Professional Documents
Culture Documents
08 PGSTSHoangThiMinhSon
08 PGSTSHoangThiMinhSon
đúng là người đã thực hiện tội phạm và xét và thực tiễn áp dụng chúng tôi thấy trong
thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; trường hợp người bị bắt khẩn cấp do người
Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển
hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện đã rời khỏi sân bay, bến cảng ra lệnh, việc bắt
tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay không thể được báo ngay cho viện kiểm sát
việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên
Đồng thời, khi bắt vẫn phải có lệnh của quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.
người có thẩm quyền là: Phó thủ trưởng cơ Khác với người bị bắt trong trường hợp
quan điều tra các cấp; Người chỉ huy quân khẩn cấp, người phạm tội quả tang bị bắt khi
đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi
người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị
biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển đuổi bắt. Người bị bắt trong trường hợp phạm
khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì không
cảng. Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cần có lệnh bắt của cơ quan có thẩm quyền và
cấp phải được báo ngay cho viện kiểm sát bất cứ ai cũng có quyền bắt rồi giải ngay đến
cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên cơ quan công an, viện kiểm sát hoặc uỷ ban
quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ
đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan quan điều tra có thẩm quyền.
đến việc bắt khẩn cấp, viện kiểm sát phải ra Trong năm 2008 toàn quốc có 36.597 người
quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và
Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê 3.855 người bi bắt theo lệnh truy nã. Năm
chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do 2009 có 32.838 người bị bắt trong trường hợp
ngay cho người bị bắt. phạm tội quả tang và 3.831 người bị bắt theo
Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát lệnh truy nã. Trong đó có địa phương đạt tỉ lệ
nhân dân tối cao, trong năm 2008 toàn quốc khởi tố 100% như Quảng Bình, Thái Nguyên…(2)
có 17.791 người bị bắt trong trường hợp khẩn Ngoài kết quả trên, trong quá trình thực
cấp; viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt hiện còn một số bất cập. BLTTHS năm 2003
khẩn cấp là 93 trường hợp. Trong năm 2009 quy định chung việc bắt người phạm tội quả
toàn quốc có 16.347 người; viện kiểm sát tang và việc bắt người đang bị truy nã trong
không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp là 44 cùng một điều luật là không phù hợp, vì đối
trường hợp. Đặc biệt trong năm 2009 vẫn tượng và thủ tục áp dụng, những việc cần
còn 405 trường hợp bắt khẩn cấp phải trả tự làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong hai
do. Những trường hợp viện kiểm sát không trường hợp này không giống nhau. Người bị
phê chuẩn đều đã được cơ quan điều tra trả bắt trong trường hợp phạm tội quả tang là
tự do cho người bị bắt. người chưa bị khởi tố về hình sự, tức họ
Qua nghiên cứu quy định của BLTTHS chưa phải là bị can, bị cáo còn người đang bị
về việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp truy nã là người có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị
tạm giữ, tạm giam hay đang chấp hành hình biệt người ra quyết định tạm giữ có thể gia
phạt tù thì bỏ trốn mà cơ quan có thẩm hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba
quyền đã ra quyết định truy nã. Mặt khác đối ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều
với người bị bắt trong trường hợp phạm tội phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn;
quả tang, sau khi bị bắt họ có thể bị tạm giữ trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề
hoặc không bị tạm giữ theo Điều 86 nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc
BLTTHS. Còn đối với người bị bắt theo lệnh gia hạn tạm giữ, viện kiểm sát phải ra quyết
truy nã thì sau khi bị bắt, cơ quan điều tra có định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
thẩm quyền phải áp dụng biện pháp tạm giữ chuẩn. Trong khi tạm giữ nếu không đủ căn
hoặc tạm giam đối với họ.(3) cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người
Theo quy định tại Điều 86 BLTTHS thì bị tạm giữ. Thời gian tạm giữ được trừ vào
những người có quyền ra lệnh bắt người trong thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được
trường hợp khẩn cấp như đã phân tích ở trên tính bằng một ngày tạm giam.
và chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có Trong năm 2008 toàn quốc có 62.446
quyền ra quyết định tạm giữ. Để bảo đảm người bị bắt tạm giữ, so với cùng kì năm
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm 2007 tăng 17,09% (62.446/53.331), 105 trường
giữ, người thi hành quyết định tạm giữ phải hợp viện kiểm sát không gia hạn tạm giữ.
giải thích để người bị tạm giữ biết lí do mình Năm 2009 toàn quốc có 59.496 người bị bắt
bị tạm giữ; được giải thích về quyền và nghĩa tạm giữ, so với cùng kì năm 2008 giảm 4,95%
vụ; trình bày lời khai; tự bào chữa hoặc nhờ (59.496/62.446), 123 trường hợp Viện kiểm
người khác bào chữa; đưa ra tài liệu, đồ vật, sát không gia hạn tạm giữ.(4)
yêu cầu; khiếu nại về việc tạm giữ, hành vi tố Ngoài ra, trong năm 2008, trong số những
tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến người bị tạm giữ trong toàn quốc có 389
hành tố tụng. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi trường hợp viện kiểm sát quyết định hủy bỏ
ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ lệnh tạm giữ theo khoản 3 Điều 86 BLTTHS;
phải được gửi cho viện kiểm sát cùng cấp. 1.050 trường hợp cơ quan bắt giữ trả tự do,
Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ không xử lí hành chính (trong đó có 193
hoặc không cần thiết thì viện kiểm sát ra người bị bắt khẩn cấp sau phải trả tự do vì
quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và không đủ căn cứ); 1300 trường hợp trả tự do
người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do chuyển xử lí hành chính; 175 trường hợp bắt
ngay cho người bị tạm giữ. Quyết định tạm khẩn cấp sau chuyển thành xử lí hành chính;
giữ ghi rõ lí do tạm giữ, ngày hết hạn tạm 4 trường hợp Viện kiểm sát đã phê chuẩn
giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản. lệnh bắt khẩn cấp sau phải trả tự do vì không
Thời hạn tạm giữ không quá ba ngày kể đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự; 88 trường
từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. hợp quá hạn tạm giữ. Trong năm 2009, trong
Trong trường hợp cần thiết người ra quyết số những người bị tạm giữ đã được giải quyết
định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng trong toàn quốc có 2.722 trường hợp cơ quan
không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc bắt giữ trả tự do, trong đó 329 trường hợp
Viện kiểm sát quyết định hủy bỏ lệnh tạm quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ
giữ theo khoản 3 Điều 86 BLTTHS; 129 trong trường hợp cần thiết nhưng không quá
trường hợp trả tự do khi viện kiểm sát không ba ngày và trong trường hợp đặc biệt có thể
phê chuẩn quyết định tạm giữ. gia hạn tạm giữ lần thứ hai. BLTTHS chưa
Mặc dù BLTTHS đã quy định tương đối quy định rõ trường hợp nào được coi là cần
đầy đủ nhưng trong thực tiễn thực hiện những thiết và trường hợp nào được coi là đặc biệt
quy định về tạm giữ còn một số bất cập sau: nên thực tiễn áp dụng còn có nhiều cách hiểu
+ Về thẩm quyền ra quyết định tạm giữ: và áp dụng khác nhau ảnh hưởng không ít đến
Theo quy định tại khoản 2 Điều 86 BLTTHS quyền tự do của người bị tạm giữ.
thì chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có Đối với người bị bắt để tạm giam, mặc
quyền quyết định việc tạm giữ nhưng họ lại dù BLTTHS không quy định căn cứ cụ thể
không có quyền ra lệnh bắt người trong để bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng
trường hợp khẩn cấp. Mặt khác BLTTHS trong thực tế bị can, bị cáo thường bị bắt để
quy định tạm giữ được áp dụng đối với người tạm giam khi có căn cứ để tạm giam là: 1) Bị
bị bắt trong trường hợp khẩn cấp và tất cả can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
những người có quyền ra lệnh bắt người trong phạm tội rất nghiêm trọng; 2) Bị can, bị cáo
trường hợp khẩn cấp đều có quyền ra lệnh phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm
tạm giữ. Vậy chỉ huy trưởng vùng cảnh sát trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên
biển có quyền quyết định việc tạm giữ trong hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có
trường hợp nào? Điều này vẫn chưa được thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố,
giải thích một cách cụ thể. xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Tuy
+ Về thời hạn tạm giữ: Theo quy định tại nhiên không phải trong mọi trường hợp, khi
khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì, thời hạn tạm giữ có căn cứ nêu trên thì bị can, bị cáo đều bị
được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bắt để tạm giam mà BLTTHS quy định cơ
bị bắt. Tuy nhiên đối tượng tạm giữ được quy quan có thẩm quyền có thể bắt chứ không
định tại khoản 1 Điều 86 lại bao gồm cả bắt buộc phải bắt để tạm giam.
trường hợp người phạm tội tự thú hoặc đầu Để bảo đảm việc bắt chỉ có căn cứ khi
thú. Điều đó có nghĩa là họ không phải là pháp luật quy định và bắt đúng người cần bắt,
người bị bắt. Do vậy, thời hạn tạm giữ quy BLTTHS quy định những người sau đây có
định như trên là chưa hoàn toàn chính xác. thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm
Theo quy định tại khoản 4 Điều 87 thì giam: Viện trưởng, phó viện trưởng VKSND
thời hạn tạm giữ được tính vào thời hạn tạm và VKSQS các cấp; chánh án, phó chánh án
giam. Tuy nhiên đối với người bị tạm giữ, không TAND và TAQS các cấp; thẩm phán giữ
bị tạm giam nhưng lại bị toà án tuyên phạt tù chức vụ chánh toà, phó chánh toà phúc thẩm
giam thì luật chưa đề cập. Điều này cũng ảnh TANDTC; hội đồng xét xử; thủ trưởng, phó
hưởng đến quyền lợi của người bị tạm giữ. thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong
+ Về căn cứ để gia hạn tạm giữ: BLTTHS trường hợp thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ
mới chỉ dừng lại ở việc quy định: Người ra quan điều tra ra lệnh thì phải được viện kiểm
sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. hưởng đến việc điều tra, khám phá tội phạm.
Khi bị bắt, bị can, bị cáo có quyền yêu Thể hiện chính sách nhân đạo, pháp luật
cầu người thi hành lệnh bắt đọc lệnh, giải tố tụng hình sự quy định đối với bị can, bị
thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con
bắt và lập biên bản về việc bắt. Trong lệnh dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người
phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không
của người ra lệnh, họ tên, địa chỉ của người tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn
bị bắt và lí do bắt. Lệnh bắt phải có chữ kí khác.(7) Ngoài ra, BLTTHS còn quy định
của người ra lệnh và có đóng dấu. Nếu lệnh những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối
bắt không có chữ kí của người có thẩm với người thân thích và tài sản của người bị
quyền hay không có sự phê chuẩn của viện tạm giam cũng như tạm giữ tại Điều 90
kiểm sát thì người bị bắt không có nghĩa vụ BLTTHS. Khi người bị tạm giữ, tạm giam
phải chấp hành. Trường hợp bị can, bị cáo bị có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc
bắt tại nơi cư trú phải có đại diện của chính người thân thích là người tàn tật, già yếu mà
quyền xã, phường, thị trấn và người láng không có người chăm sóc thì cơ quan ra
giềng của người bị bắt chứng kiến. Nếu bị quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao
can, bị cáo bị bắt tại nơi làm việc thì phải có những người đó cho người thân thích chăm
đại diện cơ quan, tổ chức người đó làm việc nom. Nếu họ không có người thân thích thì
chứng kiến. Nếu bị can, bị cáo bị bắt ở nơi giao cho chính quyền sở tại chăm nom.
khác thì phải có đại diện chính quyền nơi Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm
tiến hành bắt chứng kiến. Không được bắt bị giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có
can, bị cáo vào ban đêm.(5) người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra
Người bị tạm giam theo quy định của quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp
BLTTHS chỉ có thể là bị can, bị cáo. Điều dụng những biện pháp trông nom, bảo quản
72 Hiến pháp năm 1992 và Điều 9 BLTTHS thích đáng. Cơ quan ra quyết định tạm giữ,
quy định không ai có thể bị coi là có tội và lệnh tạm giam thông báo cho người bị tạm
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết giữ, tạm giam biết về việc này.
tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Theo Theo quy chế tạm giam thì một tháng
đó, chừng nào chưa có bản án kết tội của toà không quá hai lần người bị tạm giam được
án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị tạm nhận quà và đồ dùng sinh hoạt của thân nhân
giam vẫn được coi là người chưa có tội. Do gửi đến theo quy định. Trong thời gian bị
vậy, trong thời gian bị tạm giam họ không giam, người bị tạm giam được sử dụng quần
được đối xử như người có tội. Điều này còn áo, chăn, chiếu, màn của cá nhân. Nếu thiếu
thể hiện ở quy định chế độ tạm giam khác thì trại tạm giam cho mượn theo tiêu chuẩn.
với chế độ chấp hành hình phạt tù. (6) Quy Người bị tạm giam là nữ thì được cấp thêm
định này thể hiện việc tôn trọng quyền con một số tiền để mua những đồ dùng cần thiết
người của pháp luật ngay cả khi họ là người cho vệ sinh phụ nữ.
bị buộc tội. Việc tôn trọng này không ảnh Người bị tạm giam ốm đau, bệnh tật,
thương tích được cán bộ y tế của trại tạm 92.368 người bị tạm giam. Viện kiểm sát
giam khám và điều trị. Trường hợp người bị không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam 327
tạm giam ốm đau, bệnh tật, thương tích nặng trường hợp và không phê chuẩn lệnh tạm
vượt quá khả năng khám và điều trị của án bộ giam 329 trường hợp. Năm 2006 toàn quốc
y tế trại tạm giam thì giám thị trại tạm giam có 105.094 người bị tạm giam. So với cùng kì
thông báo cho cơ quan đang thụ lí vụ án, đồng năm 2005 tăng 1,14% (105.094/92.368). Viện
thời làm các thủ tục chuyển họ đến cơ sở y tế ở kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam
ngoài để điều trị và tổ chức canh giữ họ. 394 trường hợp và không phê chuẩn lệnh tạm
Trường hợp người bị tạm giam bị nghi giam 350 trường hợp. Năm 2007 toàn quốc có
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm 107.999 người bị tạm giam. So với cùng kì năm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều 2006 tăng 1,03% (107.999/105.094). Viện
khiển hành vi của mình thì giám thị trại tạm kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam
giam phải yêu cầu cơ quan đang thụ lí vụ án 239 trường hợp và không phê chuẩn lệnh tạm
trưng cầu giám định pháp y tâm thần. Khi có giam 341 trường hợp. Năm 2008 toàn quốc
quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa có 110.939 người bị tạm giam. So với cùng
bệnh của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan kì năm 2007 tăng 2,72% (110.939/107.999).
đang thụ lí vụ án phối hợp với trại tạm giam Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm
đưa người bị tạm giam đến cơ sở chữa bệnh giam 298 trường hợp và không phê chuẩn
nêu trong quyết định. lệnh tạm giam 334 trường hợp. Năm 2009 toàn
Trong thời gian bị tạm giam, người bị tạm quốc có 135.012 người bị tạm giam. So với
giam được cấp báo theo quy định (cứ 20 cùng kì năm 2008 tăng 21,6% (135.012/110.939).
người tạm giam thì được cấp một số báo Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm
Nhân dân hoặc báo địa phương). Giám thị trại giam 178 trường hợp và không phê chuẩn
tạm giam tổ chức cho người bị tạm giam nghe tạm lệnh giam 190 trường hợp. Nhìn chung
Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, đài phát việc phê chuẩn tạm giam của viện kiểm sát
thanh hoặc truyền thanh địa phương, đọc báo là có căn cứ và đúng pháp luật. Những
Nhân dân hoặc báo địa phương. Ngoài ra, họ trường hợp viện kiểm sát không phê chuẩn
còn có thể được xem truyền hình. Nếu người lệnh bắt tạm giam, lệnh tạm giam đều đảm
bị tạm giam là người nước ngoài thì được bảo có căn cứ và thận trọng. Việc thực hiện
nhận báo bằng tiếng nước họ mang quốc tịch chế độ ăn, mặc, ở và khám, chữa bệnh đối
khi được cơ quan thụ lí cho phép. Người bị với người bị tạm giam trong thời gian qua
tạm giam có quyền khiếu nại, tố cáo việc được đảm bảo theo quy định của pháp luật.
tạm giam trái pháp luật. Người bị tạm giam Trên cơ sở tìm hiểu những quy định của
đã hoàn cung chờ xét xử mà chấp hành tốt pháp luật tố tụng hình sự đối với người bị
nội quy trại tạm giam có thể được xét tăng bắt để tạm giam cũng như thực tiễn thực
gấp đôi số lần gặp gỡ thân nhân và tăng gấp hiện cho thấy:
đôi số lần được gửi thư, nhận thư, nhận quà. + Nhiều quy định của pháp luật có liên
Theo thống kê, năm 2005 toàn quốc có quan đến việc bảo vệ quyền của người bị bắt,
người bị tạm giam khó thực hiện có hiệu quả. luật. Do bị tạm giam trái pháp luật nên
Nguyên nhân trước hết vẫn là các quy định quyền và lợi ích hợp pháp của họ khó tránh
của pháp luật chưa đồng bộ, chưa cụ thể rõ khỏi bị ảnh hưởng. Do vậy, những người này
ràng, chưa đầy đủ như khoản 2 Điều 88 phải có quyền yêu cầu các cơ quan tiến hành
BLTTHS quy định: “... người già yếu,… mà tố tụng bồi thường thiệt hại.(9)
có nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà + Tình trạng người bị tạm giam chết hoặc
áp dụng biện pháp ngăn chặn khác trừ tự tử trong nhà tạm giam đôi khi còn xảy ra ở
trường hợp luật quy định” nhưng không có một số trại tạm giam. Tình trạng giam giữ quá
giải thích lứa tuổi nào là già yếu, do vậy, tải vẫn chưa được khắc phục. Một số trại
trong thực tiễn thường bị phủ nhận bởi ý chí giam vượt quá quy mô giam giữ, do đó chỗ
chủ quan của người tiến hành tố tụng. nằm tối thiểu của người bị tạm giam không
BLTTHS không quy định căn cứ cụ thể bắt đảm bảo. Việc cấp phát các đồ dùng sinh hoạt
bị can, bị cáo để tạm giam nên việc bắt thường thiết yếu ở một số nơi còn thiếu...(10)
dựa vào căn cứ tạm giam dẫn đến việc áp Bảo vệ quyền con người trong tố tụng
dụng pháp luật không thống nhất. hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thực
+ Mặc dù xu thế hiện nay là giảm thiểu hiện pháp luật, đặc biệt là trong bối cảnh cải
việc tạm giam và BLTTHS cũng chỉ quy cách tư pháp và trong xu thế hội nhập quốc tế
định có thể tạm giam chứ không bắt buộc hiện nay. Để bảo đảm tốt hơn nữa quyền của
phải tạm giam nhưng trong thực tiễn điều người bị bắt, người bị tạm giữ và người bị
tra, truy tố, xét xử hầu hết những người tạm giam trong tố tụng hình sự, trước hết cần
phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt phải hoàn thiện một số quy định liên quan
nghiêm trọng đều bị tạm giam. như đã phân tích ở trên, cụ thể như sau:
+ Tình trạng bị tạm giam dài hơn thời - Bổ sung khoản 2 Điều 81 BLTTHS
gian phạt tù mà toà án đã tuyên hiện nay vẫn theo hướng chỉ huy trưởng vùng cảnh sát
còn xảy ra trong thực tiễn nhưng pháp luật biển có quyền ra lệnh bắt người trong trường
chưa quy định vấn đề giải quyết bồi thường hợp khẩn cấp để phù hợp với thẩm quyền ra
đối với người bị tạm giam trong trường hợp lệnh tạm giữ quy định tại Điều 86 BLTTHS.
này. Theo Luật trách nhiệm bồi thường của Theo đó, khoản 2 Điều 81 sẽ là: Những
Nhà nước thì đây không phải là trường hợp người sau đây có quyền ra lệnh bắt người
người bị tạm giam được đòi bồi thường.(8) trong trường hợp khẩn cấp:
Vấn đề này hiện nay còn nhiều ý kiến khác a) Giữ nguyên
nhau nhưng chúng tôi đồng ý với quan điểm b) Giữ nguyên
cho rằng trường hợp này cơ quan tiến hành c) Giữ nguyên
tố tụng phải xem xét bồi thường như đối với d) Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
người bị oan. Việc một người bị tạm giam - Sửa đổi khoản 4 Điều 81 BLTTHS theo
với thời gian dài hơn thời hạn mà bản án đã hướng trong trường hợp người chỉ huy tàu
tuyên hình phạt tù đối với họ là trái pháp bay, tàu biển ra lệnh bắt khẩn cấp khi tàu bay,