You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN


Môn: Kinh tế chính trị Mác – Lênin

Họ và tên: Nguyễn Thu Thủy

Lớp học phần: KTCTMLN (121)_20

Số thứ tự: 14

MSSV: 11203902

Hà Nội – năm 2021


Trang 1

Đề 4:

Câu 1: 5 điểm

Phân tích quan điểm của C.Mác về lượng giá trị một đơn vị hàng hóa.

Theo quan điểm của C.Mác, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng
hóa, thì lượng giá trị một đơn vị hàng hóa sẽ biến đổi theo chiều hướng nào
(không thay đổi, tăng lên, giảm đi)? Giải thích?

Quan điểm trên có ý nghĩa như thế nào đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực sản
xuất?

Câu 2: 5 điểm

Làm rõ mối quan hệ giữa tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Phân tích ý nghĩa
của việc nghiên cứu chu chuyển của tư bản.

Bài làm

Câu 1:

C.Mác có quan điểm về lượng giá trị hàng hóa như sau: Lượng giá trị của
hàng hóa là số lượng lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa, được
đo bằng thời gian lao động hao phí để sản xuất hàng hóa bao gồm lao động vật
hóa (tư liệu sản xuất) và lao động sống.

Mỗi chủ thể kinh doanh có một lượng hao phí lao động thực tế nhất định
trong quá trình sản xuất hàng hóa, đó là thời gian lao động cá biệt. Thời gian này
xác định giá trị cá biệt của hàng hóa. Tuy nhiên, giá trị cá biệt này không thể
dùng để trao đổi một hàng hóa trên thị trường, mà phải dựa vào giá trị xã hội.
Giá trị xã hội này được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
hàng hóa. C.Mác đã viết: “Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại
lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy”. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời
gian cần thiết để sản xuất hàng hóa trong điều kiện trung bình của xã hội với
trình độ kĩ thuật trung bình, trình độ tay nghề trung bình và cường độ lao động
trung bình. Thông thường, thời gian lao động xây dựng cần thiết được xác định
Trang 2

theo thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung ứng một lượng
lớn hàng hóa trên thị trường.

Thực tế như vậy, ta có thể thấy một ví dụ là cùng một sản phẩm là chiếc túi
xách nếu một chiếc túi xách được làm thủ công, do chính người thợ tự tay đan
lên, và một chiếc túi xách được sản xuất theo dây chuyền, thực hiện công nghệ,
tự động hóa trong các giai đoạn thì đương nhiên giá trị của chiếc túi xách làm
thủ công sẽ cao hơn giá trị của chiếc túi xách được sản xuất theo dây chuyền.
Người thợ có thể mất một ngày, vài ngày hoặc thậm chí nhiều hơn để hoàn
thành một chiếc túi xách như vậy trong khi sản xuất trên dây chuyền, cũng trong
khoảng thời gian ấy, sẽ có thể có hàng trăm, hàng nghìn chiếc túi xách như vậy
ra đời. Tuy nhiên thì giá trị của những chiếc túi ấy không thể so với giá trị của
một chiếc túi xách được làm thủ công. Vì vậy, ở đây chúng ta mới nói rằng khi
một hàng hóa được trao đổi, giá trị của nó phải dựa vào yếu tố là giá trị xã hội
chứ không phải giá trị cá biệt.

Thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, kéo theo sự thay đổi của
lượng giá trị hàng hóa và sự thay đổi đó nó tùy thuộc vào các nhân tố như năng
suất lao động, cường độ lao động và loại lao động.

Năng suất lao động chính là số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị
thời gian của người lao động hay cũng chính là thời gian cần thiết để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động được chia thành hai loại là năng suất
lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội. như ở trên, chúng ta đã biết, giá trị
của một hàng hóa được trao đổi trên thị trường phụ thuộc vào giá trị xã hội chứ
không phải giá trị cá biệt của nó nên năng suất lao động xã hội là nhân tố quan
trọng ảnh hưởng đến giá trị xã hội của một hàng hóa. Lượng giá trị của hàng hóa
thay đổi tỉ lệ nghịch với năng suất lao động còn năng suất lao động lại phụ thuộc
vào trình độ công nghệ của người lao động, vào mức độ trang bị kĩ thuật cho lao
động, phương pháp tổ chức lao động và các điều kiện tự nhiên. Khi năng suất
lao động tăng lên thì thời gian để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm sẽ giảm
xuống, đó là điều tất nhiên và khi đó, giá trị của một đơn vị hàng hóa cũng sẽ
giảm. Thật vậy, với cùng một chiếc túi xách như ta đã ví dụ ở trên. Số lượng túi
xách sản xuất trong một đơn vị thời gian khi sản xuất trên dây chuyền đương
Trang 3

nhiên sẽ nhiều hơn khi một người thợ tự đan nó bằng tay. Số lượng sản xuất ra
nhiều hơn là do sự phát triển của công nghệ, máy móc, dây chuyền hiện đại,…
nhưng giá trị của nó lại không cao bằng sản phẩm thủ công.

Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa đó chính là cường độ
lao động. Cường độ lao động có thể hiểu là mức độ khẩn trương của lao động.
Trong cùng một đơn vị thời gian, cường độ lao động tăng lên thì số lượng sản
phẩm được sản xuất ra cũng tăng lên và hao phí sức lao động cũng tăng lên. Ba
đại lượng là cường độ lao động, số lượng sản phẩm sản xuất và hao phí sức lao
động tỉ lệ thuận với nhau với cùng hệ số tỉ lệ. Do vậy, tổng giá trị hàng hóa tăng
lên nhưng lượng giá trị của nó lại vẫn như vậy, không hề thay đổi. Chúng ta có
thể lấy một ví dụ đơn giản, khi sản xuất bánh mì, chúng ta sẽ phải trải qua các
công đoạn là nhào bột, chia bột thành các phần nhỏ, vê bột, rồi lên men sau đó
tạo hình bánh và mới đến công đoạn cuối cùng là nướng bánh. Quá trình sản
xuất bánh mì phải trải qua nhiều công đoạn và nếu cường độ lao động tăng lên
(như trên chúng ta hiểu rằng cường độ lao động là mức độ khẩn trương của lao
động) tức là ở mỗi công đoạn, chúng ta tiến hành với thời gian ngắn hơn, thì
những công đoạn sau sẽ được thực hiện sớm hơn và thời gian để bước đến công
đoạn nướng bánh, tạo ra những chiếc bánh hoàn chỉnh sẽ nhanh hơn và cứ như
thế, một vòng lặp quá trình sản xuất những chiếc bánh sẽ lại tiếp tục và cho ra số
lượng bánh mì nhiều hơn. Cường độ lao động tăng lên, năng suất lao động tăng
lên cũng đều tạo ra số lượng sản phẩm nhiều hơn nhưng hai yếu tố này hoàn
toàn khác biệt bởi khi cường độ lao động tăng lên thì giá trị hàng hoá không
thay đổi trong khi đó năng suất lao động tăng lại làm cho giá trị hàng hoá giảm
xuống.

Yếu tố thứ ba, ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa là loại lao động. Loại
lao động gồm có lao động giản đơn và lao động phức tạp. Đối với lao động giản
đơn, người lao động gồm những người không được đào tạo để có chuyên môn
nhất định, tức là những người lao động ấy chỉ làm việc trong môi trường lao
động rất bình thường mà bất kì người nào cũng đều có thể làm được những công
việc ấy mà không cần qua đào tạo. Ngược lại thì lao động phức tạp, người lao
động sẽ được đào tạo chuyên môn, kĩ thuật trong từng công việc cụ thể và chỉ
khi được đào tạo thì họ mới có thể hoàn thành được công việc. Ở đây, C.Mác
Trang 4

từng chỉ rõ: trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa đồng hồ tạo ra nhiều giá
trị hơn người rửa bát. Điều này là đúng, bởi công việc rửa bát là công việc hết
sức đơn giản, bất kì người bình thường nào cũng có thể làm được điều này trong
khi đó, sửa đồng hồ và công việc đơn giản, nếu không qua đào tạo, không được
học về các kĩ thuật sửa chữa đồng hồ thì không thể làm được, điều này nhất định
phải đòi hỏi một người thợ có chuyên môn, có thời gian huấn luyện tay nghề.
Chính vì thế, trong cùng một thời gian, lao động phức tạp sẽ tạo ra nhiều giá trị
hơn so với lao động giản đơn. Một ví dụ thực tế hơn, ngày nay sinh viên đi làm
thêm rất nhiều công việc để trang trải học phí cũng như cuộc sống khi học đại
học, chúng ta có thể thấy, các công việc làm thêm là vô cùng nhiều, tuy nhiên,
mỗi công việc lại đòi hỏi một yêu cầu khác nhau, có những công việc không đòi
hỏi một yêu cầu nào. Đối với những công việc không yêu cầu kinh nghiệm, cũng
không yêu cầu trình độ, chuyên môn như rửa bát thuê, phục vụ bàn, quét dọn,...
thì mức lương mà các bạn sinh viên nhận được chỉ dao động từ 20 – 25 nghìn
đồng một giờ. Trong khi đó, những công việc đòi hỏi bạn phải có trình độ, có
hiểu biết nhất định như là công việc gia sư, trợ giảng, nhân viên sale tại các
trung tâm Anh ngữ,... bạn có thể kiểm được gấp 5 – 6 lần so với những công
việc không cần chuyên môn, trình độ. Đương nhiên, để có thể làm công việc như
thế, bạn phải được đào tạo qua trường lớp từ các cấp, hoặc được đào tạo kiến
thức chuyên môn trước khi vào việc.

Tuy nhiên, để tiến hành trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được
quy thành lao động giản đơn trung bình trên cơ sở lao động phức tạp bằng bội số
của lao động giản đơn hay bằng lao động giản đơn nhân bội lên. Để cho các
hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hóa
do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động
phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.

Từ những phân tích ở trên, chúng ta có kết luận rằng cùng với sự phát triển
của sản xuất và trao đổi hàng hóa thì lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ
giảm đi. Và đây cũng chính là quan điểm của Các Mác về vấn đề này.
Trang 5

Quan điểm của C.Mác về lượng giá trị của hàng hoá đối với doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc nghiên cứu lượng giá
trị hàng hóa đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất là rất cần thiết.

Việc nghiên cứu về lượng giá trị của hàng hóa giúp các doanh nghiệp xác
định giá cả một cách hợp lý. Đối với một doanh nghiệp sản xuất, điều đầu tiên
trong mục tiêu hoạt động là tối đa hóa lợi nhuận. Khi nghiên cứu về lượng giá trị
của hàng hóa, doanh nghiệp đó có thể xác định được giá cả hợp lý của hàng hóa
bán ra để mang lại lợi nhuận cao nhất. Việc đưa ra giá bán phù hợp đối với hàng
hóa mình sản xuất ra chỉ tác động đến doanh thu, tác động đến doanh thu là chưa
đủ để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp còn cần quan tâm
đến yếu tố chi phí sản xuất. Lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí
sản xuất nên nếu như chi phí sản xuất là nhỏ nhất thì lợi nhuận thu về chắc chắn
sẽ lớn. Để tìm cách tối thiểu hóa chi phí, các doanh nghiệp sẽ phải tăng năng
suất lao động, đầu tư, phát triển máy móc, công nghệ kĩ thuật hiện đại trong sản
xuất, đầu tư giáo dục, nâng cao chuyên môn của người lao động, ... để tạo ra
khối lượng sản phẩm lớn mà không phải tiêu tốn nhiều nguồn lực. Như chúng ta
đã biết, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn trong
cùng một đơn vị thời gian nên các doanh nghiệp nên chú trọng nhiều hơn, nên
đầu tư vào những ngành lao động phức tạp để có thể thu về giá trị lớn nhất cho
doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp phải đầu tư vào việc đào tạo chuyên
môn, nâng cao tay nghề cho người lao động, đồng thời thực hiện các biện pháp
khuyến khích người lao động như chính sách tăng lương, bảo hiểm, chế độ chăm
sóc sức khỏe, tiền thưởng, ... để người lao động có động lực cố gắng và tạo ra
giá trị cho doanh nghiệp.

Câu 2:

Tuần hoàn của tư bản là sự vận động theo 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là
giai đoạn lưu thông theo công thức T – H. Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường
các yếu tố sản xuất để mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Giai đoạn này tư
bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ, chức năng giai đoạn này là mua các yếu
tố cho quá trình sản xuất, tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất. Giai
đoạn thứ hai là giai đoạn sản xuất theo công thức H – H'. Ở giai đoạn này tư bản
Trang 6

tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất, có chức năng thực hiện sự kết hợp giữa
hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất ra hàng hóa mà trong giá
trị của nó có giá trị thặng dư. Giai đoạn sản xuất này có ý nghĩa quyết định nhất
trong tất cả các giai đoạn tuần hoàn của tư bản do nó gắn trực tiếp với mục đích
của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Kết thúc giai đoạn thứ hai, tư bản sản xuất đã
chuyển hóa thành tư bản hàng hóa. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn lưu thông H' –
T'. Ở giai đoạn này, tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản hàng hóa, chức năng là
thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra trong đó đã bao hàm
một lượng giá trị thặng dư. Giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư
cách là người bán hàng. Hàng hóa của tư bản được chuyển hóa thành tiền. Kết
thúc giai đoạn thứ ba, tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản tiền tệ. Đến đây
thì mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình thái ban
đầu trong tay chủ của nó nhưng với số lượng lớn hơn trước. Sự vận động của tư
bản qua ba giai đoạn trên là sự vận động có tính tuần hoàn: tư bản ứng ra dưới
hình thái tiền và khi quay trở về cũng dưới hình thái tiền có kèm theo giá trị
thặng dư. Quá trình đó được tiếp tục lặp đi lặp lại không ngừng gọi là sự vận
động tuần hoàn của tư bản. Vậy, chúng ta có kết luận rằng tuần hoàn của tư bản
là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình
thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác nhau để rồi lại quay về hình thái
ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư. Như vậy, tuần hoàn của tư bản chỉ có thể
tiến hành bình thường trong điều kiện các giai đoạn khác nhau của nó không
ngừng được chuyển tiếp, hết giai đoạn này thì mới chuyển sang giai đoạn tiếp
theo và cứ thế lặp đi lặp lại. Bên cạnh đó, tư bản phải nằm lại ở mỗi giai đoạn
tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Hay nói cách khác, tuần hoàn của tư
bản diễn ra được nếu hai điều kiện sau đây thỏa mãn: các giai đoạn của chúng
diễn ra liên tục, và các hình thái tư bản cùng tồn tại và được chuyển hóa một
cách đều đặn. Vì vậy, tư bản là một sự vận động tuần hoàn của tư bản, là sự vận
động liên tục không ngừng. Tương ứng và phù hợp với ba giai đoạn của tuần
hoàn của tư bản, chúng ta có ba hình thái tư bản là tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất
và tư bản hàng hóa. Để tái sản xuất diễn ra một cách bình thường thì tư bản xã
hội cũng như từng tư bản cá biệt đều tồn tại cùng một lúc dưới cả ba hình thái.
Ba hình thái đó không phải là của ba loại tư bản khác nhau mà là của cùng một
tư bản biểu hiện trong quá trình vận động của nó. Tuy nhiên, trong quá trình vận
Trang 7

động ấy cũng có sự tách rời giữa các hình thái tư bản. Trong quá trình phát triển
của chủ nghĩa tư bản, khả năng tách rời các hình thái tư bản làm xuất hiện tư bản
thương nghiệp và tư bản cho vay, hình thành các tập đoàn khác trong giai cấp tư
bản: chủ công nghiệp, chủ ngân hàng, nhà buôn,... chia nhau giá trị thặng dư.

Việc nghiên cứu về tuần hoàn của tư bản chính là nghiên cứu mặt chất trong
sự vận động của tư bản, còn khi nghiên cứu về mặt lượng của sự vận động ấy thì
chúng ta phải nghiên cứu về chu chuyển của tư bản. Tuần hoàn của tư bản là quá
trình lặp đi lặp lại và sự lặp đi lặp lại đó được gọi là chu chuyển của tư bản.
Những tư bản khác nhau thì chu chuyển với tốc độ khác nhau tùy theo thời gian
sản xuất và lưu thông của hàng hóa. Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm
thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.

Thứ nhất, thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản
xuất. Nó bao gồm thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian
dự trữ sản xuất. Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do ảnh hưởng của
nhiều nhân tố như tính chất của ngành sản xuất, quy mô hoặc chất lượng các sản
phẩm hay sự tác động của tự nhiên đối với sản xuất, năng suất lao động và tình
trạng dự trữ các yếu tố sản xuất.

Thứ hai, thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu
thông. Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất do đó
không sản xuất ra hàng hóa cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian
lưu thông gồm thời gian mua và thời gian bán hàng hóa. Thời gian lưu thông dài
hay ngắn còn phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ xa hay gần, tình hình thị trường
biến động có xu hướng tốt hay xấu, ...

Thời gian chu chuyển của tư bản càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị
thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn. Các loại tư bản
khác nhau, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau thì số vòng chu chuyển cũng
khác nhau. Và để so sánh tốc độ vận động của các loại tư bản khác nhau, người
ta đưa a con số là số vòng chu chuyển của tư bản. Số vòng chu chuyển của tư
bản chính là tỉ lệ giữa thời gian trong năm với thời gian cho một vòng chu
chuyển của tư bản. Nếu một vòng chu chuyển có thời gian là 3 tháng thì trong
một năm sẽ có 12 tháng/3 tháng bằng 4 vòng chu chuyển của tư bản. Như vậy,
Trang 8

tốc độ chu chuyển của tư bản hay số vòng chu chuyển của tư bản tỉ lệ nghịch với
thời gian một vòng chu chuyển của tư bản nên muốn tăng tốc độ chu chuyển của
tư bản thì phải rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của nó.

Sau khi tìm hiểu về chu chuyển tư bản, ta rút ra được việc nghiên cứu chu
chuyển tư bản có ý nghĩa rất thực tiễn trong sản xuất và kinh doanh. Vận dụng
nghiên cứu chu chuyển tư bản trong sản xuất kinh doanh giúp các doanh nghiệp
có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao. Khi nghiên cứu về chu chuyển tư bản,
chúng ta cũng cần phải nghiên cứu về việc chu chuyển hai bộ phận giá trị của tư
bản sản xuất là tư bản cố định và tư bản lưu động.

Tư bản cố định là tư bản tham gia vào quá trình sản xuất nhưng giá trị của
nó được chuyển dần dần vào sản phẩm. Tư bản cố định được sử dụng lâu dài và
hao mòn dần trong quá trình nó làm việc. Có thể kể đến một số tư bản cố định
như dây chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất, nhà máy, nhà
xưởng sản xuất,... Ở tư bản cố định, có hai loại hao mòn là hao mòn vô hình và
hao mòn hữu hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về giá trị sử dụng, về vật chất
hay hao mòn về cơ học mà có thể nhận thấy. Ví dụ như là máy móc sử dụng lâu
thì bị khô dầu, các bộ phận máy bị bào mòn, bị han gỉ, ... và các loại tư bản cố
định đó cần được sửa chữa, nâng cấp, thay thế các bộ phận hỏng để tăng tuổi thọ
của nó. Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Loại hao mòn
này xảy ra ngay cả khi chất lượng máy móc, thiết bị còn tốt nhưng so với thị
trường, nó bị mất giá, xuất hiện các máy móc hiện đại hơn, có giá trị tương
đương nhưng công suất hoạt động cao hơn. Dây chuyền sản xuất, hay công nghệ
sản xuất cũng có thể bị hao mòn vô hình. Đó người ta gọi là lỗi thời về công
nghệ, kĩ thuật và thiết bị sản xuất. Để tránh hao mòn vô hình, nhà tư bản cần tìm
cách kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động để tận dụng công suất
của máy móc, thiết bị trong thời gian càng ngắn càng tốt. Hao mòn vô hình xảy
ra khi thời gian sử dụng tư bản kéo dài khiến nó dễ bị lỗi thời nên việc rút ngắn
thời gian tận dụng nó là điều vô cùng cần thiết. Khi tăng tốc độ chu chuyển của
tư bản cố định bằng việc rút ngắn thời gian sử dụng như trên, quỹ khấu hao tài
sản cố định sẽ tăng lên làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên, tránh được thiệt
hại hao mòn hữu hình do tự nhiên và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ vậy, các
công ty, doanh nghiệp mới có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh, bắt kịp xu thế
Trang 9

hiện tại, tránh lỗi thời của công nghệ và máy móc, đồng thời tận dụng tối đa giá
trị sử dụng của tài sản trước khi nó bị hao mòn.

Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng các tài sản có
thể luân chuyển, lưu động như là nguyên vật liệu, nhiên liệu, sức lao động, ... giá
trị của nó lưu thông toàn bộ cùng với sản phẩm và được hoàn lại toàn bộ cho các
nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất. Tư bản lưu động có tốc độ chu chuyển
nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động
không có ý nghĩa quan trọng. Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng
lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng, tiết kiệm được tư bản ứng
trước và bên cạnh đó, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến tăng lên
làm tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên.

Như vậy, từ việc phân tích về tư bản lưu động và tư bản cố định, chúng ta rút
ra được ý nghĩa khi nghiên cứu chu chuyển của tư bản nói chung như sau: Để
nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản, thu hồi vốn nhanh thì cần phải tăng tốc độ
chu chuyển tư bản cố định, tận dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị. Phải đẩy
nhanh tốc độ xây dựng để đưa công trình, máy móc vào sản xuất càng sớm càng
tốt. Quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn nhanh sẽ góp phần thúc đẩy phát
triển kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu về chu chuyển của tư bản cũng
như tuần hoàn của tư bản sẽ giúp các doanh nghiệp tìm ra các biện pháp phù hợp
để tăng tốc độ chu chuyển vốn và đó chính là quá trình tái sản xuất vốn. Tái sản
xuất vốn mở rộng dẫn đến lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên, từ đó tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Từ đó góp phần tích cực đến
sự phát triển của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế đất nước.

You might also like