You are on page 1of 15

ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÀI THUYẾT TRÌNH


Môn học: NGUYÊN LÝ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
Chủ đề 1:
a. Thông tin bất cân xứng và vận dụng thông tin bất cân xứng trên thị
trường tài chính.
b. Khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn tại Mỹ.

TP Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 9 Năm 2022


Danh sách thành viên nhóm
Trần Anh Minh
Nguyễn Thị Diễm Hằng
Lưu Ngọc Thiên Thanh
Lê Thu Thủy
Huỳnh Thị Thu Hương
Cao Xuân Dương
Bùi Nhật Vy
Nguyễn Thị Ngọc Tâm
Phạm Thị Kiều Anh
MỤC LỤC
PHẦN A: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ VẬN DỤNG TRÊN THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH...........................................................................................1
1. Lý thuyết thông tin bất cân xứng.....................................................................1
2. Vấn đề thông tin bất cân xứng diễn ra trong thực tiễn....................................2
3. Giải pháp thông tin bất cân xứng....................................................................4
PHẦN B: KHỦNG HOẢNG TÍN DỤNG DƯỚI CHUẨN Ở MỸ.......................6
1. Lý thuyết về khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn..............................................6
2. Thực tiễn tín dụng dưới chuẩn ở Mỹ...............................................................6
a/ Nguồn gốc.................................................................................................6
b/ Tóm tắt quy trình cho vay tín dụng dưới chuẩn........................................7
c/ Hậu quả nặng nề của khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn ở Mỹ................8
d/ Kết luận.....................................................................................................9
3. Phương pháp đối phó với khủng hoảng tín dụng............................................9
PHẦN A: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ VẬN DỤNG TRÊN THỊ TRƯỜNG
TÀI CHÍNH

1. Lý thuyết thông tin bất cân xứng


- Khái niệm: Thông tin bất cân xứng (Asymmertric Informaton) là tình trạng trong một
giao dịch, một bên có thông tin đầy đủ hơn và tốt hơn so với (các) bên còn lại về đối
tượng và các vấn đề liên quan của giao dịch đó.
Ví dụ: Mua bán xe hơi cũ, người bán biết được đặc điểm hoặc tình trạng chất lượng của
chiếc xe như thế nào, trong khi đó người mua không có được đầy đủ thông tin như người
bán.
- Bất cân xứng về thông tin là tình trạng phổ biến trong cuộc sống của cá nhân và xã
hội:
• Ngân hàng
• Thị trường nhà đất
• Thị trường lao động
• Lãnh vực thể thao
• Thị trường hàng hóa
• Thị trường bảo hiểm
• Lãnh vực đầu tư
• Thị trường chứng khoán
• Thị trường đồ cũ
- Hậu quả của thông tin bất cân xứng: Thông tin bất cân xứng là một thất bại của thị
trường vì nó gây ra:
• Lựa chọn ngược (adverse selection–AS)
• Rủi ro đạo đức (moral hazard – MH)
- Lựa chọn ngược:
+ Xảy ra trước khi thực hiện giao dịch hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng.
+ Trong điều kiện thông tin đối xứng, các bên trong giao dịch nắm thông tin ngang
nhau và đầy đủ về thứ được giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm được thứ tốt hoặc thứ
tương xứng với cái giá mà họ phải bỏ ra. Nhưng trong điều kiện thông tin bất cân xứng,
nghĩa là một bên trong giao dịch có nhiều thông tin về đối tượng giao dịch hơn bên kia,
người có ưu thế về thông tin có thể cung cấp những thông tin không trung thực về đối
tượng được giao dịch cho bên kém ưu thế thông tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông
tin đồng ý hoàn thành giao dịch và nhận được thứ không như mình mong muốn.
Ví dụ: Trong giao dịch bất động sản: Bên bán là bên có ưu thế thông tin về một lô đất
hay ngôi nhà (những thông tin như trật tự an ninh xã hội, tình trạng quy hoạch giải tỏa,...)
còn bên mua có nhu cầu mua đất nhưng không đủ khả năng tìm hiểu về các thông tin liên
quan, kết quả là bên mua gánh chịu bất lợi nếu mua phải đất hay nhà không tốt.
- Rủi ro đạo đức:
+ Rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin bất cân xứng sau khi giao dịch đã xảy ra. Rủi
ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ một loại rủi ro

1
phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái, nghĩa là họ thực hiện những hành
vi che đậy.
+ Rủi ro đạo đức hay tâm lý ỷ lại là tình trạng cá nhân hay tổ chức không còn động cơ
để cố gắng hay hành động một cách hợp lý như trước khi giao dịch xảy ra.
+ Khái quát: Rủi ro đạo đức nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế
thông tin bất cân xứng giữa các bên giao dịch và tự niên hành động theo hướng làm lợi
cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế về thông tin. Hành
vi tha hóa theo hướng như thế của bên có ưu thế thông tin được bên kém ưu thế thông tin
cho là sai trái, là một thứ nguy hiểm, gây ra rủi ro cho mình.
Một dạng đặc biệt của hiện tượng rủi ro đạo đức là vấn đề đại lý. Bên ủy thác là bên
kém ưu thế về thông tin, còn bên được ủy thác (đại lý) là bên có ưu thế thông tin. Bên ủy
thác không giám sát được đầy đủ hành vi của bên nhận ủy thác, và bên nhận ủy thác hiểu
được điều này. Tình trạng này khiến cho bên được ủy thác tự nhiên nảy sinh động cơ
hành động theo hướng mà bên ủy thác cho là không phù hợp.
Ví dụ: Thiếu thông tin dẫn tới giám sát không đầy đủ của Chính phủ có thể dẫn tới các
rủi ro đạo đức ở chủ thể kinh tế được Chính phủ ủy thác thực hiện các nhiệm vụ chi ngân
sách, đó là việc các chủ thể này sử dụng lãng phí nguồn ngân sách.
Cụ thể là vụ việc nâng giá kit xét nghiệm của Công ty Việt Á, trong quá trình điều tra
đã phát hiện ông Nguyễn Thanh Long - Bộ trưởng Bộ Y tế có liên quan và có dấu hiệu vụ
lợi. Ông là Bộ trưởng Bộ Y tế, nhận ủy thác trong việc phòng chống đại dịch COVID_19
nhưng lại có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái các quy định của pháp luật
trong việc cấp số đăng ký lưu hành, hiệp thương giá và kiểm tra giá hiệp thương kit xét
nghiệm COVID-19, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng tài sản Nhà nước. Hiện tại thì ông
đã bị cắt chức, kỷ luật, khai trừ khỏi Đảng và bị tạm giam, khởi tố với tội danh “Lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

2. Vấn đề thông tin bất cân xứng diễn ra trong thực tiễn
- Lựa chọn ngược:
+ Thị trường bảo hiểm: Trong thị trường bảo hiểm, người mua là người có lợi thế về
thông tin nhiều hơn và người bán rất hiếm khi biết được kết cục của những giao dịch này.
Có thể thấy, hầu hết những người lựa chọn mua bảo hiểm là những người có rủi ro cao,
và nếu những sự kiện không may ấy diễn ra thì người bán sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ.
Đây là tình huống có sự xuất hiện của vấn đề lựa chọn nghịch. Người bán không đánh giá
đầy đủ về các điều khoản bảo hiểm đối với người mua gói bảo hiểm, sẽ dẫn đến trường
hợp người mua bảo hiểm cố tình khai sai sự thật về bệnh trạng của mình dẫn đến phía
công ty bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại nhiều hơn.
+ Vay nợ ngân hàng: Vay vốn ngân hàng là một lựa chọn phổ biến của hầu hết các
doanh nghiệp đang cầu vốn nhằm để đầu tư, trang trải chi phí cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Thế nhưng, một số doanh nghiệp đang hoạt động không tốt, có nguy cơ phá
sản và biết chắc được mình ít hoặc không có khả năng trả nợ cho ngân hàng nhưng vẫn đi
vay. Nếu các ngân hàng không nắm bắt được tình hình hoạt động của công ty mà vẫn

2
chấp nhận rót vốn thì nguy cơ món nợ đó sẽ trở thành nợ xấu, ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán và kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Vì ngân hàng dùng một phần tiền của
những người gửi tiết kiệm để tiến hành cho vay, nếu khoản cho vay trở thành nợ khó đòi
thì cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động và uy tín của ngân hàng.
+ Thị trường chứng khoán: Tình trạng bất cân xứng về thông tin sẽ dẫn đến việc các
nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư không chính xác, doanh nghiệp từ đó gây cung
cầu ảo, thị trường bong bóng và tiềm ẩn nguy cơ sụp đổ thị trường. Ví dụ như những
doanh nghiệp “giấu lỗ” trên BCTC. Việc giấu lỗ sẽ khiến các nhà đầu tư tin rằng doanh
nghiệp này đang hoạt động có lãi và quyết định đầu tư cổ phiếu. Từ đó dẫn đến giá của cổ
phiếu này bị định giá cao hơn so với giá trị thực. Tuy nhiên, việc giấu lỗ ở thời điểm hiện
tại trong BCTC khiến tương lai doanh nghiệp phải sử dụng lợi nhuận để bù đắp lại khoản
tăng ảo trước đó và khi đó, lợi nhuận được ghi nhận không tăng trưởng, cổ phiếu không
còn động lực tăng giá, các nhà đầu tư sẽ có những “cú trượt dài”. Có thể thấy, hành vi
giấu lỗ là một biểu hiện của việc lạm dụng lợi thế về thông tin, dẫn đến các vấn đề liên
quan đến lựa chọn ngược.
- Rủi ro đạo đức:
+ Thị trường bảo hiểm: Điều này diễn ra sau khi giao dịch. Những người sau khi đã
mua bảo hiểm sẽ hành động ít cẩn thận hơn. Ví dụ về bảo hiểm cháy nổ, nhà hàng đã mua
bảo hiểm sẽ ít quan tâm đến các biện pháp an toàn, phòng chống cháy nổ hơn vì họ đã
được bảo hiểm chi trả, dẫn đến nguy cơ cháy nổ diễn ra cao hơn và bên bán bảo hiểm sẽ
phải gánh chịu một phần hoặc toàn bộ và có khả năng đi đến thua lỗ.
+ Vay nợ ngân hàng: trong hoạt động ngân hàng, rủi ro đạo đức của khách hàng thường
thể hiện ở việc khách hàng sử dụng những khoản vay không đúng mục đích cam kết
trong hợp đồng vay nợ, sử dụng vốn sai trình tự, đầu tư vào những hạng mục rủi ro mà
không thông báo cho bên cho vay. Người đi vay bao giờ cũng hiểu rõ mục đích sử dụng
những khoản vay trong khi người cho vay thì không nắm rõ. Từ sự thiếu thông tin và
thiếu giám sát, người cho vay sẽ dễ dàng gặp rủi ro đạo đức khi người đi vay sử dụng các
khoản vay một cách quá mạo hiểm và không có hiệu quả.
+ Thị trường chứng khoán: trong thị trường chứng khoán, dễ nhận thấy rủi ro đạo đức
là tình trạng thao túng các hoạt động của công ty cổ phần và giá cổ phiếu. Các cổ đông
lớn hoặc những người nằm trong ban điều hành công ty do có được thông tin về công ty
hoặc tạo ra những sự kiện rồi liên kết mua bán để đẩy giá cổ phiếu tăng cao, kéo những
nhà đầu tư nhỏ, ít kinh nghiệm vào cuộc, khi những cổ đông lớn đã rút ra khỏi thị trường
thì những cổ đông nhỏ nắm giữ những cổ phiếu giá cao.
Trường hợp của ông Trịnh Văn Quyết, cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần
Tập đoàn FLC, ông Quyết chỉ đạo các cá nhân có quan hệ gia đình hoặc thân thiết thông
đồng mua, bán đẩy giá chứng khoán FLC tăng 64% trong thời gian ngắn, sau đó thực
hiện bán "chui" 74,8 triệu cổ phiếu FLC, thu lợi bất chính 530 tỉ đồng. Ngay sau khi sự
việc xảy ra, thị trường chứng khoán “chao đảo” trong nhiều phiên liên tiếp, Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước đã hủy giao dịch toàn bộ số cổ phiếu do ông Quyết bán ra.
Những nhà đầu tư đã mua số cổ phiếu (lô mà ông Quyết “bán chui”) may mắn được hoàn
lại tiền => Hành vi thao túng thị trường chứng khoán.

3
3. Giải pháp thông tin bất cân xứng
- Giải pháp lý thuyết: Lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin
bất cân xứng. Vậy giải pháp chính là chọn những những cách thức khác nhau nhằm làm
giảm đi sự bất cân xứng thông tin cho các bên tham gia giao dịch xuất phát trên các
nguyên tắc sau:
+ Cơ chế phát tín hiệu: Bên có nhiều thông tin có thể phát tín hiệu đến những bên ít
thông tin một cách trung thực và tin cậy.
Vậy, làm thế nào mà các cá nhân có được thông tin tốt hơn về một thị trường nào đó có
thể truyền, phát tín hiệu những thông tin này một cách đáng tin cậy cho những cá nhân
được thông tin kém hơm, nhằm tránh những vấn đề liên quan đến sự lựa chọn đối
nghịch? Việc phát tín hiệu này đòi hỏi các tác nhân kinh tế phải có những công cụ có thể
quan sát được và tốn kém nhằm làm cho các tác nhân khác tin vào khả năng của họ, hoặc
một cách tổng quát hơn là về giá trị hoặc chất lượng sản phẩm của họ. Như vậy, với việc
phát tín hiệu này, người bán những sản phẩm chất lượng cao phải sử dụng những biện
pháp được coi là quá tốn kém với người bán hàng hóa chất lượng thấp.
+ Cơ chế sàng lọc:
Những người có ít thông tin hơn cũng có thể tự cải thiện tình trạng của mình thông qua
cơ chế sàng lọc vì bất cứ hàng hóa nào cũng đều có những đặc tính khác nhau (như chất
lượng khác nhau, mẫu mã khác nhau) nên cần phải phân loại chúng. Bên có ít thông tin
hơn có thể thu thập thông tin từ bên kia bằng cách đưa ra các điều kiện giao dịch hợp
đồng khác nhau.
Ví dụ điển hình là các công ty bảo hiểm thường cung cấp các loại hợp đồng bảo hiểm
với các mức phí bảo hiểm khác nhau, tương ứng với những mức bồi thường khác nhau.
Các khách hàng sẽ tự lựa chọn loại hợp đồng bảo hiểm phù hợp với mình, do đó tự phân
hóa thành các loại khách hàng khác nhau. Những khách hàng có rủi ro thấp thường thích
loại hợp đồng có phí bảo hiểm thấp trong khi khách hàng có rủi ro cao lại lựa chọn hợp
đồng có phí bảo hiểm cao.
- Cơ chế giám sát: Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại,
cơ chế bao gồm giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp.
+ Giám sát trực tiếp: bên ít thông tin hơn sẽ bỏ ra nguồn lực để đạt được sự kiểm soát
thông tin, cơ chế giám sát này tốn nhiều chi phí và nhân lực, khả năng giám sát đối
phương cũng bị hạn chế.
+ Giám sát gián tiếp: như giám sát thị trường,...
- Giải pháp tư nhân: Đối với mỗi thị trường có những biện pháp khác nhau để hạn chế
tình trạng thông tin bất cân xứng:
+ Thị trường đồ cũ:
 Người mua thu thập thông tin: thuê chuyên gia, hỏi người mua trước hoặc sử dụng
thử, mua thông tin.
 Người bán phát tín hiệu chứng minh uy tín của cửa hàng thông qua danh tiếng,
thương hiệu, cấp giấy bảo hành…

4
+ Thị trường lao động:
 Người xin việc phát tín hiệu như trưng bằng cấp , đề nghị mức lương cao.
 Nhà tuyển dụng phỏng vấn và đề ra thời gian thử việc.
+ Thị trường bảo hiểm:
 Công ty bảo hiểm yêu cầu khách hàng khám sức khỏe trước khi ký hợp đồng bảo
hiểm.
 Chỉ định phòng khám sức khỏe nếu đó là một hợp đồng bảo hiểm lớn.
 Không chi trả bảo hiểm toàn phần.
 Giảm phí bảo hiểm đối với khách hàng có đăng ký các chương trình phòng chống
bệnh tật hoặc không hút thuốc.
+ Thị trường tín dụng:
 Người đi vay phát tín hiệu chứng minh hiệu quả tài chánh của dự án hoặc chứng
minh năng lực tài chánh của công ty.
 Thẩm định dự án, thẩm định khả năng tài chánh của nhà đầu tư, tài sản thế chấp
 Đánh giá lịch sử tín dụng của công ty.
- Giải pháp của Chính phủ:
+ Cấp giấy phép chứng nhận (trước hoạt động) :
 Chứng nhận tư cách pháp nhân.
 Chứng nhận chất lượng sản phẩm.
+ Kiểm tra, kiểm soát (trong quá trình hoạt động):
 Kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, đóng dấu chất lượng và cấp phép lưu thông.
 Kiểm tra, đối chiếu thực tế và tiêu chuẩn đăng ký.
+ Kiểm toán (sau hoạt động).
+ Thành lập hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng.
+ Cung cấp thông tin: về quy hoạch, về dịch bệnh, về nhà đầu tư, dự báo về cung cầu
thị trường trong nước và quốc tế.
+ Thiết lập thể chế (xây dựng khung pháp lý) để có biện pháp chế tài, xử phạt.
- Vấn đề người ủy quyền - người thừa hành:
Ví dụ:
Hội đồng quản trị - Giám đốc
Tổng giám đốc – Giám đốc chi nhánh
Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân
Chủ tịch tỉnh – Giám đốc sở
Hiệu trưởng – Giáo viên
Người thuê lao động – Người lao động
+ Là những trường hợp một bên (người ủy quyền) tuyển dụng một bên khác (người
thừa hành) để thực hiện một hay những mục tiêu nhất định.
+ Người thừa hành có thể theo đuổi mục tiêu khác với người ủy quyền (do động cơ
khác nhau) nhưng do thông tin bất cân xứng làm cho người ủy quyền khó kiểm soát.
+ Vấn đề này hội đủ cả hai thất bại thị trường từ thông tin bất cân xứng (lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức), do đó cần có giải pháp khắc phục thích hợp.

5
+ Người ủy quyền tạo ra động cơ khuyến khích vật chất để cho mục tiêu người thừa
hành và người ủy quyền phù hợp nhau:
 Trả lương, thưởng theo hiệu quả công việc
 Thưởng bằng cổ phiếu
 Giáo dục ý thức nghề nghiệp
 Cơ hội thăng tiến
 Danh hiệu thi đua
 Đồng thời thiết kế hệ thống kiểm tra (hệ thống giải trình, kiểm soát nghiêm ngặt)

PHẦN B: KHỦNG HOẢNG TÍN DỤNG DƯỚI CHUẨN Ở MỸ

1. Lý thuyết về khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn


- Sơ lược về cuộc khủng hoảng: Cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ nổ ra vào năm 2008,
bắt nguồn từ những khoản cho vay thế chấp bất động sản (BĐS) dưới chuẩn, đã bước
sang một cục diện mới khi mà những “đại gia” như Lehman bị phá sản, Merrill Lynch thì
buộc phải tìm cách tự bán mình cho các ngân hàng khác để tìm đường tồn tại, còn Bộ Tài
chính Mỹ thì đang ráo riết xúc tiến kế hoạch giải cứu ngành tài chính của nước này với
khoản kinh phí khổng lồ “vô tiền khoáng hậu” 700 tỷ USD. Vậy "Tín dụng dưới chuẩn"
là gì và vì đâu mà nó châm ngòi cho cuộc khủng hoảng được xem là giai đoạn đáng nhớ
nhất trong lịch sử tài chính thế giới với sức ảnh hưởng trên diện rộng?
- Khái niệm: Tín dụng dưới chuẩn (hay còn được gọi là nợ dưới chuẩn) được hiểu là
các khoản cho vay các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này
thường là những người nghèo,không có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc
có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi
ro không có khả năng thanh toán  nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận
nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn.Chính vì
vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất cũng rất
hấp dẫn trong bối cảnh lãi suất cho vay tương đối thấp trong những năm đầu của thập
niên 2000. Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được thực hiện đối với các sản phẩm cho vay thế chấp
mua nhà (mortgage), thế chấp mua trả góp ô tô, thẻ tín dụng... Các đối tượng tín dụng
dưới chuẩn phần lớn là dân nhập cư vào Mỹ.

2. Thực tiễn tín dụng dưới chuẩn ở Mỹ

a/ Nguồn gốc
Sự bùng nổ của cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn sâu xa từ sự bất cân đối về nguồn vốn
tín dụng toàn cầu.
- Môi trường lãi suất thấp:

6
Vào đầu thập niên 2000, khi nền kinh tế Mỹ bước vào giai đoạn suy thoái, FED đưa ra
chính sách cắt giảm lãi suất để thúc đẩy tiêu dùng nhưng khi nền kinh tế đã phục hồi cùng
với sự lo ngại về sự suy thoái tiếp tục trong tương lai nên đã trì hoãn việc tăng lãi suất trở
lại trong khi đó ngân hàng lại mong muốn tìm nguồn cho vay với lãi suất cao hơn.
- Nguồn tiền mặt phong phú:
Đáp lại chính sách tiền tệ nới lỏng của FED, lượng cung tiền trong nền kinh tế Mỹ đã
tăng mạnh. Khối lượng cho vay của tất cả các loại hình tín dụng ngân hàng đã tăng liên
tục cũng bởi dòng vốn nước ngoài chảy vào ổn định. Nhưng FED không hề thực hiện bất
kỳ một biện pháp nào để “trung hòa hóa” tác động của dòng vốn vào đối với cung tiền
dẫn đến Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị trường
không sử dụng hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để giải quyết bài toán
thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
- Giá nhà tăng liên tục nhờ vào các khoản cho vay lãi suất thấp và nguồn tiền mặt dồi
dào:
Người dân đổ xô mua nhà vì bị thu hút bởi các"lời khuyên" từ giới môi giới và các
khoản vay với lãi suất linh hoạt. Việc cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái quá trong một
thời gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín dụng, chính là nguyên nhân tạo
nên cuộc khủng hoảng tín dụng.

b/ Tóm tắt quy trình cho vay tín dụng dưới chuẩn
- Đầu tiên, các công ty tài chính chuyên về cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn được
ngân hàng đầu tư tạm ứng một nguồn vốn, sau đó các công ty này bắt đầu cho vay mua
nhà thông qua đại lý. Các đại lý trực tiếp làm việc với khách hàng, thẩm định hồ sơ và
chuyển các hồ sơ này cho công ty tài chính phê duyệt. Sau khi phê duyệt, công ty tài
chính làm thủ tục thế chấp nhà đất và tiến hành giải ngân.
- Các khoản cho vay này được công ty tài chính gom lại thành một danh mục tín dụng
và được bán lại cho ngân hàng đầu tư ban đầu.
- Các ngân hàng đầu tư thực hiện chứng khoán hóa các danh mục tín dụng đã mua.
- Chứng khoán nợ phát hành tạm gọi là trái phiếu được đảm bảo dựa trên danh mục cho
vay thế chấp mua nhà. Trái phiếu được phân ra thành nhiều gói được định mức tín
nhiệmvới các hệ số khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và cuống lãi suất khác nhau.
- Nhà đầu tư bắt đầu có nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu. Điều này tạo ra động lực kích
thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa và làm bùng nổ cho
vay dưới chuẩn.
- Các ngân hàng đầu tư quốc tế bắt đầu tăng cường việc bơm vốn cho công ty tài chính
chuyên làm nhiệm vụ cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn hoặc thành lập các công ty
vay của riêng mình.
- Ngân hàng đầu tư có lẽ là người hưởng lợi nhiều nhất. Cho vay thế chấp mua nhà dưới
chuẩn có lãi suất rất cao, do đó ngân hàng đầu tư vừa thu lãi từ cung cấp vốn cho công ty
tài chính, vừa thu lãi từ nghiệp vụ chứng khoán hóa.
Lợi nhuận cao kết hợp với lòng tham đã dẫn đến lạm dụng việc cho vay nợ dưới chuẩn.
Các thủ tục thẩm định thực hiện bởi các đại lý cho vay diễn ra hết sức lỏng lẻo và việc

7
tiếp cận vốn tín dụng mua nhà trở nên nhanh chóng, dễ dàng hơn bao giờ hết. Những
người có thu nhập thấp, đặc biệt là dân định cư đầu tiên có cơ hội mua nhà. Cho vay thế
chấp mua nhà dưới chuẩn lan nhanh ra toàn nước Mỹ. Giá bất động sản tăng nhanh chóng
và khủng hoảng.
Khi Nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, bong bóng BĐS nổ bục ra từ cuối năm 2006
đã dẫn đến một làn sóng mất khả năng chi trả và giải chấp các tài sản thế chấp. Đến lượt
nó lại dẫn đến sự sụt giảm giá cả của các loại chứng khoán có BĐS thế chấp. Những thua
lỗ, tổn thất tài chính này đã làm cho nhiều tổ chức tài chính lâm vào tình trạng có quá ít
tiền vốn, nói cách khác, có quá ít tài sản so với khối lượng vay nợ của họ. Điều này đặc
biệt nghiêm trọng vì ai cũng tranh nhau vay nợ quá nhiều để đầu tư khi thị trường đang
trong trạng thái tăng trưởng kiểu bong bóng trong những năm trước đây. Vì các tổ chức
tài chính có quá ít vốn so với các nghĩa vụ nợ của họ nên họ đã không đủ khả năng hoặc
không sẵn lòng cung cấp tín dụng mà nền kinh tế có nhu cầu. Các tổ chức tài chính cố
gắng giảm các khoản vay nợ của mình bằng cách bán đi các tài sản có, nhưng điều này lại
làm cho giá cả của các loại tài sản này giảm sút thêm và làm cho trạng thái tài chính của
họ càng xấu thêm. Cái vòng luẩn quẩn này được gọi là “nghịch lý giảm nợ”. Lãi suất tăng
tạo nên gánh nặng trả nợ với những người thu nhập thấp, thất nghiệp gia tăng thì rủi ro
cho vay nợ dưới chuẩn bị ảnh hưởng nhanh nhất. Không trả được nợ, hàng loạt người
mua nhà bị xiết nợ và phát mại tài sản. Cleveland (Ohio) là thành phố đầu tiên châm ngòi
cho cuộc khủng hoảng lan rộng ra toàn nước Mỹ và thế giới. Theo số liệu thống kê,
khoảng 1/10 số nhà tại Cleveland bị thu hồi để phát mại. Những người nhập cư với giấc
mơ mua nhà lại trở về tay trắng. Giá nhà tại Mỹ giảm thảm hại trong Quý 3 năm 2007,
mức tồi tệ nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1930.
Ngay lập tức, Cục dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương Châu Âu phải bơm
số vốn khổng lồ vào thị trường. Từ tháng 9/2007, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã liên tục 5
lần cắt giảm lãi suất chiết khấu đồng USD từ 5,25%/năm xuống mức hiện tại 3%/ năm.
Đây là những biện pháp rất mạnh nhằm cứu vãn nền kinh tế Mỹ khỏi cuộc khủng hoảng
này.

c/ Hậu quả nặng nề của khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn ở Mỹ
Hậu quả của cuộc khủng hoảng tín dụng cho nước Mỹ và thế giới là rất lớn. Thị trường
bất động sản và thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nặng nề. Thị trường trái phiếu hình
thành từ chứng khoán hóa bị mất khả năng thanh khoản. Ngành xây dựng Mỹ đóng góp
15% GDP có thể phải cắt giảm một nửa sản lượng và cắt 1-2 triệu công việc.
Các khoản cho vay thế chấp không có khả năng thu hồi và giá trị tài sản đảm từ những
ngôi nhà bị sụt giảm là nguyên nhân giá trị đánh giá lại (mark to market) của các gói trái
phiếu phát hành bị giảm giá không phanh, đặc biệt là các gói trái phiếu có rủi ro cao (gói
Z). Các nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa nợ dưới chuẩn là
người chịu hậu quả nặng nề. Dự báo số tổn thất do giảm giá trị trái phiếu cho toàn thị
trường lên tới khoảng 220 tỷ – 450 tỷ USD.
Hàng loạt ngân hàng đầu tư trót nắm giữ các gói trái phiếu rủi ro mà chưa kịp chuyển
giao cho thị trường đã phải ghi nhận các khoản tổn thất lên đến hàng trăm tỷ USD như

8
Citi (21 tỷ USD), Merrill Lynch (25 tỷ USD), UBS (18 tỷ USD), Morgan Stanley (10 tỷ
USD), Lehman Brothers (1,5 tỷ USD),...Tổng thiệt hại tài chính của các ngân hàng đầu tư
trong năm 2007 ước tính lên tới gần trăm tỷ USD. Hàng ngàn nhân viên phố Wall bị sa
thải.
Không chỉ thiệt hại về giảm giá trái phiếu, mảng kinh doanh béo bở từ chứng khoán hóa
của các ngân hàng đầu tư cũng bị tạm ngưng hoạt động. Cổ phiếu các ngân hàng đầu tư
rớt thảm hại trong 6 tháng cuối năm 2007. Với tổn thất nặng nề này, các ông chủ phố
Wall lần lượt phải ra đi, cụ thể là các ông chủ UBS, Citigroup, Merrill Lynch và Bear
Stearns.

d/ Kết luận
Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 của Mỹ bắt nguồn từ sự quản lý lỏng lẻo trong
cho vay tín dụng dưới chuẩn và từ lòng tham của thị trường. Chứng khoán hóa là một
công cụ tài chính thông minh song đã bị lợi dụng vào việc xấu gây nên hậu quả khôn
lường. Các nhà đầu tư cần thấu hiểu các rủi ro trước khi mua các sản phẩm tài chính phức
tạp nhằm tránh những tổn thất nặng nề. Đây là những bài học không thừa cho bất cứ quốc
gia nào trong quá trình hội nhập và phát triển.

3. Phương pháp đối phó với khủng hoảng tín dụng


- Cần rà roát lại các dự án và hoạt động đầu tư – kinh doanh của đơn vị, tự phân loại
tính chất, cách thức và mức độ ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này, từ đó chủ động có
phương án xử lý cụ thể hiệu quả cho đơn vị và đối tác trong giả định tình huống xấu nhất
có thể xảy ra.
- Thực hiện đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh và thị trường, cũng như các đối tác
có liên quan.
- Thường xuyên theo dõi thị trường, cập nhật thông tin, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao
kỹ năng dự báo và năng lực xử lý kịp thời các tình huống phát sinh từ bên ngoài. Có thể
lập các đội đặc nhiệm, với các kịch bản “tác chiến” linh hoạt và tối ưu cho các tình huống
khẩn cấp.
- Tiếp tục cải thiện năng lực và sự lành mạnh tài chính, chất lượng bộ máy và quản trị
kinh doanh, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, có tầm nhìn dài hạn trong
liên doanh, liên kết, hợp tác và cạnh tranh kinh tế cả trong quá trình phát triển bên trong,
cũng như trong cuộc chiến với các động thái thị trường và chấn động kinh tế bên ngoài…
- Đặc biệt, phải chú trọng và tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp dân doanh. Điều này là hoàn toàn đúng và rất cần thiết,
vì hầu hết họ đã, đang và sẽ còn gặp nhiều khó khăn do lạm phát, nhất là tình hình tăng
nhanh các chi phí sản xuất kinh doanh, gắn với tăng chi phí vay vốn, nguyên vật liệu,
lương nhân công, thuê mặt bằng kinh doanh và các chi phí không chính thức khác. Ngoài
ra, họ còn gặp các khó khăn về thông tin, xúc tiến thương mại và vô vàn khó khăn có tên
và không thể gọi tên.

9
* Đối với nền kinh tế Việt Nam:
Về triển vọng trung hạn, để góp phần giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn và
nâng cao chất lượng phát triển nền kinh tế Việt Nam, cần chú ý một số điểm sau đây:
- Về mặt tài chính:
+ Giảm phí, chi phí trung gian và chi phí không chính thức giúp giảm chi phí đầu vào
của doanh nghiệp (bằng những quy định cứng, rõ ràng, minh bạch và có kiểm tra thường
xuyên). Đặc biệt, giảm thuế cho doanh nghiệp, nhất là ở những lĩnh vực cần đầu tư phát
triển, sẽ giúp giảm chi phí sản xuất, giảm giá đầu ra, giảm lạm phát. Một điều ngạc nhiên
là chúng ta mới chỉ giảm thuế xuất nhập khẩu, còn thuế thu nhập doanh nghiệp không
được quan tâm, thậm chí bị lờ đi. Ở Mỹ, thậm chí họ còn hoàn lại cho người tiêu dùng,
doanh nghiệp hàng chục tỷ USD, để tăng kích cầu đầu tư.
+ Thắt chặt hơn nữa đầu tư công, trong đó phải làm rõ được 3 yếu tố: tiêu chí, cơ chế
thực hiện chế tài và kiểm soát lợi ích gắn liền việc cắt giảm, giãn tiến độ các dự án đầu tư
từ Ngân sách Nhà nước… Hiện mới có chủ trương, chưa có tiêu chí rõ ràng, chế tài cũng
chưa có hoặc chưa đủ hiệu lực… Cần sớm triển khai bước chuyển chiến lược trọng tâm
đầu tư phát triển từ khu vực nhà nước bấy lâu nay (vẫn kém hiệu quả) sang khu vực kinh
tế ngoài nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã, đang và tiếp tục trực tiếp và
gián tiếp gây xung lực gia tăng lạm phát ở nước ta, cả lạm phát tiền tệ, lạm phát chi phí
đẩy và lạm phát cơ cấu (hiện nay, chúng chiếm hơn 50% tổng đầu tư tín dụng Nhà nước,
hơn 70% dư nợ xã hội, hơn 80% tổng dư nợ tín dụng ngân hàng thương mại, khoảng
500.000 tỷ đồng, bằng 1,5 lần tổng dự trữ ngoại tệ mà chúng ta tự hào tuyên bố là đủ sức
để giữ vững tỷ giá nếu có biến động.
+ Phát triển một thị trường vốn đa dạng hơn và có tính thị trường thực chất hơn, bao
gồm các loại công ty và quỹ đầu tư, trong đó có nhiều loại quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ bảo
lãnh, kể cả quỹ tư nhân.
-Về mặt tiền tệ:
+ Cơ chế quản lý tỷ giá VNĐ phải mềm hơn, theo hướng trả đồng tiền về đúng giá trị
thực. Một ví dụ về tỷ giá cố định và chính sách tỷ giá làm đồng tiền tăng giḠtrị lên, 2
năm vừa rồi lạm phát ở Việt Nam xấp xỉ 30%, thì ở Mỹ chỉ lạm phát chưa đến 7%, trừ
chênh lệch đi đồng tiền của chúng ta bị đắt lên ít nhất 20% do tỷ giá VNĐ gắn chặt và
hầu như không đổi so với USD. Rõ ràng, xu hướng cố định tỷ giá và ngày càng tăng giá
trị đồng bản tệ đã, đang và sẽ tiếp tục khiến chi phí sản xuất của doanh nghiệp đắt đỏ, sức
cạnh tranh của hàng xuất khẩu kém đi và nhập siêu kéo dài. Năm nay, đặc biệt khi ngân
hàng vào cuộc chống lạm phát, lại có chính sách 2 tỷ giá, lặp lại thời kỳ 1986-1990.
Chính sách áp đặt tỷ giá có 2 mặt của nó: có thể tạo ra ổn định hình thức giá trị VNĐ và
một số lợi ích khác, nhưng lại làm lệch giá, tái tạo lại tình trạng chợ đen và đầu cơ tiền tệ,
đặc biệt là làm tăng rủi ro tỷ giá cho doanh nghiệp.
+ Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, đặc biệt cần giảm chi phí trung gian của khu
vực ngân hàng để tăng tính chia sẻ trách nhiệm xã hội đối với doanh nghiệp.
- Về cạnh tranh, quản lý thị trường và các vấn đề khác:
+ Thông tin cần đa dạng hơn, nhiều chiều, đảm bảo dân chủ và tăng thêm vai trò phản
biện xã hội của các hiệp hội và tổ chức xã hội. Tăng số và chất lượng thông tin phát ngôn
chính thức, thông tin của doanh nghiệp. Hiện nay, nhiều DNNN và các công ty niêm yết

10
trên TTCK thích sử dụng nghiệp vụ kế toán chuyển hoặc treo lỗ, nên báo cáo tài chính rất
đẹp và ảo. Nếu khu vực doanh nghiệp và các số liệu thống kê nhà nước đưa thông tin sai
thì điều hành của Chính phủ sai, dễ tạo ra sự hỗn loạn và đổ vỡ bất ngờ nào đó, chí ít
cũng làm giảm hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế và
chống lạm phát. Thông tin phải minh bạch và chính sách phải ổn định, được hoàn thiện
dần theo hướng có thể dự báo được. Tăng chất lượng và vai trò dự báo về tác động 2 mặt
của chính sách, được đưa ra bởi đội ngũ chuyên nghiệp, có phản biện khoa học,…
+ Khu vực doanh nghiệp cần được tăng cường tái cấu trúc theo hướng đa sở hữu, đồng
thời khuyến khích phát triển tập đoàn theo nguyên tắc thị trường, đủ sức cạnh tranh quốc
gia và thế giới. Thời gian gần đây, ít nhiều ta ủng hộ tư nhân. Nhưng trong tư tưởng chỉ
đạo chiến lược, dường như vẫn chưa bật đèn xanh cho các tập đoàn tư nhân phát triển, mà
vẫn nặng về tập đoàn nhà nước. Cần có “điều chỉnh” trong tư duy, khuyến khích tạo ra
tập đoàn tư nhân lớn, đủ sức cạnh tranh tầm quốc gia và thế giới. Với doanh nghiệp nhỏ,
nên có sự đổi mới công nghệ, định hướng phát triển và tiêu chuẩn hóa quản trị doanh
nghiệp. Đặc biệt, cần đảm bảo tính ổn định hệ thống, nhất là trong tái cấu trúc liên quan
đến khu vực tài chính - ngân hàng v.v… Ngoài ra, còn cần chú ý xử lý tốt các vấn đề liên
quan đến mua bán sáp nhập doanh nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp, an sinh xã hội.
+ Tự do hóa và phát triển cạnh tranh thị trường, thúc đẩy sớm hơn nếu có thể quá trình
tự do hóa theo khuôn khổ WTO. Những lĩnh vực không cần độc quyền vì không nhạy
cảm thì nên mở sớm và nhanh hơn nữa, ngay cả kinh doanh xăng, dầu, điện, thuốc,…
+ Tăng phạt hành chính những vi phạm về giá cả, chống đầu cơ và lũng đoạn, chống
lobby mang tính chất ngành và doanh nghiệp.
+ Thực hiện nghiêm việc đấu thầu thực chất các dự án, đặc biệt là được tài trợ bằng các
nguồn lực công, cũng như các hoạt động mua sắm chi từ nguồn đầu tư công; Cho các khu
vực doanh nghiệp tham gia rộng rãi, bình đẳng, chứ không phải chỉ khép kín trong khu
vực Nhà nước với nhau. Cơ quan chủ quản và chủ đầu tư không thể vừa lập dự án, vừa
“tuýt còi” cho các doanh nghiệp nào đó vào. Dự án vì lợi ích công, thì tất cả ai có đủ
năng lực và tiêu chuẩn phù hợp đều có quyền cạnh tranh thực hiện.
+ Trong vấn đề kiểm soát thị trường, chú ý đến liều lượng, thời lượng, chính sách bổ trợ
khi xây dựng và thực thi những giải pháp đã, đang và sẽ triển khai. Bất kỳ chính sách nào
cũng có hai mặt của nó, vì vậy phải lưu ý dự báo trước, chuẩn bị trước phương án, xác
định cơ chế phản hồi, phản biện, tiếp thu và không ngừng hoàn chỉnh, để phát huy mặt
tích cực, giảm tiêu cực của các chính sách được lựa chọn.
 + Coi trọng hơn nữa việc chống tham nhũng, sử dụng người tài, xây dựng và thống
nhất một hệ giá trị chuẩn quốc gia, cả về chính trị, kinh tế, xã hội, để tăng cường lòng tin
và sự đồng thuận xã hội, đảm bảo tất cả chính sách, tất cả những gì chúng ta phân biệt
đúng - sai phải theo chuẩn mực chung, tránh bị ngộ nhận hoặc bị nhiễu về chân giá trị…
Tham nhũng liên quan đến lạm phát vì còn làm tăng chi phí của doanh nghiệp, bỏ lỡ cơ
hội kinh doanh của doanh nghiệp, làm lệch các nguồn lực cần thiết vào những nơi cần
thiết, giảm hiệu quả đầu tư công, giảm hiệu quả của chính sách, tăng áp lực của lạm phát
và phát triển thiếu bền vững. Tham nhũng trong công tác tổ chức-cán bộ còn mang lại sự
nguy hại to lớn và lâu dài hơn nữa cho đất nước, vì chúng không chỉ tạo ra và dung
dưỡng những kẻ ăn bám, phá hoại, làm giảm năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà

11
nước trong phát triển KT-XH và chống lạm phát, mà còn làm xói mòn lòng tin, hủy hoại
các nguồn lực quốc gia, làm bạn bè thế giới xa lánh và đổ vỡ khối đại đoàn kết dân tộc,…
Vì vậy, Nhà nước cần xây dựng một cơ chế chống tham nhũng thực chất hơn, dân chủ
hơn, kiên quyết và hiệu quả hơn, phải coi chống tham nhũng trong công tác cán bộ như
một bước đột phá mới của cải cách hành chính. Trong lạm phát, mọi người càng cảm
nhận được tính cấp thiết của điều này. Đó cũng là một cơ hội mới tích cực mà lạm phát
tạo ra nên được tận dụng.

12

You might also like