Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 9 Văn Học Thiếu Nhi - Trần Đăng Khoa .
Nhóm 9 Văn Học Thiếu Nhi - Trần Đăng Khoa .
KHOA SƯ PHẠM
HỌC PHẦN
VĂN HỌC THIẾU NHI (SG425)
1
2
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
1
MỤC LỤC
I. Cuộc đời và sự nghiệp ..................................................................................... 3
1. Cuộc đời ......................................................................................................... 3
2. Sự nghiệp sáng tác ......................................................................................... 3
II. Nội dung thơ của Trần Đăng Khoa .............................................................. 6
1. Hình ảnh cảnh vật thiên nhiên ....................................................................... 7
2. Nội dung thơ của Trần Đăng Khoa gắn với hình ảnh của người nông dân ... 3
3. Sự nhận thức cuộc sống của tuổi thơ thời kì chiến tranh và nội dung thơ
Trần Đăng Khoa khi tham gia chinh chiến. ....................................................... 7
3.1 Những tình cảm trong sáng ....................................................................... 8
3.1.1 Tình cảm với Bác Hồ kính yêu ........................................................... 8
3.1.2. Tình cảm với anh bộ đội Cụ Hồ ...................................................... 11
3.2 Nội dung thơ Trần Đăng Khoa ở giai đoạn tham gia chiến đấu chống Mĩ:
.......................................................................................................................... 13
III. Nghệ thuật trong thơ Trần Đăng Khoa .................................................... 15
1. Cách nhìn cảnh vật qua đôi mắt và tâm hồn trẻ thơ..................................... 15
2. Trí tưởng tượng phong phú và sự liên tưởng, so sánh đầy kì diệu, độc đáo 17
3. Ngôn ngữ giàu âm thanh, nhịp điệu và biểu cảm: ....................................... 17
4. Những hình ảnh đẹp sáng tạo độc đáo ......................................................... 19
IV. Phân tích tác phẩm minh họa: Bài thơ “Cây dừa” ................................. 21
V. Một số bài thơ của Trần Đăng Khoa .......................................................... 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 38
2
NHÀ THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
TẬP THƠ “GÓC SÂN, KHOẢNG TRỜI”
4
- Đi đánh thần Hạn, trường ca 4 chương, 1970.
- Thơ Trần Đăng Khoa (T1), tuyển tập thơ, 1970. (T2), tuyển tập thơ, 1983.
- Trường ca Trừng phạt, trường ca, 1973.
- Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974.
- Trường ca Giông bão, trường ca, 1983.
- Hầu chuyện Thượng đế, đàm thoại văn học, 2015, gồm 80 bài.
❖ Tập thơ Góc sân và khoảng trời
Nổi tiếng là thần đồng thơ, ngay từ lúc còn bé, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã
có một thế giới riêng của mình nơi “Góc sân và Khoảng trời”.
Tuyển tập thơ “Góc sân và Khoảng trời” do ông sáng tác từ những năm lên
8. Đến năm ông lên 10 tuổi thì “Góc sân và Khoảng trời” được in lần đầu, gồm
52 bài thơ và sau này được bổ sung thêm lên 66 bài – bao gồm các bài thơ nổi
tiếng đã được đăng báo của Trần Đăng Khoa. Năm 2002, “Góc sân và Khoảng
trời” là một trong ba tập thơ của Trần Đăng Khoa được trao giải thưởng Nhà nước
về văn học nghệ thuật.
Việc sáng tác vào thời gian còn khá trẻ đã giúp cho tập thơ của ông để lại
dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc đặc biệt là các em nhỏ một cái nhìn hồn nhiên,
ngây thơ trong sáng. Qua đó giúp các em học tập và yêu mến văn học một cách
dễ dàng nhất. Đồng thời cùng với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế và liên tưởng độc đáo
về sự vật, hiện tượng, con người làm cho thơ của ông trở nên gần gũi, quen thuộc
và thân thiện với mọi người.
❖ Một số bài thơ đã được đưa vào chương trình dạy ở Tiểu học:
- Lớp 1:
+ Kể cho bé nghe SGK Tiếng Việt 1, tập 2, Trang 104.
- Lớp 2:
+ Thả diều SGK Tiếng việt 2, tập 1, Trang 94, 95 ( Bộ sách Kết nối tri thức
với cuộc sống).
+ Tiếng võng kêu SGK Tiếng Việt 2, tập 1, Trang 135, 136.
+ Con trâu đen lông mượt SGK Tiếng Việt 2, tập 2, Trang 10.
- Lớp 3:
+ Khi mẹ vắng nhà SGK Tiếng Việt 3, tập 1, Trang 15.
+ Nghe thầy đọc thơ SGK Tiếng việt 3, tập 1, Trang 61 ( Bộ sách Kết nối
5
tri thức với cuộc sống).
+ Trăng ơi…từ đâu đến? SGK Tiếng việt 3, tập 2, Trang 72 ( Bộ sách Kết
nối tri thức với cuộc sống).
- Lớp 4:
+Mẹ ốm SGK Tiếng Việt 4, tập 1, Trang 9.
+ Trăng ơi từ đâu đến SGK Tiếng Việt 4, tập 2, Trang 107.
- Lớp 5:
+ Hạt gạo làng ta SGK Tiếng Việt 5, tập 1, trang 139.
7
“Con bướm vàng
Bay nhẹ nhàng
Trên bờ cỏ
Em thích quá
Em đuổi theo
Nó vỗ cánh
Vút lên cao
Em nhìn theo
Con bướm vàng…”
(Con bướm vàng)
Ngay từ nhỏ, Trần Đăng Khoa đã mộng mơ về bướm, muốn được vút lên
cao cùng cánh bướm vàng. Nhà thơ nương theo điệu thơ tươi non mà lãng mạn.
Trần Đăng Khoa “không có cánh, nhưng vẫn thèm bay bổng”. Xuân Diệu kể:
“Trần Đăng Khoa đuổi theo bướm, đuổi theo thơ. Con bướm chao qua cửa bếp
to dần, rồi nhỏ dần, khiến cu cậu vừa thích thú lại vừa tiếc. Trần Đăng Khoa cắt
nghĩa duyên thơ đầu tiên của mình như sau: “Khi con cóc đã có đôi cánh của con
bướm thì con cóc cũng không còn là con cóc nữa rồi”. “Bài thơ con cóc” của
Trần Đăng Khoa đã hoá thành “Bài thơ con bướm”.”
Không những thế, tâm hồn Trần Đăng Khoa thật nhạy cảm với khoảnh khắc
không lời của tạo vật. Nhà thơ tả đất trời như ngừng thở, không gian tĩnh lặng đến
trong vắt, mọi vật như quên đi cái đời sống của riêng mình, đến nỗi ta có “cảm
giác tất cả tan biến hết”. Chỉ còn trăng ngự trị trên vòm trời xanh ngắt kia thôi.
Trần Đăng Khoa giật mình trước triết lí ấy. Đó chẳng phải giây phút bừng tỉnh
của nhà thơ trong vẻ thinh lặng của đất trời đó sao? Lời thơ sóng sánh ánh sáng
và tiếng nhạc. Thế giới thơ ngân vang một điệu nhạc tươi vui. Trần Đăng Khoa
không phải mất công tìm kiếm chất liệu để đắp xây thế giới thơ của mình. Nhà
thơ có sức mạnh kéo cả cái vòm trời quê hương xứ sở vào thơ mình. Thơ Trần
Đăng Khoa, vì vậy, mênh mang gió và lao xao mây trời.
Với bất cứ em bé nào, trăng bao giờ cũng vừa gần gũi, vừa xa xôi, vừa đơn
giản vừa đầy bí ẩn, vì vậy mà gợi bao điều thân thiết, thích thú và mộng mơ. Ví
dụ như: Trăng sáng sân chơi, trăng soi tết Trung thu rằm tháng Tám, trăng có chú
Cuội cây đa trong cổ tích. Điều lạ lùng nhất là trăng toả ánh sáng mát xanh soi tỏ
con đường làng thơm hương bưởi, hương cau; Em đi đến đâu, trăng theo đến đó…
Ánh trăng đã dát vàng lên không ít những trang thơ của Trần Đăng Khoa. Biết
bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu sắc độ trăng trong các bài thơ khác nhau:
- “Trông trăng” - “Trăng sáng sân nhà em”
- “Cái sân” - “Vườn em”
8
- “Con trâu đen lông mượt” - “Hà Nội”
- “Nghe thầy đọc thơ” - “Bà và cháu”
- “Nửa đêm tỉnh giấc” - “Tiếng nói”
- “Chớm thu” - “Nhớ và nghĩ”
- “Thôn xóm vào mùa” - “Hương đồng”
- “Cây dừa” - “Đêm thu”
- “Trăng ơi từ đâu đến” - “Tiếng đàn bầu và đêm trăng”
- “Đêm Côn Sơn” - “Nhớ bạn”
- “Thả diều” - “Đập cửa Diêm vương”
- “Em dâng cô một vòng hoa” - “Trong sương sớm”
- “Hương nhãn”
Nghĩa là gần một phần tư số bài thơ của Trần Đăng Khoa có ánh trăng soi.
Nhưng in sâu trong tâm trí và giản dị nhất, xúc động nhất có lẽ vẫn là bài “Trăng
sáng sân nhà em”. Trong một lần trò chuyện khi bàn đến bài thơ “Mưa”, Trần
Đăng Khoa đã tâm sự rằng: “Bây giờ em vẫn có thể viết được bài thơ “Mưa”
nhưng không thể nào viết nổi bài thơ như “Trăng sáng sân nhà em” được nữa”.”
“Ông trăng tròn sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
Trăng khuya sáng hơn đèn
Ơi ông trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em…
Hàng cây cau lặng đứng
Hàng cây chuối đứng im
Con chim quên không kêu
Con sâu quên không kêu
Chỉ có trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
Trăng khuya sáng hơn đèn
Ơi ông trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em…”
(Trăng sáng sân nhà em)
Bài thơ được viết vào năm 1966, khi Trần Đăng Khoa mới lên tám tuổi. Có
lẽ càng ở tuổi ấu thơ, người ta càng dễ tin là có một ông trăng kì lạ. “Chú bé”
Khoa lần đầu tiên trong đời làm công việc ngắm trăng, Trần Đăng Khoa khi ấy đã
2
nhìn thấy đầy một sân trăng mà nhìn lên ông trăng tròn sáng tỏ. Sân nhà được
trăng soi rõ như ban ngày. Chú bé “thi nhân” năm ấy như bàng hoàng ngẩn ngơ
trước một cảnh tượng đơn sơ mà lộng lẫy.
Ngoài ra, ta có thể thấy được tài năng quan sát, tâm hồn nhạy cảm trước
thiên nhiên của Trần Đăng Khoa khi miêu tả thiên nhiên một cách hồn nhiên, tinh
tế, độc đáo còn được thể hiện thông qua bài thơ “Mưa” nói lên tình yêu thiên
nhiên, yêu làng quê tha thiết của mình. Bài thơ được “chàng thi sĩ tí hon” viết
năm lên 9 tuổi, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta đang diễn ra vô
cùng ác liệt. Từ lúc sắp mưa đến khi mưa rơi, cảnh bầu trời mặt đất từ sấm chớp
mây mưa, từ cây cỏ đến những con vật như chó, gà con, lũ kiến,... đều được cảm
nhận qua tâm hồn tuổi thơ rất hồn nhiên ngộ nghĩnh.
“Sắp mưa
Sắp mưa
Những con mối
Bay ra
Mối trẻ
Bay cao
Mối già
Bay thấp
Gà con
Rối rít tìm nơi
Ẩn nấp
Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
Muôn nghìn cây mía
Múa gươm...”
(Mưa)
Một sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên đó là đặc điểm nổi trội của thơ Trần
Đăng Khoa. Biệt tài của nhà thơ là ở khả năng hòa nhập và hóa thân vào thế giới
tự nhiên. Sự hòa nhập và hóa thân này được tập trung với một cường độ rất cao.
Trần Đăng Khoa có thể xưng hô một cách hết sức tự nhiên, hồn nhiên với thế giới
tự nhiên như ở bài thơ “Buổi sáng nhà em”:
“Ông trời nổi lửa đằng đông
Bà sân vẫn chiếc khăn hồng đẹp thay
Cậu mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng
2
Mụ già cục tác như điên
Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi”
Trần Đăng Khoa tiếp cận, mô tả và thể hiện thế giới tự nhiên giống hệt như
mô tả và tiếp cận thế giới con người. Trong thơ Trần Đăng Khoa thế giới tự nhiên
và thế giới con người hòa trộn với nhau như trong bài thơ “Cây dừa” :
“Đứng canh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi”
Hoặc ở bài thơ “Gửi bạn Chi Lê”:
“Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú Dế Mèn vuốt râu”
Thơ Trần Đăng Khoa vừa dân gian vừa hiện đại. Hiện đại ngay trong vẻ
dân gian. Tư duy thơ dân gian thường tìm về với luống khoai, luống cà, ưa thích
những cây na, quả mít. Hồn thơ dân gian ru đưa theo vòm đa xanh rì rào. Thơ
Trần Đăng Khoa là tiếng đàn muôn điệu của đứa trẻ thơ đã có điều kiện ngó
nghiêng cảnh sắc quê hương đất nước. Ta ngỡ như dòng thơ dân gian đã mất đi
sức hấp dẫn riêng của mình thì đây thơ Trần Đăng Khoa đã tiếp thêm sức mạnh
cho nó.
2. Nội dung thơ của Trần Đăng Khoa gắn với hình ảnh của người nông dân
Hình ảnh con người trong thơ của Trần Đăng Khoa được nhắc đến chủ yếu
là người nông dân ở làng quê. Người nông dân ấy trước hết là bố và mẹ. Với lòng
biết ơn, kính trọng và sự cảm thông sâu sắc. Khi Trần Đăng Khoa lên 9 tuổi, ông
đã hiểu được và liên tưởng đến nỗi nhọc nhằn của mẹ:
“Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Con chưa ngoan, chưa ngoan”
(Khi mẹ vắng nhà)
Bên cạnh thiên nhiên thì con người trong thi liệu của Trần Đăng Khoa cũng
được nhà thơ miêu tả chân thực, sinh động. Chủ yếu là những người nông dân với
đời sống nhọc nhằn, vất vả mà tâm hồn trong trắng, mộc mạc và giàu nghĩa tình.
Người nông dân mà Trần Đăng Khoa gần gũi và yêu thương nhất chính là bố mẹ
của mình. Là con nhà nông, ông am hiểu tường tận công việc bố mẹ làm hàng
ngày. Những vần thơ viết về bố mẹ cũng chính là viết về người nông dân nói
chung ở quê hương mình.
3
“Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy...”
(Hạt gạo làng ta)
Trong bài thơ, hình ảnh “hạt gạo” là kết kinh của những giá trị tinh thần và
giá trị vật chất trong mấy nghìn năm lịch sử dân tộc. “Hạt gạo” được kết tinh từ
nỗi nhọc nhằn, vất vả và sự lam lũ của người nông dân vưới thiên nhiên khắc
nghiệt và bom đạn tàn khốc của kẻ thù. Tác giả đã thể hiện những gian khổ ấy qua
cụm từ như "bão tháng bảy", "mưa tháng ba", "giọt mồ hôi sa". Dù thời tiết có
khắc nghiệt đến đâu vẫn không thể nào cản trở được nghị lực và cố gắng của người
nông dân chân chất ấy. Cho dù nước có như ai nấu, cả cá cũng không thể sống
được ấy vậy mà người mẹ nông dân của em vẫn tần tảo sớm hôm chỉ mong cho
những hạt lúa sau này được vàng óng, tốt tươi. Bài thơ được viết với những cảm
xúc mạnh mẽ về sự cảm thông, thương xót và lòng biết ơn người lao động.
“Những năm bom Mỹ
Trút trên mái nhà
Những năm cây súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng...”
(Hạt gạo làng ta)
Không những phải hứng chịu cơn bão, cơn mưa hay cái nắng khắc nghiệt
nữa mà nay người nông dân còn phải hứng chịu "bão bom", "bão đạn" trong suốt
quá trình kháng chiến. Từ những hình ảnh đó Trần Đăng Khoa đã cho ta thấy được
người nông dân vừa chịu thương, chịu khó lại can đảm, kiên cường biết bao khi
mang trên mình cả hai sứ mệnh vừa tăng gia sản xuất mà còn đóng vai trò hậu
phương để quân đội ta tiếp tục cuộc trường kỳ kháng chiến.
4
Hình ảnh người nông dân hiên ngang, kiêu hãnh còn được thể hiện trong
bài thơ "Mưa", xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh vạn vật đất trời bị biến đổi bởi
cơn mưa rào. Nổi bật trên cái phông nền ấy chính là hình ảnh người nông dân
cũng là người bố đi cày trong bão giông.
“Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa”
(Mưa)
Không tự nhiên Trần Đăng Khoa viết: bố em "đội sấm", "đội chớp", "đội
cả trời mưa" là tất cả những gì thuộc về sức mạnh của thiên nhiên mà qua đó còn
làm nổi bật lên hình tượng của con người sừng sững và vững vàng khuất phục
trước thiên nhiên. Bố không chỉ là người nông dân tần tảo mà còn là người bố cao
cả. Không ngại sấm, ngại chớp mà chỉ lo lắng cho tương lai của con mình. Với
điệp từ "đội" tác giả đã thể hiện được tầm vóc lớn lao, hiên ngang của người nông
dân như một vị tráng sĩ oai hùng thực sự.
Người nông dân trong thơ Trần Đăng Khoa là con người mới, tuy vất vả,
khó nhọc nhưng năng động và yêu đời, say mê nghệ thuật khác hẳn người nông
dân lầm lũi trong ca dao xưa. Tất cả bà con đều tập trung quanh các anh văn công
quân giải phóng để lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát:
“Chị dân quân lái máy cày
Ngón chân cái vết bùn non còn lấm
Cụ già mấy lần tiễn cháu con ra trận
Đông nhất là trẻ em lên chín, lên mười
Trong tiếng đàn bầu
Tất cả bỗng thành thi sĩ.”
(Tiếng đàn bầu và đêm trăng)
Hay:
5
Tưởng mình sống đã trăm năm.”
(Cô Thị Mầu)
Những người xem cũng chỉ biết có cô Thị Mầu đỏng đảnh nhưng người
xem thoáng như quên chị:
“Chiều nay gánh lúa trên đồng
Tảo tần nuôi em, nuôi mẹ
Mười năm ròng rã chờ chồng…”
(Cô Thị Mầu)
Người nông dân trong thơ của Trần Đăng Khoa không chỉ là con người
chăm chỉ, can đảm, oai hùng. Dù hoàn cảnh có chèn ép họ tới đâu thì họ vẫn không
lo sợ, ủ rũ. Trái lại những người nông dân ấy luôn là con người yêu đời, yêu nghệ
thuật vô cùng nhiệt huyết với niềm vui của mình. Sau tất những giọt mồ hôi, nước
mắt, cả những bộn bề thì tiếng hát, tiếng reo hò, nhạc điệu chính là thứ làm họ trở
nên vui vẻ hạnh phúc và quên đi hết mọi nhọc nhằn đã trải qua. Niềm vui của
người nông dân cũng giản dị, trong sáng như chính cuộc sống của họ, như thiên
nhiên xung quanh họ. Sự quấn quýt giữa cảnh quê, người nông dân được hội tụ
khá đầy đủ trong bức tranh quê “Khi mùa thu sang” Trần Đăng Khoa viết năm
1973:
“Mặt trời lặn xuống bờ ao
Ngọn khói xanh lên, lúng liếng
Vườn sau gió chẳng đuổi nhau
Lá vẫn bay vàng sân giếng
10
Người người lặng im đi viếng Bác...”
(Em gặp Bác Hồ)
Trần Đăng Khoa đã thay mặt bạn bè, thiếu nhi Việt Nam cùng thế hệ hứa
với Bác rằng:
1. Cách nhìn cảnh vật qua đôi mắt và tâm hồn trẻ thơ
Trong cách nhìn cảnh vật xung quanh từ cảnh vật đến con vật qua đôi mắt của
cậu bé 10 tuổi, ta thấy thơ của ông luôn giản dị, gần gũi, hài hòa. Những bài thơ
của Trần Đăng Khoa luôn sử dụng biện pháp nhân hóa để miêu tả cảnh vật:
“Cây lúa mừng vui phất cờ
Dây khoai nảy xanh lá mới
Cau xòe tay hứng giọt mưa rơi
Ếch nhái uôm uôm mở hội
Cá múa tung tăng...”
(Con cò trắng muốt)
15
Cảnh vật thân thuộc, gần gũi trong cuộc sống như cây lúa cũng “mừng vui
phất cờ”, dây khoai cũng “nảy” lá xanh, cây cau “xòe tay” ra hứng từng giọt mưa
rơi, ếch nhái “mở hội” rộn rã,… Được nhân hóa một cách khéo léo, vạn vật trở
nên vui vẻ, rộn ràng như trẩy hội đón chờ cơn mưa sắp đến.
Cũng là phép nhân hóa ấy trong bài thơ “Mưa”, bầu trời được miêu tả như một
trận chiến thực thụ cùng với áo giáp đen mang trên mình, sắc đen của bầu trời như
màu áo giáp kiên cố của người lính; hàng cây mía bị gió cuốn, quật mạnh vương
những chiếc lá nhọn quắt như muốn giáp lá cà với bầu trời đen rộng lớn; đàn kiến
gấp rút tìm nơi ẩn nấu lại trở thành đội quân hùng hậu hành quân hỗ trợ muôn
nghìn cây mía chống lại người lính với chiếc áo giáp đen:
“Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
Muôn nghìn cây mía
Múa gươm
Kiến
Hành quân
Đầy đường”
(Mưa)
Và rồi mưa trút xuống, tiếng sấm vang giòn cả khoảng sân – là nỗi sợ của biết
bao đứa trẻ, nhưng với nhà thơ, tiếng sấm như đang “cười” một trận hả hê, sảng
khoái:
“Sấm
Ghé xuống sân
Khanh khách cười”
(Mưa)
Trần Đăng Khoa sử dụng biện pháp nhân hóa coi thiên nhiên, cảnh vật như con
người cùng cách quan sát đầy tinh tế, cảm nhận sâu sắc, ông đã tạo nên một thế
giới đầy màu sắc mà gần gũi, thân thuộc với mọi độc giả.
16
2. Trí tưởng tượng phong phú và sự liên tưởng, so sánh đầy kì diệu, độc đáo
Trần Đăng Khoa không nhìn nhận thế giới quan xung quanh bằng một cái nhìn
đơn nhất mà luôn biết cách liên tưởng một sự vật, hiện tượng mà ông nhìn thấy
với một sư vật hiện tượng khác hoặc những sự vật có mối quan hệ tương đồng
khác, làm tăng nét gợi hình, gợi tả cho bài thơ.
“Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi”
(Trăng ơi từ đâu đến?)
Không giống như cách tả của những nhà thơ khác, có nhà thơ nói trăng tròn
vành vạch như chiếc đĩa bạc nhưng có nhà thơ lại tả trăng theo từng thời điểm:
Mồng một lưỡi trai / Mồng hai lá lúa / Mồng ba câu liêm / Mồng bốn lưỡi liềm
(Không tựa đề - sưu tầm). Riêng với Trần Đăng Khoa, ông đã cảm nhận “Trăng”
bằng thị giác và khứu giác và rồi trăng lại như quả hồng chín trước hiên nhà, là
một thứ nhìn thấy rõ trước mắt và có mùi có vị. Đúng với tâm lý trẻ con, mọi thứ
đều nhìn thấy được, đều có thể ăn được và rất quen thuộc, gần gũi. Ánh trăng ấy
cũng treo “lửng lơ” trước nhà, người lớn trông trăng có vẻ xa xôi còn với lũ trẻ
trăng gần ngay trước mắt.
Qua đôi mắt ngây thơ của đứa trẻ, vầng trăng như quả bóng bị ai đá lên trời,
sự liên tưởng ngộ nghĩnh này tạo nên một tính chất kì diệu, đem đến sự thú vị cho
người đọc.
“Trăng bay như quả bóng
Đứa nào đá lên trời”
Ngoài ra, hình ảnh đạn lửa trong thời kỳ kháng chiến cũng được ví von thành
hình ảnh hoa lựu đỏ rực cả khoảng trời.
“Đêm về đạn chú bắn lên
Đỏ như hoa lựu trên nền trời xanh”
(Hoa lựu)
Sự liên tưởng đầy độc đáo, sáng tạo đã làm cho từng câu thơ của ông đầy
sống động, đậm tính nghệ thuật. Những liên tưởng, tưởng tượng của Trần Đăng
Khoa luôn tạo nên chất lãng mạn kì diệu trong thơ của ông.
3. Ngôn ngữ giàu âm thanh, nhịp điệu và biểu cảm:
17
Dễ dàng nhận ra, việc yêu thích sử dụng từ láy của Trần Đăng Khoa như thế
nào sau khi đọc qua các bài thơ của ông. Nhà thơ sử dụng từ láy (từ láy tượng
thanh, từ láy tượng hình), giúp thơ của mình có giá trị gợi tả và biểu cảm đặc sắc.
Trong bài thơ “Mưa”, 11 từ láy đã được sử dụng : rối rít, cuồn cuộn, tần ngần, đu
đưa, trọc lốc, khô khốc, khanh khách, ù ù, lộp bộp, chồm chồm, hả hê.
“Đầu tiên “nhà thơ” Lộ
Tóc đỏ như râu tôm
Chưa bước vào đến cửa
Đã đọc thơ ồm ồm
20
IV. Phân tích tác phẩm minh họa: Bài thơ “Cây dừa”
“Quê hương ơi đẹp lắm những cây dừa
Trái xanh ngoài xanh trong trắng”
Bốn mùa nước ngọt lại trong như tấm lòng người dân Việt Nam
thủy chung…”
(Cây dừa- Xuân Hồng)
Từ thuở nào mà cây dừa xuất hiện trong đời sống người Việt Nam một cách
thân thuộc như vậy? Nhắc đến cây dừa, tức khắc chúng ta lại nhớ đến những áng
lúa đồng quê nặng trĩu bông, mé dòng sông nước ngọt là những hàng dừa soi
bóng… Cây dừa gắn bó với người nông dân trong những ngày ra đồng, với mảnh
đất miền Nam trong khói đạn bom sa, với chân Bác trong gốc sân quen thuộc, với
mẹ già trông ngóng chờ đàn con,… Và cũng không thể quên nhân vật quen thuộc
với cây dừa là hình bóng của bọn trẻ hồn nhiên, nô đùa. Đó là nét đẹp bình dị
không thể thiếu trong những buổi chiều muộn. Có lẽ, vì cái nhìn ngây thơ ấy, vì
cái nét gần gũi thân quen ấy nên Trần Đăng Khoa – “Thần đồng thơ trẻ” đã gửi
gắm “Cây dừa” từ tập thơ “Góc sân và khoảng trời” đến với bao thế hệ trẻ em
ngày nay. Cây dừa ấy hiện lên hết sức ngộ nghĩnh và đáng yêu được bộc lộ qua
ánh mắt, qua cảm nhận của một cậu bé chín tuổi.
Vốn là một vật vô tri vô giác, ấy thế mà khi đi vào thơ của Trần Đăng Khoa,
cây dừa được thổi hồn tự khi nào mà ta không biết. Loại cây quen thuộc ấy bỗng
trở nên sinh sộng và dạt dào sức sống hơn bao giờ hết. Từ gốc đến ngọn, ngòi bút
của cậu bé đã khắc họa lên mỗi chi tiết một cách tỉ mỉ. Ắt hẳn, để có được điều
đó, tác giả đã phải dùng không chỉ là thị giác mà còn bằng tâm tư, tình cảm của
một người nghệ sĩ dành cho thiên nhiên và cho đất nước.
“Cây dừa xanh toả nhiều tàu
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng”
Hai câu thơ đầu, ta cứ tưởng như tác giả đang nhắc đến một người bạn, một
người dễ gần dễ mến mang trong mình một tâm hồn phóng khoáng, hào sảng, một
tâm thế sẵn sàng rộng mở, kết giao với thiên nhiên, với vũ trụ. Ở đây, ta thấy tác
giả đã sử dùng phép nhân hóa tài tình, ví cây dừa – một vật vô tri lại biết "dang
tay", biết "gật đầu”. Coi ngọn cây, lá cây như một người trẻ tuổi tự do phóng
khoáng bay lượn thỏa thích dưới bầu trời. Thì đến thân cây, dưới bàn tay biến đổi
linh hoạt của tác giả, nó không phải là một thân cây to khỏe, mãnh mẽ vươn đến
chân trời mà dường như lúc này, cây dừa lại trở thành một người từng trải qua
"tháng năm" cuộc đời, là con người lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng vẫn có
chút gì đó khỏe mạnh, đầy sức sống như chính hình ảnh của con người Việt Nam
21
từ trước đến nay. Dù cho thân cây " bạc phếch " đi chăng nữa thì nó vẫn cho ra
những quả dừa sum xuê, đầy ắp.
“Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao"
Đọng lại sau những ngày tháng kết tinh và những quả dừa ngọt nước, mát
lạnh trên thân cây. Nhưng đôi mắt của trẻ thơ thì những qua dừa ấy – "đàn lợn
con" hiện lên sao mà đáng yêu đến lạ lùng. Và chắc chỉ có chúng mới có những
liên tưởng thú vị đến mức độc đáo như vậy.
Là người mang trong mình tình yêu thiên nhiên, Trần Đăng Khoa đã dành
cho nó một sự quan sát cẩn thận. Những sự vật, sự việc biến đổi theo cây dừa cũng
được cậu đem vào thơ. Trong đêm đen huyền dịu, vẻ đẹp của cây dừa cũng không
hề bị lu mờ đi, mà nó còn trở nên rực rỡ và lung linh không thua kém so với những
vì sao trên trời. Trước khi đến cái dư vị "nước ngọt", "nước lành", Trần Đăng
Khoa cũng không quên tô vẽ cho các tàu dừa trở thành những chiếc lược răng cưa
nhằm vuốt ve, vỗ về từng áng mây xanh. Những tàu xanh ngát ấy như vươn mình
hòa tận vào chân trời, vào không gian bao la rộng lớn kia để thỏa sức vui đùa...
“Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh
Ai mang nước ngọt, nước lành
Ai đeo bao hũ rượu quanh cổ dừa”
Không chỉ miêu tả hình dáng, mà Trần Đăng Khoa còn tỉ mỉ đến mức vị
ngọt của "đàn lợn con" cũng được ví như những hũ rượu mang cái vị gây nghiện
mà ai đó đã đem từng chùm từng chùm bọng nước như một vật trang trí để treo
quanh cổ dừa. Hai câu hỏi tu từ đã bộc lộ sự thích thú khi khám phá, tò mò của
trẻ con, và có lẽ đó phải chăng cũng là một nét đẹp trong tâm hồn của tác giả, nét
đẹp về nguồn cội, về cái nguyên sơ mà nó đến.
Thực sự, nhà thơ rất chín chắn so với lứa tuổi. Không chỉ vẽ tranh bằng thơ
mà cậu bé còn có những suy nghĩ thực sự sâu sắc và ý nghĩa. Trong gốc nhìn của
trẻ con, cây dừa có lẽ cũng chỉ là một nơi để rong chơi. Nhưng ở đây cây dừa
dường như còn có những lợi ích khác mà nó mang lại cho mọi người.
“Tiếng dừa làm dịu nắng trưa
Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo
Trời trong đầy tiếng rì rào
Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra…”
22
Đối với người nông dân, trong những ngày thời tiết oi ả, trong những vụ
đồng áng bận rộn thì dường như cây dừa là nơi "dừng chân" nghỉ ngơi của họ.
Khoảnh khắc ấy, cây dừa là chỗ che lắp những cái nắng đến chóng mặt, là nơi để
thư thả cùng cơn gió rì rào, từng tán từng tán lá hòa cùng cơn gió để nhảy múa
theo những điệu nhạc mà thiên nhiên phát ra thật sôi động và vui nhộn. Có lẽ thư
thả trong điệu múa, trong tiếng gió, trong trời xanh mây trắng, không khí yên bình
nên ngón tay của tác giả đã tô vẽ thêm một hình ảnh không thể thiếu trong áng
đồng quê Việt Nam – đàn cò chắc có lẽ cũng cảm nhận được khung cảnh thôn quê
yên bình nên chúng cũng xuất hiện và cùng nhau đánh nhịp "bay vào bay ra" với
tiếng gió, với điệu múa vui tươi.
“Đứng cạnh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi”
Có thể nói, tất cả vẻ đẹp mà cây dừa có đều tập trung ở hai câu thơ cuối,
hình ảnh cây dừa lúc này hiện lên thật hùng vĩ và đẹp đẽ. Trong cái khoảng trời
mênh mông bát ngát như vậy nhưng cây dừa vẫn với tư thế tự tin như một thứ gì
đó ngang bằng với đất trời. Thần thái ung dung bề thế đến sáng lạn của nó phải
chăng là một nét ví von đặc sắc trong cái nét thơ của Trần Đăng Khoa. Trong tư
tưởng của nhà thơ, trời đất dù bao la đến đâu cũng chỉ là người người bạn, những
điều thân thuộc bình dị xung quanh chúng ta, chỉ cần vươn tay là có thể nắm được.
Điều này đã phản ánh được tinh thần của tác giả, đó là một tinh thần lạc quan, yêu
đời – một điều có thể coi là rất quý báu trong bối cảnh chiến tranh lúc ấy. Mang
một ánh mắt đúng nghĩa của một trẻ thơ để nhìn nhận thiên nhiên, đưa thiên nhiên
thổi vào hồn thơ khiến nó còn trở nên tuyệt vời hơn hiện thực. Quả thật, tài hoa
của Trần Đăng Khoa là một điều vô cùng hoàn hảo.
Qua bài thơ "Cây dừa", Trần Đăng Khoa đã cho đọc giả thấy được tài hoa
trong cách chơi chữ ở mỗi vần thơ, nét độc đáo trong việc sử dụng những biện
phát nghệ thuật nhân hóa và so sánh đã khắc họa cây dừa trở nên sống động, khiến
nó không còn là một cây dừa bình thường với tàu xanh – thân xám. Dường như,
qua ngôn ngữ của cậu bé, nó xuất hiện với muôn màu muôn vẻ, tràn đầy sắc thái
biểu cảm. Không chỉ thế, các từ láy "đủng đỉnh", "rì rào" cũng làm tăng thêm sức
ngợi hình, gợi thanh cho bài thơ. Chính những điều ấy lại hóa như một nốt nhạc
son thấm đệm cho tiếng lòng của tác giả. Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Trần
Đăng Khoa đã rất thành công trong việc điểm tô cho hình bóng cây dừa không chỉ
trong ánh mắt trẻ thơ của ông mà nó còn xuất hiện thật thơ mộng trong mắt của
hàng ngàn trẻ em nói riêng và thật sâu lắng trong tim của người Việt Nam nói
chung.
23
Mang những áng văn bất hủ của mình của mình gieo vào tâm hồn người
đọc, quả thật Trần Đăng Khoa đã thể hiện một cách sâu sắc về cái nhìn tinh tế và
đầy nhạy bén trong sự hồn nhiên, thơ ngây của đứa trẻ, làm cho ta cảm thấy thật
tươi đẹp về những miền kí ức của năm tháng còn thơ, của những kỉ niệm về cảnh
tình xưa cũ không thể trộn lẫn với một thi nhân nào khác, đúng như lời nhận định
của nhà văn Đình Kính: "Thơ Trần Đăng Khoa vẫn là một miền riêng không
trộn lẫn. Giống như ca khúc Trịnh Công Sơn, giai điệu bài hát khi cất lên, dù
nghe ở đâu vẫn nhận ra chất nhạc của riêng một người".
Ảnh Bác
Nhà em treo ảnh Bác Hồ
Bên trên là một lá cờ đỏ tươi
Ngày ngày Bác mỉm miệng cười
Bác nhìn chúng cháu vui chơi trong nhà
Ngoài sân có mấy con gà
Ngoài vườn có mấy quả na chín rồi
Em nghe như Bác dạy lời
Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa
Trồng rau, quét bếp, đuổi gà
Thấy tàu bay Mỹ nhớ ra hầm ngồi
Em gặp Bác Hồ
Có ai se sẽ ngồi xuống đầu giường
Đưa bàn tay mát như kem sữa
Xoa lên trán em đang dịu lửa
Vuốt lên mắt em đang bớt mờ
A, Bác Hồ!
Bác Hồ ta đó!
Bác mặc tấm áo ka ki
Bàng bạc sương rừng Pắc Bó
Trán Bác có ngôi sao
Thảo nào
Bác đi đêm không lạc
Bác cười rung rung chòm râu
24
Mắt Bác sao mà thương thế
Tóc Bác thơm lừng gió bể
Thơm nắng đường xa
Bác cho em nhiều quà
Và khen dạo này em béo khỏe
Hơn ngày xưa nhiều
Đúng rồi
Bệnh viện em vừa truy điệu Bác chiều nay
Nhưng Bác chỉ yên nghỉ ban ngày
Chứ ban đêm là Bác rời linh cữu
Bác chào chú đứng gác
Rồi đi vòng quanh khắp trên thế giới
Để chăm sóc trẻ con
Nhất là đứa nào phải nằm trong bệnh viện...
Viện Mắt - phố Bà Triệu, đêm 9-9-1969
25
Thầy cầm súng ra đi
Bài tập đọc dạy chúng em dang dở
Hoa phượng
Hoa phượng cháy một góc trời như lửa
Cô Thị Mầu
Lúa rơm tạm thu gọn lại
Màn phông căng đỏ sân đình
Điện xanh vòm đa cổ thụ
Người xem đông như mít tinh
27
Hoa lựu
Em trồng cây lựu xanh xanh
Cuốc kêu chưa dứt mà cành đầy hoa
Hoa lựu như lửa lập lòe
Nhớ khi em tưới, em che hàng ngày
Nhớ khi mưa lớn, gió lay
Em mang que chống cho cây cứng dần
Trưa nay bỗng thấy ve ngân
Ve ngân trưa nắng, quả dần vàng tươi
Em ăn thấy nó ngọt bùi
Tặng chú bộ đội, chú cười với em
Hà Nội có Bác Hồ
Em chưa về Hà Nội
Nhưng đêm đêm nghe cơn gió mới
Về gò thiêng Đống Đa
Về chiếc cầu sắt bắc trên những mái nhà
Xe lửa và ô tô đi không gãy
Về nước hồ Gươm xanh như một mảnh trời
Ngọc Hoàng đánh rời xuống đấy!
Về ngôi nhà Bác ở giữa Ba Đình
Bóng Bác bên cây vú sữa
Tiếng Bác Hồ cười
Em nghe rất rõ...
29
Mang biển về quê
Lấp lóe lửa chài - sao hiện ra
Mây bay lóng lánh - cánh buồm xa
Em mang sắc biển về quê đó
Sắc biển xanh trên những mái nhà
Mưa
Sắp mưa
Sắp mưa
Những con mối
Bay ra
Mối trẻ
Bay cao
Mối già
Bay thấp
Gà con
Rối rít tìm nơi
Ẩn nấp
Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
Muôn nghìn cây mía
Múa gươm
Kiến
Hành quân
Đầy đường
Lá khô
Gió cuốn
Bụi bay
Cuồn cuộn
Cỏ gà rung tai
Nghe
Bụi tre
Tần ngần
Gỡ tóc
Hàng bưởi
Đu đưa
Bế lũ con
Đầu tròn
30
Trọc lốc
Chớp
Rạch ngang trời
Khô khốc
Sấm
Ghé xuống sân
Khanh khách
Cười
Cây dừa
Sải tay
Bơi
Ngọn mùng tơi
Nhảy múa
Mưa
Mưa
Ù ù như xay lúa
Lộp bộp
Lộp bộp...
Rơi
Rơi...
Đất trời
Mù trắng nước
Mưa chéo mặt sân
Sủi bọt
Cóc nhảy chồm chồm
Chó sủa
Cây lá hả hê
Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa...
Đến khi cơn mưa lại đen rầm đằng đông, đằng tây
Đến khi cơn mưa lại đen rầm đằng nam, đằng bắc
Em lại thấy
Vẫn con cò ấy
Bay ra
Trắng muốt
Mừng đón cơn mưa...
35
Góc sân và khoảng trời
Góc sân nho nhỏ mới xây
Chiều chiều em đứng nơi này em trông
Thấy trời xanh biếc mênh mông
Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy...
36
Đàn chuối đứng vỗ tay cười, vui sao!
Chị tre chải tóc bên ao
Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương
Bác nồi đồng hát bùng boong
Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà
Cái sân
Em thường rải cái nong
Ra góc sân ngồi học
Những đêm có trăng mọc
Em chơi cho đến khuya
Thường là xỉa cá mè
Hay làm mèo đuổi chuột
Những lúc mưa sậm hột
Em bắt cái vòi cau
Chảy vào giữa chum sâu
Khi trời râm em vẽ
Vẽ cô tiên lặng lẽ
Rải hoa trên bầu trời
Thế là bao đồng lúa
Cứ chín vàng, vàng tươi...
37
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần, T. N. (2012). Khảo sát hệ thống tính từ chỉ màu sắc trong thơ Trần Đăng
Khoa (Doctoral dissertation, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng).
2. TS. Lã Thị Bắc Lý. (2006) Giáo trình Văn học thiếu nhi (Nhà xuất bản Đại học
sư phạm, Trường đại học Thái Nguyên).
3. SGK (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) Tiếng Việt (lớp 1, 2, 3), Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam.
4. Trần Đăng Khoa, Góc sân và khoảng trời, NXB Văn hóa dân tộc, 1999.
5. Giáo trình Văn học trẻ em, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hà.
6. Đọc lại tuổi thơ Trần Đăng Khoa, Báo văn nghệ số 42 (18/10/1980), Hồng
Diệu.
7. Bài báo “Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa”, tác giả Đình Kính, Hội Nhà Văn Hải
Phòng.
38
39