạt động đối ngoại
Một là, việc bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc gặp nhiều trở ngại hơn do sự phức tạp
của các lợi ích đan xen trong cộng đồng quốc tế.
Lợi ích quốc gia – dân tộc bao gồm nhiều yếu tố, như lợi ích chính trị, kinh tế, văn hóa – xã
hội, quốc phòng – an ninh. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, hòa bình, hợp tác, phát triển là
xu thế chung, các quốc gia lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, có chế độ chính trị – xã hội khác
nhau đều chấp nhận cùng chung sống. Sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia ngày càng
tăng lên, các nước đều chịu ràng buộc bởi luật chơi chung, mỗi quốc gia không còn là một cá
thể biệt lập mà phải gắn bó với nhau trong các mối quan hệ, liên kết, hợp tác và cả cạnh
tranh, xung đột do sự đan xen cùng chiều và khác biệt về lợi ích quốc gia – dân tộc. Trong
quan hệ phức tạp đó, quyết định và hành động của một quốc gia này, dù chỉ mang tính chất
nội bộ, có khi cũng tạo ra các hậu quả trực tiếp và gián tiếp đến lợi ích của các quốc gia
khác. Việc quốc gia nào đó kiên quyết theo đuổi lợi ích vị kỷ của mình sẽ dẫn tới tình trạng
căng thẳng, đối đầu.
Hai là, nhiều khó khăn, vướng mắc khi đẩy mạnh quan hệ quốc tế sâu rộng nhưng
phải bảo đảm độc lập, tự chủ và bảo vệ chế độ của chúng ta.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu bất di, bất dịch được xác định trong nhiệm
vụ đối ngoại. Hiện nay về cơ bản, Việt Nam tham gia đầy đủ các tầng nấc trong quan hệ
quốc tế, triển khai mạnh mẽ liên kết với các đối tác song phương, đa phương, khu vực và
toàn cầu trong các lĩnh vực kinh tế và nhiều phương diện đời sống xã hội. Để thực hiện các
cam kết theo thông lệ quốc tế, chúng ta phải chấp nhận những giới hạn nhất định trong việc
tự chủ về chính sách đối nội và đối ngoại, đôi khi phải điều chỉnh luật pháp, chính sách cho
phù hợp. Việc tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực cũng như triển khai các văn kiện hợp
tác, các cam kết quốc tế đem lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước,
nâng cao vị thế quốc gia, nhưng cũng đưa tới sự ràng buộc trong cách ứng xử của ta. Có thể
thấy, các mặt trái tác động từ bên ngoài đi liền với nhịp độ tăng cường quan hệ sâu rộng có
thể làm tăng nguy cơ các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tình hình đó để tác động vào
nước ta, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ.
Ba là, việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
của Việt Nam đang gặp những xu hướng bất lợi nổi lên, như chủ nghĩa bảo hộ, sự suy giảm
chủ nghĩa đa phương và làm chậm tiến trình toàn cầu hóa.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế phát triển và chủ nghĩa đa phương với hệ thống luật pháp quốc tế được hình thành là
nền tảng quan trọng để mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập, phát triển, tránh được sự lôi
kéo, ràng buộc của các nước lớn. Tuy nhiên, hiện nay, trên thế giới đang xuất hiện một số
biểu hiện mới, như chủ nghĩa dân túy, bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chính trị cường
quyền, đòi hỏi của một số nước lớn điều chỉnh, thay đổi trật tự thế giới. Tất cả những vấn đề
trên đặt ra đối với nước ta một cách trực tiếp và nổi cộm.
Bốn là, yêu cầu nâng tầm nội lực để tiếp thu và tận dụng nguồn lực đang ngày càng tăng lên
trong khi khả năng của chúng ta còn hạn chế.

IV, KẾT LUẬN


Có thể nói đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta nêu ra là sự tiếp tục của
đường lối chính sách đối ngoại đổi mới nhưng ở mức cao hơn. Vì trong quan hệ quốc tế ta
đã có bề rộng nay phải đi vào chiều sâu của công tác đối ngoại . Ta đã có vị thế cao trên
trường quốc tế thì nay phải chủ động , tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực
và phải có trách nhiệm tham gia giải quyết những vấn đề có tính chất toàn cầu . Đồng thời
phải tiếp tục mở rộng quan hệ với tất cả các nước , các khu vực và các vùng đất còn lại mà ta
chưa quan hệ trên thế giới. Hội nhập quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách
thức đan xen tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội và thách
thức chỉ trở thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ
quan có tính quyết định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự
điều hành quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết của toàn dân tộc.
Thực tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình,
hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan
hệ quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là sự lựa chọn đúng
đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi động hiện nay.Với truyền thống
vẻ vang của dân tộc Việt Nam , cùng với đường lối chính sách đối ngoại đúng đắn dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam , nhất định chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn , thử
thách , thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn mới , góp phần tăng cường ,
củng cổ hơn nữa vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế , phục vụ thiết thực và có hiệu quả
sự nghiệp đổi mới , xây dựng và bảo vệ Tổ quốc .

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Báo Công An Nhân Dân
Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Luật Dương Gia

You might also like