You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ CẦN THƠ

KHOA QUẢN LÝ CÔNG NGHIỆP

-----o0o-----

MÔN ĐO LƯỜNG LAO ĐỘNG VÀ THIẾT KẾ CÔNG


VIỆC CHO SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
Lớp: Kỹ Thuật Hệ Thống Công Nghiệp – Khóa 2

GVHD: Thầy Nguyễn Văn Thành

Thành viên thực hiện: Lưu Thị Mỹ Thanh

Dương Duy Hùng Trần Thị Thùy Dương

Cao Thị Anh Thư Đặng Thu Liễu

Phạm Anh Thư Trần Lữ Minh Khánh

Trần Chí Thanh Phan Thị Tú Nguyên


Chương 8

NGHIÊN CỨU ĐỊNH MỨC THỜI GIAN

Nghiên cứu thời gian là một kỹ thuật thiết lập định mức thời gian cho phép để
hoàn thành công việc đã cho. Kỹ thuật này dựa trên cơ sở đo lường công việc được
chứa trong phương pháp đã mô tả, với sự thừa nhận bù trừ hợp lý đối với sự mệt mỏi,
cá tính con người và sự chậm trễ không thể tránh khỏi khi thực hiện công việc được
giao.

Với sự phát triển mạnh của nền công nghiệp hiện đại và sự cạnh tranh ngày
càng tăng cao, nhà quản lý phải xem xét mọi khía cạnh trong quy trình để giúp nâng
cao năng suất và đem lại lợi thế cho doanh nghiệp. Thực hiện Nghiên Cứu Định Mức
Thời gian là một trong những kỹ thuật giúp nhà quản lý làm được điều đó.

Do đó mục tiêu chính của Chương 8 là:

 Sử dụng kỹ thuật Nghiên cứu định mức thời gian để xác định thời gian
chuẩn.

 Sử dụng cả hai yếu tố hình ảnh và âm thanh để tìm thời điểm


Breakpoints – thời điểm mà sự gián đoán hoặc sự thay đổi diễn ra
nhằm mục đích phân chia hoạt động ra thành các nhân tố nhỏ.

 Sử dụng phương pháp định mức thời gian liên tục (continuous timing)
để xây dựng được bản ghi nhận đầy đủ nhất.

 Sử dụng phương pháp định mức thời gian ngắt quãng (snapback
continuous) để tránh những sai sót trong ghi chép.

 Thực hiện kiểm tra thời gian để xác nhận lại giá trị của Nghiên Cứu
Thời Gian
8.1. NHỮNG ĐỊNH MỨC VỀ THỜI GIAN:
Định mức thời gian là thời gian yêu cầu thực hiện một quá trình đặc biệt nào đó
được xác định theo một phương pháp khoa học.

Nhu cầu của định mức thời gian:

1. Thời gian định mức cho chúng ta biết sẽ tốn bao nhiêu thời gian để sản xuất ra
một sản phẩm, định nghĩa là tỷ lệ hiệu suất làm việc của một nhân viên tận tâm có
trình độ khi làm việc không nhanh cũng không chậm.

2. Khi biết được thời gan định mức của quá trình sản xuất, chúng ta có thể xác
định được chi phí sản xuất, và từ đó có thể định giá chính xác cho sản phẩm.

3. Ước lượng thời gian phân phối sản phẩm đến khách hàng.

4. Khi phát triển những sản phẩm tương tự trong thiết kế và những yêu cầu xử lý,
chúng ta có thể dự đoán đúng việc nó sẽ dùng trong chế tạo, định giá,… thời gian như
thế nào.

5. Nếu đo lường được 1 quá trình thì có thể cải thiện và cải tiến nó.

6. Biết thời gian cho 1 quá trình bao lâu ta có thể triển khai một kế hoạch điều độ
sản xuất và xác định được số người sản xuất.

7. Cho phép so sánh phương án lựa chọn để sán xuất ra sản phẩm cũng như việc
mua máy mới.

8. Giúp xác định thời gian làm việc hợp lí trong ngày, đánh giá năng suất làm việc
của công nhân, điều này có nghĩa là các nhân viên nên cung cấp cho một ngày làm
việc đối với thời gian mà họ được trả tiền, với các khoản phụ cấp hợp lý. Nhân viên
dự kiến sẽ hoạt động trong các phương pháp quy định tại một tốc độ không phải là
nhanh hay chậm, nhưng một trong đó có thể được coi là đại diện của tất cả các ngày
thực hiện bởi các nhân viên nghiên cứu.

9. Giúp xác định bao nhiêu máy phải mua để sản xuất.

10. Giúp cân bằng một dây chuyền lắp ráp, cân bằng cho người lao động và cả
công ty.

Cách thức thực hiện

 Phát triển thời gian định mức như mọi dự án quy mô lớn khác

 Thành lập các hội đồng quản lý


 Lập kế hoạch

 Cải tiến toàn bộ quá trình

Bốn phương pháp phát triển thời gian định mức

 Ước lượng công việc mất thời gian là bao lâu

 Hồ sơ các công việc trong quá khứ

 Đo thời gian máy

 Công việc đo lường các thủ tục

8.2. ƯỚC LƯỢNG:


Là sự phỏng đoán, với người từng làm người có sự từng trải với một sản phẩm
hay một quá trình, để phỏng đoán thời gian cần để tạo ra sản phẩm hoặc trong một
quá trình

Những lợi thế:

 Thời gian thực hiện nhanh

 Không tốn nhiều chi phí

 Không yêu cầu nhiều công sức từ nhân viên kỹ thuật

 Cung cấp một ý tưởng ban đầu, và những yêu cầu thời gian để sản xuất 1 sản
phẩm

 Những bất lợi

 Có thể thông tin không chính xác

 Khó để kiểm tra chéo

 Nếu sủ dụng những tiêu chuẩn, có thể dẫn đến những lỗi bên trong hoạch định,
đặt giá và sự giao hàng

 Có thể gây ra cho người lao động những vấn đề nếu những tiêu chuẩn đặt ra
quá chặt chẽ

 Có thể gây ra sự không hiệu quả nếu những tiêu chuẩn lỏng quá chi phí cuối
cùng của công ty nhiều hơn để sản xuất ra sản phẩm
8.3. NGÀY LÀM VIỆC HỢP LÝ:
Nghiên cứu thời gian thường được định nghĩa như là phướng pháp xác định sự
làm việc trong ngày cho hợp lỹ. Nguyên lý cơ bản của sự quan hệ công việc và tiền
công là người làm công được quyền trả tiền lương ngày công hợp lý.

Các trang thiết bị tối thiểu cần thiết để tiến hành một chương trình nghiên cứu
thời gian bao gồm một đồng hồ bấm giờ, tàu nghiên cứu thời gian, hình thức thời gian
nghiên cứu, và máy tính bỏ túi, thiết bị bằng video cũng có thể rất hữu ích.

Một ngày làm việc hợp lý có thể được định nghĩa là số lượng công việc có thể
được sản xuất bởi một nhân viên khi làm việc với tốc độ tiêu chuẩn và hiệu quả sử
dụng của mình hoặc thời gian của mình, nơi làm việc không bị hạn chế bởi hạn chế
quá trình. Định nghĩa này không làm rõ những gì có nghĩa là nhân viên có trình độ,
tốc độ tiêu chuẩn, và sử dụng có hiệu quả của tính linh hoạt. Ví dụ, nhân viên có trình
độ hạn có thể được định nghĩa như là một trung bình đại diện của những nhân viên
được đào tạo đầy đủ và có thể thỏa đáng để thực hiện bất kỳ và tất cả các giai đoạn
của công việc liên quan.

Tốc độ tiêu chuẩn có thể được định nghĩa là tỷ lệ hiệu quả của hiệu suất của
một nhân viên có trình độ niệm khi làm việc không nhanh cũng không chậm và đưa ra
xem xét do các yêu cầu về thể chất, tinh thần, hoặc hình ảnh của các công việc cụ thể.
Một cách giải thích rõ rằng là một công nhân đi bộ mà không cần tải với tốc độ 3
dặm/h.

Ngoài ra còn có một số không chắc chắn về định nghĩa của việc sử dụng hiệu
quả. Thông thường điều này có thể duy trì một tốc độ tiêu chuẩn trong khi thực hiện
các yếu tố cần thiết của công việc trong tất cả các phần của ngày ngoại trừ việc đó là
cần thiết cho việc nghỉ ngơi hợp lý và nhu cầu cá nhân, trong trường hợp mà trong đó
công việc không phụ thuộc vào quá trình, thiết bị, hoặc hạn chế điều hành khác.

Nói chung, một ngày làm việc hợp lý là một trong đó là công bằng cho cả công
ty và người lao động. Điều này có nghĩa rằng các nhân viên nên cung cấp cho một
ngày làm việc đối với thời gian mà anh ta hay cô ta được trả tiền, với các khoản phụ
cấp hợp lý cho sự chậm trễ cá nhân, sự chậm trễ không thể tránh khỏi, và mệt mỏi.
Nhân viên dự kiến sẽ hoạt động ở vị trí trước phương pháp với một tốc độ mà không
phải là nhanh hay chậm, nhưng một trong đó có thể được coi là đại diện thực hiện tất
cả các ngày do có kinh nghiệm, hợp tác lao động. Thời gian nghiên cứu là một
phương pháp xác định công việc của một ngày làm việc hợp lý.
Các nhà phân tích nghiên cứu thời gian nên đảm bảo rằng phương pháp đúng là
đang được sử dụng, ghi nhận chính xác thời gian thực hiện, đánh giá chính xác hiệu
suất của nhà điều hành cần, và tránh bất kỳ sự chỉ trích hành. Công việc của nhà phân
tích phải được hoàn toàn đáng tin cậy và chính xác. Thiếu chính xác và phán đoán
kém sẽ không chỉ ảnh hưởng đến các nhà điều hành và các công ty tài chính, nhưng
cũng có thể dẫn đến mất lòng tin của các nhà điều hành và các công đoàn. Các nhà
phân tích nghiên cứu thời gian nên luôn luôn trung thực, lịch thiệp, dễ chịu, kiên nhẫn
và nhiệt tình, và phải luôn luôn dùng sự suy xét tốt.

8.4. ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ NGHIÊN CỨU THỜI GIAN:


 Một vài điều kiện cần thiết cơ bản phải thực hiện trước khi nghiên cứu thời
gian.

 Nhà phân tích sẽ nói với hiệp hội người quản lý, bộ phận người giám sát và
người vận hành về công việc được nghiên cứu.

 Người thực hiện sẽ kiểm tra rằng họ đang làm đúng phương pháp và trở thành
quen thuộc với tất cả những chi tiết của công việc hoạt động đó.

 Người giám sát sẽ kiểm tra phương pháp làm chắc chắn như: lượng chạy dao,
tốc độ cắt, dụng cụ cắt,…tuân theo tiêu chuẩn thực tế, được thiết lập bởi bộ phận
nghiên cứu phương pháp. Bên cạnh đó, người giám sát sẽ điều tra nghiên cứu số
lượng vật tư cần thiết, tránh trường hợp thiếu xảy ra trong thời gian nghiên cứu.

 Hiệp hội người quản lý sẽ bảo đảm rằng chỉ có thông qua huấn luyện, những
người thực hiện mới có khả năng được lựa chọn, họ sẽ giải thích tại sao sự nghiên cứu
được thực hiện và trả lời bất cứ câu hỏi nào đặt ra của người vận hành.

8.4.1. Nhiệm vụ của nhà phân tích:


 Nhà phân tích phải quan sát công nhân ở các khâu làm việc và đánh giá thời
gian thực tế hoàn thành công việc.

 Chắc chắn phương pháp dùng đúng, ghi lại thời gian thực hiện một cách chính
xác, đánh giá một cách trung thực sự hoàn thành của người vận hành và khả năng tự
kiềm chế từ bất kì lời chỉ trích nào của nhà phê bình.

 Để đạt được cũng như để duy trì mối quan hệ tốt với con người thì họ phải là
người luôn trung thực, lịch thiệp, dễ chịu, kiên nhẫn, thiện cảm, luôn dùng đầu óc
phán đoán tốt và đặc biệt đòi hỏi họ phải là người có phẩm chất tốt nhất.
8.4.2. Nhiệm vụ của nhà giám sát:
 Người giám sát sẽ thông báo trước cho người thực hiện công việc học được
giao nghiên cứu.

 Họ phải kiểm tra dụng cụ cắt có hoàn toàn đúng không, dung dich bôi trơn
được dùng có đúng không và lựa chọn đúng lượng chạy dao, tốc độ cắt , chiều sâu cắt.

 Bên cạnh đó, phải giám sát chắc chắn rằng người thực hiện sử dụng đúng
phương pháp được mô tả, giúp đỡ, huấn luyện và giải đáp thắc mắc một cách tận tâm
cho tất cả các công nhân thực hiện phương pháp này.

 Sau khi công việc nghiên cứu thoief gian hoàn tất, người giám sát kí tên vào
bản thảo gốc, để xác nhận làm đúng theo nghiên cứu.

8.4.3. Nhiệm vụ của hiệp hội:


 Thông qua các chương trình huấn luyện, hiệp hội sẽ giáo dục tất cả những
thành viên của họ về những nguyên lý, lý thuyết, kinh tế cần thiết của sự thực hành
nghiên cứu thời gian.

 Hiệp hội sẽ ghi lại đầy đủ những điều kiện công việc bao gồm: phương pháp
làm việc và sự bố trí làm việc.

 Hiệp hội sẽ huấn luyện cho những thành viên về những yếu tố nghiên cứu
thoief gian, thuyết phục, khuyến khích các thành viên hợp tác với nhà phân tích
nghiên cứu thời gian.

8.4.4. Nhiệm vụ của người vận hành:


 Cho những phương pháp mới với những thử nghiệm công bằng, thực hiện
những đề suất để cải thiện những phương pháp hơn nữa.

 Do họ gần gũi công việc hơn bất kì người nào khác nên họ có thể đóng góp ý
kiến thực tế cho công ty để hỗ trợ thiết lập ý tưởng của phương pháp.

 Có thể giúp nhà phân tích nghiên cứu thời gian phân chia công việc thành
những công việc nhỏ, đảm bảo rằng tất cả các công việc được bao phủ một cách đặc
biệt chi tiết.

 Sử dụng chính xác phương pháp được mô tả.

8.5. THIẾT BỊ NGHIÊN CỨU THỜI GIAN:


8.5.1. Đồ hồ bấm giờ (stopwatch):
Ngày nay các công ty, các doanh nghiệp sản xuất thường sử dụng hai loại đồng hồ
bấm giờ.

- Loại truyền thống, đồng hồ bấm được đến 0,01 phút.

- Loại đồng hồ điện tử, thường dung nhiều hơn và có thể bấm đến 0,001 giây,
độ chính xác 0,002%.

Hình 8.5.1 Đồng hồ bấm truyền thống Hình 8.5.2 Đồng hồ bấm giờ điện tử

8.5.2. Đồng hồ bấm giờ điện tử có hổ trợ máy tính:


Dữ liệu quan sát được mã hóa và ghi lại trong bộ nhớ máy tính. Thời gian trôi
qua được ghi lại một cách tự động nhờ các phần mền trên máy tính được tích hợp một
cách trực tiếp. Dữ liệu thời gian có thể truyền trực tiếp từ DataMyte đến hầu hết các
máy tính có lien kết , hổ trợ với nhau thông qua cáp truyền. Máy tính in các tổng kết
và loại bỏ được việc tính toán bằng tay. Ưu điểm của việc áp dụng đồng hồ bấm giờ
có hổ trợ máy tính sẽ giúp tính được thời gian chính xác hơn, nhanh hơn . nhượt điểm
phức tạp hơn và khó hơn việc xác định thời gian bằng đồng hồ thông thường.
Chương trình nghiên cứu thời gian QuickTS trên máy PDA ( Personal Digital
Assistant )

Đồng hồ bấm giờ điện tử có hổ trợ máy tính

8.5.3. Máy quay phim:


Máy quay phim (videotape cameras) là dụng cụ để ghi lại các hoạt động của
người vận hành và thời gian trôi qua. Bằng các hình ảnh được lưu lại trong bộ nhớ sau
đó được các nhà phân tích , các nhà nghiên cứu thời gian sẽ nhìn vào hình ảnh và thời
gian diển ra được lưu lại một cách chính xác để thiết lập thời gian chuẩn, bằng cách
chiếu phim lại ở các tốc độ khác nhau khi những hình ảnh được ghi nhận lại qua máy
quay phim để tính mức độ thực hiện của các thao tác của người vận hành công việc.

8.5.4. Bìa cứng dung cho việc nghiên cứu thời gian:
Khi bấm giờ được thực hiện, những người thực hiện bấm giờ sẽ tìm các bìa
cứng thích hợp để giữ các mẫu (forms) để xác định thời gian trong quá trình bấm giờ.
Tấm bìa phải nhẹ để không làm mỏi tay và đủ cứng để gáy bài có thể giữu các mâu
nghiên cứu thời gian, và thuận lợi khi viết. Vật liệu thường là tấm gỗ dán hay plastic.
Tất cả các chi tiết nghiên cứu được ghi nhận lại trên các mẩu nghiên cứu thời gian trên
để các nhà phân tích thời gian tiến hành nghiên cứu thời gian.

8.5.5. Những mẫu nghiên cứu thời gian:


Tất cả những chi tiết của việc nghiên cứu thời gian được ghi nhận lại trên các
mẫu nghiên cứu thời gian. Mẫu nghiên cứu thời gian cung cấp không gian ghi lại tất
cả những thông tin có liên quan đến phương pháp nghiên cứu thời gian, các công cụ…
Hoạt động nghiên cứu thời gian được xác định bởi những thông tin : tên và số người
thực hiện, mô tả số các công việc cần thực hiên trong nghiên cứu thời gian,tên máy và
số máy, dụng cụ đặt biệt và số lượng tương ứng của chúng,bộ phận mà ở đó các công
việc được thực hiện và những điều kiện làm việc trong quá trình xác định thời gian.

Bảng 8.1 mẫu quan sát nghiên cứu thời gian( nghiên cứu bấm giờ công việc đúc)

Nghiên cứu số: Ngày: Trang :


Công việc: đúc Người vận hành Quan sát:
Số phần tử Tháo chi tiết,tra dầu mỡ Đặt chi tiết vào đồ gá,làm cùn
và mô tả khuôn, kiểm tra cạnh sắc
Ghi Chu
R W OT NT R W OT NT R W OT NT
chú kỳ
1 90 30 270 90 23 207
2 100 27 270 100 21 210
3 90 31 279 90 23 207
4 85 35 298 100 20 200
5 100 28 280 100 20 200
6 110 25 275 110 18 198
7 90 31 279 90 24 216
8 100 28 280 85 24 204
9 90 32 288 90 23 207
10 110 26 286 105 19 200
11
12

Tổng cộng

Tổng cộng OT 2,93 2,15


Tỷ lệ - -
Tổng cộng NT 2,805 2,049
Số quan sát 10 10
Trung bình NT 0,281 0,205
% khấu trừ 17 17
Thời gian định mức phần tử 0,329 0,240
Số sự cố xảy ra 1 1
Thời gian định mức 0,329 0,240

8.6. NHỮNG YẾU TỐ NGHIÊN CỨU THỜI GIAN:


Cách hướng dẫn thực tế của việc nghiên cứu thời gian bao gồm cả nghệ thuật
và khoa học. Để thành công, nhà phân tích phải gây truyền cảm tưởng, cùng óc phán
đoán và việc thực hiện để phát triển phương pháp phù hợp với mọi người khi họ đến
tiếp xúc. Những kiến thức cơ bản và tập huấn giúp họ hiểu được một cách thông suốt
và thực hiện những nhiệm vụ khác nhau. Những yếu tố này bao gồm: Lựa chọn người
thao tác, phân tích công việc và sự dừng công việc, ghi lại những giá trị cơ bản của
thời gian trôi qua, hiệu suất công việc của người thao tác, sự bù trừ hợp lí cho công
việc được giao và sự tiến triển việc nghiên cứu.

8.6.1.Chọn người thao tác:


Tiêu chuẩn của sự chọn lọc người thao tác: kỹ năng , trung bình . Một thao tác
viên phải là trung bình hoặc có phần ở trên tính trung bình trong sự thực hiện nghiên
cứu tốt hơn một ít.

Tại sao cần chọn một người trung bình có sự nghiên cứu thao tác ?

 Đánh giá sự chính xác: Chúng ta đang giả định định mức thời gian một công
việc. Giả sử một công nhân làm việc ở mức bình thường không quá chậm hoặc quá
nhanh. Chúng ta đang thử đánh giá phương pháp chứ không phải là thao tác viên
 Sự công nhận của công nhân: Chúng ta muốn công nhân chấp nhận định mức
khi nó phát triển. Những công nhân thường không tin rằng lãnh đạo họ tin cậy họ,
những định mức được điều chỉnh càng nhiều.

 Đi từng bước : Chọn người nào đó làm việc kiên định và có hệ thống

 Sự huấn luyện: Người thao tác sẽ được học, cần phải được huấn luyện trong
những thủ tục mong muốn.

 Sự từng trải: Người thao tác cần phải có đủ thời gian trải qua những phương
pháp sẽ được học

 Sự tin tưởng : Chọn một thao tác viên tin cậy quản lí để tăng thêm những cơ
hội của việc có thời gian định mức

 Thái độ : Chọn người nào đó đủ hợp tác để đi theo, sẵn lòng với những gợi ý
làm bởi cả bạn lẫn giám thị

8.6.2.Ghi nhận những thông tin:


Nhà phân tích cần ghi lại những thông tin như: máy móc, công cụ cầm tay, đồ
gá hay bộ phận kẹp chặt, điều kiện làm việc, vật tư, các hoạt động, tên người vận hành
và số giờ, bộ phận nào, ngày nghiên cứu và tên người quan sát.

Khi những máy công cụ được sử dụng, cần xác định tên, kích thước, kiểu, công
suất và số seri hay kho, điều kiện làm việc.

8.6.3.Vị trí người quan sát:


Người quan sát phải đứng không được ngồi, khoảng cách vài feed so với chỗ người
vận hành. Có thể di chuyển xung quanh . Trong quá trình nghiên cứu tránh đối thoại
với người vận hành.

8.6.4.Chia thao tác thành những phần tử công việc:


Để việc nghiên cứu dễ dàng đánh giá, có thể chia nhỏ công việc thực hiện ra
thành những phần tử công việc. Do đó, cần phải bấm giờ người vận hành ở nhiều chu
kì. Nếu thời gian chu kì quá 30 phút, nhà phần tích có thể viết mô tả những phần tử
công việc trong khi thực hiện nghiên cứu. Nếu có thể cần xác định phần tử công việc
trước khi nghiên cứu.

8.7. THỰC HIỆN VIỆC NGHIÊN CỨU:


Bắt đầu nghiên cứu, cần ghi lại những thời gian trong ngày ( tất cả bằng phút )
từ dụng cụ bấm giờ. Khi bấm giờ, cần ghi lại những con số bỏ qua chữ thập phân. Nếu
dùng số thập phân của phút, ví dụ như bấm giờ ở phần tử công việc đầu tiên là 0.08
phút, chỉ lấy số 8. Tham khảo bảng 8.2

Bảng 8.2 Cách ghi giá trị đọc khi bấm thời gian liên tục

Đọc liên tiếp giá trị bấm giờ, tính Cách ghi Đọc liên tiếp giá trị bấm giờ, Cách ghi
số thập phân của phút số đọc tính số thập phân của phút sô đọc

0,08 8 2,10 10

0,25 25 2,15 15

1,32 132 2,71 71

1,35 35 3,05 305

1,41 41 3,17 17

2,01 201 3,25 25

Bảng 8.3 Nghiên cứu thời gian liên tục đối với công việc đúng khuôn
Tổng thời gian định mức: 0,569

Phiếu quan sát thời gian Nghiê Ngày nào Người quan
cứu cố: cũng: sát
Người
vận hành

Số phần tử và 1-Tháo 2-Đặt chi Công viếc Người Người quan sát
mô tả chi tiết ra tiết vào đồ vận
khuôn, gá, làm chuyển
bôi trơn cùn cạnh
khuôn, sắt nhọn
kiểm tra

Ghi Chu
chú kỳ

3
4

10

11

12

Có 2 phương pháp bấm giờ:

- Bấm giờ có trở về lại “ 0 “

- Bấm giờ liên tục

Phương pháp bấm giờ có trở lại ” 0 “: Một vài nhà nghiên cứu cho rằng có thể
dùng cả 2 phương pháp, đối với những phần tử công việc có thời gian lâu thì dùng
phương pháp trởi lại “0 “, còn lại những nghiên cứu thời gian công việc ngắn thì dùng
phương pháp bấm giờ liên tục tốt hơn. Khi phần tử công việc trôi qua, giá trị được ghi
trực tiếp trên đồng hồ không cần ghi chép lại thời gian để dùng phép trừ tính ra từng
phần tử công việc, có thể ghi trực tiếp vào cột OT thời gian quan sát. Tuy nhiên, thực
tế bị sai sót khi dùng để quan sát những chu kì quá nhỏ để xác định có bao nhiu chu kì
thêm vào việc nghiên cứu.Bất lợi của phương pháp này là nó khuyến khích sự chuyển
tiếp của những phần tử công việc riêng biệt hoạt động, điều này không thể nghiên cứu
độc lập được bởi những thời gian của phần tử công việc phụ thuộc vào những phần tử
công việc trước và tiếp theo. Kết quả là bỏ quên những yếu tố như trễ, những phần tử
lạ và chuyển vị, chúng có thể ghép những giá trị sai số khi đọc, một trong những lí do
phản đối phương pháp này là tổng số giờ bị mất đi do lúc bấm bằng tay trở về “ 0 “.
Điều này xảy ra ở bất kì giá trị từ 0.0018 đến 0.0058 phút. Tuy nhiên đối với đồng hồ
điện tử thì không có thời gian bị mất đi khi bấm trở lại “ 0 “.

Phương pháp bấm giờ liên tục: Phương pháp này có ưu điểm hơn phương phấp
bấm giờ trở lại “ 0 “. Hầu hết những kết quả nghiên cứu xảy ra đều được ghi lại toàn
bộ ở chu kì quan sát. Người vận hành có thể thấy không có thời gian bị bỏ sót trong
quá trình nghiên cứu, những phần tử công việc chậm trễ đều được ghi lại. Phương
pháp này phù hợp cho việc nghiên cứu những công việc có thời gian nhỏ ( nhỏ hơn
0.04 phút ).Công việc ghi chép các thời gian bấm giờ cho mỗi phần tử công việc một
cách liên tục, sau đó tính toán bằng cách trừ dần để xác định các thời gian phần tử
được ghi chép lại.

Bảng 8.3 Nghiên cứu thời gian liên tục đối với công việc đúc khuôn

Tổng thời gian định mức: 0,569

Nghi
ên Tran
Phiếu quan sát thời gian Ngày
cứu g 1/1
số

1-Tháo chi tiết Ngư Ngườ


2-Đặt chi tiết vào đồ
Số phần tử và mô ra khuôn, bôi Công ời i
gá, làm cùn sắt
tả trơn khuôn, việc vận quan
cạnh
kiểm tra hành sát

Ghi O N O
Chu kỳ R W R W NT
chú T T T

27 11
1 90 90 30 90 23 207
0 3

10 27 10
2 40 27 61 21 210
0 0 0

27
3 90 92 31 90 25 23 207
9

29 10
4 85 50 35 70 20 200
8 0

10 28 10 31
5 95 28 20 200
0 0 0 8

10 27 11
6 43 25 61 18 198
0 5 0

7 90 92 31 27 90 41 24 216
9 6

11 28
8 44 28 85 68 24 204
0 0

50 28
9 32 90 23 23 207
0 8

28 10
10 49 26 68 19 200
6 5

11

12

TỔNG

Tổng OT 2,93 2,15

Tỷ lệ R

Tổng NT 2,805 2,049

Số quan sát 10 10

NT trung bình 0,281 0,205

% bù trừ 17 17

T.gian n/c phần tử 0,329 0,205

Số xuất hiện 1 1

ST 0,329 0,205

Những chu kỳ nghiên cứu

Xác định bao nhiêu chu kì nghiên cứu là vấn đề bàn cãi trong số các nhà nghiên
cứu. Thiết lập bảng hướng dẫn lựa chọn các chu kì quan sát

Bảng 8.4 Số chu kỳ quan sát

Thời gian chu kỳ Thời gian chu kỳ


Số chu kỳ quan sát Số chu kỳ quan sát
(phút) (phút)

0,10 200 2,00 – 5,00 15


0,25 100 5,00 – 10,00
10
0,50 60 10,00 – 20,00
8
0,75 40 20,00 – 40,00
5
1,00 30 40,00 – lớn hơn
3
2,00 20

Hiệu quả hoàn thành công việc của người vận hành:

Thời gian thực tế được yêu cầu hoàn thành cho mỗi phần tử công việc được
nghiên cứu phụ thuộc vào bậc cao của kĩ năng và sự gắng sức của người vận hành, nó
cần phải điều chỉnh lại như thời gian sẽ nâng lên so với mức bình thường đối với
người vận hành tốt và thấp đi thời gian đối với người vận hành không tốt. Do đó trước
khi rời trạm nhà phân tích nên đánh giá công bằng và không thiên vị. Nhà quan sát
đánh giá hiệu quả của người vận hành “ bình thường “ . Giá trị mức độ hoàn thành
công việc được ghi vào cột R. Giá trị thời gian chuẩn ( NT) được tính như sau

NT = OT x R/100
Sự bù trừ cho phép (allowrance)

Không có người vận hành nào có thể duy trì tốc độ làm việc trung bình cho
mỗi phút làm việc trong ngày. Có 3 loại gián đoạn : gián đoạn cá nhân như đi vệ sinh
ăn uống, thứ hai là mệt mỏi, cuối cùng là sự chậm trễ không thể tránh khỏi như dụng
cụ bị hỏng, gián đoạn bởi người giám sát, sự phiền hà của dụng cụ. Tất cả vấn đề trên
cần thiết phải bù trừ.Thời gian định mức ( ST ) được tính như sau:

ST = NT.(1 + bù trừ)

8.8. NHỮNG GIỚI HẠN CHO PHÉP:

8.9. SỰ THỰC HIỆN CỦA NGƯỜI THỰC HÀNH:

8.10. TÍNH TOÁN NGHIÊN CỨU:

Sau khi ghi lại mọi thông tin cần thiết dựa trên nghiên cứu định mức thời gian
mẫu, quan sát đủ số lượng các chu kỳ và hiệu suất- đánh giá người vận hành, các nhà
phân tích cần ghi lại thời gian hoàn thành (6 trong hình 8.6) trên đồng hồ tổng được sử
dụng từ lúc bắt đầu nghiên cứu. Đối với bấm giờ liên tục, điều này rất quan trọng để
kiểm tra giá trị cuối cùng của đồng hồ bấm giây so với tổng thời gian quan sát trên
đồng hồ chính. Hai giá trị này phải gần đúng với nhau (  2%) (Nếu có sự chênh lệch
khá lớn, nghĩa là có lỗi xảy ra trong quá trình thực hiện và nghiên cứu định mức thời
gian có thể phải lặp đi lặp lại).. Cuối cùng, các nhà phân tích nên cảm ơn người vận
hành và tiến hành các bước tiếp theo, các tính toán nghiên cứu.

Đối với phương pháp bấm giờ liên tục, mỗi lần đọc đồng hồ phải trừ ra lần đọc
trước để có được thời gian trôi qua, giá trị này sau đó được ghi trong cột OT. Các nhà
phân tích cần phải đặc biệt chính xác trong giai đoạn này, vì sai sót ở giai đoạn này có
thể phá hủy các giá trị của nghiên cứu. Nếu đánh giá hiệu suất phần tử đã được sử
dụng, các nhà phân tích phải tăng phần tử thời gian trôi qua bằng đánh giá hệ số và
ghi kết quả vào vị trí NT. Lưu ý: giá trị sau khi NT được tính thường được ghi lại với
ba chữ số.

Khi nhà quan sát bị trễ 1 phần tử , phần tử đó được biểu thị bằng M ở cột W và
không được quan tâm đến. Vì vậy, nếu các nhà điều hành lỡ bỏ qua phần tử thứ 7 của
chu kỳ 4 trong một nghiên cứu có 30 chu kỳ, các nhà phân tích sẽ chỉ có 29 giá trị để
tính được thời gian quan sát trung bình. Các nhà phân tích không nên quan tâm phần
tử bị bỏ lỡ, nhưng như vậy cũng là một thành công vì giá trị bị trừ trong nghiên cứu sẽ
bao gồm thời gian thực hiện cả hai phần tử.

Xác định phần tử thời gian trôi qua ở trên khỏi các phần tử theo thứ tự, nó chỉ
cần thiết để trừ những lần xem đồng hồ tương ứng .

Đối với phần tử bên ngoài, các nhà phân tích phải khấu trừ thời gian cần thiết
cho các phần tử bên ngoài từ thời gian chu kỳ của các phần tử tương ứng. Các nhà
phân tích có thể thu được thời gian thực hiện bởi các yếu tố bên ngoài bằng cách trừ đi
giá trị W1 trong phần yếu tố bên ngoài của mẫu nghiên cứu định mức thời gian từ giá
trị W2.

Sau khi phần tử thời gian trôi qua đã được tính toán và ghi lại, các nhà phân
tích cần nghiên cứu chúng một cách cẩn thận. Giá trị cực trị được xem như 1 thống kê
nằm ngoài sự lặp lại theo chu kỳ của một phần tử. Để xác định 1 phần tử thời gian
nằm ngoài, người ta có thể sử dụng một trong hai tiêu chí 1.5IQR (khoảng tứ phân vị,
Montgomery và Runger, 1994) hoặc quy tắc ba-sigma (hoặc bốn-sigma, Montgomery,
1991). Cả hai quy tắc này được thể hiện trong ví dụ 8.2. Ba giá trị được tuần hoàn và
loại trừ từ khảo sát thất bại trong quá trình nghiên cứu. Ví dụ trong chu kỳ 7 của phần
tử 1 trong hình 8.8, các nhà điều hành giảm một sản phẩm đúc. Trong khi trước đó đã
được xem là một giá trị "tự do", đó là một cách dễ dàng để loại trừ dựa trên các tiêu
chuẩn nằm ngoài thống kê.

Các yếu tố máy móc có sự biến đổi từ chu kỳ này đến chu kỳ khác, trong khi
cân nhắc việc mở rộng dung sai có thể được mong đợi ở các yếu tố thủ công. Khi
không thể giải thích việc xảy ra biến đổi thời gian, các nhà phân tích nên cẩn thận
trước các giá trị tuần hoàn. Nên nhớ đó không phải là hiệu suất- đánh giá quy trình.
Nếu tuỳ ý loại bỏ các giá trị cao hoặc thấp, các nhà phân tích có thể kết thúc quá trình
với một tiêu chuẩn không chính xác.

Nếu đánh giá phần tử đã được sử dụng, sau đó, khi các giá trị của phần tử thời
gian trôi qua được tính toán, các nhà phân tích cần xác định phần tử thời gian bình
thường bằng cách nhân giá trị của từng phần tử với hiệu suất tương ứng. Sau đó được
ghi trong cột NT cho mỗi 10 phần tử (hình 10.6). Tiếp theo, xác định giá trị trung
bình bằng cách chia đôi tổng số thời gian ghi trong cột NT cho số quan sát.

Sau khi xác định tất cả các phần tử thời gian trôi qua, các nhà phân tích nên
kiểm tra để đảm bảo rằng không có tính toán hoặc kết quả ghi chép lỗi xảy ra. Phương
pháp kiểm tra độ chính xác như vậy để hoàn thành việc kiểm tra thời gian của mẫu
nghiên cứu thời gian (xem hình 8.6). Để làm điều này, các nhà phân tích cần thống
nhất điểm bắt đầu và dừng lại của đồng hồ tại một đồng hồ tổng, ghi lại thời gian bắt
đầu và thời gian hoàn thành vào mẫu. Sau đó tính tổng ba lượng: (1) tổng số lần quan
sát, được gọi là thời gian hiệu quả (2) tổng số phần tử thời gian bên ngoài, được gọi là
thời gian không hiệu quả (13 biểu mẫu) và (3) tổng số thời gian trôi qua trước khi
nghiên cứu (TEBS 2 biểu mẫu) và thời gian trôi qua sau khi nghiên cứu (TEAF 7 biểu
mẫu). Thời gian trôi qua trước khi nghiên cứu là giá trị đọc được khi các nhà phân tích
ghi lại thời gian đồng hồ vào lúc bắt đầu của phần tử đầu tiên. Thời gian trôi qua sau
khi nghiên cứu là giá trị đọc được cuối cùng khi các nhà phân tích ghi lại thời gian
đồng hồ vào lúc cuối nghiên cứu. Tổng hai lượng cuối cùng đôi khi cấu thành thời
gian kiểm tra (8 về hình thức). Tổng ba lượng bằng tổng thời gian ghi trên biểu mẫu).
Sự khác biệt giữa thời gian hoàn thành và thời gian bắt đầu ở đồng hồ tổng bằng với
thời gian trôi qua thực tế ((9) biểu mẫu). Bất kỳ sự khác biệt giữa tổng thời gian ghi
lại và thời gian trôi qua được gọi là thời gian bị mất (15 biểu mẫu). Thông thường,
trong một nghiên cứu tốt, giá trị này sẽ bằng không. Thời gian mất tích chia cho thời
gian trôi qua là một tỷ lệ phần trăm được gọi là lỗi ghi chép. Lỗi ghi chép này nên ít
hơn 2%. Nếu vượt quá 2 phần trăm, các nghiên cứu thời gian nên thực hiện lại

Sau khi phần tử bình thường đã được tính toán, nhà phân tích nên thêm tỷ lệ
phần trăm cho mỗi phần tử để xác định thời gian cho phép hoặc tiêu chuẩn.. Trong
nghiên cứu thời gian (hình 8.8) thời gian bình thường cho các phần tử 1 được nhân với
1.12 để mang lại phần tử thời gian định mức sau đây cho các phần tử 1
ST = 0.152 x (1 + 0.12)= 0.170

Bản chất của việc xác định lượng dung sai cho phép sẽ nói đến trong chương
11. Ở chương này, ta chỉ cần biết 15% là dung sai trung bình sử dụng cho các phần tử
thủ công, và 10% là dung sai áp dụng cho các thành phần máy.

Trong hầu hết các trường hợp. mỗi phần tử chỉ xuất hiện một lần trong mỗi chu
kỳ và số lần xuất hiện chỉ 1. Trong một số trường hợp, một phần tử có thể được lặp đi
lặp lại trong một chu kỳ (ví dụ, đi qua ba lần trên máy tiện trong cùng một chu kỳ).
Trong trường hợp đó, số lần xuất hiện trở thành 2 hoặc 3 và tổng thời gian của phần tử
đó trong một chu kỳ tăng gấp đôi hoặc gấp ba lần.

Các định mức thời gian cho mỗi phần tử sau đó được tổng hợp để có được thời
gian định mức cho toàn bộ công việc và được ghi lại với tên Tổng Thời Gian Định
Mức trong biểu mẫu nghiên cứu thời gian.

8.11. THỜI GIAN CHUẨN:


Tổng thời gian cơ bản cho một chuẩn trong mỗi khoảng là một phút, sử dụng
đồng hồ số phút thập phân...Phần lớn các hoạt động công nghiệp có chu kỳ tương đối
ngắn (ít hơn 5 phút). Do đó, nó thỉnh thoảng thuận tiện hơn cho việc mô tả tiêu chuẩn
100 khoảng cho mỗi giờ.
Hiệu suất phần trăm của người điều hành có thể được diễn đạt như:
E = 100 X He/Hc = 100 X Oc/Oe
Trong đó:
E: phần trăm hiệu suất
He: giờ chuẩn có được
Hc: số giờ đồng hồ trên công việc
Oe: đầu ra mong đợi
Oe: đầu ra hiện tại

8.11.1. Tiêu chuẩn tạm thời:


Là thời gian yêu cầu cho nhân viên phải thành thạo các hoạt động mới hoặc
hoạt động khác. Thông thường, các nhà phân tích nghiên cứu thời gian về các hoạt
động tương đối mới mà ở đó không đủ khối lượng để các nhà điều hành đạt hiệu quả
cao. Nếu phân loại trên cơ sở phân tích các hoạt độngb theo quan điểm thông thường
cảu đầu ra (tức là tỉ lệ các nhà điều hành dưới 100), kết quả của tiêu chuẩn có thể
không chặt chẽ, và các nhà điều hành có thể sẽ không có chính sách ưu đãi nào. Mặt
khác, nếu các phân tích cho rằng công việc mới và khối lượng thấp, và thiết lập một
tiêu chuẩn tự do, sau đó nếu kích thước các đơn hàng tăng lên, hoặc một đơn hàng
mới giống với công việc đã nhận, rắc rối có thể xảy ra.
Có lẽ phương pháp hợp lý nhất cho tình huống này là đưa ra tiêu chuẩn tạm
thời. Các nhà phân tích sẽ thiết lập tiêu chuẩn bằng cách xem xét lại khó khăn trong
việc phân công lại các công việc và số lượng các mảnh được sản xuất. Sau đó, bằng
cách sử dụng biểu đồ cho công việc, cũng như các tiêu chuẩn dữ liệu hiện hành, các
nhà phân tích có thể phát triển tiêu chuẩn hợp lý tạm thời cho công việc. Kết quả tiêu
chuẩn sẽ nhiều hơn nếu công việc phức tạp với một số lượng lớn, khi giải phóng các
mặt bằng sản xuất , thì các tiêu chuẩn đánh dấu "tạm thời" rõ ràng hơn, và sẽ có chất
lượng tối đa khi nó được áp dụng. khi tiêu chuẩn tạm thời được phát hành, nó nên chỉ
được có hiệu lực trong suốt thời gian hợp đồng hoặc trong vòng 60 ngày, có thể ngắn
hơn. Khi hết hạn, nó sẽ được thay thế bằng tiêu chuẩn cố định.
Ví dụ:
Tính toán cho 1 giờ kiếm được và phần trăm hiệu quả. Thời gian chuẩn cho 1
hoạt động là 11.46 phút cho mỗi mảnh. Trong 1 ca 8 giờ các nhà điều hành dự kiến sẽ
sản xuất

= 41.88 mảnh

Tuy nhiên, nếu các nhà điều hành dự kiến sản xuất 53 mảnh cho một ngày làm
việc, tiêu chuẩn 1 giờ kiếm được sẽ là

He = = 10.123 h

Thời gian chuẩn Sh trong 100 mảnh C mỗi giờ là

Sh = = 19.1 h/C

Tiêu chuẩn 1 giờ kiếm được sẽ là


He = = 10.123 h

Hiệu suất của các nhà điều hành sẽ là


E = 100 X 10.123/8 = 126.5 %
Hoặc hơn nữa là
E = 100 X 53/41.88 = 126.5 %

8.11.2. Thiết lập tiêu chuẩn:


Các yếu tố của công việc thường bao gồm trong thiết lập tiêu chuẩn liên quan
đến tất cả các sự kiện đã diễn ra giữa hoàn thành các công việc ưu tiên và bắt đầu các
công việc hiện tại.
Trong việc thiết lập thời gian cài đặt, các nhà sản xuất nên sử dụng các thủ tục
giống nhau trong việc thiết lập tiêu chuẩn trong sản xuất, ngoại trừ không có cơ hội
nhận một loạt các yếu tố giá trị để xác định thời gian trung bình. Ngoài ra, các nhà
phân tích không thể quan sát các nhà điều hành thực hiện các yếu tố cải tiến. Hậu quả
là, các nhà phân tích có nghĩa vụ phân chia, thiết lập các yếu tố trong khi đang tiến
hành nghiên cứu tại địa điểm. Tuy nhiên, kể từ khi các yếu tố thiết lập, đối với hầu hết
các phần là dài hạn, có một lượng thời gian hợp lý để cắt các công việc xuống, ghi lại
thời gian và đánh giá hiệu suất bằng nhà điều hành tiến hành từ một yếu tố công việc
tiếp theo.
Có 2 cách để thiết lập thời gian là phân phói theo chất lượng hoặc phân bổ theo
công việc. Trong phương pháp đầu tiên, họ sẽ phân ra một số lượng sản xuất cụ thể,
chẳng hạn như 1,000 hoặc 10,000 miếng. Phương pháp này chỉ đạt yêu cầu khi quy
mô đơn hàng sản xuât tiêu chuẩn. Ví dụ ngành công nghiệp đóng tàu từ kho dự trữ và
sắp xếp lại trên cơ sở tối thiểu, tối đa tồn kho là có thể kiểm soát các đơn đặt hàng sản
xuất của mình để phù hợp với kích thước lô sao cho không lãng phí. Trong trường hợp
như vậy, thời gian có thể được chia theo tỷ lệ công bằng hơn kích thước. Ví dụ, giả sử
lô đặt hàng kinh tế được đưa ra là 1000 miếng và đặt hàng lại khi còn 1000 đơn vị.
Nếu nhà điều hành thiết lập thời gian chuẩn là 1.50h, thì các nhà điều hành cho phép
thời gian có thể tăng lên thêm 0.15h mỗi 100 miếng
Phương pháp này tất cả không được thực hiện nếu kích thước của các đơn hàng
không được kiểm soát. Trong một nhà máy trên cơ sở các đơn hàng được yêu cầu, đó
là phát hành các đơn hàng sản xuất theo số lượng quy định cụ thể phù hợp với yêu cầu
của khách hàng, nó không thể chuẩn hóa số lượng các đơn hàng làm việc. Ví dụ trong
tuần này có thể phát hành 100 đơn vị đặt hàng và đơn đặt hàng tháng tới là 5000 đơn
vị, có thể cần bộ phận giống nhau, nhà điều hành sẽ chỉ cho phép 0.15h thiết lập trên
máy cho 100 đơn vị đặt hàng như vậy sẽ không đủ cho 5000 đơn vị đặt hàng. Tuy
nhiên , nhà điều hành sẽ cho 7.50h, đó sẽ là khoảng thời gian nhiều nhất có thể.
Thiết lập thực tế hơn về thiết lập các tiêu chuẩn như phân loại các thời gian
chuẩn. Sau đó không phụ thuộc vào số lượng của các bộ phận được sản xuất, thời gian
hợp lý sẽ được ưu tiên. Một vài mối quan tâm , các thiết lập được thực hiện bởi một
người khác nhà điều hành là những người làm các công việc đó, những lợi thế của
việc có nhân viên thiết lập thể hiện khá rõ ràng. Người lao động có tay nghề thấp có
thẻ được sử dụng như một nhà điều hành khi họ không có thiết lập các hoạt động riêng
của họ. Thiết lập được nhiều tiêu chuẩn dễ dàng và đưa ra những phương pháp thay
đổi dễ hơn khi trách nhiệm thiết lập thuộc về một cá nhân, Ngoài ra, khi các thiết bị có
sẵn đầy đủ, sản xuất có thể được tiếp tục nếu các cooogn việc được phân công thiết
lập trong khi các nhà điều hành đang làm công việc hiện tại.

8.11.3. Thiết lập từng phần:


Nó không cần thiết thiết lập mọt hoạt động hoàn thành từ việc thực hiện các
hoạt động, bởi vì một trong số các công cụ của hoạt động trước đó được yêu cầu trong
công việc đang được thiết lập. Ví dụ tay vít máy hoặc láp ráp máy tiện, lập kế hoạch
cẩn thận các công việc tương đồng cho máy móc giống nhau cho phép thiết lập từng
phần từ một công việc để sử dụng cho công việc tiếp theo, thay vì phải thay đổi 6
công cụ trong pháp pháo làm ma thuật, nó chỉ cần thiết thay đổi từ 2 hoặc 3. Điều này
tiết kiệm thời gian thiết lập là một trong những lợi ích chính có công thức rõ ràng của
một nhóm tổ chức công nghệ xây dựng.
Từ đó các kế hoạch công việc được sắp xếp theo trình tự cho một máy cũ giống
nhau., nó kho khăn trong việc thiết lập thời gian từng phần cho tât cả cá lớp bao phủ.
Ví dụ, thiết lập một tiêu chuẩn hoàn chỉnh cho vị trí thứ 4 Warner và Swasey máy tiện
có thể là 0.80h. Tuy nhiên nếu thiết lập này được thực hiện sau công việc X nó có thể
mât chỉ 0.45h; sau công việc Y nó có thể yêu cầu 0.57h; trong khi công việc Z sau đây
, có thể cần 0.70h. Biến thiên trong thời gian thiết lập từng phần có thể rộng thực tế
chỉ thiết lập giá trị của mình là chính xác là sử dụng dữ liệu chuẩn cho mỗi công việc.
Trong các nhà máy nơi mà thời giân thiết lập ít hơn 1h và chu trình sản xuất là
hợp lý lâu dài, nó là thực tế chung cho phép các nhà điều hành thiết laappj thời gian
đầy đủ cho mỗi công việc thực hiện. Đây là những thuận lợi với nhiều lý do: thứ nhât,
nếu nhà máy kết hợp ưu đãi tiền lương, các nhà điều hành hài lòng hơn vì thu nhập
cao và họ có kế hoạch công việc của họ thuận lợi nhất có thể. Đó là kết quả trong quá
trình sản xuất nhiều trên mỗi đơn vị thời gian và có tổng chi phi thấp hơn. Ngoài ra, số
lượng và thủ tục giấy tờ lớn có thể tiết kiệm bằng cách ngăn ngừa xác định một tiêu
chuẩn cho hoat động thiết lập từng phần và ứng dụng của nó trong tất cả các trường
hợp cần thiết. Trong thực tế tiết kiệm này dẫn đến hướng tiếp cận tiền lương trả thêm
cho các nhà điều hành từ kết quả đến sự khác biệt giữa thời gian cần thiết để thiết lập
đầy đủ và thời gian yêu cầu thực hiện để thiết lập một phần.
Tài liệu tham khảo
1. Benjamin Nielbel & Andris Freivalds, McGraw – Hill, Methods Standards &
Work design, 1999
2. Nguyễn Văn Chung, NXBĐHQG TPHCM, Đo lường lao động và thiết kế công
việc cho sản xuất công nghiệp, 2009

You might also like