Professional Documents
Culture Documents
Lý luận báo chí quốc tế TTQT K40
Lý luận báo chí quốc tế TTQT K40
https://drive.google.com/file/d/0B45TrplSgD9eMG5CRllCQ2FsNWs/view?resourcekey=0-
C15cBhKJS0bD-koUQIahSg
https://binhdinh.dcs.vn/van-hoa-xa-hoi/-/asset_publisher/content/kiem-soat-tin-gia-trong-phong-
chong-dich-covid-19?p_p_auth=LJ5KnSQ0
https://sotttt.thaibinh.gov.vn/tin-tuc/thong-tin-bao-chi-xuat-ban/thuc-trang-va-giai-phap-quan-ly-noi-
dung-thong-tin-tren-mang.html
https://special.vietnamplus.vn/2020/06/19/van_nan_tin_gia/
Trong những năm gần đây, việc gia tăng các sự việc liên quan đến đạo đức
công vụ “gây bão truyền thông” đã buộc các cơ quan, tổ chức phải quan
tâm đến vấn đề quản trị truyền thông. Một trong những yêu cầu được đặt
ra là truyền thông phải góp phần tăng cường giáo dục cán bộ, công chức,
viên chức nhưng đồng thời cũng phải gìn giữ hình ảnh cho các cơ quan, tổ
chức
1 - Vấn đề quản trị khủng hoảng và quản trị truyền thông trong khủng hoảng
cũng như khái niệm truyền thông ở Việt Nam mới được làm quen khoảng hai
mươi năm trở lại đây, khi các cơ quan, tổ chức trong hệ thống ngày càng quan
tâm nhiều hơn đến mối quan hệ với công chúng xã hội, với nhân dân… Đây là
sự tiến bộ góp phần vào quá trình phát triển bền vững.
Báo chí có khả năng, sức mạnh chi phối khuynh hướng xã hội. Vị thế và vai trò
của báo chí Việt Nam trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và
đang có sự thay đổi mạnh mẽ và nhanh chóng bởi nền tảng kỹ thuật - công nghệ
số. Những nền tảng này đã tạo ra một môi trường truyền thông đa dạng, trong đó
hệ sinh thái truyền thông online với mạng xã hội phát triển trở thành “sân chơi”
gây nhiều ảnh hưởng tới công chúng xã hội Việt Nam.
Thời gian qua, một số vụ, việc liên quan đến đạo đức công vụ khiến báo chí,
mạng xã hội “nóng” lên, nhiều sự việc lại không được giải quyết nhanh gọn, kéo
dài nhiều tháng gây nên khủng hoảng truyền thông. Vấn đề đặt ra, đang được
quan tâm ở đây là các sự kiện và khủng hoảng rồi sẽ trôi qua, nhưng cái đọng lại
chủ yếu là được hay mất niềm tin xã hội, uy tín, quyền uy của các cơ quan, tổ
chức và cán bộ, công chức, viên chức trong mắt người dân. Bởi, nó không như
khủng hoảng trong lĩnh vực kinh doanh là mất tiền, mất thị trường - những thứ
có thể kiếm tìm hay phục hồi trong nay mai. Bởi, mất niềm tin là mất tất cả.
Các hoạt động công vụ trong hệ thống chính trị đều cần phải tuân thủ hai hệ quy
chiếu: pháp luật và đạo đức công vụ. Về pháp luật, cán bộ, công chức, viên chức
chỉ được phép làm những điều pháp luật cho phép. Về đạo đức, cán bộ, công
chức, viên chức cần phải tuân thủ các chuẩn mực giá trị đạo đức công dân, phải
làm gương trước công dân và cộng đồng xã hội, đồng thời phải thực thi đạo đức
công vụ của ngành, nghề mà họ theo đuổi. Cán bộ, công chức là “đội quân
rường cột quốc gia”, “được dân nuôi”, được thực hiện “quyền ủy quyền” do
nhân dân trao cho, phương châm hoạt động được Đảng và Nhà nước xác lập là
“Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và theo nguyên tắc “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, nên mọi hoạt động công vụ của cán bộ,
công chức, viên chức được nhân dân theo dõi, giám sát. Và trong những năm
qua, phương tiện và phương thức giám sát xã hội mà công dân và cộng đồng sử
dụng chủ yếu và có hiệu quả nhất là báo chí - truyền thông, trong đó có mạng xã
hội.
Trong xã hội, mỗi ngành nghề yêu cầu chủ thể những phẩm chất và cách thức
ứng xử đặc trưng, do xã hội đòi hỏi và tự hình thành cơ chế kiểm soát. Về đạo
đức công vụ, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ
Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát
của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu
hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”(1). Trên cơ sở quy định của Hiến pháp,
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đạo đức
công vụ, như Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998, Pháp lệnh sửa đổi Pháp
lệnh Cán bộ, công chức năm 2003, Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật
Viên chức năm 2010, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công
chức và Luật Viên chức năm 2019, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005,
2018, Pháp lệnh Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 1998, Luật Thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013, Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan (ban hành theo Nghị định số 71/1998/NĐ-CP, ngày 8-9-1998, của
Chính phủ)... Có thể nói, hệ thống văn bản pháp quy liên quan đến thực thi công
vụ, về cơ bản đã tương đối đầy đủ. Nhưng, những vi phạm pháp luật và đạo đức
công vụ ngày càng diễn biến phức tạp, nhất là trong bối cảnh môi trường truyền
thông số và mạng xã hội phát triển. Do đó, vấn đề ở đây là khi xảy ra khủng
hoảng do truyền thông hay thực sự có khủng hoảng truyền thông liên quan đến
đạo đức công vụ đều phải quản trị bằng cả “biện pháp cứng” (các quy định pháp
luật) và cả các “biện pháp mềm” (giáo dục ý thức tự giác,…).
Các giá trị đạo đức nói chung và đạo đức công vụ nói riêng vốn do cộng đồng và
dư luận xã hội tạo dựng, nuôi dưỡng và kiểm soát. Trong bối cảnh xã hội Việt
Nam hiện nay, vấn đề đạo đức càng được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Khi
sự kiện xảy ra liên quan đến đạo đức công vụ thì luôn mang sức nóng, sức hấp
dẫn đối với dư luận xã hội, đặc biệt được truyền thông xã hội chú ý, soi chiếu.
Đây là cơ hội tốt để các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị sử dụng truyền
thông xã hội, mạng xã hội và báo chí để kiểm soát các chuẩn mực công vụ đã
được ban hành; sử dụng giám sát xã hội để giám sát quá trình thực thi công vụ
nhằm cải thiện hình ảnh cán bộ, công chức, viên chức, gây dựng niềm tin của
người dân với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bộ máy chính quyền trong
hệ thống chính trị. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức trong việc giữ gìn hình ảnh
đối với các cơ quan, tổ chức. Nếu để truyền thông tập trung quá mức cần thiết,
nhất là theo chiều hướng tiêu cực thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của cơ
quan, tổ chức. Xét cho cùng, quản trị tốt truyền thông, đặc biệt trong bối cảnh có
khủng hoảng không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước mà còn là
nhiệm vụ tự thân của chính các cơ quan, tổ chức, của chính từng cán bộ, công
chức. Ngày nay, với xu thế phát triển chung, chúng ta không thể coi nhẹ, không
thể không chăm lo, xử lý tốt mối quan hệ với công chúng xã hội/khách hàng và
nhân dân nói chung. Mối quan hệ hết sức quan trọng và ý nghĩa này đang được
nâng tầm thông qua báo chí - truyền thông.
https://vtv.vn/chuyen-dong-24h/tin-gia-van-nan-tai-nhieu-quoc-gia-
20191003152608619.htm
http://baolamdong.vn/chinhtri/202108/canh-giac-voi-nan-tin-gia-trong-phong-
chong-dich-benh-covid-19-3072344/
https://nhandan.vn/factcheck/van-nan-tin-gia-va-gia-tri-cot-loi-cua-bao-chi-
624930/
-------------------------------------------------------------------------------------------------
Link: Eng
https://www.yalemedicine.org/news/covid-19-infodemic
You read about COVID-19. Then, you read some more. Then, you read things
that contradict other things. This has become a daily routine for many
Americans. COVID-19 is worrisome enough, so when you add in the tsunami of
information surrounding it—and whiplash accompanying it—it can wear you
down. If you’re overwhelmed, you’re not alone.
The World Health Organization (WHO) reported in February that it was not
only fighting SARS CoV-2, the virus that causes COVID-19, but also an
“infodemic," which it defined as “an overabundance of information—some
accurate and some not—that makes it hard for people to find trustworthy sources
and reliable guidance when they need it."
Acting on the wrong information can kill. In the first 3 months of 2020, nearly 6
000 people around the globe were hospitalized because of coronavirus
misinformation, recent research suggests. During this period, researchers say at
least 800 people may have died due to misinformation related to COVID-19*.
At its extreme, death can be the tragic outcome of what the World Health
Organization has termed the infodemic, an overabundance of information —
some accurate, some not — that spreads alongside a disease outbreak. False
information runs the gamut, from discrediting the threat of COVID-19 to
conspiracy theories that vaccines could alter human DNA.
Though they aren’t new, in our digital age infodemics spread like wildfire. They
create a breeding ground for uncertainty. Uncertainty in turn fuels skepticism
and distrust, which is the perfect environment for fear, anxiety, finger-pointing,
stigma, violent aggression and dismissal of proven public health measures —
which can lead to loss of life.
https://theconversation.com/coronavirus-misinformation-is-a-global-issue-but-
which-myth-you-fall-for-likely-depends-on-where-you-live-143352
It did this by collating news articles with reporting by a wide range of local fact-
checking networks and global groups such as Agence France-Presse and
NewsGuard.
For instance, one misinformation narrative concerns the “origin of the virus”.
This includes the false claim the virus jumped to humans as a result of someone
eating bat soup.
Notably, this was also the most common narrative in the US, with an early
example being a false rumour the New York Police Department would
immediately lock down New York City.
https://www.nature.com/articles/s41598-020-73510-5
https://www.frontiersin.org/articles/10.3389/fpubh.2021.610623/full
https://asiafoundation.org/2021/07/07/infodemic-for-a-prosperous-future-apec-
must-counter-fake-news/
https://ec.europa.eu/commission/presscorner/detail/es/speech_20_100
https://www.ama-assn.org/system/files/2020-06/a20-mss-infodemics-case-
study.pdf