You are on page 1of 98

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THANH LONG

TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP


HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế


Mã số : 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG

HÀ NỘI - 2014
MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.......................................................5

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................... 5

CHƢƠNG 1 ...................................................................................... 9
1.1. Khái lƣợc về hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại............... 9
1.1.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại ..................... 9
1.1.2. Đặc điểm hợp đồng nhượng quyền thương mại .................... 13
1.1.3. Phân loại nhượng quyền thương mại ..................................... 15
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của nhượng quyền thương mại ................ 20
1.2. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp hợp đồng nhƣợng
quyền thƣơng mại. ......................................................................... 21
1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại . 21
1.2.2. Đặc điểm của các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhượng
quyền thương mại. ........................................................................... 25
1.3. Những tranh chấp có thể phát sinh từ hợp đồng nhƣợng
quyền thƣơng mại .......................................................................... 27
1.3.1. Giao kết hợp đồng nhượng quyền thương mại và những tranh
chấp liên quan .................................................................................. 28
1.3.2. Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại và những
tranh chấp liên quan ......................................................................... 30
1.3.3. Hiệu lực của hợp đồng nhượng quyền thương mại và những
tranh chấp liên quan ......................................................................... 42
1.4. Các hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng nhƣợng
quyền thƣơng mại .......................................................................... 44

2
CHƢƠNG 2 .................................................................................... 46
2.1. Một số loại tranh chấp phổ biến phát sinh từ hợp đồng
nhƣợng quyền thƣơng mại ............................................................ 46
2.2. Tranh chấp và giải pháp giải quyết tranh chấp cụ thể ....... 52
2.2.1. Tranh chấp về tài liệu công bố............................................... 52
2.2.2. Tranh chấp về thoả thuận ràng buộc ...................................... 54
2.2.3. Tranh chấp do thay đổi hệ thống ........................................... 57
2.2.4. Tranh chấp do vi phạm thoả thuận cạnh tranh ...................... 58
2.2.5. Tranh chấp về chuyển nhượng quyền cho bên thứ ba .......... 63
2.3. Nguyên nhân của tranh chấp hợp đồng nhƣợng quyền
thƣơng mại...................................................................................... 67
2.4. Chế tài áp dụng đối với vi phạm hợp đồng nhƣợng quyền
thƣơng mại...................................................................................... 72

CHƢƠNG 3 .................................................................................... 74
3.1. Nội dung của hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại liên quan
trực tiếp đến giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
nhƣợng quyền thƣơng mại ............................................................ 74
3.1.1. Điều khoản về chọn luật áp dụng .......................................... 74
3.1.2. Điều khoản về giải quyết tranh chấp ..................................... 75
3.2. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp hợp đồng nhƣợng
quyền thƣơng mại. ......................................................................... 76
3.2.1. Giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại
bằng toà án ....................................................................................... 78
3.2.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại
bằng thương lượng ........................................................................... 79

3
3.2.3. Giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại
bằng hoà giải .................................................................................... 80
3.2.4. Giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại
bằng trọng tài ................................................................................... 84
3.3. Một số kiến nghị. ..................................................................... 91

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 96

4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

UFOC : uniform franchise offering circular

ADR : Alternative Disputes Resolution

5
LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài


Nhượng quyền thương mại mới xuất hiện ở Việt Nam hơn một thập
kỷ qua, nhưng đã nhận được sự chú ý không nhỏ từ giới thương nhân,
người tiêu dùng và người thiết kế chính sách. Nhiều cơ sở kinh doanh biểu
hiện rất rõ nét nhượng quyền thương mại. Luật Thương mại 2005 đã có các
qui định về nhượng quyền thương mại.
Trên thế giới hiện nay, ở các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ, kinh
doanh nhượng quyền thương mại được xem một hoạt động kinh tế sôi
động bởi đây là phương thức đơn giản hóa những mối lo ngại trong kinh
doanh thông thường. Tại Mỹ, hiện có hơn 550.000 cửa hàng nhượng
quyền, chiếm 40% lợi nhuận. Theo số liệu mới đây, có đến 90% công ty sử
dụng hình thức nhượng quyền thương mại tiếp tục hoạt động sau 10 năm,
trong khi đó khoảng 82% công ty độc lập phải đóng cửa. Theo nhận định
chung, nhượng quyền thương mại được coi là hình thức đầu tư và kinh
doanh của tương lai bởi những lợi thế của nó như tiết kiệm chi phí nhập
cuộc cho bên nhận quyền, dễ dàng nhân rộng và mở rộng hệ thống phân
phối cho bên nhượng quyền,
Trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường và thực thi chủ trương
hội nhập ngày càng đi vào chiều sâu, ở Việt Nam hiện nay, các tranh chấp
thương mại đang diễn ra ngày càng nhiều với tính chất ngày càng phức tạp
mà trong các tranh chấp đó có các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
nhượng quyền thương mại, nhất là liên quan tới hợp đồng nhượng quyền
thương mại. Mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền vốn

6
hàm chứa những mâu thuẫn, do đó khi mâu thuẫn nảy sinh cần có cơ chế
giải quyết cho phù hợp và đảm bảo sự vận động và phát triển của cả hệ
thống nhượng quyền.
Hiện nay pháp luật Việt Nam đã có những qui định tương đối phù
hợp với hoạt động nhượng quyền thương mại, song trong thực tiễn giải
quyết các tranh chấp về nhượng quyền thương mại đã xuất hiện nhiều vấn
đề nan giải. Các vấn đề đó có nguyên nhân từ thực tiễn là các dạng tranh
chấp về nhượng quyền rất phong phú, phức tạp và các cơ chế giải quyết
tranh chấp hiện tại khó đáp ứng.
Vì vậy “Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng nhƣợng
quyền thƣơng mại theo pháp luật Việt Nam” là đề tài nghiên cứu có tính
cấp thiết cao.

2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu


Luận văn tập trung vào các mục tiêu sau:
+ Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan tới các dạng tranh chấp
về nhượng quyền thương mại và các cơ chế giải quyết chúng;
+ Tổng kết các dạng tranh chấp và việc giải quyết chúng trong thực
tiễn hiện nay ở Việt Nam;
+ Kiến nghị xóa bỏ các bất cập của pháp luật liên quan và kiến nghị
xây dựng mô hình giải quyết các tranh chấp về nhượng quyến thương mại.
Luận văn không đi sâu vào phân tích các nội dung cụ thể của hợp
đồng nhượng quyền thương mại và không phân tích thực trạng pháp luật
về các dạng hợp đồng này.

7
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau đây:
+ Phân tích qui phạm pháp luật;
+ Phân tích vụ việc thực tiễn;
+ Thống kê, tổng hợp;
+ So sánh pháp luật;
+ Điển hình hóa và mô hình hóa các quan hệ xã hội.
Các phương pháp này được xây dựng trên cơ sở phương pháp luật
của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác, Lê
Nin.

4. Kết cấu của Luận văn


Kết cấu luận văn tương lai bao gồm ba chương như sau ngoài lời nói
đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp và giải quyết tranh
chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Chương 2: Thực tiễn tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Chương 3: Giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương
mại và kiến nghị.

8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP VÀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI

1.1. Khái lƣợc về hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại


1.1.1. Khái niệm hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại
“Nhượng quyền thương mại” mà tiếng Anh gọi là “franchise” có
nguồn gốc từ tiếng Pháp là “franc”. Dạng kinh doanh này đã manh nha ở
châu Âu khoảng hàng trăm năm trước, sau đó rộ lên và lan rộng tại Hoa
Kỳ từ những năm 80 của thế kỷ trước. Ngày nay một số luật gia Hoa Kỳ
quan niệm: “Franchise là một hợp đồng mà theo đó chủ sở hữu (franchisor)
của một nhãn hiệu, tên thương mại, quyền tác giả, patent, bí mật kinh
doanh, hoặc một vài dạng hoạt động, qui trình hay hệ thống (system) kinh
doanh cho phép những người khác (franchisees) sử dụng tài sản, hoạt
động, qui trình hay hệ thống trong hoạt động cung cấp hàng hoá hoặc dịch
vụ” [1].
Xét dưới giác độ luật thương mại, nhượng quyền thương mại là một
hành vi thương mại do bản chất mà theo đó bên nhượng quyền cho phép và
yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ hay sản xuất theo các điều kiện nhất định dưới sự chỉ dẫn và
kiểm soát của bên nhượng quyền. Việc xác định nhượng quyền thương mại
là hành vi thương mại do bản chất bởi người nhượng quyền và người được
nhượng quyền đều là thương nhân tiếp cận tới nhượng quyền hoàn toàn vì
9
mục tiêu lợi nhuận, và thực tế cho thấy không ai nhượng quyền và nhận
nhượng quyền vì mục đích tiêu dùng. Phản ánh bản chất này, Uỷ ban
Thương mại Liên Bang Hoa Kỳ (The United States Federal Trade
Commission) định nghĩa:
“Một hợp đồng được xem là hợp đồng nhượng quyền thương mại
mà theo đó bên giao:
(i) hỗ trợ đáng kể cho bên nhận trong việc điều hành doanh nghiệp
hoặc kiểm soát chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của bên
nhận;
(ii) li-xăng nhãn hiệu cho bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc
dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hoá của bên giao; và
(iii) yêu cầu bên nhận thanh toán cho bên giao một khoản chi phí tối
thiểu”.
Cũng với quan niệm không khác hơn, Bản quy tắc về hợp đồng
nhượng quyền thương mại của Italia định nghĩa: “Hợp đồng nhượng quyền
thương mại, dù là dưới bất kỳ hình thức nào, là hợp đồng giữa các bên
hoàn toàn độc lập về tài chính và pháp lý, trong đó, để đổi lấy một khoản
thù lao, một bên trao cho bên kia quyền được sử dụng quyền sở hữu trí tuệ
và công nghiệp, nhãn hiệu thương mại, tên thương mại, dấu hiệu cửa hàng,
mô hình, kiểu dáng công nghiệp, bản quyền, bí quyết, bằng sáng chế, trợ
giúp kỹ thuật và thương mại, với mục tiêu cho bên nhận quyền hoạt động
trên một khu vực lãnh thổ nhất định để phân phối hàng hoá và dịch vụ cụ
thể”.
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật quan niệm:

10
“Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên
nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
(1) Việc mua bán hàng hóa, dịch vụ được tiến hành theo cách thức
tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền qui định và được gắn với nhãn
hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh,
biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
(2) Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh” (Điều 284, Luật
Thương mại 2005).
Các định nghĩa về hợp đồng nhượng quyền thương mại nêu trên của
mỗi nước đều có cách thức diễn đạt khác nhau, nhưng tựu chung chúng có
chung một điểm mấu chốt là: bên nhận quyền phân phối sản phẩm, dịch vụ
dưới nhãn hiệu hàng hoá, các đối tượng khác của quyền sở hữu trí tuệ và
hệ thống kinh doanh đồng bộ do bên nhượng quyền sở hữu và phát triển;
đổi lại, bên nhận quyền phải trả những chi phí và chấp nhận một số hạn
chế do bên nhượng quyền quy định. Các định nghĩa này không chú trọng
đến hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Điều đó không có
nghĩa hình thức của hợp đồng không phải là điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng. Nói cách khác hợp đồng không có sự tự do thể hiện dưới bất kỳ hình
thức nào. Điều đó cũng không có nghĩa không có tranh chấp nào về hình
thức của hợp đồng được giải quyết nếu có chứng cứ chứng minh các bên
có quan hệ hợp đồng nhượng quyền thương mại và chứng minh các bên có
sự thỏa thuận về các điều kiện cơ bản hay chủ yếu của loại hợp đồng này.
Luật Thương mại 2005 của Việt Nam qui định: “Hợp đồng nhượng quyền
thương mại phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị

11
pháp lý tương đương” (Điều 285). Điều luật này của Việt Nam cho thấy
sự phân biệt giữa hình thức văn bản của hợp đồng và hình thức thông điệp
dự liệu có giá trị pháp lý tương đương với văn bản hợp đồng.
Nhượng quyền thương mại đã du nhập vào Việt Nam khoảng từ
những thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Một trong những người nhượng quyền
của Việt Nam đầu tiên là: “Cà phê Trung Nguyên” bắt đầu vào năm 1996;
AQ Silk bắt đầu vào năm 2002... Thế nhưng phải sau một thời gian không
ngắn hình thức kinh doanh này được cho phép bằng cách “cấp phép đặc
quyền kinh doanh”, nhượng quyền thương mại mới chính thức được thừa
nhận trong Luật Thương mại 2005. Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày
31/3/2006 của Chính Phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động
nhượng quyền thương mại đã đưa ra khái niệm “hợp đồng phát triển quyền
thương mại” như sau: “Hợp đồng phát triển quyền thương mại là hợp đồng
nhượng quyền thương mại theo đó bên nhượng quyền cấp cho bên nhận
quyền quyền được phép thành lập nhiều hơn một cơ sở của mình để kinh
doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại trong phạm vi một khu
vực địa lý nhất định”; và hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp “là
hợp đồng nhượng quyền thương mại ký giữa bên bên nhượng quyền thứ
cấp và bên nhận quyền thứ cấp theo quyền thương mại chung”. Hai qui
định này không đưa ra định nghĩa cụ thể. Tuy nhiên dựa vào định nghĩa
nhượng quyền thương mại tại Điều 284, Luật Thương mại 2005 người ta
có thể hiểu được quan niệm về hợp đồng nhượng quyền thương mại theo
pháp luật Việt Nam. Hợp đồng nhượng quyền thương mại trước hết là một
hợp đồng thương mại nhằm mục tiêu lợi nhuận, được thể hiện dưới hình
thức văn bản mà trong đó chứa đựng thỏa thuận của bên nhượng quyền và

12
bên nhận quyền làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ của các bên liên quan tới hình thức kinh doanh này.
Tuy nhiên đặt trong sự đối chiếu với các định nghĩa của các nước
trên thế giới, có thể thấy định nghĩa của pháp luật Việt Nam về hợp đồng
nhượng quyền thương mại chưa mô tả được một cách đầy đủ các nội dung
chủ yếu, cần thiết của loại hợp đồng này, kể cả sự mô tả đối tượng quan
trọng của nhượng quyền thương mại (chẳng hạn: Điều 284, Luật Thương
mại 2005 quy định thiếu đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ mà hợp đồng
nhượng quyền thương mại thông thường trong thực tiễn đề cập tới. Đây là
điểm gây khó khăn trong việc xác định các tranh chấp liên quan tới hợp
đồng nhượng quyền thương mại.

1.1.2. Đặc điểm hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại


Mặc dù không có sự thống nhất trong sự diễn đạt khái niệm về hợp
đồng nhượng quyền thương mại, cũng như thiếu thốn trong việc mô tả
hành vi nhượng quyền thương mại như trên đã nêu, nhưng có thể rút ra các
đặc điểm cơ bản của hợp đồng nhượng quyền thương mại như sau:
+ Quan hệ hợp đồng nhượng quyền thương mại là quan hệ pháp luật
thương mại chặt chẽ, liên tục và hỗ trợ lẫn nhau nhau giữa bên nhượng
quyền và bên nhận quyền kể từ khí ký kết hợp đồng nhượng quyền, trong
suốt quá trình thực hiện hợp đồng cho tới khi chấm dứt hợp đồng.
+ Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải thể hiện dưới hình thức
văn bản bởi quan hệ nhượng quyền phức tạp liên quan nhiều tới thương
hiệu, gắn với quy trình kinh doanh đã thành công được thừa nhận trên
phạm vi tương đối rộng và có khả năng mở rộng mô hình kinh doanh đó

13
trên thị trường. Bên nhận quyền tận dụng sự thành công và danh tiếng sẵn
có của thương hiệu đó để tiến hành kinh doanh dưới nhãn hiệu và tên
thương mại của bên nhượng quyền dưới nhiều dạng nhượng quyền khác
nhau.
+ Hợp đồng nhượng quyền thương mại là hợp đồng dài hạn, kéo dài
nhiều năm. Khi hợp đồng nhượng quyền thương mại hết hạn, bên nhượng
quyền có thể gia hạn hợp đồng và sự rằng buộc lại có thể kéo dài nhiều
năm nữa [1].
+ Giá trị của hợp đồng nhượng quyền thương mại luôn gắn liền với
phí nhượng quyền thương mại. Khoản phí này có thể là phí trọn gói một
lần (initial fee) hoặc khoản phí chi trả hàng tháng dựa trên doanh số
(royalty fee), và cũng có thể tổng hợp luôn cả hai khoản phí trên tuỳ thuộc
vào danh tiếng và uy tín của thương hiệu của bên nhượng quyền, ngoài ra
còn phụ thuộc vào sự thương lượng và chính sách của bên nhượng quyền
(Chẳng hạn: tại năm 2005, đối với một cửa hàng “fastfood” theo kiểu
“McDonald's”, bên nhận quyền phải trả phí nhượng quyền khởi đầu
khoảng 45.000 USD và cộng thêm một khoản phí là 1,9% doanh thu hàng
tháng).
Các đặc điểm này của hợp đồng nhượng quyền thương mại có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định tranh chấp và giải quyết tranh chấp
hợp đồng nhượng quyền thương mại, có nghĩa là xác định tranh chấp nào
được xem là tranh chấp nhượng quyền thương mại và cơ chế nào thích hợp
cho giải quyết tranh chấp nhượng quyền thương mại, cũng như giải pháp
giải quyết tranh chấp được tìm kiếm như thế nào.

14
1.1.3. Phân loại nhƣợng quyền thƣơng mại
Có nhiều căn cứ khác nhau để phân loại nhượng quyền thương mại,
có nghĩa là có nhiều cách thức phân loại nhượng quyền thương mại khác
nhau. Tuy nhiên xét dưới giác độ pháp lý liên quan tới giải quyết tranh
chấp thương mại thì cách thức phân loại có hệ quả kéo theo sự phân loại
hợp đồng nhượng quyền thương mại là có giá trị cao.
Căn cứ vào phạm vi nhƣợng quyền thƣơng mại, có các phân loại
hợp đồng nhượng quyền thương mại như sau:
(1) Hợp đồng nhượng quyền riêng lẻ (single-unit franchise
contract). Đây là loại hợp đồng nhượng quyền thương mại khá phổ biến.
Theo loại hợp đồng này, bên nhận quyền ký một hợp đồng nhượng quyền
thương mại trực tiếp với bên nhượng quyền mà bên nhượng quyền có thể
là chủ nhân của thương hiệu hoặc chỉ là một đại lý độc quyền (master
franchisee); còn bên nhận quyền có thể là một cá nhân hay một công ty
nhỏ được chủ nhân của thương hiệu hay đại lý độc quyền của chủ nhân của
thương hiệu cấp quyền kinh doanh tại một địa điểm trong một thời gian
nhất định. Sau thời gian này, hợp đồng có thể được gia hạn. Bên nhượng
quyền có thể rút quyền kinh doanh thương hiệu trong trường hợp đối tác
không tuân thủ các quy định chung của hệ thống nhượng quyền hoặc kinh
doanh kém hiệu quả, gây ảnh hưởng không tốt đến thương hiệu. Bên nhận
quyền theo phương thức này không được quyền nhượng quyền lại cho
người khác (sub-franchise) cũng như không được tự ý mở thêm một cửa
hàng mang cùng thương hiệu nhượng quyền. Mỗi một cửa hàng mới đều
phải ký thêm hợp đồng nhượng quyền mới nhưng còn tuỳ thuộc vào hiệu
quả kinh doanh và khả năng hợp tác với chủ thương hiệu tại cửa hàng hiện

15
tại. Nhiều hệ thống nhượng quyền còn yêu cầu bên nhận quyền không
được kinh doanh các mặt hàng tương tự tuy khác thương hiệu.
(2) Hợp đồng nhượng quyền độc quyền (master franchise contract).
Theo loại hợp đồng này, thông thường chủ nhân của thương hiệu cấp phép
cho bên nhận quyền độc quyền kinh doanh thương hiệu của mình trong
phạm vi một khu vực, thành phố, lãnh thổ, hay quốc gia trong một khoảng
thời gian nhất định mà khonagt hời gian này thông thường dài hơn nhiều
so với khoảng thời gian của hợp đồng nhượng quyền riêng lẻ. Bên nhận
quyền độc quyền (master franchisee) có thể nhượng lại quyền thương mại
cho người thứ ba dưới hình thức nhượng quyền riêng lẻ hay nhượng quyền
phát triển khu vực. Bên nhận quyền thương mại độc quyền thường phải
cam kết mở bao nhiêu cửa hàng trong một thời gian nhất định do chủ nhân
của thương hiệu quy định. Nếu không đáp ứng đúng tiến độ như thoả thuận
trong hợp đồng thì bên nhận quyền có nguy cơ bị cắt quyền độc quyền
trong khu vực hay lãnh thổ đó. Ngoài số lượng các cửa hàng phải mở theo
đúng kế hoạch đã thống nhất trong hợp đồng, bên nhận quyền độc quyền
phải cam kết xây dựng các chương trình huấn luyện, đào tạo những người
nhận quyền sau này để đảm bào chất lượng và uy tín của thương hiệu. Do
đó nhiều chủ thương hiệu yêu cầu đối tác nhận quyền độc quyền tiềm năng
phải lên một kế hoạch phát triển kinh doanh và quản trị hệ thống nhượng
quyền trong giai đoạn từ 3 đến 5 năm để xét duyệt trước khi quyết định cấp
phép. Vì thế, bên nhận quyền độc quyền, ngoài kinh nghiệm trong lĩnh vực
liên quan đến sản phẩm kinh doanh theo kiểu nhượng quyền, còn phải có
khả năng tài chính và quản trị tốt để có thể xây dựng một hệ thống phục vụ
cho tất cả các cửa hàng trong khu vực độc quyền kinh doanh của mình. Phí

16
nhượng quyền trong trường hợp này phụ thuộc vào sự thỏa thuận xuất phát
từ đánh giá chủ quan của hai bên.
(3) Hợp đồng nhượng quyền phát triển khu vực (area developement
franchise contract). Đây là loại hợp đồng nhượng quyền nằm giữa hai hình
thức single-unit và master franchise, có nghĩa là có cả một số yếu tô của cả
hai loại trên. Theo loại hợp đồng này, bên nhận quyền được cấp độc quyền
trong một khu vực hay một thành phố nhỏ trong một thời gian nhất định,
tuy nhiên không được phép nhượng quyền lại cho bất cứ ai. Bên nhận
quyền phát triển khu vực cũng bị ràng buộc trong hợp đồng là phải mở bao
nhiêu cửa hàng trong vòng mấy năm, nếu không sẽ bị chủ thương hiệu cắt
hợp đồng và rút quyền. Trong một số trường hợp, sau một thời gian kinh
doanh tốt bên nhận quyền phát triển khu vực có thể xin chuyển hợp đồng
thành hợp đồng nhượng quyền độc quyền nếu muốn nhượng quyền lại cho
người thứ ba. Bên nhận quyền thương mại thường được yêu cầu thanh toán
trước một khoản phí khá lớn để được độc quyền mở cửa hàng trong một
khu vực hay thành phố nào đó.
Căn cứ vào đối tƣợng của nhƣợng quyền thƣơng mại, hợp đồng
nhượng quyền thương mại được chia thành bốn loại như sau:
Loại thứ nhất, hợp đồng nhượng quyền phân phối sản phẩm
(product distribution franchise contract). Đây là hợp đồng mà theo đó bên
nhận quyền thường không nhận được sự hỗ trợ đáng kể nào từ bên nhượng
quyền (chủ nhân của thương hiệu hay đại lý độc quyền của người này)
ngoại trừ việc được phép sử dụng tên nhãn hiệu, thương hiệu, biểu tượng,
khẩu hiệu và phân phối sản phẩm hay dịch vụ của chủ thương hiệu trong
một phạm vi khu vực và thời gian nhất định, có nghĩa là bên nhận quyền
quản lý điều hành cơ sở kinh doanh nhượng quyền của mình khá độc lập, ít

17
bị ràng buộc bởi những quy định của bên nhượng quyền. Bên nhận quyền
có thể chế biến cung cách phục vụ và kinh doanh theo ý mình. Loại hợp
đồng nhượng quyền này tương tự với kinh doanh cấp phép (licensing) mà
trong đó chủ thương hiệu quan tâm nhiều đến việc phân phối sản phẩm của
mình và không quan tâm mấy đến hoạt động hàng ngày hay tiêu chuẩn
hình thức của cơ sở kinh doanh nhượng quyền. Do đó, mối quan hệ giữa
bên nhượng quyền và bên nhận quyền là mối quan hệ nhà cung cấp và nhà
phân phối mà phổ biến nhất là các trạm xăng dầu, đại lý bán ô tô và các
công ty sản xuất nước giải khát.
Loại thứ hai, hợp đồng nhượng quyền mô hình kinh doanh mẫu
(business format franchise contract). Loại hợp đồng này bao gồm chuyển
giao qui trình kinh doanh và công thức điều hành, quản lý. Các chuẩn mực
của mô hình kinh doanh mẫu phải được giữ đúng. Quan hệ hợp tác giữa
bên nhượng quyền và bên nhận quyền theo loại hợp đồng này rất chặt chẽ
và liên tục. Đây cũng chính là hình thức nhượng quyền phổ biến nhất và
hiệu quả nhất hiện nay. Bên nhận quyền phải trả một khoản phí nhượng
quyền cho bên nhượng quyền.
Loại thứ ba, hợp đồng nhượng quyền sản xuất (manufacturing or
processing arrangement contract). Với loại hợp đồng này, bên nhượng
quyền cung cấp cho bên nhận quyền thành phần hoặc công thức để sản
xuất một sản phẩm và rồi bên nhận quyền phải tiếp thị nó phù hợp với tiêu
chuẩn của bên nhượng quyền (ví dụ hợp đồng nhượng quyền nước giải
khát đóng chai) [1]. Thông thường bên nhượng quyền trao cho bên nhận
quyền quyền sản xuất và bán sản phẩm với nhãn hiệu và thương hiệu của
bên nhượng quyền. Bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được sử
dụng các nguyên liệu và/hoặc kỹ thuật đặc trưng, riêng biệt của bên

18
nhượng quyền để thực hiện việc sản xuất và bán các sản phẩm mang nhãn
hiệu và dưới tên thương mại của bên nhượng quyền theo những chỉ dẫn
của bên nhượng quyền. Loại hợp đồng nhượng quyền này thường thấy
trong các ngành công nghiệp sản xuất đồ uống, thực phẩm, dược phẩm mà
trong đó bên nhượng quyền cung cấp các thành phần chủ yếu, nguyên liệu
hoặc bí quyết kỹ thuật và cấp li-xăng quyền sử dụng nhãn hiệu, tên thương
mại, và trong một số trường hợp là bí mật kinh doanh, sáng chế thuộc sở
hữu của mình để bên nhận quyền chế biến, sản xuất và bán các sản phẩm.
Loại thứ tư, hợp đồng nhượng quyền cơ hội kinh doanh (business
opportunity ventures or joint venture franchising contract). Hợp đồng này
là sự thoả thuận giữa các bên mà theo đó bên nhận quyền được quyền mua
và bán hàng hoá, dịch vụ hoặc một số công việc kinh doanh khác của bên
nhượng quyền. Bên nhượng quyền sắp xếp địa điểm kinh doanh, tìm công
việc kinh doanh cho bên nhận quyền thứ cấp và thậm chí còn cung cấp
nhân viên kỹ thuật hoặc thương mại cho bên nhận quyền (Ví dụ: bên
nhượng quyền tìm điểm đặt máy bán hàng tự động cho bên nhận quyền và
bán cho bên nhận quyền sản phẩm, nhưng bên nhận quyền thu tiền và hoàn
trả cho bên nhượng quyền).
Với các loại hợp đồng như vậy, mặc dù đều là hợp đồng nhượng
quyền thương mại, nhưng chúng có sự khác biệt đáng kể. Điều đó dẫn đến
các dạng tranh chấp liên quan đến hợp đồng nhượng quyền thương mại
khá đa dạng và phức tạp. Chúng đòi hỏi không thể nhìn nhận các dạng
tranh chấp này thông qua các qui định đơn thuần của pháp luật mà cần xuất
phát từ việc tìm hiểu thực tiễn kinh doanh và các tập quán phát sinh từ việc
kinh doanh nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên việc xem xét các qui
định cụ thể của hợp đồng giữa các bên là rất quan trọng.

19
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của nhƣợng quyền thƣơng mại
Nhượng quyền thương mại đối với Việt Nam còn mới mẻ, tuy đã bắt
đầu được chú ý và phát triển. Sức hấp dẫn và những ưu điểm của hình thức
kinh doanh này trên thế giới đã được minh chứng qua thực tiễn ở nhiều
nước phát triển. Nhượng quyền thương mại được dự báo sẽ là hình thức
kinh doanh phát triển mạnh ở Việt Nam – một nền kinh tế chuyển đổi đang
cần sự du nhập của các ý tưởng kinh doanh, công nghệ và nghệ thuật quản
trị. Xét ở khía cạnh khác cho thấy Việt Nam hoàn toàn có thể có môi
trường thích hợp cho sự phát triển của hình thức kinh doanh này vì Việt
Nam có sự an toàn xã hội cao, không có xung đột về tôn giáo, chính trị, và
hệ thống pháp luật linh động....
Các doanh nghiệp trong nước hiện nay đang tìm cách kinh doanh
trên cả nước thông qua hình thức nhượng quyền. Các nhà đầu tư nước
ngoài cũng mong muốn thâm nhập vào thị trường Việt Nam thông qua
hình thức kinh doanh này, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ. Đặc biệt thương
nhân Việt Nam cũng đã trinh phục các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật,
Hàn Quốc bằng hình thức kinh doanh này và đã có nhứng thành công nhất
định, chẳng như “Cà phê Trung Nguyên”. Doanh thu từ hoạt động nhượng
quyền thương mại tăng lên rất nhiều so với những năm 1990. Do đó dẫn
đến công ăn việc làm của người lao động cũng được giải quyết tốt hơn.
Albert Kong, Chủ tịch Công ty Asiawide Franchise Consultant, một trong
những công ty hàng đầu trong lĩnh vực tư vấn Franchising tại Châu Á, cho
rằng: Hoàn cảnh để franchise trở thành cơ hội kinh doanh khi khủng hoảng
kinh tế khiến tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, nhiều nhà đầu tư tìm cơ hội kinh

20
doanh trong khi nhượng quyền sẽ giảm rủi ro cho doanh nghiệp; khi thị
trường chứng khoán gặp khó khăn, mức độ tiếp cận tín dụng bị hạn chế do
ngân hàng siết chặt cho vay. Do vậy nhượng quyền thương mại có ý nghĩa
rất lớn đối với nền kinh tế hậu khủng hoảng hiện nay ở Việt Nam [28].
Có thể nhận định rằng, hình thức nhượng quyền thương mại sẽ là
một sự lựa chọn cho cả các thương nhân nhượng quyền và thương nhân
nhận quyền trong những năm tới đây. Do đó tranh chấp liên quan tới hình
thức kinh doanh ngày sẽ càng gia tăng và càng trở nên phức tạp, đòi hỏi
chuyên môn sâu. Vì vậy việc giải quyết chúng là rất cần thiết để bảo đảm
sự bình ổn của kinh tế - xã hội nói chung, và cho nhượng quyền thương
mại nói riêng.

1.2. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp hợp đồng nhƣợng quyền
thƣơng mại.
1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại
Tranh chấp là một từ ngữ thông thường được sử dụng thường ngày.
Nhưng trong khoa học pháp lý nó là một thuật ngữ chỉ những tranh chấp
có tính cách pháp lý. Hiểu một cách thông thường tranh chấp là “giành
nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào; hay đấu tranh
giằng co khi có ý kiến bất đồng thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai
bên” [8]. Về phương diện pháp lý, Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng
của Việt Nam giải nghĩa: “Tranh chấp là những mâu thuẫn, bất hoà về
quyền và nghĩa vụ hợp pháp giữa các chủ thể tham gia vào một quan hệ
pháp luật, trong đó có tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” [6].
Như vậy theo giải nghĩa này, tranh chấp được hiểu là những bất đồng, mâu
thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên trong một quan hệ xã hội nhất
21
định được pháp luật điều chỉnh. Đây là một định nghĩa khái quát một cách
tương đối rộng và đầy đủ về tranh chấp pháp lý nói chung. Định nghĩa này
không khác với định nghĩa tranh chấp pháp lý của nước ngoài. Deluxe
Black’s Law Dictionary định nghĩa: “Tranh chấp trong lĩnh vực pháp lý
được hiểu là các xung đột hay trái ngược liên quan tới các quyền, sự đòi
hỏi hay yêu cầu của một bên đối với bên kia, hoặc sự khẳng định về quyền,
sự đòi hỏi hay yêu cầu của một bên bị đáp lại bởi yêu cầu hay sự viện dẫn
trái ngược của bên kia” [11]. David Foskett cho rằng: “Một tranh chấp tất
nhiên không thể xuất hiện, trừ khi một trái quyền được khẳng định bởi một
bên mà lại bị một bên khác chống lại” [12, tr. 5].
Tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại trước hết là một
tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh – một bộ phận của tranh
chấp pháp lý. Vì thế trước tiên phải nghiên cứu tranh chấp hợp đồng trong
kinh doanh là gì.
Ở Việt Nam hiện nay các luật gia có những định nghĩa tương đối
khác nhau về tranh chấp kinh doanh, thương mại nói chung và tranh chấp
hợp đồng nói riêng.
Về tranh chấp kinh doanh thương mại, TS. Phan Chí Hiếu định
nghĩa: “Tranh chấp kinh tế được hiểu là những mâu thuẫn hay xung đột về
quyền và nghĩa vụ, lợi ích kinh tế giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ
kinh tế” [4, tr. 98]. Định nghĩa này sử dụng thuật ngữ tranh chấp kinh tế,
tuy nhiên phải hiểu đó chính là tranh chấp kinh doanh bởi trước khi ban
hành Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005, ở Việt Nam vẫn tồn
tại một ngành luật được gọi là luật kinh tế với sự biểu hiện thông qua Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế 1989. Nay ngành luật này bị thay thế một phần bởi
ngành luật thương mại [2, tr. 17]. PGS. TS. Phạm Hữu Nghị có ý niệm

22
không khác với định nghĩa trên rằng: “Tranh chấp trong kinh doanh là mâu
thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, các doanh
nghiệp với tư cách là chủ thể kinh doanh” [7, tr. 73]. Trường Đại học Luật
Hà Nội cho rằng: “Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng
hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện
các hoạt động thương mại” [9, tr. 432].
Về tranh chấp hợp đồng, Học viện Tư pháp định nghĩa: “Tranh chấp
hợp đồng là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia quan hệ
hợp đồng liên quan tới việc thực hiện (hoặc không thực hiện) các quyền và
nghĩa vụ theo hợp đồng” [5, tr. 53].
Có lẽ các định nghĩa này gây ảnh hưởng tới việc xây dựng luật thực
định. Điều 238 của Luật Thương Mại 1997 của Việt Nam định nghĩa:
“Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”.
Không hoàn toàn đồng ý với các quan niệm trên ở Việt Nam hiện
nay, nói về tranh chấp hợp đồng, PGS. TS. Ngô Huy Cương phân tích:
“Các tranh chấp hợp đồng có thể được phân loại như sau: (1) Căn cứ vào
giai đoạn của quan hệ hợp đồng, có thể phân loại thành tranh chấp tiền hợp
đồng, tranh chấp về thực hiện hợp đồng, và tranh chấp khi đã kết thúc quan
hệ hợp đồng; (2) Căn cứ vào nội dung tranh chấp, có thể phân loại thành
tranh chấp về việc hiểu hay giải thích hợp đồng, và tranh chấp về thực hiện
hợp đồng” [3, tr. 58]. Như vậy tranh chấp hợp đồng không chỉ liên quan tới
việc thực hiện hợp đồng, mà còn liên quan tới cả các giai đoạn trước và sau
hợp đồng, cũng như tranh liên quan tới giải thích hợp đồng.
Nhượng quyền thương mại thực chất là hợp đồng, tạo lập nên mối
quan hệ hợp đồng thương mại giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền.

23
Nhượng quyền thương mại ngay tên gọi này đã khẳng định nó hoàn toàn
thuộc lĩnh vực thương mại dù rằng nó có liên quan rất nhiều tới sở hữu trí
tuệ. Hai bên trong quan hệ hợp đồng này trước hết đều là thương nhân và
việc nhượng quyền thương mại luôn luôn là hành vi tìm kiếm lợi nhuận vì
vậy việc quan niệm như trên hoàn toàn đúng đắn.
Quan hệ nhượng quyền thương mại luôn luôn tiềm ẩn những mâu
thuẫn và sung đột lợi ích. Chẳng hạn: Một mặt, bên nhượng quyền vì lợi
ích của mình muốn chi phối càng nhiều càng tốt hoạt động của bên nhận
quyền nhằm bảo vệ quyền liên quan tới tài sản mà mình đã phải mất nhiều
thời gian, công sức và chi phí để tạo dựng. Mặt đối lại, bên nhận quyền
luôn muốn chống lại những hạn chế của bên nhượng quyền và phát triển
các quyền thương mại được chuyển nhượng theo ý mình để tách khỏi sự lệ
thuộc. Ngoài ra bên nhận quyền có tâm lý không muốn trích lợi nhuận
kiếm được để chi trả cho bên nhượng quyền. Sự trái ngược bên trong của
hai bên dù xuất hiện tại thời điểm nào của mối quan hệ là những động cơ
thúc đẩy cho việc tranh chấp. Các tranh chấp này có thể xuất phát từ các
hoàn cảnh cụ thể sau:
Thứ nhất, vi phạm tiền hợp đồng. Tranh chấp phát sinh thường liên
quan tới việc công bố và trao đổi các tài liệu hay giấy tờ giao dịch cần thiết
trước khi giao kết hợp đồng.
Thứ hai, vi phạm về năng lực chủ thể của hợp đồng. Đây là nguyên
nhân để đưa đến tranh chấp. Tuy nhiên nó thường phát sinh khi mối quan
hệ nhượng quyền không suôn sẻ hoặc kinh doanh nhượng quyền lâm vào
tình trạng khó khăn, dù năng lực chủ thể có thể đã được xác định trước khi
giao kết hợp đồng.

24
Thứ ba, không thống nhất trong cách hiểu hợp đồng. Tranh chấp này
liên quan tới yêu cầu gải thích hợp đồng.
Thứ tư, không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các
điều kiện của hợp đồng. Tranh chấp này liên quan tới việc vi phạm nghĩa
vụ theo hợp đồng của một hoặc cả các bên.
Thứ năm, chấm dứt và vi phạm các qui định liên quan tới chấm dứt
hợp đồng nhượng quyền thương mại. Tranh chấp này có thể liên quan tới
chấm dứt do sự vi phạm hợp đồng hoặc chấm dứt do sự tự nguyện của các
bên.
Qua đây có thể hiểu: Tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương
mại là những tranh chấp pháp lý trong việc hiểu và thực hiện, cũng như
tiến hành giao kết và chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại giữa
các bên tham gia quan hệ nhượng quyền thương mại.

1.2.2. Đặc điểm của các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhƣợng
quyền thƣơng mại.
Tranh chấp nhượng quyền thương mại có thể khẳng định là một
dạng của tranh chấp thương mại Do đó bản thân nó đã mang các đặc điểm
của tranh chấp thương mại, và hơn nữa lại mang thêm các đặc điểm riêng
có của tranh chấp hợp đòng nhượng quyền thương mại. Trước hết tranh
chấp này đòi hỏi: Có quan hệ nhượng quyền thương mại tồn tại giữa các
bên tranh chấp; có sự vi phạm nghĩa vụ của một bên làm ảnh hưởng tới
quyền và lợi ích của bên kia hoặc có cách hiểu không thống nhất liên
qưuan tới hợp đồng hoặc một hoặc một số điều kiện hay từ ngữ hợp đồng
nhất định; có sự bất đồng quan điểm của các bên về sự vi phạm hoặc xử lý
hậu quả phát sinh từ sự vi phạm. Tranh chấp hợp đồng nhượng quyền
25
thương mại thường có yếu tố tài sản, gắn liền với quyền và lợi ích của các
bên tranh chấp và phát sinh trực tiếp từ quan hệ hợp đồng, vì vậy các bên
luôn có quyền tự định đoạt và giải quyết theo nguyên tắc bình đẳng, thoả
thuận.
Tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại có các đặc thù sau:
Thứ nhất, về chủ thể của tranh chấp. Vì hợp đồng nhượng quyền
thương mại không phải là hợp đồng mua bán mà là hợp đồng cho thuê. Do
đó tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại là tranh chấp giữa
người cho thuê và người thuê. Thương hiệu hay các bí quyết kinh doanh…
của bên nhượng quyền không được chuyển nhượng hay bán cho bên nhận
quyền, mà chỉ cho phép bên nhận quyền được khai thác kinh doanh trên đó
trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, về đối tượng của tranh chấp. Đối tượng của hợp đồng
nhượng quyền thương mại là tài sản vô hình và các quyền thương mại khác
như: quyền khai thác sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ theo cách thức nhất
định; thương danh, bố trí không gian thương mại.... Lưu ý rằng: Cách thức
kinh doanh và các quyền khác thường phải có danh tiếng hoặc uy tín trên
thị trường bởi mục đích của bên nhận quyền là muốn tìm kiếm lợi nhuận
theo sự thành công của một thương hiệu nhất định. Nội dung của những
tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại gắn chặt với những quyền
thương mại này, nhất là các quyền sở hữu trí tuệ. Các quyền này pháp luật
Việt Nam gọi là “quyền thương mại” mà có thể bao gồm:
+ Quyền được bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận
quyền tự mình tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hoá hoặc
dịch vụ theo một hệ thống do bên nhượng quyền quy định và được gắn với

26
nhãn hiệu, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,
cách thức quảng cáo, tiếp thị của bên nhượng quyền;
+ Quyền do bên nhượng quyền (gốc) trao cho bên nhượng quyền thứ
cấp được phép cấp lại quyền thương mại cho các bên nhận quyền thứ cấp;
+ Quyền do bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho Bên nhận quyền
thứ cấp theo hợp đồng nhượng quyền thương mại chung;
+ Quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền
thương mại theo hợp đồng phát triển quyền thương mại.
Đây là những đối tượng đặc biệt, có độ phức tạp cao. Do đó nó
mang đến những đặc thù so với những đối tượng tranh chấp khác, chẳng
hạn: Quyền kiểm soát của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong
hoạt động nhượng quyền thương mại theo qui tắc do bên nhượng quyền ấn
định (mang đến hệ quả gần như có sự thiếu bình đẳng trong quan hệ này).

1.3. Những tranh chấp có thể phát sinh từ hợp đồng nhƣợng quyền
thƣơng mại
Việc nghiên cứu những tranh chấp có thể phát sinh từ hợp đồng
nhượng quyền thương mại không thể tách rời việc nghiên cứu giao kết, nội
dung và hiệu lực của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Nói cách khác,
thông qua giao kết, nội dung và hiệu lực của hợp đồng này người ta có thể
nắm bắt được các trường hợp tranh chấp có thể xảy ra.

27
1.3.1. Giao kết hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại và những tranh
chấp liên quan
Để tiến tới thống nhất ý chí trong quá trình xác lập hợp đồng mua
bán hàng hoá hay một số chủng loại hợp đồng dịch vụ thông thường khác,
một bên thường đưa ra những điều kiện của hợp đồng, khi những điều kiện
này được bên kia chấp nhận thì hợp đồng được coi là giao kết. Hợp đồng
mua bán hàng hóa thông thường được giao kết qua qui trình: chào hàng,
chấp nhận chào hàng, hoặc các bên thoả thuận nội dung của hợp đồng, và
hợp đồng có hiệu lực nếu hình thức và nội dung hợp pháp.
Điều 404, Bộ luật Dân sự 2005 quy định hợp đồng có hiệu lực vào
thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Điều này cũng
có nghĩa bên được đề nghị chỉ cần trả lời chấp nhận là đủ để giao kết hợp
đồng, không cần thêm bất kỳ điều kiện bổ sung hay một sự trao đổi,
thương lượng nào nữa. Do đó, yêu cầu trước hết và đương nhiên của đề
nghị giao kết hợp đồng là phải nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng, nếu
không chỉ được coi là lời mời giao kết hợp đồng hoặc lời mời đàm phán để
giao kết hợp đồng.
Đối với quan hệ mua bán thông thường, người bán chào hàng và đề
nghị giao kết với người mua hoặc ngược lại. Tuy nhiên trong quan hệ
nhượng quyền thương mại có một chút khác biệt. Đa số mối quan hệ
nhượng quyền thường là bên muốn nhận nhượng quyền đề nghị với bên
nhượng quyền. Sau đó bên nhượng quyền xem xét các điều kiện thực tế
của bên đề nghị nhận quyền có đáp ứng được các tiêu chuẩn của mình đặt
ra hay không để phát triển hệ thống nhượng quyền hiện tại. Nếu bên
nhượng quyền nhận thấy bên đề nghị nhận nhượng quyền đáp ứng được
các yêu cầu của mình thì bên nhượng quyền có trách nhiệm phải gửi các

28
thông tin cần thết về hệ thống nhượng quyền của mình (các tài liệu công
bố). Sau khi nghiên cứu những thông tin, tài liệu này trong một thời hạn
nhất định do bên nhượng quyền ấn định, bên đề nghị nhận nhượng quyền
hoàn toàn có thể rút lại đề nghị nhận nhượng quyền này. Ngược lại, thời
điểm giao kết hợp đồng nhượng quyền thương mại là khi bên đề nghị nhận
nhượng quyền bày tỏ ý muốn tiến tới giao kết hợp đồng thiết lập quan hệ
nhượng quyền thương mại với bên nhượng quyền. Thông thường một trả
lời chấp thuận có thể thông qua lời nói, văn bản hoặc bằng sự im lặng,
nhưng đối với tính chất phức tạp của hợp đồng nhượng quyền thương mại,
nên pháp luật qui định một hình thức trả lời cụ thể và có tính ràng buộc
pháp lý cao. Vì vậy tranh chấp về hình thức của hợp đồng nhượng quyền ít
xảy ra. Tuy nhiên tranh chấp liên quan tới các trao đổi tiền hợp đồng có thể
xảy ra bởi tiêu chuẩn hay tài liệu của bên nhượng quyền có thể thiếu rõ
ràng hay có cách hiểu khác nhau về những điểm có liên quan của các tài
liệu này.
Một hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường có thể được thể hiện
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Tuy
nhiên, vì nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại bao gồm rất
nhiều điều khoản quan trọng, nhất là có liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, vì vậy hợp đồng nhượng quyền thương mại bắt buộc phải
được lập thành văn bản. Điều 285, Luật Thương mại 2005 quy định: “Hợp
đồng nhượng quyền thương mại phải được lập thành văn bản hoặc bằng
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”. Các hình thức có giá trị
tương đương bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình
thức khác theo quy định của pháp luật. Nếu giao kết bằng hình thức khác
như lời nói hoặc hành động, hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể có

29
hiệu lực đối với các bên, các bên vẫn có thể thực hiện hợp đồng nhưng nếu
có tranh chấp xảy ra mà giải quyết tại toà án thì hợp đồng này có thể bị
tuyên bố vô hiệu.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại chỉ có hiệu lực khi thoả mãn
các điều kiện: Các bên ký kết phải đủ thẩm quyền và thoả mãn điều kiện
ký kết hợp đồng nhượng quyền và tham gia hợp đồng một cách tự nguyện;
mục đích và nội dung của hợp đồng không trái quy định pháp luật và đạo
đức xã hội; hình thức hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.

1.3.2. Nội dung của hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại và những
tranh chấp liên quan
Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại do các bên thoả
thuận phù hợp với hình thức kinh doanh nhượng quyền và pháp luật của
nước do các bên thỏa thuận hoặc của nước của bên nhận nhượng quyền.
Nghị định số 35/2006/NĐ-CP của Chính Phủ quy định:
“Trong trường hợp các bên lựa chọn áp dụng luật Việt Nam, hợp
đồng nhượng quyền thương mại có thể có các nội dung chủ yếu sau đây:
1. Nội dung của quyền thương mại.
2. Quyền, nghĩa vụ của Bên nhượng quyền.
3. Quyền, nghĩa vụ của Bên nhận quyền.
4. Giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán.
5. Thời hạn hiệu lực của hợp đồng.
6. Gia hạn, chấm dứt hợp đồng và giải quyết tranh chấp” (Điều 11).
Quy định của Nghị định này quan niệm các điều kiện của hợp đồng
nói trên không bắt buộc các bên phải đưa vào hợp đồng. Qui định mở này

30
có thể dẫn đến những khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng
và nhiều khi làm giảm giá trị của việc bắt buộc hình thức của hợp đồng
phải bằng văn bản.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại bao gồm nhiều điều khoản
ràng buộc các bên trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Dù pháp luật
Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về hợp đồng nhượng quyền
thương mại, và cũng không bắt buộc các nội dung của hợp đồng, nhưng
nhưungx điều kiện chủ yếu của hợp đồng bao gồm:
* Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ của các bên.
Bên nhượng quyền trao cho bên nhận quyền quyền sử dụng tài sản
trí tuệ của mình. Đối với bên nhận quyền, các quyền được cấp còn là một
hình thức tìm kiếm khả năng đầu tư và khả năng đánh giá mức độ sẵn sàng
của bên nhượng quyền trước những thách thức và nhu cầu của thị trường
bản địa.
Phạm vi các quyền được cấp khá rộng và có thể bao gồm tập hợp
nhãn hiệu, bài trí thương mại, bí quyết kinh doanh, cahs thức tiếp thị, các
hỗ trợ kỹ thuật thường xuyên, quyền sản xuất hoặc phân phối các sản phẩm
độc quyền, hàng hiệu của bên nhượng quyền.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một hệ thống kinh doanh
muốn nhượng quyền phải đáp ứng điều kiện về thời gian hoạt động tối
thiểu là một năm. Khi đáp ứng được điều kiện này cùng với các quy định
về đăng ký, về hàng hoá kinh doanh thì các bên có thể tiến tới xác lập mối
quan hệ nhượng quyền. Bên nhượng quyền phải cung cấp cho bên nhận
quyền tương lai đầy đủ các thông tin và tài liệu cần thiết. Nghị định
35/2006/NĐ-CP quy định: “Bên nhượng quyền có trách nhiệm cung cấp
bản sao hợp đồng nhượng quyền thương mại mẫu và bản giới thiệu về

31
nhượng quyền thương mại của mình cho bên dự kiến nhận quyền ít nhất là
15 ngày làm việc trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại nếu
không có thoả thuận khác” (Điều 8).
Trong quan hệ nhượng quyền, bên nhượng quyền có nghĩa vụ:
+ Đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho
bên nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống nhượng quyền
thương mại;
+ Thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi
phí của bên nhận quyền;
+ Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong
hợp đồng nhượng quyền (Luật Thương mại 2005, Điều 286).
Sau khi ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại, bên nhượng
quyền nhận phí nhượng quyền và có quyền kiểm soát bên nhận quyền
trong quá trình hoạt động kinh doanh theo hợp đồng nhượng quyền. Những
quyền được cấp cho bên nhận quyền ngoài quyền được sử dụng thương
hiệu, bí quyết, bí mật kinh doanh…, bên nhận quyền còn được sự hỗ trợ
thường xuyên và lâu dài từ bên nhượng quyền.
Trong trường hợp bên nhận quyền không đảm bảo tuân thủ các cam
kết và các yêu cầu của bên nhượng quyền trong quan hệ hợp đồng nhượng
quyền, tranh chấp có thể xảy ra. Có thể nhận xét các yêu cầu, các tiêu
chuẩn và các điều kiện mà bên nhận quyền phải tuân thủ khá rộng và mơ
hồ khiến cho những nhân viên bình thường của bên nhận quyền khó có thể
nhận thức đầy đủ để tuân thủ. Hơn nữa quyền kiểm soát thường xuyên và
các quyền khác của bên nhượng quyền khá rộng và cũng khong kém phần
mơ hồ khiến cho bên nhượng quyền dễ có được những yêu sách về sự vi
phạm của bên nhận quyền. Vì vậy đây là khu vực dễ xảy ra tranh chấp.

32
* Thứ hai, nội dung nhượng quyền.
Hợp đồng nhượng quyền cần xác định rõ sản phẩm, dịch vụ mà bên
nhượng quyền phải cung cấp cho bên nhận quyền, kể cả các dịch vụ hỗ trợ
thường xuyên trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng nhượng
quyền. Vì vậy hợp đồng cần chi tiết hóa các sản phẩm và dịch vụ này như:
bí mật thương mại và giấy phép bản quyền sử dụng cẩm nang hoạt động
lưu hành nội bộ, tuyển dụng và đào tạo nhân sự, hệ thống kế toán và lưu
trữ sổ sách, thông số kỹ thuật của thiết bị, hàng hoá, quy chuẩn xây dựng,
thiết kế nội thất, hỗ trợ quản cáo và xúc tiến sản phẩm khi mở đại lý…
Trong đó chất lượng và phạm vi chương trình đào tạo là dịch vụ quan
trọng nhất mà công ty nhượng quyền phải cung cấ cho đại lý trước khi mở
cửa. Hình thức hỗ trợ này phải bao gồm cả lớp học và dịch vụ tư vấn tại
chỗ. Dịch vụ sau này bao gồm việc hỗ trợ tại chỗ và giải quyết sự cố,
nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ mới, xây dựng các chiến dịch
quảng cáo và xúc tiến trên toàn quốc, sắp xếp các chương trình mua sắm
theo nhóm khách hàng...
Hầu hết các hệ thống nhượng quyền dựa trên sản phẩm đều có một
hoặc nhiều sản phẩm độc quyền do bên nhượng quyền sản xuất hoặc kiểm
soát. Bên nhận quyền có nghĩa vụ phải mua sản phẩm này hoặc bán lại cho
khách hàng hoặc sử dụng cho việc cung ứng dịch vụ. Công ty nhượng
quyền có nghĩa vụ cung cấp các sản phẩm này đúng thời gian, có chất
lượng tốt và giá cả hợp lý. Nhưng với hệ thống nhượng quyền dựa trên
dịch vụ thì các quy định trên không cần thiết vì mối quan hệ nhượng quyền
không hình thành trên kênh phân phối cho các sản phẩm độc quyền của
công ty nhượng quyền.

33
Do tính chất phức hợp của sản phẩm và dịch vụ nêu trên, nên các
tranh chấp liên quan đến hợp đồng nhượng quyền rất đa dạng, có thể liên
quan tới chất lượng hàng hóa, dịch vụ hoặc tiết lộ thông tin hay vi phạm
qui trình… Việc này đòi hỏi tính đa dang về nguồn của pháp luật liên quan
mà không chỉ dừng lại ở luật thương mại đơn thuần.
* Thứ ba, phí nhượng quyền.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại là hợp đồng song vụ, có đền
bù, vì khi tiếp nhận đối tượng nhượng quyền, bên nhận quyền có nghĩa vụ
trả cho bên nhượng quyền một khoản tiền nhất định do các bên thoả thuận
căn cứ vào các đánh giá và phân tích giá trị của đối tượng nhượng quyền
thương mại, nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm… Việc xác định phí
nhượng quyền thường là vấn đề gây tranh luận và khó thoả thuận giữa các
bên. Bên nhượng quyền có xu hướng nâng cao giá cả đến tối đa để thu
được lợi nhuận cao, còn bên nhận quyền lại muốn chi phí thấp để có lợi
nhuận cao. Do đó trong hợp đồng nhượng quyền phải quy định rõ bản chất
và số lượng các khoản phí mà bên nhận quyền phải trả cho bên nhượng
quyền. Phí nhượng quyền ban đầu thường là những khoản phí không hoàn
lại và thanh toán một lần khi bắt đầu thực hiện hợp đồng nhượng quyền.
Về bản chất, khoản phí này là khoản tiền bù đắp cho những thiệt thòi do
việc cấp quyền thương mại, thương hiệu, giấy phép bí mật thương mại, đào
tạo và hỗ trợ trước khi mở đại lý, cung cấp nguyên vật liệu trong thời gian
đầu mở đại lý mà bên nhượng quyền cung cấp cho bên nhận quyền. Loại
phí thứ hai là phí thường xuyên dưới mang bản chất là khoản tiền thuê
thương hiệu cụ thể tính theo tỷ lệ tổng doanh thu. Tỷ lệ phần trăm có thể
được xác định hoặc căn cứ vào thang đối chiếu với các mức doanh thu
khác nhau tại một điểm cho trước hoặc mục tiêu hoạt động đã thực hiện.

34
Thông thường, các khoản phí thuê nhãn hiệu tối thiểu là bắt buộc, bất kể
hiệu quả hoạt động thực tế của đại lý nhận quyền là thế nào. Các khoản phí
này phải được thanh toán định kỳ hàng tuần cho công ty nhượng quyền
cùng với mẫu báo cáo chuẩn để phục vụ mục đích kiểm soát của và theo
dõi nội bộ. Kế hoạch thanh toán định kỳ giúp đại lý chuẩn bị ngân sách
thanh toán và có thể cảnh báo sớm cho công ty nhượng quyền nếu có vấn
đề phát sinh. Đặc biệt, nó cũng giúp đại lý nhận quyền đối phó với số tiền
thuê nhãn hiệu quá hạn và tồn đọng, không thể thanh toán. Khoản phí thứ
ba là khoản phí định kỳ dưới hình thức quỹ quảng cáo và xúc tiến hợp tác
quốc gia. Bên nhượng quyền có nghĩa vụ xác định được mức độ kiểm soát
cụ thể trong hợp đồng nhượng quyền đối với loại quỹ này, nhằm bảo vệ
nhãn hiệu nhượng quyền và bảo đảm sự nhất quán trong hoạt động kinh
doanh của cả hệ thống. Các khoản phí khác mà bên nhận quyền phải thanh
toán cho bên nhượng quyền bao gồm doanh thu bán sản phẩm và dịch vụ
độc quyền cho đại lý, phí tư vấn, phí kiểm toán và thanh tra, phí thiết kế
địa điểm, phí quản lý tài sản cho thuê và phí gia hạn, chuyển nhượng hợp
đồng.
Tính chất phức tạp của các khoản phí nói trên và mối liên hệ trực
tiếp đến lợi nhuận của nó khiến cho các bên hết sức lưu ý, nhưng dễ gây
mâu thuẫn với nhau. Do vậy đây là khu vực dễ xảy ra tranh chấp nhất và
tranh chấp cũng rất phức tạp bởi không chỉ đơn thuần là vấn đề pháp lý,
mà còn liên quan tới cả vấn đề tài chính, kinh tế và kỹ nghệ. Nhều khi đòi
hỏi sự hiện diện của các chuyên gia trong các lĩnh vực để đánh giá và giám
định.
* Thứ tư, phạm vi và địa điểm được nhượng quyền thương mại.

35
Thoả thuận về lãnh thổ được nhượng quyền giữa bên nhượng quyền
và bên nhận quyền trước hết xác định được phạm vi hoạt động nhượng
quyền tương ứng với loại hợp đồng nhượng quyền, đồng thời loại bỏ sự
cạnh tranh không cần thiết giữa các bên nhận quyền. Giới hạn lãnh thổ này
bắt buộc phải quy định trong hợp đồng một cách rõ ràng, cụ thể.
Trách nhiệm tìm kiếm một địa điểm cụ thể cho hoạt động kinh
doanh nhượng quyền thuộc vệ bên nhượng quyền hoặc bên nhận quyền
theo thỏa thuận. Nếu bên nhận quyền tự do chọn lựa địa điểm riêng, thì
hợp đồng nhượng quyền thường quy định sự lựa chọn đó phải được bên
nhượng quyền chấp thuận. Một số thương nhân nhượng quyền hỗ trợ rất
tích cực cho việc lựa chọn địa điểm của bên nhận quyền như nghiên cứu
thị trường, dân số, đàm phán thuê địa điểm, đảm bảo xin giấy phép của địa
phương. Tuy nhiên, vì lựa chọn địa điểm là vấn đề khó nhất, quy định sự
thành công của bên nhận quyền, nên hầu hết bên nhượng quyền dù không
muốn nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm theo quy định trong hợp đồng. Để
có thể bảo hộ và kiểm soát chặt chẽ hơn, một số bên nhượng quyền sau khi
lựa chọn được một địa điểm phù hợp đã cho thuê bên nhận quyền thuê lại
địa điểm đó. Ngoài ra, một phương pháp duy trì mức độ bảo vệ tương tự
nhưng ít phức tạp hơn là quy định chuyển nhượng tự động việc thuê địa
điểm cho bên nhượng quyền khi chấm dứt hợp đồng nhượng quyền.
Sự thành công của việc nhượng quyền thương mại phụ thuộc rất
nhiều vào sự đánh giá, nghiên cứu thị trường bên nhận quyền dự định đặt
cơ sở kinh doanh. Sự đánh giá, nhận định về tiềm năng của thị trường cũng
như giá trị của địa điểm kinh doanh phụ thuộc rất nhiều vào dân số, mức
sống, thói quen và nhu cầu của khách hàng, những biến động của thị
trường, thuận tiện về giao thông và các yêu tố liên quan khác. Bên nhận

36
quyền cũng phải lưu ý đến giới hạn lãnh thổ cũng như những ảnh hưởng,
uy tín của các bên nhượng quyền đang kinh doanh gần khu vực. Pháp luật
các quốc gia trao cho bên nhượng quyền quyền quyết định phạm vi địa
phận và có thể cả địa điểm kinh doanh, bởi suy cho cùng, mục đích của
nhượng quyền thương mại là phát triển thương hiệu và tăng hiệu quả kinh
doanh, trong đó các bên đều có lợi. Việc phân chia thị trường một cách
khoa học sẽ giảm sự cạnh tranh không cần thiết và tăng lợi nhuận cho cả
hai bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại.
* Thứ năm, kiểm soát chất lượng sử dụng quyền và tính nhất quán
của quyền được nhượng.
Khi xây dựng mối quan hệ nhượng quyền, bên nhượng quyền đã
trao cho bên nhận quyền tài sản trí tuệ nhằm tăng doanh thu, tăng lợi
nhuận. Tuy nhiên để đảm bảo tài sản đó được sử dụng đúng mục đích, bên
nhượng quyền phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ đối với bên nhận quyền.
Một hợp đồng nhượng quyền hoàn chỉnh luôn có đầy đủ quy định bảo đảm
quyền kiểm soát chất lượng và tính nhất quán trong toàn bộ hệ thống. Các
quy định đó thường xuất hiện trong hợp đồng dưới hình thức các ràng buộc
về nguồn cung cấp sản phẩm, nguyên vật liệu, hướng dẫn và thông số kỹ
thuật nghiêm ngặt trong quy trình hoạt động của đại lý. Quá trình hoạt
động thường chỉ rõ tiêu chuẩn dịch vụ, kiểu dáng thương mại, yêu cầu nhất
quán, điều kiện và mẫu mã của thiết bị, số giờ làm việc, yêu cầu bảo hiểm
tối thiểu, hệ thống kế toán, các tập quán tín dụng. Bất kỳ ràng buộc nào đối
với khả năng mua sản phẩm hoặc dịch vụ hoặc các yêu cầu mua từ nguồn
cụ thể của bên nhận quyền cần được nghiên cứu kỹ trong khuôn khổ quy
định của luật chống độc quyền. Nếu bên nhượng quyền đóng vai trò là bên
cung cấp hoặc sản xuất độc quyền của một hoặc nhiều sản phẩm mà đại lý

37
sử dụng trong hoạt động kinh doanh thường nhật thì sự độc quyền đó phải
được chứng minh bằng nột sản phẩm độc quyền thực sự.
Sự kiểm soát này là một giải pháp vừa bảo đảm chất lượng sử dụng
quyền và bảo đảm tính nhất quán của các quyền được cấp, vừa tránh những
vi phạm của bên nhận quyền. Tuy nhiên nếu do động cơ không đúng nó
cũng chính là vũ khí quan trọng để o ép bên nhận quyền. Vì vậy việc giải
quyết tranh chấp trở nên khó khăn hơn khi bên nhận quyền khởi kiện.
* Thứ sáu, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và điều khoản chống cạnh
tranh.
Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại là “các quyền
thương mại”, thông thường là các quyền khai thác sản xuất hàng hoá theo
phương thức của bên nhượng quyền, các dịch vụ theo cách thức của bên
nhượng quyền. Trong hợp đồng nhượng quyền còn bao gồm cả quyền sở
hữu trí tuệ, sự dùng chung nhãn hiệu, chung tên thương mại, chung cách
bài trí kinh doanh, chung bí mật kinh doanh. Trường hợp bên nhượng
quyền chuyển giao cho bên nhận quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công
nghiệp thì sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu công nghiệp.
Trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, quyền sở hữu trí tuệ
được bảo vệ trước tiên qua các quy định về nghĩa vụ của các bên khi sử
dụng quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động kinh doanh nhượng quyền, nhất
là đối với bên nhận quyền. Hợp đồng nhượng quyền luôn phải quy định
riêng nghĩa vụ của bên nhận quyền và các nhân viên của bên nhận quyền
trong việc bảo vệ và chống các hành vi sử dụng sai lệch, tiết lộ bí mật
thương mại và nhãn hiệu đã được cấp phép. Bên nhượng quyền phải đưa ra
điều khoản quy định rõ nhãn hiệu và tên thương mại được cấp phép là tài
sản độc quyền và bất kỳ động thái nào cũng phải dựa trên cơ sở lợi ích duy

38
nhất của bên nhượng quyền. Bên nhận quyền hoặc các nhân viên không
được phép sử dụng bí mật thương mại trong và sau thời hạn hợp đồng nếu
không được bên nhượng quyền chấp thuận. Tuỳ theo mức độ, các điều
khoản có thể áp dụng trong phạm vi quyền hạn pháp lý của địa phương,
hợp đồng nhượng quyền phải có các quy định chống cạnh tranh đối với đại
lý nhận quyền, cả trong thời hạn hợp đồng nhượng quyền có hiệu lực và
sau khi chấm dứt hoặc hủy hợp đồng.
Các tranh chấp liên quan tới sở hữu trí tuệ và cạnh tranh làm cho
việc hải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại càng phức
tạp. Tính phức tạp này không chỉ dừng lại ở việc áp dụng luật, mà còn
phức tạp trong việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp. Rõ ràng
không chỉ Luật Thương mại 2005 qui định về các hình thức giải quyết
tranh chấp thương mại mà các đạo luật khác cũng có các qui định về việc
giải quyết tranh chấp thương mại. Vậy việc sử dụng hình thức giải quyết
tranh chấp và thẩm quyền giải quyết tranh chấp cũng là một dạng tranh
chấp liên quan tới tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại.
* Thứ bảy, thời hạn, gia hạn và chấm dứt hợp đồng nhượng quyền.
Pháp luật Việt Nam thường quy định thời hạn của hợp đồng nhượng
quyền thương mại do các bên thoả thuận, trong khi đó pháp luật các nước
trên thế giới lại quy định rõ thời hạn tối thiểu của hợp đồng nhượng quyền,
mà thông thường thời hạn này là năm năm (Malaysia, Australia,…). Theo
quan điểm các nhà kinh tế học thì không nên giới hạn về thời hạn của hợp
đồng bởi điều này sẽ hạn chế rất nhiều hiệu quả cũng như lợi ích của cả hai
bên. Bên nhận quyền thông thường mong muốn có một thời hạn hợp đồng
để đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lãi của mình một cách chắc chắn nhất,
trong khi Bên nhượng quyền lại muốn có một khoảng thời gian ngắn hơn

39
để có thể thay đổi, bổ sung hợp đồng cho phù hợp với sự phát triển chung
của hệ thống kinh doanh và tăng thêm những lợi ích cho mình.
Trên thực tế có một số vấn đề phát sinh xung quanh điều khoản
này. Chẳng hạn bên nhận quyền cố tình chấm dứt hợp đồng trước thời hạn
khi hoạt động kinh doanh không thuận lợi, hay khi họ đã đạt được những
thành công nhất định. Bên nhượng quyền ép buộc bên nhận quyền phải
thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại trong một thời gian dài để
có được lợi nhuận và tránh phiền phức do thay đổi bên nhận quyền.Việc
gia hạn hợp đồng nhượng quyền thương mại được thực hiện trên cơ sở sự
thoả thuận của cả hai bên được ghi nhận trong hợp đồng. Nếu trước khi
chuẩn bị kết thúc thời hạn hợp đồng, cả hai bên đều nhận thấy việc tiếp tục
thực hiện hợp đồng là cần thiết và mang lại nhiều lợi ích kinh tế, thì sẽ tiến
hành việc gia hạn hợp đồng theo một khoản thời gian mà hai bên đã thoả
thuận. Pháp luật một số nước còn quy định bên nhượng quyền phải chấp
nhận đề nghị gia hạn hợp đồng nhượng quyền thương mại của bên nhận
quyền:
“Bên nhận quyền bị xem là phạm tội nếu bên này từ chối gia hạn
hợp đồng nhượng quyền thương mại mà không bồi thường cho bên nhận
quyền bằng một khoản thoả thuận giữa bên nhượng quyền và bên nhận
quyền sau khi cân nhắc giá trị giảm bớt của hoạt động kinh doanh nhượng
quyền…” (Điều 32, Luật nhượng quyền thương mại của Malaysia).
Điều khoản chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại được
xem là một trong những điều khoản có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của
các chủ thể tham gia quan hệ này, cũng như các chủ thể có liên quan khác.
Có nhiều trường hợp chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại:
trường hợp chấm dứt thông thường và chấm dứt bất thường. Trường hợp

40
chấm dứt thông thường là trường hợp chấm dứt hợp đồng khi kết thúc thời
hạn ghi trong hợp đồng. Chấm dứt hợp đồng bất thường là việc chấm dứt
trước khi kết thúc thời hạn ghi trong hợp đồng, chấm dứt khi một trong hai
bên chủ thể phá sản hoặc chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình. Theo pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại của một số
quốc gia trên thế giới thì các bên có quyền chấm dứt hợp đồng trước thời
hạn khi có một trong các cơ sở sau: do một bên không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng các điều khoản được ghi trong hợp đồng; thay đổi chủ thể
mà không có sự chuyển giao thực hiện hợp đồng cho chủ thể mới; một bên
bị giải thể, phá sản.
Theo quy định của luật pháp Việt Nam, hợp đồng nhượng quyền
thương mại có thể chấm dứt trước thời hạn thoả thuận trong các trường
hợp:
+ Bên nhận quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng do bên nhượng
quyền vi phạm các nghĩa vụ đã được quy định trong luật (vi phạm về cung
cấp tài liệu, đào tạo và trợ giúp ban đầu, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ
được ghi trong hợp đồng,…)
+ Bên nhượng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng do: Bên nhận
quyền không còn giấy phép kinh doanh hoặc giấy tờ có giá trị tương đương
cần có để tiến hành kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương
mại; bên nhận quyền bị giải thể hoặc phá sản; bên nhận quyền vi phạm
pháp luật nghiêm trọng có khả năng gây thiệt hại lớn cho uy tín của hệ
thống nhượng quyền thương mại; bên nhận quyền không khắc phục những
vi phạm không cơ bản trong hợp đồng nhượng quyền thương mại trong
một thời gian hợp lý, mặc dù đã nhận được thông báo bằng văn bản yêu
cầu khắc phục vi phạm đó từ bên nhượng quyền.

41
Luật của Malaysia về nhượng quyền thương mại (Đạo luật 590)
cũng đưa ra quy định về chấm dứt hợp đồng trước thời hạn:
“Một hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể chấm dứt trước
thời hạn tối thiểu năm năm trong những trường hợp sau:
- Khi cả hai bên đều đồng ý chấm dứt hợp đồng; hoặc
- Toà án tuyên bố có những điều kiện chắc chắn trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại làm cho hợp đồng phải bị chấm dứt trước thời
hạn tối thiểu (Điều 33).
Khi chấm dứt hợp đồng, cho dù là chấm dứt thông thường hay bất
thường thì các bên phải thanh toán tất cả quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
Trường hợp chấm dứt bất hường do lỗi của bên nào thì bên đó có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại, cũng như phải trả tiền phạt vi phạm hợp đồng
cho bên kia theo quy định pháp luật hoặc thoả thuận của hai bên.
Đây cũng là một khu vực có nhiều tranh chấp và tranh chấp quyết
liệt bởi mối quan hệ hai bên về hình thức đã chấm dứt nên các bên cố gắng
đòi lại những gì có thể thông qua các chế tài mà pháp luật đã qui định.
Dạng tranh chấp này phức tạp ở việc áp dụng chế tài.

1.3.3. Hiệu lực của hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại và những
tranh chấp liên quan
Sau khi được giao kết hợp pháp, hợp đồng nhượng quyền thương
mại có hiệu lực bắt buộc đối với bên nhượng quyền và bên nhận quyền và
trở thành “luật” buộc các bên phải tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ đã
thoả thuận, nếu không có thể bị cưỡng chế thi hành theo quy định pháp
luật. Các quyền và nghĩa vụ này do bên nhượng quyền và bên nhận quyền
tự thoả thuận cùng với nội dung của hợp đồng. Về cơ bản, trong quá trình
42
thực hện hợp đồng nhượng quyền thương mại, các bên phải tôn trọng và
tuân thủ các nguyên tác: (1) thực hiện hợp đồng một cách trung thực, hợp
tác, đảm bảo tin cậy lẫn nhau; (2) thực hiện hợp đồng đúng đối tượng, chất
lượng, số lượng, phương thức, chủng loại,…(3) không xâm phạm đến lợi
ích nhà nước, lợi ích công cộng và lợi ích của người khác. Trong trường
hợp cần điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền, để việc thực hiện hợp đồng
diễn ra phù hợp với lợi ích của nhau, các bên cần có nghĩa vụ thông báo
cho nhau những thông tin liên quan, thương lượng, đàm phán với nhau.
Việc điều chỉnh này có thể dẫn tới sửa đổi, bổ sung hoặc chấm dứt hợp
đồng nhượng quyền. Hợp đồng nhượng quyền thương mại thường là hợp
đồng dài hạn, vì vậy thông thường quan hệ nhượng quyền sẽ chấm dứt
trong khoảng thời gian được quy định trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại vô hiệu toàn bộ khi hợp đồng
ký kết trái với các quy định của pháp luật và không làm phát sinh bất kỳ
nghĩa vụ nào giữa các bên ngay từ khi ký kết. Hợp đồng nhượng quyền
thương mại vô hiệu toàn bộ trong các trường hợp: (1) Nội dung hợp đồng
nhượng quyền vi phạm điều cấm của pháp luật. Ví dụ hợp đồng vi phạm
nguyên tắc tự do tự nguyên giao kết hợp đồng của các bên; hàng hoá dịch
vụ dùng trong kinh doanh nhượng quyền thương mại là hàng hoá dịch vụ
thuộc danh mục cấm kinh doanh theo quy định của Nhà nước; (2) Bên
nhượng quyền hoặc bên nhận quyền không đăng ký hoạt động nhượng
quyền thương mại tại cơ quan có thẩm quyền, không vận hành hệ thống
kinh doanh hoặc hoạt động kinh doanh đủ ít nhất 1 năm trước khi tham gia
vào quan hệ nhượng quyền thương mại; và (3) Người ký hợp đồng nhượng
quyền không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Khi người ký kết

43
hợp đồng nhượng quyền thì ý chí mà họ thể hiện trong hợp đồng có thể
không phải là ý chí của bên mà họ đại diện và hợp đồng bị coi là vô hiệu
toàn bộ.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại vô hiệu từng phần khi trong
hợp đồng có những nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật và bị vô hiệu
nhưng không làm ảnh hưởng đến nội dung còn lại của hợp đồng. Ví dụ,
bên nhận quyền nhận mua từ bên nhượng quyền một số loại hàng hoá, vật
dụng nhất định phù hợp với hệ thống kinh doanh do bên nhượng quyền
quy định, trong đó có một loại hàng thuộc danh mục hàng hoá cấm kinh
doanh nhưng việc mua bán loại hàng hoá vật dụng này không ảnh hưởng
đến các loại hàng khác thì hợp đồng này là hợp đồng vô hiệu từng phần.
Vấn đề thời hạn có hiệu lực của hợp đồng và hiệu lực ràng buộc đối
với các đối tượng của nhượng quyền là khu vực có tranh chấp. Các tranh
chấp này thông thường liên quan tới vệc áp dụng các qui tắc của luật dân
sự bởi hợp đồng nhượng quyền thương mại là một hợp đồng phức hợp
không chỉ liên quan tới quyền đối nhân, mà còn liên quan cả tới quyền đối
vật, nhất là đối với các sản phẩm và tài liệu do bên nhượng quyền cung cấp
cho bên nhận quyền.

1.4. Các hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng nhƣợng quyền
thƣơng mại
Trước hết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại như trên
đã nghiên cứu thuộc tranh chấp kinh doanh, thương mại. Như vậy các hình
thức giải quyết tranh chấp thương mại là hình thức chủ đạo trong việc giải
quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại. Các hình thức này

44
theo pháp luật Việt Nam bao gồm: (1) Thương lượng; (2) Hòa giải; (3)
Trọng tài thương mại; và (4) Tòa án.
Tuy nhiên do tính chất tranh chấp phức tạp đa lĩnh vực nên khó có
thể tuân thủ hoàn toàn các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại nêu
trên. Chẳng hạn trong loại hợp đồng này có nhiều vấn đề của sở hữu trí tuệ
mà đây được xem là phạm vi truyền thống của luật dân sự. Vậy có thể tiến
hành giải quyết tranh chấp liên quan hoàn toàn tới vấn đề này tại trọng tài
thương mại được không là một câu hỏi lớn đối với pháp luật Việt Nam
hiện nay.

45
Chương 2
THỰC TIỄN TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI

2.1. Một số loại tranh chấp phổ biến phát sinh từ hợp đồng nhƣợng
quyền thƣơng mại
Mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền vốn đã
chứa đựng mâu thuẫn và căng thẳng tiềm ẩn. Bên nhượng quyền đã đầu tư
thời gian, công sức cũng như tiền bạc lớn để tạo ra một hệ thống kinh
doanh nhượng quyền thương mại. Việc này bao gồm những hướng dẫn về
quản lý chất lượng cần phải được tuân thủ. Các đại lý nhận quyền, mặt
khác, thường muốn chống lại những hạn chế hoặc quy định bất công hoặc
áp chế và không có ý nghĩa. Những căng thẳng đó thường hàm chứa nhiều
cơ hội tạo ra xung đột và các ý tưởng xấu. Tuy vậy trong nhiều trường
hợp, sự căng thẳng là phần tất yếu trong các mối quan hệ nhượng quyền
thương mại và thường khiến cho các bên tham gia quên mất mục tiêu
chung. Các nhà nghiên cứu đã liệt kê những lĩnh vực chính hay dẫn tới
tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại gồm:
(1) Lựa chọn bên nhận quyền.
Rất nhiều bên nhượng quyền đã phát hiện ra những lời buộc tội liên
quan tới các vụ làm ăn gian dối, không đúng sự thật và các vi phạm thông
thường khác thường xuất phát từ việc tuyển chọn đại lý nhận quyền và bán
hàng. Một số bên nhượng quyền đưa ra nhận xét vô tình về khả năng kiếm
được nhiều tiền của đại lý nhận quyền khiến cho đại lý nhận quyền tiềm
năng nghĩ rằng mình sẽ được đảm bảo một khoản lợi nhuận chắc chắn.

46
Trong một số trường hợp khác, những người bán hàng có thể hứa hẹn
những sự hỗ trợ mà công ty nhượng quyền không có khả năng đáp ứng.
Những hiểu ầm như vậy thường dẫn tới các vụ tranh chấp kiện tụng.
(2) Lựa chọn địa điểm và quyền lãnh thổ.
Phạm vi lãnh thổ của Bên nhận quyền cũng như việc xác định địa
điểm phù hợp cho hoạt động kinh doanh của Bên nhận quyền thường dẫn
đến nhiều mâu thuẫn và tranh chấp do liên quan đến vấn đề về chống cạnh
tranh và đảm bảo lợi ích cho các bên.
(3) Các quy chuẩn và thực tế của các hoạt động kế toán.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại đặt ra khá nhiều yêu cầu với
đại lý nhận quyền, như phải cung cấp rất nhiều biên bản, báo cáo và thông
tin kế toán cho công ty nhượng quyền. Những tài liệu đó phải giúp công ty
nhượng quyền quyết định chính xác độ trung thành của đại lý nhận quyền,
ngân quỹ cho các hoạt động quảng cáo, độ chính xác của báo cáo các
doanh thu bán hàng. Một hợp đồng nhượng quyền thương mại chính xác sẽ
đưa ra các quy định về cách thức và thời gian của những bản báo cáo này.
Để làm điều đó, công ty nhượng quyền cần phải thực hiện công việc
nhanh, hiệu quả và đảm bảo đúng thời hạn quy định. Nếu một khoản tiền
chi trả cho quảng cáo hoặc một báo cáo tì chính quá hạn, công ty nhượng
quyền phải ngay lập tức thông báo cho đại lý nhận quyền và yêu cầu đại lý
cung cấp đầy đủ các giấy tờ liên quan. Việc đại lý thường xuyên không
đáp ứng được những điều trên là lý do để công ty nhượng quyền chấm dứt
hợp đồng đó. Công ty nhượng quyền cần phải thận trọng khi quan sát và
ghi nhận các báo cáo này vì chúng thường là dấu hiệu báo trước sự thiếu
năng lực của đại lý nhận quyền và đòi hỏi đại lý phải bổ sung một số kỹ

47
năng. Khi không thông báo kịp thời điều này với đại lý, công ty nhượng
quyền có thể bị đánh giá là bỏ mặc đối tác và thiếu trách nhiệm.
(4) Sử dụng sai các quỹ dành cho quảng cáo.
Nhiều trường hợp Bên nhượng quyền yêu cầu Bên nhận quyền dành
một khoản tiền cho quảng cáo trong các chương trình mang tính khu vực.
Các khoản phí dành cho quảng cáo cần phải tách biệt khỏi những khoản
quỹ khác của bên nhượng quyền. Những nhà nhượng quyền gặp phải vấn
đề khó khăn tạm thời liên quan đến tài chính thường có xu hướng “vay
mượn” tà các quỹ quảng cáo này cho tới khi tình hình tài chính được cải
thiện. Khoản vay này rất dễ dẫn đến việc kiện tụng do bên nhượng quyền
sử dụng quỹ không đúng mục đích. Để hạn chế điều này, cần phải thành
lập nhiều bộ phận kế toán riêng biệt mà các thành viên là những nhà nhận
quyền.
(5) Hướng dẫn và hỗ trợ.
Trong khi Bên nhận quyền thường có mong muốn kinh doanh độc
lập, họ cũng quan tâm tới các vụ nhượng quyền thương mại dựa vào những
hướng dẫn cụ thể và hỗ trợ mà Bên nhượng quyền cung cấp. Thông
thường, một nhà nhượng quyền thành công không chỉ thoả mãn các điều
kiện cam kết trong hợp đồng mà còn cung cấp những hướng dẫn và hỗ trợ
cho Bên nhận quyền. Việc hỗ trợ bổ sung này sẽ mang lại hai kết quả cho
Bên nhượng quyền: (-) biết được khó khăn mà bên nhận quyền gặp phải
trong kinh doanh, (-) Thể hiện sự quan tâm đối với hệ thống. Bên nhượng
quyền nên trả lời thẳng thắn và nhanh chóng những vấn đề mà Bên nhượng
quyền đặt ra. Nếu không, sẽ dẫn tới hậu quả là mâu thuẫn trong mối quan
hệ giữa các bên ngày càng xấu đi. Bên nhượng quyền không nên can thiệp
hoặc áp đặt đối với việc các nhà nhận quyền thành lập hiệp hội.

48
(6) Kiểm soát chất lượng.
Điểm cốt yếu dẫn tới thành công của một nhà nhượng quyền là có
khả năng bảo vệ hình thức kinh doanh, hình ảnh, nhãn hiệu, chất lượng và
bản chất của nhữg hàng hoá, dịch vụ cũng như sự thống nhất trong hoạt
động kinh doanh. Bên nhượng quyền cần thường xuyên theo dõi để đảm
bảo bên nhận quyền không thay thế mặt hàng kém chất lượng vào nhữg
mặt hàng đạt chuẩn. Nếu không, sẽ làm mất đi thiện chí và hình ảnh mà
doanh nghiệp muốn tạo dựng nên trong khu vực nhằm tạo ra sự khác biệt
với các doanh nghiệp khác. Nếu bên nhượng quyền để hành động này xảy
ra thì đó là dấu hiệu báo động cho các đại lý nhận quyền rằng bên nhượng
quyền không quan tâm để bảo vệ khoản đầu tư trong toàn bộ hệ thống.
(7) Đối xử không công bằng.
Trong một số trường hợp, bên nhượng quyền có thể sẽ đưa cho một
vài bên nhận quyền khoản lợi nhuận lớn hơn những bên nhận quyền khác.
Có rất nhiều lý do cho hành động này như: khoảng thời gian thanh toán
ngắn dù gặp phải rắc rối về tài chính. Tuy nhiên việc này chỉ nên thực hiện
khi đã có sự nghiên cứu cẩn thận tình hình thực tế. Tất cả các bên nhận
quyền đều mong muốn một hệ thóng hột động đồng nhất và bất kỳ một
hành động không công bằng nào cũng có thể khiến họ không đồng tình
thậm chí là thù địch. Bên cạnh đó, việc bên nhượng quyền làm chệch
hướng quy trình đã được thiết lập từ trước cũng đặt ra vấn đề liệu bên
nhượng quyền có đặt ra vấn đề yêu cầu bên nhận quyền phải tuân thủ các
hợp đồng đề ra trước đó hay không. Ngoài ra, bên nhượng quyền không
nên khiến bên nhận quyền đang kinh doanh kém hiệu quả cảm thấy mình
bị trả đũa. Tất cả những vi phạm hay tình trạng vỡ nợ của bên nhận quyền
nên được lưu giữ cẩn thận và xử lý nghiêm túc theo đúng quy trình trong

49
hợp đồng. Những bên nhận quyền đệ đơn kiện hợp lệ chống lại bên
nhượng quyền hoặc hệ thống không nên đối xử bằng hanh động trả đũa.
Bất kỳ hình thức trả đũa nào của Bên nhượng quyền chỉ dẫn tới kiện tụng
và cản trở hoạt động của hệ thống.
(8) Những giao dịch thực hiện bởi bên nhận quyền.
Bên nhượng quyền nên hỗ trợ cho bên nhận quyền muốn nhượng lại
hoạt động kinh doanh, vì bất kỳ phản ứng tiêu cực nào của họ sẽ chỉ đem
lại kết quả tồi tệ cho toàn bộ hệ thống. Bên nhượng quyền nên giúp cho
những nhà nhận quyền tiềm năng khác nhận nhượng lại, thận chí nên xem
xét việc mua lại địa điẻm và vận hành doanh nghiệp như là một phần công
việc trong lúc đợi đối tác.
(9) Huấn luyện kỹ năng quan lý cho đội bán hàng của bên nhượng
quyền.
Nếu đội ngũ bán hàng của bên nhượng quyền không được huấn
luyện cẩn thận sẽ dẫn tới những vụ kiện tụng không đáng có. Nhiều trường
hợp các nhận viên quá nỗ lực bán hàng nên bỏ qua việc chuyển các tài liệu
cho bên nhận quyền tiềm năng trong thời hạn trước khi ký kết hợp đồng
(theo pháp luật Việt Nam thời hạn này là mười lăm ngày). Trong một số
trường hợp khác, các nhận viên bán hàng tuyên bố với bên nhận quyền
rằng họ muônc hưởng mức lợi nhuận cao hơn hoặc điều kiện tốt hơn so với
thực tế. Và bên nhượng quyền cũng bị ràng buộc vào điều đó. Vì vậy, Bên
nhượng quyền cần phải có một chương trình đào tạo tương thích để hướng
dẫn đội ngũ quản lý và bán hàng. Việc dào tạo cần phải đựoc báo cáo hàng
ngày vì những nhà quản lý và nhân viên bán hàng thường có xu hướng
phóng đại sự việc nên cần phải quản lý chặt chẽ để đảm bảo họ không “bán
đứng” doanh nghiệp.

50
(10) Các tài liệu.
Mục tiêu của bên nhưọng quyền là kinh doanh, không phải quản lý
xung đột, nhưng khi một sự việc không mong muốn xảy ra thì họ cần biết
cách xử lý hiệu quả. Việc này không thể thực hiện được nếu Bên nhượng
quyền không lưu giữ được các tài liệu hữu ích như băng ghi âm các cuộc
đối thoại, tin nhắn điện thoại, sự hợp tác giữa Bên nhượng quyền và Bên
nhận quyền, bản sao nhữg tài liệu trao đổi và những chú ý đối với Bên
nhận quyền. Bên nhượng quyền cần phát triển quy trình lưu giữ thông tin
qua các báo cáo, quản lý các tập tài liệu và giao việc đó cho một nhân viên
đáng tin cậy.Một cuộc gặp giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền
đang có vấn đề cần phải được ít nhất hai nhân viên của Bên nhượng quyền
giám sát để đảm bảo chính xác nội dung của cuộc gặp.
Các vấn đề được nêu trên là những vấn đề thường xảy ra xung đột
có thể dẫn tới kiện tụng. Có thể thấy, điểm xuyên suốt trong những vấn đề
này là kỹ năng giao tiếp kém hiệu quả giữa Bên nhượng quyền với Bên
nhận quyền và việc thiếu các tài liệu càna thiết để hỗ trợ hoạt động của
Bên nhượng quyền. Tuy nhiên, có rất nhiều dấu hiệu báo trước những vấn
đề đó, thường xuất hiện ở những Bên nhận quyền có nhiều rắc rối. Bên
nhượng quyền cần lưu tâm và kiểm soát chúng trước khi cần tới sự can
thiệp của pháp luật.
Nhìn chung những tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại
thường trên thế giới thường xảy ra ở những khía cạnh sau:

51
2.2. Tranh chấp và giải pháp giải quyết tranh chấp cụ thể

2.2.1. Tranh chấp về tài liệu công bố


Năm 2000, bên nhận quyền là Jean Ketchell đã được Bên
nhượng quyền trao các tài liệu nhượng quyền cần thiết, nhưng
khi trao trả các tài liệu này cho Bên nhượng quyền, Bên nhận
quyền đã không xác nhận bằng văn bản rằng đã nhận, đọc và hiểu
những tài liệu này theo quy định của Luật Nhượng quyền
Astralia (The Franchising Code of Conduct).
Bên nhận quyền đã dựa vào điều này để tránh trả phí cho
Bên nhượng quyền bằng cách viện ra vi phạm Luật nhượng
quyền. Toà án đã tuyên bố hợp đồng nhượng quyền thương mại
giữa hai bên là vô hiệu do vi phạm luật về nhượng quyền của
Australia [27]

Luật về nhượng quyền thương mại nói chung được các nước trên thế
giới thiết kế chủ yếu nghiêng về phía Bên nhận quyền, hay nói cách khác,
là để Bên nhận quyền không bị thiệt thòi với Bên nhượng quyền. Trong
các luật liên quan đến nhượng quyền thương mại trên thế giới, luật quy
định về tài liệu mà Bên nhượng quyền phải công bố cho Bên nhận quyền
được xem là quan trọng nhất. Thuật ngữ chuyên môn về tài liệu công bố
này được gọi là uniform franchise offering circular (UFOC) [13].
Tài liệu UFOC thường chỉ ra từng hạng mục chi tiết mà Bên nhượng
quyền phải công bố cho các đối tác tiềm năng, và phải được trao cho đối
tác trước khi ký hợp đồng nhượng quyền. Nói cách khác, Bên nhận quyền
phải được chủ thương hiệu cung cấp đầy đủ thông tin về công ty, sản
phẩm, mô hình kinh doanh, tình hình kinh doanh, các quy định trong việc
52
nhượng quyền... trước khi có quyết định ý hợp đồng hay không. Nhiều
quốc gia còn quy định cụ thể thời gian nào Bên nhượng quyền phải trao
cho Bên nhận quyền tài liệu này chứ không phải tới cận kề ngày kí hợp
đồng franchise (VD). Nếu việc này không được thực hiện đúng, chủ
thương hiệu hay Bên nhượng quyền có thể bị thưa kiện bởi đối táccủa
mình, nhất là khi có mâu thuẫn hoặc kinh doanh thua lỗ. Nhiều nước trên
thế giới đã áp dụng quy định này như Mỹ, Úc, Brazil, Pháp, Canada, Trung
Quốc, Ý, Nhật, Hàn Quốc,... Khi nhận franchise từ các thương hiệu có trụ
sở tại các nước này, Bên nhận quyền sẽ phải nhận được tài liệu công bố
UFOC để nghiên cứu trước khi quyết định ký hợp đồng nhượng quyền.
Tuy nhiên tại một số quốc gia hay khu vực luật nhượng quyền có cho phép
Bên nhượng quyền được yêu cầu Bên nhận quyền đóng một khoản phí đặt
cọc (deposit) trước khi cung cấp tài liệu UFOC. Khoản tiền này sẽ được
trừ vào phí nhượng quyền ban đầu nếu hai bên tiến đến việc ký hợp đồng
còn nếu không thì sẽ được hoàn trả lại cho Bên nhận quyền.
Luật pháp Việt Nam tuy không quy định cụ thể về tài liệu công bố,
nhưng những tài liệu này dường như đã bao hàm trong nghĩa vụ của Bên
nhượng quyền "có trách nhiệm cung cấp bản sao hợp đồng nhượng quyền
thương mại mẫu và bàn giới thiệu về nhượng quyền thương mại của mình
cho bên dự kiến nhận quyền ít nhất là 15 ngày trước khi ký kết hợp đồng
nhượng quyền thương mại nếu các bên không có thoả thuận khác" (Điều 8,
Nghị định 35) và/hoặc "cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng
quyền thương mại cho bên nhận quyền..."(Điều 287 Luật Thương mại
2005). Bên cạnh đó,Bên nhận quyền có thể yêu cầu các chủ thương hiệu
hay đại lý độc quyền phải cung cấp các thông tin mà một UFOC điển hình
quy định. Hơn nữa khi doanh nghiệp Việt Nam nhận nhượng quyền của

53
thương hiệu nước ngoài thì chắc chắn họ đã phải có chuẩn bị sẵn tài liệu
này.

2.2.2. Tranh chấp về thoả thuận ràng buộc

Trường hợp: Công ty Ungar và Dunkin’Donuts


Dunkin’Donuts bắt đầu với chuỗi cửa hàng nhỏ kinh
doanh cà phê và bánh rán ở Anh. Hiện nay Dunkin’Donuts là
một trong những hệ thống nhượng quyền thương mại lớn nhất
nước.
Công ty Ungar ký hợp đồng nhượng quyền thương mại
với Dunkin’Donuts trước ngày 1/11/1970 – ngày mà
Dunkin’Donuts thay đổi mẫu hợp đồng nhượng quyền.
Năm 1972, 14 nhà nhận quyền của Dunkin’Donuts,
trong đó có công ty Ungar, đã đệ đơn lên toà án chống lại
hãng này. Họ viện ra rằng , Dunkin nhượng quyền sử dụng
thương hiệu với điều kiện phải chấp nhận một số hạng mục
của họ, và điều này là một thoả thuận bất hợp pháp theo quy
định của luật chống độc quyền. Cụ thể, 4 hạng mục bất hợp
pháp gắn với thương hiệu là bất động sản, máy móc thiết bị,
các dấu hiệu và nguồn cung cấp. Theo Ungar, Dunkin’Donuts
đã ngăn họ sử dụng mặt bằng riêng và yêu cầu họ cho thuê
hoặc cho thuê lại bằng các điều khoản phiền hà. Trước 1970,
Dunkin yêu cầu các nhà nhượng quyền phải mua gói trang
thiết bị từ bên này, nhưng sau khi sửa đổi mẫu hợp đồng, quy
định này đã bị xoá bỏ. Các dấu hiệu và nguồn cung cấp, bên

54
nhận quyền phải nhập trực tiếp từ Dunkin hoặc từ một bên
được Dunkin chấp thuận. Công ty Ungar cũng như các bên
nhận quyền khác đã viện rằng Dunkin’Donuts đã triệt tiêu các
quyền tự do lựa chọn vì bên này chỉ ủng hộ và chấp thuận
những người đã bí mật thoả thuận và trả tiền cho
Dunkin’Donuts khi ký hợp đồng nhượng quyền, buộc bên
nhận quyền phải mua hàng hoá, thiết bị với giá cao.

Đối với loại hình kinh doanh nhượng quyền có tính độc quyền cao,
Bên nhượng quyền có quyền yêu cầu Bên nhận quyền mua sản phẩm duy
nhất từ công ty độc quyền hoặc một nhà cung cấp khác do Bên nhượng
quyền chỉ định và chấp thuận. Các thoả thuận ràng buộc là nguyên nhân
phổ biến dẫn đến kiện tụng và xung đột giữa Bên nhượng quyền và Bên
nhận quyền.
Có sự phân biệt cơ bản giữa hệ thống nhượng quyền dựa trên sản
phẩm - trong đó nhãn hiệu thể hiện sản phẩm cuối cùng được hệ thống đó
đưa vào thị trường và hệ thống dựa trên kinh doanh - trong đó mối quan hệ
giữa nhãn hiệu và sản phẩm mà các đại lý bị ép phải mua thường tách
rời.Trong hệ thống phân phối dựa trên sản phẩm, thoả thuận ràng buộc dễ
được chấp nhận hơn bởi sản phẩm bị ràng buộc với việc mua sản phẩm là
một phần quan trọng trong hệ thống của Bên nhượng quyền và liên quan
chặt chẽ đến nhãn hiệu được cấp phép cho Bên nhận quyền kinh doanh.
Một thoả thuận ràng buộc trái pháp luật, trong một số trường hợp cụ
thể, có thể được công ty nhượng quyền và toà án chấp thuận. Tuy nhiên
điều đó chỉ xảy ra nếu toà án công nhận thoả thuận đó là cần thiết để bảo
vệ tính đặc trưng, nhất quán và chất lượng sản phẩm.

55
Trong trường hợp Bên nhượng quyền cấp giấy phép cho Bên nhận
quyền sử dụng nhẫn hiệu, thì Bên nhượng quyền phải đảm bảo rẳng nhãn
hiệu đó được sử dụng hợp lý và hợp pháp trong tay Bên nhận quyền. Nếu
Bên nhượng quyền nới lỏng kiểm soát chất lượng bằng cách cho phép bán
hàng hoá thứ phẩm thì có thể cấu thành vi phạm sử dụng sai nhãn hiệu
hoặc buộc phải loại bỏ nhãn hiệu đó theo luật định. Luật pháp sẽ quyết
định mức đọ tự ý can thiệp của công ty nhượng quyền và tuyên bố rằng
không phải mọi biện pháp để đạt và duy trì chất lượng sản phẩm đều hợp
lý. Luật pháp quy định một biện pháp ràng buộc thương mại chỉ được coi
là hợp lý khi chưa hoặc không có các phương án khác ít tính ràng buộc.
Nếu thông số chủng loại và chất lượng sản phẩm mà Bên nhận
quyền sử dụng đạt tiêu chuẩn chất lượng và tính đồng nhất cao theo yêu
cầu của Bên nhượng quyền thì phương án có tính ràng buộc thấp hơn này
sẽ được áp dụng thay vì việc yêu cầu Bên nhận quyền chỉ mua các sản
phẩm của Bên nhượng quyền. Nếu sản phẩm thay thế đòi hỏi thông tin chi
tiết không được phép cung cấp (như thông tin đó có thể làm lộ bí mật
thương mại hoặc quá phức tạp) thì để bảo vệ thương hiệu, việc áp dụng các
hình thức thoả thuận ràng buộc trong trường hợp khác được coi là trái pháp
luật.
Thoả thuận ràng buộc có hợp pháp hay không phụ thuộc vào việc
Bên nhượng quyền chứng minh được việc hạn chế các nguồn, các nhà
cung cấp và việc loại bỏ các nguồn cung cấp khác là cần thiết và hợp lý để
đảm bảo chất lượng, tính đặc trưng và nhất quán của sản phẩm. Ví dụ,
trường hợp công ty Ungar v.Dunkin' Donuts, toà án đã bác bỏ đề nghị của
công ty nhượng quyền vì đó là một khiếu nại ràng buộc trái pháp luật. Toà
án cho rằng, việc yêu cầu các đại lý mua nguyên liệu từ các nguồn cung

56
cấp được chấp thuận có thể cấu thành một thoả thuận ràng buộc trái pháp
luật, nếu xét lý lẽ cáo buộc hệ thống nhà cung cấp được chấp thuận chỉ là
một phương tiện kiếm lời bất chính và công ty nhượng quyền không chấp
nhận các nhà phân phối mới mặc dù họ có thể đáp ứng mọi yêu cầu.
Cơ sở pháp lý của một thoả thuận ràng buộc phụ thuộc vào:
- Yêu cầu chính đáng của công ty nhượng quyền để đảm bảo công
tác kiểm soát chất lượng.
- Sự hiện hữu của phương pháp ít tính ràng buộc hơn nhưng vẫn
đảm bảo mục đích kiểm soát chất lượng
- Bản chất độc quyền trên thực tế sản phẩm bị quy là "sản phẩm bị
ràng buộc"
Mối quan hệ giữa thương hiệu và sản phẩm phải chặt chẽ để đảm
bảo tính hợp pháp của thoả thuận ràng buộc trên cơ sở kiểm soát chất
lượng, tính nhất quán và bảo vệ lợi thể kinh doanh.
Tuy nhiên, một thoả thuận ràng buộc trên cơ sở kiểm soát chất
lượng sẽ không được chấp nhận nếu có các biện pháp ít tính ràng buộc hơn
nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và tính đồng nhất của sản phẩm.

2.2.3. Tranh chấp do thay đổi hệ thống


Hầu hết các nhà nhượng quyền đều tạo ra sự linh hoạt nhất định
trong các hợp đồng nhượng quyền để có thể dễ dàng thực hiện các thay đổi
hệ thống
Trong quá trình phát triển mối quan hệ giữa hai bên, có thể có những
biến cố hoặc xu hướng đòi hỏi phải thay đổi, ví dụ các điều kiện cạnh tranh
mới xuất hiện, sự thay đổi các chính sách của địa phương, tiến bộ công

57
nghệ, sự tăng giảm các nhà cung cấp chính, việc mở các địa điểm thay thế,
sáp nhập, mua lại công ty hoặc thay đổi để bổ sung những thiếu sót trong
hợp đồng nhượng quyền, đặc biệt là các thay đổi hệ thống. Có thể Bên
nhượng quyền phải đồng ý và thực hiện theo mẫu hợp đồng nhượng quyền
mới, ví dụ, Bên nhượng quyền có thể đặt ra các điều kiện về doanh thu bán
hàng của một đơn vị kinh doanh nhượng quyền hoặc bổ sung các điều
khoản trong hợp đồng nhượng quyền cũ khi đơn vị kinh doanh nhượng
quyền đó nâng cấp để đáp ứng tiêu chí của Bên nhượng quyền. Ngoài ra,
khi Bên nhận quyền mở các đơn vị kinh doanh bổ sung, Bên nhượng
quyền phải quy định các điều kiện nếu Bên nhận quyền đồng ý tuân thủ
các điều kiện mới này và/hoặc một thoả thuận tuân thủ một số yếu tố thay
đổi cụ thể trong hệ thống. Tuy nhiên, các cơ hội như vậy thường bị hạn chế
bởi ngôn ngữ hợp đồng nhượng quyền và mức độ nâng cấp theo yêu cầu.

2.2.4. Tranh chấp do vi phạm thoả thuận cạnh tranh


Hoạt động của hệ thống nhượng quyền thương mại thường dẫn tới
hệ quả phân chia thị trường và có thể gây hạn chế cạnh tranh. Hợp đồng
nhượng quyền thương mại có thể quy định về vấn đề “phân chia thị
trường”, bao gồm phân chia lãnh thổ (phân chia khu vực kinh doanh) và
phân chia khách hàng. Điều này rất có thể bị điều chỉnh bằng luật chống
độc quyền. Mỗi một bên nhận quyền đều phải tuân thủ sự phân chia thị
trường theo quyết định của Bên nhượng quyền, cụ thể là:
(1) Quy định về phân chia lãnh thổ, thể hiện ở điều khoản về địa
điểm bán hàng (location clause). Quy định này cấm Bên nhận quyền bán
hàng ngoài phạm vi của mình. Hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể
quy định rằng Bên nhận quyền chỉ được khai thác hệ thống nhượng quyền
58
thương mại tại một cơ sở duy nhất, nghĩa là Bên nhận quyền này có nghĩa
vụ:
- Không cạnh tranh với Bên nhượng quyền và các Bên nhận quyền
khác trong mạng lưới nhượng quyền thương mại (áp dụng đối với tất cả
các kiểu nhượng quyền thương mại)
- Không dịch chuyển hàng hoá được cung cấp từ điểm bán hàng này
sang điểm bán hàng khác (áp dụng chủ yếu đối với kiểu nhưọng quyền
thương mại phân phối)
(2) Quy định về phân chia khách hàng. Quy định này thường có nội
dung như sau:
Thứ nhất, cấm Bên nhận quyền quảng cáo ngoài phạm vi của mình.
Việc quảng cáo ngoài phạm vi kinh doanh của Bên nhận quyền có thể dẫn
tới việc dịch chuyển khách hàng, nhất là đối với kiểu nhượng quyền
thương mại dịch vụ. Ví dụ: trong lĩnh vực dịch vụ khách sạn, nếu Bên
nhận quyền quảng cáo cho khách sạn của mình bằng tấm quảng cáo lớn đặt
trên đường cao tốc từ sân bay về thành phố thì sẽ thu hút khách hàng của
các bên nhận quyền khác. Do đó, bên nhượng quyền phải kiểm soát hoạt
động quảng cáo của Bên nhận quyền.
Thứ hai, bên nhận quyền có nghĩa vụ chỉ bán hàng cho người sử
dụng cuối cùng hoặc các bên nhận quyền khác. Quy định này cấm Bên
nhận quyền bán lại hàng mang nhãn hiệu của Bên nhượng quyền cho các
nhà kinh doanh bán lẻ không phải là thành viên của hệ thống nhượng
quyền thương mại.
Thứ ba, cấm Bên nhận quyền bán lại hàng không mang nhãn hiệu
của Bên nhượng quyền. Khó có thể chấp nhận được quy định này dưới góc
độ tự do cạnh tranh. Quy định này vi phạm luật cạnh tranh ở các điểm sau:

59
- Vi phạm quyền kinh doanh độc lập của Bên nhận quyền trong việc
quyết định bán hàng cho ai;
- Hạn chế nguồn cung của bên thứ ba . [30]
Theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam, các
thoả thuận về phân chia thị trường nêu trên có thể bị coi là “thoả thuận
phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ”
- một trong các thoả thuận hạn chế cạnh tranh.
(3) Ngoài ra, thường thấy trong hợp đồng nhượng quyền tặong mại
quy định về ấn định giá bán cho các thành viên của hệ thống nhượng
quyền thương mại. Luật Cạnh tranh 2004 quy định “thoả thuận ấn định giá
hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp” là một trong các thoả
thuận hạn chế cạnh tranh. Việc quy định về phân chia thị trường và hạn
chế cạnh tranh giữa các thành viên trong hệ thống nhượng quyền thương
mại là một trong nhữg yếu tố đặc trưng truyền thống của hệ thống nhượng
quyền thương mại. Tuy nhiên, trong chương trình giảng dạy của mình, một
số giáo sư Hoa Kỳ có đặt ra một câu hỏi mở rất thực tế cho người học: liệu
sự cạnh tranh giữa các thành viên trong hệ thống nhượng quyền thương
mại có quan trọng bằng sự cạnh tranh với các đối thủ có thương hiệu khác
hay không? Nếu câu trả lời là không thì các luật sư có thể tư vấn cho khách
hàng của mình: không nên thoả thuận về phân chia thị trường và hạn chế
cạnh tranh giữa các thành viên trong hệ thống nhượng quyền thương mại
để tránh “tầm” điều chỉnh của Luật Cạnh tranh.
Trường hợp: Công ty Telestop Pte và công ty Telecom
Equipment Pte (2004)
 Năm 1993 hai bên ký kết hợp đồng nhượng
quyền, theo đó bên nhận quyền được phép mở một số cửa

60
hàng điện thoại “SingTel”
 Bất đồng nảy sinh
 Bên nhượng quyền từ chối cho phép Bên nhận
quyền thay đổi địa điểm cửa hàng thua lỗ.
 Bên nhượng quyền bắt đầu tranh chấp với Bên
nhận quyền
Tranh chấp được giải quyết sau 6 năm . [29]

Hợp đồng nhượng quyền thường có phần yêu cầu Bên nhận quyền
lựa chọn địa điểm kinh doanh. Nhìn chung Bên nhượng quyền sẽ hỗ trợ
Bên nhận quyền một số phương diện khi lựa chọn địa điểm và có quyền từ
chối địa điểm mà Bên nhận quyền lựa chọn. Những yếu tố cần được Bên
nhượng quyền xem xét bao gồm: kích thước, sự phù hợp của địa điểm và
khu vực xung quanh với loại hình kinh doanh của doanh nghiệp, những
khu vực đô xe phù hợp, chi phí phát triển doanh nghiệp, khu vực và đường
giao thông, các khu vực gần kề và lối ra vào chính, sự tương thích với các
doanh nghiệp khác trong khu vực và khoảng cách tới các doanh nghiệp
cạnh tranh khác.
Bên nhận quyền thường hy vọng được hỗ trợ lựa chọn địa điểm kinh
doanh và sẽ tuân thủ những điều trong hợp đồng.
Thông thường đại lý nhận quyền sẽ được trao một khu vực để tiến
hành các hoạt động kinh doanh. Theo đúng hợp đồng thì Bên nhượng
quyền không được phép mở thêm một đại lý khác trong khu vực này. Khu
vực này thường được xác định bằng số dân hoặc một vài yếu tố địa lý như
mã số bưu chính hoặc diện tích khu vực bao quanh địa điểm kinh doanh.
Bên nhượng quyền có xu hướng cho phép Bên nhận quyền hiện tại từ chối

61
không mở rộng kinh doanh ra quanh khu vực đó, nhưng sự khó khăn trong
việc tìm ra địa điểm hợp lý để kinh doanh tạo ra một số hạn chế với Bên
nhượng quyền. Bên nhượng quyền sau đó sẽ không được bán hàng tại các
khu vực nhất định trừ phi đưa ra những thông báo cụ thể. Việc Bên nhượng
quyền không theo đúng các quy định cho phép và không đưa ra được
những thông báo phù hợp cho đại lý nhận quyền sẽ rất dễ dẫn tới kiện
tụng, và toà án thường rất nghiêm khắc đối với những vụ việc như vậy.
Vấn đề dẫn tới nảy sinh kiện tụng nhiều nhất trong năm qua là sự lấn
chiếm địa bàn trong hoạt động kinh doanh. Thông thường, các vụ như vậy
bắt nguồn từ việc Bên nhượng quyền bị buộc tội cạnh tranh với Bên nhận
quyền bằng cách mở các doanh nghiệp khác (dưới dạng nhượng quyền
thương mại hoặc sở hữu của công ty) gần địa điểm kinh doanh của Bên
nhận quyền. Tình huống này thường nảy sinh khi Bên nhượng quyền tạo ra
một hệ thống kinh doanh nhượng quyền mới. Khi sự việc xảy ra, Bên
nhượng quyền thường cho rằng Bên nhượng quyền đã tuyên bố các điều
khoản hợp đồng giữa hai bên với ngôn ngữ đa nghĩa hoặc tối nghĩa hay
công ty nhượng quyền không tuân thủ hợp đồng.
Một trường hợp điển hình là, nếu hợp đồng nhượng quyền thương
mại cấm Bên nhượng quyền tổ chức một doanh nghiệp cạnh tranh dưới
cùng một tên, thì việc vận hành doanh nghiệp cạnh tranh dưới cùng một
cái tên khác cũng vi phạm hợp đồng. Để tránh những tranh chấp về
nhượng quyền thương mại, hai hệ thống cạnh tranh với nhau như vậy cần
phải hoạt động tách rời hệ thống và khôn được phép chia sẻ thông tin bí
mật liên qua tới kinh doanh.
Một lý do nữa khiến cho Bên nhận quyền cho rằng mình bị xâm
phạm quyền lợi là khi hợp đồng không cho phép bất kỳ sự bảo vệ theo địa

62
bàn nào. Về cơ bản, quan điểm này cho rằng sự vận hành của một doanh
nghiệp cạnh tranh (dưới bất kỳ cái tên nào) đều có khả năng ảnh hưởng
tiêu cực tới đại lý nhận quyền hiện tại. Điều này sẽ vi phạm yêu cầu tin cậy
lẫn nhau vốn được ngầm hiểu trong từng hợp đồng.
Một lần nữa có thể khẳng định, cách tốt nhất để một công ty nhượng
quyền tránh bị kiện tụng về tội xâm lấn địa bàn là phải thể hiện rõ trong
bản hợp đồng: hợp đồng này cho phép công ty nhượng quyền thiết lập
những doanh nghiệp mang tính cạnh tranh mà không có giới hạn về
khoảng cách giữa các doanh nghiệp đó với các vị trí kinh doanh của Bên
nhận quyền. Rõ ràng quy định này khó có thể được Bên nhận quyền đồng
tình hoàn toàn. Một vài hệ thống nhượng quyền thương mại đã áp dụng
"chính sách gây ảnh hưởng" cho phép Bên nhận quyền có cơ hội bày tỏ sự
lo ngại về sự phát triển của những doanh nghiệp thuộc quyền của Bên
nhượng quyền (hoặc Bên nhận quyền) trong khu vực của Bên nhận quyền.
Chính sách này phân tích độc lập những ảnh hưởng có thể có của doanh
nghiệp mới thành lập đối với hoạt động bán hàng của Bên nhận quyền.
Một khi đã xác định rõ ràng những ảnh hưởng, chính sách sẽ cung cấp
nhiều cách đền bù thiệt hại cho Bên nhận quyền hoặc huỷ bỏ các địa điểm
đại lý mới.

2.2.5. Tranh chấp về chuyển nhƣợng quyền cho bên thứ ba


Năm 1997, công ty Basco đã nộp đơn kháng cáo lên
toà án phúc thẩm Hoa Kỳ khi bị buộc tội chống lại chủ
thương hiệu, vi phạm hợp đồng, can thiệp lợi nhuận kinh
doanh.

63
Năm 1990, chủ công ty Basco là Barbara
Schonwetter đã ký kết hợp đồng nhượng quyền thương
mại với công ty Buth-Na Bodhaige và trở thành Bên nhận
quyền cho thương hiệu Body Shop của công ty này. Trong
bản hợp đồng nhượng quyền quy định: (1) Bên nhận
quyền lựa chọn vùng hoạt động kinh doanh nhượng quyền
là trung tâm thành phố; (2) Body Shop cho phép bên nhận
quyền mở bất cứ cửa hàng nào hoặc những người khác
vận hành Body Shop ở bất cứ địa điểm bán lẻ nào ngoài
trung tâm thành phố và (3) Quan hệ giữa hai bên không
phải là quan hệ uỷ thác.
Cũng trong năm 1990, một thời gian ngắn sau khi
nhận nhượng quyền, Basco đã nhượng quyền cho bên thứ
ba là Bruce Carter. Theo hợp đồng nhượng quyền, Body
Shop có thể từ chối chấp nhận nhượng quyền cho bên thứ
ba nếu bên này không đáp ứng được các tiêu chuẩn đặt ra,
bao gồm thiếu kinh nghiệm, từ chối hoàn thành đào tạo và
không tiến hành kinh doanh đủ thời gian… Body Shop đã
đánh giá bên thứ ba không có đủ những tiêu chuẩn trên,
thậm chí không đáp ứng được yêu cầu tài chính và đã bị
Body Shop từ chối. Basco đã dựa trên thông tin của những
nhà nhận quyền khác và cho rằng Body Shop cố ý từ chối
bên thứ ba này, và rằng bên này hoàn toàn đáp ứng đủ các
tiêu chuẩn [26].
.

64
Theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam, Bên nhận quyền có
quyền nhượng quyền lại cho bên thứ ba (gọi là bên nhận lại quyền), nếu
được sự chấp thuận của bên nhượng quyền, đồng thời bên dự kiến nhận
quyền đó muốn được nhận quyền phải có đăng ký kinh doanh ngành nghề
phù hợp với đối tượng của quyền thương mại.
Bên nhận quyền phải gửi yêu cầu bằng văn bản về việc chuyển giao
quyền thương mại cho Bên nhượng quyền trực tiếp. Bên nhượng quyền
trực tiếp phải có văn bản trả lời trong đó nêu rõ bên này chấp thuận hoặc từ
chối việc chuyển giao quyền thương mại của Bên nhận quyền trong vòng
mười lăm ngày từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Bên nhận quyền.
Nếu sau mười lăm ngày mà Bên nhượng quyền không có văn bản trả lời
thì được coi là chấp thuận việc chuyển giao quyền thương mại của Bên
nhận quyền.
Trong trường hợp Bên nhượng quyền từ chối yêu cầu của Bên nhận
quyền thì việc từ chối đó phải dựa trên các lý do:
- Bên dự kiến nhận quyền chuyển giao không đáp ứng được các
nghĩa vụ tài chính mà bên dự kiến nhận quyền chuyển giao phải phải thực
hiện theo hợp đồng nhượng quyền thương mại.
- Bên dự kiến nhận quyền chuyển giao chưa đáp ứng được các tiêu
chuẩn lựa chọn của Bên nhượng quyền trực tiếp
- Việc chuyển giao quyền thương mại sẽ có ảnh hưởng bất lợi đối
với đối với hệ thống nhượng quyền thương mại hiện tại
- Bên dự kiến nhận quyền chuyển giao không đồng ý bằng văn bản
sẽ tuân thủ các nghĩa vụ của Bên nhận quyền theo hợp đồng nhượng quyền
thương mại

65
- Bên nhận quyền chưa hoàn thành các nghĩa vụ đối với Bên nhượng
quyền trực tiếp, trừ trường hợp bên dự kiến nhận chuyển giao cam kết
bằng văn bản thực hiện các nghĩa vụ đó thay cho Bên nhận quyền. (Điều
15 Nghị định 35)
Những quy định này về cơ bản chỉ áp dụng trong trường hợp
nhượng quyền đơn lẻ, theo đó khi chuyển giao quyền cho bên thứ ba thì
Bên chuyển giao quyền, tức là Bên nhận quyền ban đầu sẽ mất quyền
thương mại đã chuyển giao. Mọi quyền và nghĩa vụ liên quan đến quyền
thương mại của Bên chuyển giao được chuyển cho Bên nhận chuyển giao,
trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Đối với việc nhượng quyền cho bên thứ ba như trong vụ công ty
Basco và công ty Buth-Na Bodhaige, Bên nhận quyền có thể là Bên nhận
quyền độc quyền (master franchisee) hoặc nhận quyền phát triển khu vực
(area – development franchisee), thì các tranh chấp nảy sinh thường phức
tạp hơn nhiều bởi nó liên quan tới nhiều khía cạnh hơn trong hoạt động
nhượng quyền thương mại. Tranh chấp xảy ra có thể gây ảnh hưởng hoặc
cản trở cả một hệ thống nhượng quyền đang hoạt động. Bên nhận nhượng
quyền thứ ba này có thể là một hoặc một số nhà nhận quyền lại, trong đó
bên nhận quyền ban đầu đóng vai trò chủ đạo tương tự như một nhà
nhượng quyền - chủ thương hiệu. Tranh chấp theo hình thức nhượng quyền
đơn lẻ thường là tranh chấp về nghĩa vụ chưa thực hiện của Bên nhận
quyền, Bên nhượng quyền có quyền từ chối bên nhận chuyển giao được
chỉ định mà không gây ảnh hưởng đến mối quan hệ nhượng quyền. Trong
khi đó, nếu Bên nhượng quyền theo hình thức nhượng quyền độc quyền
hoặc nhượng quyền phát triển khu vực từ chối một bên nhận nhượng
quyền lại được Bên nhận quyền độc quyền hoặc Bên nhận quyền phát triển

66
khu vực chỉ định, Bên nhận quyền có thể viện lý do Bên nhượng quyền cố
tình hoặc không thiện chí để không chấp nhận bên được chỉ định. Tranh
chấp xảy ra và mối quan hệ giữa Bên nhượng quyền với Bên nhận quyền,
và thậm chí là với bên thứ ba có nguy cơ bị phá vỡ hoặc theo chiều hướng
xấu đi, gây cản trở đến hoạt động kinh doanh nhượng quyền của cả lãnh
thổ hoặc khu vực nhượng quyền.

2.3. Nguyên nhân của tranh chấp hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại
Như tất cả mọi hình thức khác, nhượng quyền thương mại, ngoài
những cái "được", cũng có những cái "mất". Bên nhượng quyền trao quyền
cho một bên khác để thực hiện ý tưởng kinh doanh của mình, đương nhiên
cũng phải chịu rủi ro khi bên nhận quyền thực hiện không đúng các ý
tưởng này, khiến công việc kinh doanh bị đổ bể, gây ấn tượng xấu cho hệ
thống kinh doanh của mình; đồng thời làm giảm giá trị thương hiệu cũng
như công việc kinh doanh của mình.
Ngược lại, bên nhận quyền phải thực hiện hệ thống kinh doanh của
bên nhượng quyền một cách cứng nhắc, không thể được tự tiện thêm bớt ý
tưởng của riêng mình vào trong cơ sở kinh doanh. Bởi vì một đặc điểm
trong các hệ thống nhượng quyền thương mại là các cơ sở kinh doanh phải
hoàn toàn giống nhau để khách hàng vào bất cứ cơ sở, cửa hàng nào cũng
đều cảm thấy thoải mái, dễ dàng như vào các cơ sở, cửa hàng khác trong
hệ thống đó. Điều này nhiều khi hạn chế tính sáng tạo trong công việc kinh
doanh, hạn chế chính công việc, hiệu quả kinh doanh của bên nhượng
quyền. Đã có rất nhiều cơ sở kinh doanh theo hình thức nhượng quyền
thương mại bị đổ bể, dẫn tới sự đổ bể cả chuỗi các cơ sở kinh doanh khác.
Nhiều khi chỉ cần một bên nhận quyền làm ăn không tốt, khiến cho hàng
67
loạt các cơ sở nhận quyền khác bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, cũng có rất
nhiều bên nhượng quyền muốn lợi dụng vị trí "bề trên" của mình để áp đặt,
o ép các bên nhận quyền, khiến cho các bên nhận quyền phải chịu áp dụng
những quy tắc hoàn toàn phi lý và cuối cùng dẫn đến toàn bộ hệ thống bị
đổ bể. Điều này khiến cho các nhà kinh doanh cũng như các nhà lập pháp
phải thật cẩn trọng khi thực hiện cũng như điều tiết hình thức kinh doanh
này.
Nhượng quyền thương mại về cơ bản vẫn chỉ là một phương pháp
tiếp thị và phân phối sản phẩm phù hợp với một số loại hình công ty nhất
định. Một công ty muốn sử dụng hình thức nhượng quyền thương mại để
nhanh chóng mở rộng thị trường phải đáp ứng nhiều điều kiện kinh doanh
và pháp lý.
Nhiều công ty vội vàng lựa chọn nhượng quyền thương mại làm
chiến lược tăng trưởng và sau đó liều lĩnh phát động chương trình thực
hiện. Một số công ty lại bị các chuyên gia tư vấn non kém về trình độ hối
thúc thực hiện nhượng quyền chỉ vì mục đích cá nhân hơn là thành công
lâu dài. Trong khi đó, một số công ty khác lại tiến quá nhanh khi thực hiện
chương trình nhượng quyền thương mại mà không dành thời gian và nguồn
lực để xây dựng mô hình kinh doanh hiệu quả mới. Điều này đã gây ra
nhiều khó khăn, thất bại cho nhà nhượng quyền, bên nhận quyền và thường
dẫn đến việc kiện tụng. Các thành viên hiện tại và trong tương lai của cộng
đồng nhượng quyền có nghĩa vụ đưa ra quan điểm để xây dựng và phát
triển chương trình nhượng quyền của mình.
Theo kinh nghiệm các nước, việc xử lý vi phạm pháp luật về
nhượng quyền thương mại rất được quan tâm. Theo Jean-Marie Leloup, có

68
hai loại vi phạm dẫn đến việc bóp méo hoạt động nhượng quyền thương
mại:
- Loại vi phạm thứ nhất: các bên không hiểu bản chất của phương
pháp hợp tác giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền.
Vi phạm này có thể do lỗi của cả Bên nhượng quyền lẫn Bên nhận
quyền.
Thứ nhất, vi phạm do lỗi của Bên nhượng quyền, theo đó Bên
nhượng quyền gây ảnh hưởng đến tính độc lập của Bên nhận quyền, coi
Bên nhận quyền như người làm công ăn lương và áp đặt sự kiểm soát trái
với tinh thần của hoạt động nhượng quyền thương mại: phải là mối quan
hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp độc lập
Nếu bên nhượng quyền đối xử với Bên nhận quyền như người làm
công ăn lương của mình thì thực chất, đây là sự trốn tránh ký kết hợp đồng
lao động. Cái lợi của Bên nhượng quyền là không phải thực hiện nghĩa vụ
của người sử dụng lao động (về tài chính, trách nhiệm xã hội,…). Ví dụ:
một lái xe không phải chủ sở hữu của phương tiện, không có giấy phép vận
tải, không đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh doanh, được người sử dụng
lao động ràng buộc bởi các quy chế do bên này đặt ra. Trên thực tế có
nhiều người lao động thực sự vô sản, do đó khó có thể nói về :tính độc lập
của Bên nhận quyền”. Để phân biệt giữa một người làm công ăn lương và
một bên nhận quyền, cần bám sát các đặc trưng của hệ thống nhượng
quyền thương mại, theo đó, Bên nhận quyền có nghĩa vụ tuân thủ một cách
trung thành mô hình kinh doanh của Bên nhượng quyền, phải duy trì tiêu
chuẩn về hình ảnh và chất lượng của mạng lưới nhượng quyền thương mại.
Trong trường hợp Bên nhận quyền là pháp nhân, nếu Bên nhượng
quyền tham giá góp vốn vào doanh nghiệp nhận quyền, thì Bên nhượng

69
quyền sẽ phải thực hiện sự kiểm soát thực sự, hoặc có vai trò lớn trong
quản lý hoạt động doanh nghiệp nhận quyền, hoặc can thiệp vào hoạt động
quản lý của doanh nghiệp nhận quyền.
Thứ hai, Vi phạm do lỗi của Bên nhận quyền. Một số nhà nhận
quyền có quan điểm cho rằng chỉ cần ký hợp đồng nhượng quyền thương
mại là có thể kinh doanh thành công. Đến khi hoạt động kinh doanh không
thuận lợi, Bên nhận quyền cho rằng đó là do lỗi của Bên nhượng quyền.
Đây là tư duy rất thiếu trách nhiệm. Trên thực tế sự không thành công
trong kinh doanh có thể có nhiều lý do như: Bên nhận quyền không được
đào tạo cơ bản, không có khả năng tính toán kinh tế (không biết quản lý
nhân viên, ngân sách gia đình, vốn của doanh nghiệp), không có khả năng
đàm phán nhiều loại hợp đồng mà một chủ doanh nghiệp phải làm (hợp
đồng với ngân hàng, với nhân viên, với các nhà cung cấp dịch vụ); nghiên
cứu và thực hiện bí quyết kinh doanh một cách hời hợt, không đủ vốn kinh
doanh mà không thông báo cho Bên nhượng quyền biết, không thông báo
kịp thời kết quả khai thác mạng lưới cho Bên nhượng quyền (do cách làm
việc cẩu thả, tuỳ tiện, do sợ phải thông báo về sự yếu kém trong hoạt động
kinh doanh của mình, do gian lận để giam số tiền bản quyền phải thanh
toán cho Bên nhượng quyền, đánh giá sai kết quả kế toán, làm việc chưa
mẫn cán). Khi biết là quá muộn để khắc phục các sai sót, Bên nhận quyền
thường đổ lỗi cho Bên nhượng quyền, từ chối thanh toán các khoản tiền và
thậm chí còn liều lĩnh đòi hỏi Bên nhượng quyền phải gánh vác các khảon
lỗ.
- Loại vi phạm thứ hai: một trong các bên cố tình lợi dụng hoạt
động nhượng quyền thương mại bằng các biện pháp không trung thực. Các

70
biện pháp không trung thực có thể do Bên nhượng quyền hoặc Bên nhận
quyền thực hiện.
Thứ nhất, hành vi vi phạm do “Bên nhượng quyền giả hiệu” thực
hiện. Có một số người xấu với khả năng quảng cáo khéo léo đã kiếm lợi từ
những nạn nhân nhận quyền. Bên nhượng quyền giả hiệu thường thực hiện
các hành vi như thu tiền gia nhập mạng lưới của Bên nhận quyền rồi biến
mất. Họ thiết lập mạng lưới chỉ với mục đích tuyển chọn những người gia
nhập mạng lưới mà không hề đưa ra thị trường bất cứ hàng hoá hoặc dịch
vụ gì; tìm cách kéo dài sự tồn tại của doanh nghiệp sắp phá sản theo kiểu
gian lận, bằng cách chào bán nhượng quyền thương mại cho Bên nhận
quyền. Các nạn nhận của những hành vi nói trên đã thanh toán tiền gia
nhập mạng lưới nhượng quyền thương mại, đã cam kết đầu tư nhưng
không nhận được những hàng hoá cũng như dịch vụ mà bên kia hứa hẹn.
Sự phá sản hoặc biến mất của những kẻ được gọi là “Bên nhượng quyền”
đã làm chấm dứt sự chờ đợi và ảo tưởng của “nạn nhân nhận quyền”. Theo
điều 405 Bộ luật Hình sự Pháp, “Bên nhượng quyền giả hiệu” phải chịu
chế tài theo tội lừa đảo.
Thứ hai, hành vi vi phạm do “Bên nhận quyền giả hiệu” thực hiện.
Trong trường hợp này, Bên nhận quyền giả hiệu mưu toan chiếm đoạt bí
quyết của Bên nhượng quyền theo kiểu gián điệp thâm nhập vào mạng lưới
nhượng quyền thương mại để nắm được bí quyết. Hành vi này thường
xuất hiện ở các doanh nghiệp sản xuất hơn là ở các doanh nghiệp thương
mại, do đó liên quan nhiều đến kiểu nhượng quyền thương mại sản xuất.
Theo luật của Pháp, hành vi này có thể là đối tượng khởi kiện dân sự
chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hoặc khởi tố hình sự liên
quan đến các tội phạm như tội tiết lộ sản xuấ (Điều 418, Bộ luật Hình sự

71
Pháp); tội tham nhũng thụ động (Điều 177, Bộ luật Hình sự Pháp) (áp dụng
đối với nhân viên công ty nếu người này có hành vi tham nhũng nhằm mục
đích tiết lộ bí quyết); tội lạm dụng tín nhiệm (Điều 405, Bộ luật Hình sự
Pháp); tội trộm (Điều 397 Bộ luật Hình sự Pháp).

2.4. Chế tài áp dụng đối với vi phạm hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng
mại
Căn cứ theo quy định tại Điều 292 Luật Thương mại, các loại chế tài
áp dung đối với vi phạm hợp đồng nhượng quyền thương mại gồm có:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng;
- Phạt vi phạm;
- Buộc bồi thường thiệt hại;
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng;
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng;
- Huỷ bỏ hợp đồng.
- Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái pháp luật.
Tuy nhiên, nếu xem xét quy định tại Điều 24, Nghị định
35/2006/NĐ-CP thì những vi phạm sau đây mới chỉ bị xử phạt vi phạm
hành chính theo quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính:
- Kinh doanh nhượng quyền thương mại khi chưa đủ điều kiện quy
định
- Nhượng quyền thương mại đối với những hàng hoá, dịch vụ cấm
kinh doanh
- Vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trng hoạt động nhượng quyền
thương mại

72
- Thông tin bản giới thiệu nhượng quyền thương mại có nội dung
không trung thực
- Vi phạm về đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại
- Vi phạm quy định về thông báo trong hoạt động nhượng quyền
thương mại
- Không nộp thuế theo quy định pháp luật nhưng chưa đến mức truy
cứ trách nhiệm hình sự
- Không chấp hành yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khi tiến hành thanh tra, kiểm tra
Những loại vi phạm trên đều là nhưng vi phạm có thể dẫn tới hợp
đồng nhượng quyền thương mại vô hiệu toàn phần hoặc vô hiệu từng phần,
hoặc là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp giữa Bên nhượng quyền và Bên
nhận quyền nhưng lại chỉ xếp chung vào nhóm “bị xử phạt vi phạm hành
chính” “tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm” là không hợp lý và chưa đầy
đủ.

73
Chương 3
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Nội dung của hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại liên quan trực
tiếp đến giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhƣợng quyền
thƣơng mại
Các điều khoản liên quan trực tiếp đến giải quyết tranh chấp trong
hợp đồng nhượng quyền thương mại bao gồm điều khoản về chọn luật áp
dụng và điều khoản về giải quyết tranh chấp. Đây chính là các cơ sở pháp
lý để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Nếu hợp đồng không có
quy định về những điều khoản này hoặc có quy định nhưng không rõ ràng,
không đầy đủ thì sẽ dẫn tới việc không có hoặc thiếu căn cứ giải quyết
tranh chấp.

3.1.1. Điều khoản về chọn luật áp dụng


Trong trường hợp hợp đồng nhượng quyền thương mại mà Bên nhận
quyền hoặc Bên nhượng quyền là thương nhận nước ngoài thì hợp đồng
nhượng quyền thương mại là một dạng của hợp đồng thương mại quốc tế.
Xuất phát từ đặc thù của qua hệ hợp đồng thương mại quốc tế là các bên
tham gia hợp đồng chịu sự điều chỉnh của hai hay nhiều hệ thống pháp luật
khác nhau ở các quốc gia khác nhau, trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại các bên phải thoả thuận việc lựa chọn luật áp dụng cho hợp
đồng một cách thống nhất ngay từ khi ký kết hợp đồng.

74
Phần lớn các công ty nhượng quyền lựa chọn nước sở tại làm địa
điểm giải quyết tranh chấp. Hợp đồng nhượng quyền sẽ đưa ra quy định cụ
thể về một toà án ở khu vực thành phố hay địa phương đó có quyền xử lý
vụ việc và bên bị phải chịu các phí tổn khi tiến hành tranh tụng ở một Toà
án nước ngoài.
Trong hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài,
nếu bên nhượng quyền là thương nhân Việt Nam thì phải tuân theo quy
định của pháp luật Việt Nam về điều kiện nhượng quyền của Bên nhượng
quyền và điều kiện nhận quyền của Bên nhận quyền, về hàng hoá dịch vụ
được phép kinh doanh nhượng quyền thương mại, đồng thời các quy định
này phải phù hợp với pháp luật của nước Bên nhận quyền.
Về cơ bản, việc các bên thoả thuận chọn luật áp dụng phải dự trên
việc xem xét đánh giá quy định pháp luật của cả hai bên cũng như điều
kiện của mỗi bên và của đối tượng kinh doanh nhượng quyền.

3.1.2. Điều khoản về giải quyết tranh chấp


Điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại thường bao gồm những nội dung chính sau: (1) phương thức
giải quyết tranh chấp do các bên thống nhất lựa chọn, (2) thủ tục lựa chọn
bên thứ ba (trung gian hoà giải, trọng tài hoặc toà án) tham gia việc giải
quyết tranh chấp, (3) qui tắc tố tụng được áp dụng trong quá trình giải
quyết tranh chấp, (4) hiệu lực và cơ chế đảm bảo thi hành kết quả giải
quyết tranh chấp…
Các đặc trưng của tranh chấp hợp đồng nhượng quyền liên quan đến
chọn lựa của các bên về phương thức giải quyết tranh chấp:

75
- Các hợp đồng nhượng quyền thương mại thường là những thoả
thuận rất phức tạp và lâu dài
- Các tranh chấp nảy sinh trong hợp đồng nhượng quyền có thể kéo
dài hàng năm và bao gồm cả những vấn đề không được dự tính trước.
- Sự khác biệt về vị thế khi thương lượng thường đưa các nhà nhận
quyền vào vị thế bất lợi.
Thực tiễn cho thấy việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp
thường phụ thuộc vào từng quan hệ khác nhau, xuất phát từ cơ sở và mục
đích của các bên và phụ thuộc vào ưu điểm và nhược điểm của mỗi
phương thức khác nhau. Xu hướng phổ biến hiện nay là kết hợp các
phương thức nay trong một điều khoản giải quyết tranh chấp: trước tiên áp
dụng biện pháp thương lượng, nếu không được thì dùng phương thức trung
gian hoà giải, cuối cùng mới là giải quyết thông qua trọng tài hoặc toà án.

3.2. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp hợp đồng nhƣợng quyền
thƣơng mại.
Các tranh chấp nói chung cũng như tranh chấp hợp đồng nhượng
quyền thương mại cần phải được giải quyết thoả đáng bằng những phương
thức nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, bảo
đảm trật tự pháp luật, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của các bên và
góp phần ngăn ngừa vi phạm hợp đồng.
Tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể được giải
quyết bằng nhiều phương thức khác nhau. Các yếu tố chi phối việc các bên
lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp có thể là: (1) Những lợi thế mà
phương thức đó mang lại cho các bên; (2) Mức độ phù hợp của phương
thức đó với nội dung và tính chất của tranh chấp, với thiện chí của các

76
bên;(3) Thái độ của nhà nước đối với quyền lựa chọn phương thức của các
bên…
Có thể chia ra làm hai cách thức giải quyết tranh chấp là giải quyết
tranh chấp bằng thông qua thủ tục pháp lý (toà án) và giải quyết tranh chấp
không qua thủ tục pháp lý (Alternative Disputes Resolution - ADR).
Phương thức giải quyết tranh chấp không qua thủ tục pháp lý khá thu hút
các Bên nhượng quyền vì nó giúp họ giữ kín các bí quyết kinh doanh và tài
sản hiện có. Trong khi đó, nếu tiến hành kiện tụng thì rất nhiều thông tin
của công ty sẽ bị đem ra sử dụng không đúng mục đích. Hình thức thông
thường nhất của ADR là trọng tài, đó là khi bên thứ ba tham gia vào quá
trình này bằng cách lắng nghe cả hai bên và đưa ra quan điểm. Quan điểm
này có đưa hai bên lại gần nhau không tuy thuộc vào các điều khoản trong
hợp đồng trọng tài. Ngoài hình thức trọng tài, còn có rất nhiều hình thức
khác như thương thuyết, phân xử mang tính cá nhân, các phiên xử nhỏ và
các cuộc gặp giải quyết vấn đề. Các phương pháp này đều thích hợp với
các công ty nhỏ không muốn mất quá nhiều thời gian và tiền bạc vào quá
trình xét xử.
Để sử dụng thành công ADR thì hợp đồng phải nói tới những điều
khoản sử dụng ADR trong trường hợp có tranh chấp về sau. Tuy nhiên nếu
các bên không tin tưởng lẫn nhau và cảm thấy việc sử dụng ADR chỉ là
một mánh khoé để thu được nhiều lợi ích hơn cho mình thì việc áp dụng
ADR có thể không thành công
Thông thường, các tranh chấp trước hết phải được giải quyết thông
qua thương lượng giữa các bên. Các bên tranh chấp có thể thoả thuận chọn
một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân làm trung gian hoà giải. Trong trường
hợp thương lượng hoặc hoà giải không đạt kết quả thì tranh chấp sẽ được

77
giải quyết tại cơ quan Trọng tài hay Toà án. Thủ tục giải quyết tranh chấp
tại cơ quan Trọng tài, Toà án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của
Trọng tài, Toà án mà các bên lựa chọn.Trong trường hợp tranh chấp hợp
đồng nhượng quyền thương mại mà một bên là thương nhân nước ngoài,
nếu các bên không có thoả thuận hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam ký
kết hoặc tham gia không có quy định thì tranh chấp được giải quyết tại Toà
án Việt Nam.

3.2.1. Giải quyết tranh chấp hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại
bằng toà án
Việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng tại toà án gắn liền với
quyền lực nhà nước (quyền tư pháp). Trên thực tế, giải quyết tranh chấp
bằng toà án vẫn có vai trò rất quan trọng và thường được coi như một giải
pháp cuối cùng để giải quyết tranh chấp khi các phương thứ thương lượng,
hoà giải không có hiệu quả và các bên không muốn sử dụng.
Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại
bằng toà án có nhiều ưu điểm:
- Toà án là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước nên các quyêt
định, bản án của toà án mang tính bắt buộc thi hành đối với các bên và
được đảm bảo bởi sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
- Với nguyên tắc hai cấp xét xử và xét xử tập thể, những sai sót
trong quá trình giải quyết tranh chấp có khả năng được phát hiện và khắc
phục.
- Án phí toà án thường thấp hơn trọng tài
Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng
quyền thương mại tại toà án cũng có một số hạn chế nhất định:
- Mất nhiều thời gian và công sức.
78
- Chậm trễ, trì hoãn. Thủ tục tư pháp thường thông qua nhiều cấp xét
xử làm cho thời gian giải quyết tranh chấp bị kéo dài, gây trở ngại đối với
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại.
- Tốn kém hơn so với thương lượng hoặc hoà giải
- Hoàn toàn có thể dẫn tới sự đỗ vỡ không thể cứu vãn của mối quan
hệ nhượng quyền.

3.2.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại
bằng thƣơng lƣợng
Khi giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, các bên sẽ trực tiếp
hoặc thông qua đại diện của mình gặp nhau để đàm phán về những bất
đồng, mâu thuẫn đã phát sinh với mục đích chung là duy trì mối quan hệ
lâu dài. Việc giải quyết trên thực tiễn bao gồm:
- Thương lượng trực tiếp giữa hai bên bằng cách gặp nhau để đàm
phán. Đây là điều kiện thuận lợi để các bên bộc lộ quan điểm, ý kiến của
mình về nguyên nhân phát sinh tranh chấp, từ đó hanh chóng tòm ra giải
pháp thống nhất. Nếu là hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố
nước ngoài thì phương thức này gặp khó khăn do các bên thường cách xa
nhau về địa lý và việc gặp gỡ trực tiếp để đàm phán bao giờ cũng tốn kém
về thưòi gian và tiền bạc.
- Thương lượng thông qua khiếu nại của một trong hai bên. Đây là
hình thức được áp dung phổ biến. Bên bị vi phạm gửi đơn khiếu nại kèm
theo các chứng cứ cho bên vi phạm và yêu cầu bên vi phạm trả lời đơn
khiếu nại đó.
Trong trường hợp chọn hình thức thương lượng, hiệu quả của việc
giải quyết tranh chấp luôn tuỳ thuộc vào thiện chí của các bên.
79
Phương thức thương lượng trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
nhượng quyền thương mại có thể được tiến hành độc lập hoặc song song
cùng với quá trình tố tụng tài toà án hoặc trọng tài.
Trong trường hợp thương lượng được tiến hành độc lập, nghĩa vụ
của các bên tiến hành thương lượng được quy định trong điều khoản về
giải quyết tranh chấp trong hợp đồng, do đó cũng phải được thực hiện
nghiêm chỉnh như mọi điều khoản khác của hợp đồng. Kết quả thươnng
lượng được ghi thành biên bản và có giá trị như một thoả thuận mới về vấn
đề tranh chấp và các bên phải thi hành thoả thuận đó một cách tự nguyên
theo qui định của luật áp dụng về nghĩa vụ thực hiện hợp đồng.
Nếu thương lượng được tiến hành trong khuôn khổ hoạt động giải
quyết tranh chấp thông qua trọng tài hoặc toà án, pháp luật của nhiều nước
quy định rằng các cơ quan, tổ chức này, theo yêu cầu của các bên, có thể
ban hành văn bản công nhận kết quả thương lượng. Văn bản này có giá trị
như một quyết định của trọng tài hay toà án.

3.2.3. Giải quyết tranh chấp hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại
bằng hoà giải
Cũng như phương thức thương lượng, hoà giải được tiến hành trên
cơ sở tự nguyện và lựa chọn của các bên. Điểm khác biệt của hoà giải là
phải có sự tham gia của người thứ ba (cá nhân hoặc tổ chức) mặc dù người
này không có quyền đưa ra những quyết định có tính chất ràng buộc các
bên mà chỉ tạo điều kiện giúp đỡ họ thoả thuận được với nhau về việc giải
quyết tranh chấp. Việc hoà giải có thể dẫn tới thành công hay không hoàn
toàn tuỳ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp. Kết quả hoà giải có
giá trị khi các bên cùng ký vào văn bản ghi nhận sự hoà giải đó.
80
Thông thường quá trình hoà giải gồm năm giai đoạn:
1. Trình bày các vị trí;
2. Nhận định các nguồn lợi lớn;
3. Phác thảo chung và đánh giá các lựa chọn;
4. Thu hẹp dần các lựa chọn để giải quyêt xung đột;
5. Tiến hành xây dựng hợp đồng xử lý vấn đề.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng hoà giải mang lại những ý
nghĩa nhất định đối với quan hệ nhượng quyền thương mại:
- Thông qua hoà giải, tranh chấp được giải quyết trên cơ sở thiện chí
nhằm tiếp tục duy trì quan hệ kinh doanh vì lợi ích chung của các bên.
- Việc giải quyết tranh chấp bằng hoà giải có thể hạn chế tối đa sự
hao phí thời gian và tiền của so với việc áp dụng phương thức thông qua
các thủ tục tố tụng, tăng cường sự tham gia trực tiếp của các nhà kinh
doanh đối với quá trình cũng như kết quả giải quyết tranh chấp.
- Việc giải quyết tranh chấp bằng hoà giải cũng giúp các bên kiểm
soát được việc sử dụng tài liệu, chứng cứ có lên quan trong quá trình giải
quyết các tranh chấp để đảm bảo bí mật thương mại, điều mà nếu tiến hành
tố tụng tại toà án thì khó thực hiện được bởi nguyên tắc xét xử công khai
qui tắc nghiêm ngặt về thủ tục trong việc xác minh, thu thập và đánh giá
chứng cứ.
Hoà giải Toà án
- Tính hợp tác cao - Các bên trong tình thế đối đầu
- Nhanh - Mất thời gian
- Tự giải quyết vấn đề - Không có toàn quyền quyết định
- Không tốn kém - Tốn kém
- Kín đáo - Không bảo đảm bí mật

81
Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại phải
dựa trên các nguyên tắc:
- Sự tự do ý chí của các bên tranh chấp. Sự tự do ý chí được thể hiện
cụ thể là các bên tự nguyện áp dụng hình thức hoà giải; tự do thoả thuận về
phương pháp, qui trình hoà giải, lựa chọn hoà giải viên,tự do ý chí trong
việc thảo luận, đề xuất giải pháp hay thoả thuận đề chấp nhận ý kiến do
hoà giải viên đưa ra và quyết định chấm dứt hoà giải để áp dụng các
phương thức giải quyết tranh chấp khác.
- Đảm bảo khách quan, công bằng, hợp lý, tôn trọng các tập quán
thương mại. Người có vai trò trung gian trong hoạt động hoà giải giúp các
bên nhìn nhận được những điểm mạnh và điểm yếu của mình, xác định
những lợi ích mà mỗi bên cần đạt được qua việc giải quyết tranh chấp , từ
đó tự điều chỉnh quan điểm, lập trường thương lượng cho thích hợp. Các
bên cúng như người có vai trò trung gian trong hoạt động hoà giải có thể
đề xuất (nhưng không ép buộc) những phương án lựa chọn để giải quyết
tranh chấp một cách hợp lý, công bằng nhằm đáp ứng nhu cầu về lợi ích
của các bên.
- Chấm dứt hoà giải ngay lập tức nếu không đạt được thoả thuận
hoặc nếu một trong hai bên không muốn tiếp tục hoà giải. Do tính chất tự
nguyện của hoà giải nên khi một trong hai bên đơn phương chấm dứt hoà
giải kể cả trường hợp khong viện dẫn lý do thì quá ttrình hoà giải sẽ đương
nhiên chấm dứt và việc giải quyết tranh chấp sẽ áp dụng phương thức
khác.
- Bảo toàn bí mật tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các bên và hoà giải
viên trong quá trình hoà giải. Do tính chất riêng tư, tự nguyện của hoà giải,

82
luật hay quy tắc hoà giải của nhiều nước đều quy định rằng các chứng cứ,
tài liệu và ý kiến của các bên trong quá trình hoà giải sẽ không bị sử dụng
như chứng cứ bất lợi cho họ trong quá trình tố tụng nào tiếp theo nếu hòa
giải không thành.
Thoả thuận hoà giải đạt được nhằm giải quyết tranh chấp không
được bắt buộc thi hành như phán quyết của trọng tài hay toà án. Hiệu lực
cao nhất của thoả thuận hoà giải chỉ giống như một điều khoản hợp đồng
ràng buộc các bên. Với kết quả hoà giải đạt được, các bên đều là người
thắng, và kết quả này có thể là giải pháp lâu dài đối với các bên tranh chấp.
Bên cạnh đó, hoà giải viên được chỉ định có thể là người nắm rõ hoặc
chuyên gia về hoạt động nhượng quyền thương mại, tạo thuận lợi rất lớn
cho việc giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tranh chấp hợp đồng nhượng
quyền thương mại thông qua hoà giải có thể được giải quyết chỉ trong một
ngày.
Do hợp đồng nhượng quyền thương mại là hợp đồng dài hạn, Bên
nhượng quyền dùng các nguồn lực lớn để tạo ra hệ thống và Bên nhận
quyền dùng những nguồn lực lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng nhận đào tạo
trong hệ thống. Phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền
bằng hoà giải giúp các bên bảo vệ mối quan hệ nhượng quyền, cũng chính
là bảo vệ lợi ích cho Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền.
Điều khoản hoà giải mẫu:
“Mọi tranh chấp, tranh cãi hoặc khác biệt nảy sinh từ hoặc có liên
quan đến hợp đồng trước tiên phải được đưa ra giải quyết bằng hoà giải
bởi một hoà giải viên do các bên chỉ định. Các bên chấp thuận hoà giải với
thiện chí và cam kết tuân thủ các điều khoản với bất cứ kết quả nào” [10,
tr. 59].

83
Trong quá trình hoà giải, vai trò của trung gian hoà giải đóng vai trò
quan trọng nhất định. Nếu lựa chọn không đúng người hoà giải, chẳng hạn
chọn người thiếu năng lực và trách nhiệm có thể khiến cho tranh chấp giữa
các bên thêm nghiêm trọng và kéo dài không đáng có. Bởi vậy, các bên
cần xem xét thật ký lưỡng để giải quyết tranh chấp nhanh chóng và hợp lý
nhất.

3.2.4. Giải quyết tranh chấp hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại
bằng trọng tài
Theo Luật Trọng tài thương mại 2010, thỏa thuận trọng tài là thỏa
thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có
thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Bộ luật Tố
tụng Dân sự 2004 (sửa đổi) cũng có quy định. Thỏa thuận trọng tài có thể
là điều khoản về trọng tài đã được ghi trong hợp đồng hoặc thỏa thuận
riêng về trọng tài được các bên ký kết sau khi phát sinh tranh chấp. Trong
thực tế, để biết một thỏa thuận có là thỏa thuận trọng tài hay không đôi khi
không đơn giản. Khi thiết lập thỏa thuận về trọng tài các bên nên thận
trọng. Để tránh mọi phiền toái liên quan đến sự tồn tại của thỏa thuận trọng
tài, các bên có thể đưa vào hợp đồng điều khoản trọng tài mà Trung tâm
trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
khuyến khích. Cụ thể là các bên có thể thỏa thuận rằng “mọi tranh chấp
phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết chung
thẩm tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam”.
Để được áp dụng làm cơ chế giải quyết tranh chấp cho các bên, thoả
thuận trọng tài phải thoả mãn các điều kiện có hiệu lực bao gồm:
84
- Tranh chấp phát sinh phải thuộc hoạt động thương mại. Hoạt động
thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá
nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua;
xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm;
thăm dò khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng
không, đường biển, đường sắt, đường bộ…
Những hành vi liệt kê ở trên không phải là hoạt động thương mại
duy nhất mà các bên có thể đưa tranh chấp ra trước trọng tài. Ngoài những
hành vi vừa liệt kê còn có các hành vi thương mại khác theo quy định của
pháp luậtn hất là hành vi thương mại và dân sự hỗn hợp. Vậy, khi không
có cơ sở để khẳng định năng lực dân sự thì thỏa thuận trọng tài có vô hiệu
không ? Trong thực tế đã xảy ra trường hợp khi không chứng minh được
sự tồn tại của một bên, Tòa án coi pháp nhân không tồn tại. Do vậy, không
có cơ sở để chứng minh rằng bên này có năng lực dân sự. Vì pháp luật
không nêu rõ trường hợp không có năng lực dân sự có làm cho thỏa thuận
trọng tài vô hiệu hay không, nên dường như trong trường hợp như vậy,
Tòa án đã đi lòng vòng. Theo Tòa án, trong trường hợp này, người đại diện
không có tư cách đại diện nên thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý.
Ví dụ sau đây cho thấy điều này. Đó là tranh chấp giữa Công ty Thủ Đô và
Công ty Windo. Theo Tòa án nhân dân tối cao, “Hội đồng xét xử thấy
không đủ căn cứ để xác định tư cách pháp nhân (năng lực pháp luật dân
sự) của Công ty Windo là chủ thể trong quan hệ thương mại theo quy định
tại Điều 3 Luật Thương mại và Điều 832, Bộ luật Dân sự 1995… Khi
không có căn cứ pháp lý để xác định tư cách pháp nhân của Công ty
Windo theo pháp luật Việt Nam thì đương nhiên việc xác nhận của ông

85
Liyanto về tư cách đại diện của ông Hưng cũng không có giá trị pháp lý
theo pháp luật Việt Nam”. “Năng lực pháp luật dân sự” là khả năng của
một người “có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự” và “năng lực hành vi
dân sự” là khả năng của người đó “bằng hành vi của mình xác lập, thực
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, năng lực dân sự và năng lực hành
vi dân sự là hai khái niệm khác nhau. Một người có thể có năng lực dân sự
nhưng không có năng lực hành vi và khi không có năng lực dân sự thì
không có năng lực hành vi dân sự. Nếu thực sự Công ty mà người ký cho
rằng mình là đại diện không có năng lực dân sự thì sẽ không có năng lực
hành vi dân sự. Do đó, đây có thể là một lý do dẫn đến thỏa thuận trọng tài
vô hiệu và việc đi lòng vòng như trên của Tòa án là không cần thiết.
- Thẩm quyền: thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi người ký thỏa thuận
trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật
- Thỏa thuận không rõ ràng. Trong thực tế, khi xác lập thỏa thuận
trọng tài, có thể các bên không rõ ràng về đối tượng tranh chấp hay tổ chức
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp này, các bên nên
bổ sung nếu không thì thỏa thuận có nguy cơ bị vô hiệu và Trọng tài không
có thẩm quyền xét xử. Trong thực tế, không hiếm thỏa thuận bị coi là
không rõ ràng và do vậy Trọng tài không có thẩm quyền. Chẳng hạn, cách
đây không lâu, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đã phải từ chối giải
quyết một vụ tranh chấp mua bán giữa một công ty Đài Loan và chi nhánh
của một công ty kinh doanh hải sản có trụ sở tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Lý do
từ chối được đưa ra là vì trong điều khoản về cơ quan giải quyết tranh chấp
của hợp đồng mua bán, tên của tổ chức trọng tài này đã không được minh
thị một cách cụ thể mà thay vào đó lại ghi chung chung rằng “nếu có tranh
chấp sẽ nhờ trọng tài Việt Nam giải quyết”.

86
Trọng tài có thể là một quá trình tự nguyện mà các bên đã lựa chọn
trước khi tranh chấp xảy ra. Những chủ sở hữu và quả lý của Bên nhượng
quyền đang phát triển mong muốn tránh các khoản chi phí và sự trì hoãn
các thủ tục pháp lý cần xem xét bổ sung các điều khoản liên quan đến
trọng tài trước khi ký hợp đồng. Các điều khoản nên làm rõ những điều
sau:
- Các bên đồng ý đưa ra xử lý trước trọng tài vấn đề tranh chấp nảy
sinh;
- Lựa chọn địa điểm giải quyết cho trọng tài;
- Các phương pháp lựa chọn những người sẽ lắng nghe thông tin từ
hai phía;
- Bất kỳ hạn chế nào đối với phần đền bù do trọng tài đưa ra;
- Bên nào có trách nhiệm liên quan đến chi phí của tiến trình;
- Bất kỳ quy định đặcc biệt nào cho quá trình phán quyết của trọng
tài.
Về nguyên tăc, các bên phải có sự thoả thuận về việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Các bên phải cam kết giải quyết tranh chấp nảy
sinh từ hợp đồng nhượng quyền bằng trọng tài. Thoả thuận này có thể là
một điều khoản trong hợp đồng nhượng quyền thương mại hoặc là một
thoả thuận trọng tài riêng biệt được tạo lập sau khi tranh chấp phát sinh.
Trong trường hợp này, điều khoản trọng tài được coi là độc lập với các
điều khoản khác của hợp đồng chính nên ngay cả khi hợp đồng chính kết
thúc hoặc vô hiệu thì cũng không làm cho điều khoản trọng tài vô hiệu một
cách tương ứng. Trong điều khoản, các bên phải lựa chọn trọng tài viên,
lựa chọn cơ quan trọng tài và lựa chọn luật điều chỉnh và các nguyên tắc
trọng tài thích hợp. Trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài sẽ ra quyết định,

87
phán quyết sau khi cân nhắc mọi chứng cứ và lập luận của các bên theo
quy trình, thủ tục tố tụng nhất định do các bên lựa chọn. Nếu quy trình tố
tụng này không được tuân thủ, một hoặc các bên không có được cơ hội
công bằng để trình bày quan điểm của mình trước trọng tài viên thì quyết
định trọng tài sẽ có thể không được công nhận. Các quyết định và phán
quyết của trọng tài là chung thẩm và có thể được toà án công nhận và cho
thi hành thông qua một thủ tục tư pháp, do không có bộ máy cưỡng chế thi
hành riêng của trọng tài (trọng tài là tổ chức phi chính phủ).
Thực tế cho thấy, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có
những ưu điểm vượt trội so với giải quyết tranh chấp tại toà án. Những ưu
điểm đó là:
- Đề cao ý chỉ tự do thoả thuận của các bên tranh chấp;
- Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại đơn giản, không có nhiều
công đoạn tố tụng, nhanh, gọn, linh hoạt đáp ứng đòi hỏi hoạt động thương
mại của các bên có liên quan;
- Nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp
ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều đó, có ý nghĩa lớn
trong điều kiện cạnh tranh;
- Các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức
lựa chọn trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan
trong quá trình tố tụng;
- Trọng tài viên – người chủ trì phân xử tranh chấp, có chuyên môn
sâu và kinh nghiệm giải quyết đối với lĩnh vực của vụ tranh chấp;
- Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi
phục nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh. Quyết định

88
trọng tài là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của
toà án;
- Tố tụng trọng tài không bị ràng buộc về mặt lãnh thổ, nghĩa là các
bên muốn chọn trung tâm trọng tài nào cũng được, bất kể địa chỉ của họ ở
đâu;
- Tuy là chung thẩm, nhưng tố tụng trọng tài không đặt vấn đề
cưỡng chế thi hành, nên bên đương sự nào không chấp nhận phán quyết
của trọng tài thì có thể kiện ra toà kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ án;
- Quyết định giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài phải
được các bên thi hành nhanh chóng, trong thời hạn 30 ngày. Quá hạn đó,
bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh,
nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành quyết
định trọng tài;
- Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được
mối hoà khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm
mất đi quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng
tài là tự nguyện;
- Tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài – một tổ
chức phi Chính phủ, nhưng được hỗ trợ, đảm bảo về pháp lý của toà án
trên các mặt sau: Xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài; giải
quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời; xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài;
công nhận và thi hành quyết định trọng tài.
- Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích của một
bên bị xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại thì có quyền làm đơn yêu cầu toà
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm: Bảo toàn chứng cứ trong

89
trường hợp chứng cứ bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ; kê biên tài
sản tranh chấp để ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản
tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng của tài sản tranh chấp; kê biên và niêm
phong tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài khoản tại ngân hàng.
- Việc đánh giá và sử dụng nguồn chứng cứ tại các cơ quan trọng tài
rộng hơn, tự do hơn, mang tính xã hội hơn, tạo điều kiện cho các bên làm
sáng tỏ những vấn đề nhạt cảm. Trong khi đó, toà án áp dụng các chứng cứ
để tố tụng bị ràng buộc hơn về mặt pháp lý, làm cho các bên tham gia tố
tụng không có cơ hội làm sáng tỏ hết được nhiều vấn đề khúc mắc, không
thể hiện trên các chứng cứ “pháp lý”.
Tuy nhiên, tranh chấp kinh tế qua con đường trọng tài cũng có
những nhược điểm so với tranh chấp tại toà án kinh tế. Đó là:
- Cơ quan trọng tài kinh tế không có quyền ra lệnh kê biên khẩn cấp
tạm thời đối với tài sản là đối tượng tranh chấp. Việc kê biên chỉ được thực
hiện thông qua toà án trên cơ sở yêu cầu của trọng tài. Quá trình kê biên
theo trình tự này có thể kéo dài, không đảm bảo phong tỏa tài sản kịp thời
để phòng ngừa việc tẩu tán tài sản;
- Phán quyết của trọng tài, tuy là chung thẩm, nhưng bên bị đơn có
thể yêu cầu toà án xem xét lại. Như vậy, phán quyết của trọng tài nhiều lúc
làm cho bên “thắng kiện” không yên tâm.
Điều khoản trọng tài mẫu như sau:
“Bất cứ tranh chấp nàp nảy sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng,
bao gồm bất cứ vấn đề nào liên quan đến sự tồn tại, hiệu lực hoặc thời hạn
của hợp đồng, sẽ được dẫn chiếu đến và giải quyết bởi trọng tài và phù hợp
với các nguyên tắc trọng tài....”.

90
Khi các bên đã lập thoả thuận trọng tài thì phải có nghĩa vụ thực
hiện và không được quyền khiếu kiện ra toà án, trừ trường hợp thoả thuận
không có hiệu lực hoặc hết hiệu lực, không thể thi hành hoặc không thể áp
dụng được.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp do các bên không có thoả thuận
trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài không đúng đắn hoặc không tôn trọng
nên đã phát sinh những tranh chấp về thủ thẩm quyền và thủ tục giải quyết
tranh chấp giữa cac bên.

3.3. Một số kiến nghị.


Về giao kết hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Khi tiến hành giao kết hợp đồng nhượng quyền thương mại, để hạn
chế tối đa các tranh chấp có thể xảy ra, Bên nhượng quyền và Bên nhận
quyền trước hết cần nghiên cữu thật kỹ về tình hình kinh doanh cũng như
khả năng tài chính của nhau. Khi tiến hành thoả thuận các nội dung của
hợp đồng nhượng quyền thương mại, cần quy định rõ ràng trong hợp đồng
những nội dung quan trọng nhất, bao gồm thoả thuận về việc cung cấp trao
đổi tài liệu công bố; cung ứng nguyên vật liệu; khả năng thay đổi của hệ
thống nhượng quyền về hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ; phạm vi hoạt động
của các bên để tránh tình trạng tranh chấp lẫn nhau; Quyền và nghĩa vụ của
các bên, đặc biệt là sự độc lập nhất định của Bên nhận quyền đối với Bên
nhượng quyền…
Trong hợp đồng cần có quy định cụ thể về lựa chọn phương thức
giải quyết tranh chấp cụ thể khi tranh chấp xảy ra sao cho có thể bảo đảm
được quyền lợi của cả Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền cũng như
bảo đảm sự vận hành của cả hệ thống nhượng quyền.
91
Về các quy định pháp luật.
Hoạt động nhượng quyền thương mại vẫn còn khá mới mẻ đối với
Việt Nam, do đó các quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh quan hệ này là
rất cần thiết.Những quy định pháp luật hiện hành, Nhà nước cần xem xét,
làm rõ các khái niệm phạm vi điều chỉnh giữa các luật, văn bản pháp quy
có liên quan, từ đó có sự điều chỉnh, sửa đổi phù hợp, ban hành các quy
định mới để kịp thời đáp ứng công tác quản lý nhà nước, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền thương
mại đồng thời giải quyết hợp lý các tranh chấp nảy sinh trong lĩnh vực này:
- Ban hành quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
nhượng quyền thương mại, quy định chế tài cụ thể đối với các hành vi gian
lận, không minh bạch trong hoạt động nhượng quyền thương mại.
- Ban hành các quy định cụ thể về cơ chế khiếu nại và giải quyết
khiếu nại
- Quy định cụ thể về quyền khởi kiện của bên thứ ba
- Hoàn thiện pháp luật của các cơ chế giải quyết tranh chấp, nhất là
pháp luật về trọng tài. Cùng với nền kinh tế thị trường và quá trình hội
nhập ngày càng đi vào chiều sâu, các tranh chấp thương mại đang phát
sinh ngày càng nhiều với tính chất phức tạp ngày càng cao. Với những
điểm ưu việt như trên, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp đang
được giới luật gia quốc tế và trong nước khuyến cáo sử dụng để tiết kiệm
thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, đồng thời làm giảm sự quá tải về số
lượng vụ việc cho hệ thống tòa án.
Sự thành công của quan hệ nhượng quyền cũng như để giải quyết
thoả đáng một tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại cần có sự
hoạt động tích cực của Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền khi tìm

92
hiều, giao kết và thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại cũng như
vai trò quan trọng của Nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật về nhượng
quyền thương mại và cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
nhượng quyền thương mại.

93
KẾT LUẬN

Với những dự đoán khả năng về sự phát triển của hoạt động nhượng
quyền thương mại tại Việt Nam trong tương lai, chúng ta cần có những
nhận thức đầy đủ về nó, đặc biệt là trong vấn đề hợp đồng nhưọng quyền
giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền. Sự phát triển của nhượng
quyền thương mại kéo theo những tranh chấp nảy sinh trong lĩnh vực này
càng đa dnạg và phức tạp. Chính vì vậy bất cứ nhà nhượng quyền nào cũng
cần cso những đánh giá đúng mức về tầm quan trọng của bản hợp đồng
nhượng quyền thương mại. Một hợp đồng nhượng quyền tốt có thể tạo nên
và duy trì cấu trúc bền vững giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền
trong mạng lưới nhượng quyền thương mại và giữa mạng lưới nhượng
quyền đó với khác hàng và bên thứ ba khác, đồng thời hạn chế tối đa các
tranh chấp xảy ra.
Tuỳ thuộc vào mối quan hệ nhượng quyền và tính chất cảu thương
hiệu, Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền có thể thoả thuận để thiết lập
những điều khoản khác nhau dựa trên ý kiến chuyên môn, những phân tích
khoa học và những tính toán khả thi về năng lực của cả hai bên. Các bên
cũng phải xem xét, cân nhắc cụ thể dựa trên đánh giá tổng quan về mọi
mặt để lựa chọn cho mình phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất,
đảm bảo quyền lợi hợp pháp, lợi ích kinh tế của các bên, hoạt động của
mạng lưới nhượng quyền cũng như lợi ích của người tiêu dùng. Thiết lập
và thực hiện một hợp đồng nhượng quyền hiệu quả đem lại nhiều lợi ích
cho Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền, hạn chế được những tranh
chấp và thiệt hại không đáng có cho cả hai bên. Để được như vậy các bên

94
phải cẩn trọng trong việc thiết lập các điều khoản trong hợp đồng nhượng
quyền.
Hệ thống quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại hiện
hành tuy còn chưa hoàn thiện, nhưng về cơ bản đã và đang được các nhà
làm luật quan tâm khi laọi hình kinh doanh này đang ngày càng phát triển
mạnh mẽ. Một môi trường kinh doanh tốt cần có nền tàng pháp luật vững
vàng và minh bạch, và đó cũng là yêu cầu đặt ra đối với các nhà làm luật
về việc hoàn thiện các quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại
nói chung và hợp đồng nhượng quyền thương mại nói riêng.
Để có thể hội nhập thành công, để hoạt động nhượng quyền thương
mại ở Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ và đúng hướng cần thực hiện
tốt các yêu cầu trên, đảm bảo bất cứ tranh chấp nào nảy sinh trong lĩnh vực
này cũng đều được giải quyết hợp lý và đúng đắn, xây dựng mạng lưới
nhượng quyền vững mạnh ở Việt Nam và khắp thế giới.

95
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo tiếng Việt


1. Ngô Huy Cương ( 2005 ) , Pháp luật kinh tế, Bài giảng điện tử.
2. Ngô Huy Cương ( 2013 ) , Giáo trình luật thương mại – Phần
chung và thương nhân, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Ngô Huy Cương (2012 ) , “Pháp luật giải quyết tranh chấp nội bộ
công ty: Nhận thức, thực trạng và cải cách”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, Số 11(295), 2012, (tr. 48 – 58 & 82), Viện Nhà nước
và Pháp luật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
4. Phan Chí Hiếu, “Tăng cường vai trò của toà án trong việc giải
quyết tranh chấp kinh tế”, Kỷ yếu hội thảo giải quyết tranh chấp
kinh doanh và phá sản doanh nghiệp, Trung tâm nghiên cứu và
hỗ trợ pháp lý (leres), Trường đại học Khoa học xã hội và nhân
văn, dưới sự tài trợ của Konrad- Adenauer- Stifftung, Nxb Giao
thông vận tải.
5. Học viện Tư pháp (2002), Kỹ năng hành nghề luật sư- Tập III-
Hợp đồng và tư vấn hợp đồng, Nxb Công an Nhân dân.
6. Nguyễn Duy Lãm ( 1996 ) , Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng,
Nxb. Giáo dục .
7. Phạm Hữu Nghị ( 2000 ), “Giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh theo pháp luật Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo giải quyết
tranh chấp kinh doanh và phá sản doanh nghiệp, Trung tâm
nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý (leres), Trường đại học Khoa học xã

96
hội và nhân văn, dưới sự tài trợ của Konrad- Adenauer- Stifftung,
Nxb Giao thông vận tải.
8. Trung tâm từ điển học ( 1994 ), Từ điển Tiếng Việt.
9.Trường Đại học Luật Hà Nội ( 2007 ), Giáo trình luật thương mại,
Tập II, Tái bản lần thứ hai, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

Văn bản pháp luật


10. Bộ Tài chính ( 2008 ) , Quyết định số 106/2008/QĐ-BTC của
ngày 17 tháng 11 năm 2008 về việc quy định mức thu, chế độ thu,
nộp, quản lý sử dụng lệ phí đăng ký hoạt động nhượng quyền
thương mại.
11. Bộ Thương mại ( 2006 ) , Thông tư số 09/2006/TT-BTM của
ngày 25 tháng 5 năm 2006 hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng
quyền thương mại.
12. Chính Phủ ( 2006 ) , Nghị định 35/2006/NĐ-CP của ngày 31
tháng 3 năm 2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt
động nhượng quyền thương mại..
13. Quốc Hội ( 1995 ) , Bộ luật Dân sự 1995.
14. Quốc Hội ( 2005 ) , Bộ Luật Dân sự 2005.
15. Quốc Hội ( 2005 ) , Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
16. Quốc Hội ( 1997 ) , Luật Thương mại 1997.
17. Quốc Hội ( 2005 ) , Luật Thương mại 2005.
18. Quốc Hội ( 2010 ) , Luật Trọng tài thương mại 2010
19. Quốc Hội Malaysia , Luật Nhượng quyền thương mại (Đạo luật
590).

97
20. UN ( 1980 ) , Công ước của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua
bán quốc tế 1980.
21. UNIDROIT ( 2004 ) , Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại
quốc tế 2004.

Tài liệu tham khảo tiếng Anh


22. Anonymous ( 2003 ) , Guide to franchise in Malaysia 2003
23. Bryan A. Garner ( 1990 ) , Deluxe Black’s Law Dictionary, West
Publishing Co..
24. David Foskett (2010), The Law and Practice of Compromise,
Sweet & Maxwell, London
25. World Franchise Council ( 2008 ) , The world franchise
council's principle of ethic.

Các trang web


26. http://www.gaebler.com/Franchise-Contracts.htm
27.http://www.whichfranchise.com/feature_template.cfm?featureId=26
28. http://www.franchisetrade.com/articles/contract.htm
29. http://www.lantabrand.com/cat44news4614.html
30.http://www.wipo.int/edocs/mdocs/sme/en/wipo_smes_kul_08/wip
o_smes_kul_08_topic05.ppt.( truy cập 28/6/2014 )

98

You might also like