Professional Documents
Culture Documents
Sinh lý điều hoà Aicd - Base trong cơ thể
Sinh lý điều hoà Aicd - Base trong cơ thể
Cân bằng acid – base liên quan đến việc duy trì nồng độ ion hydro trong dịch cơ thể. Sự
cân bằng đạt được bằng cách sử dụng hệ đệm ở dịch ngoại bào và dịch nội bào, qua
đường hô hấp thải ra khí CO2, qua đường thận tái hấp thu bicarbinate (HCO3-) và bài
tiết ion hydrogen (H+).
pH trong dịch cơ thể
Nồng độ H+ trong dịch cở thể cực kỳ thấp. Ở trong máu động mạch, nồng độ H+ là 40 x
10-9 equivalent trên lít (40 nEq/L), thấp hơn 6 lần nồng độ sodium (Na+). Việc làm việc
với các số nhỏ khá cồng kềnh, nồng độ H+ thường được biểu diễn ở dạng logarit gọi là
pH
pH = − H + log10 [H+]
Nồng độ H+ là 40 x 10-9 Eq/L được quy đổi thành độ pH như sau:
pH = -log10[40 x 10-9 Eq/L] = 7,4
Khi sử dụng pH để thay thế cho nồng độ H+, cần lưu ý hai điểm sau. Thứ nhất, bởi vì
trong công thức có dấu - ở trước logarit, nên khi nồng độ H+ tăng thì pH giảm và ngược
lại. Thứ hai, mối quan hệ giữa nồng độ H+ và pH là hàm logarit, chứ không phải đường
thẳng. Do đó sự thay đổi về pH không phản ánh sự thay đổi nồng độ H+ tương ứng.
Phản ứng này cho thấy CO2 kết hợp hai chiều đối với H20 để tạo thành H2CO3, được
xúc tác bởi enzym carbonic anhydrase. H2CO3 phân ly tạo thành H+ và HCO3-, và H+
được tạo thành bởi phản ứng này phải được đệm vào. Nhắc lại rằng CO2 được tại thành
bởi tế bào được đưa vào máu tĩnh mạch, chuyển thành H+ và HCO3- ở trong máu đỏ,
được mang đến phổi. Tại phổi, phản ứng xảy ra ngược lại và CO2 được tạo thành và
được thải ra ngoài (do đó CO2 được gọi là acid dễ bay hơi). Do vậy đệm cho H+ đến từ
CO2 chỉ là giải pháp tạm thời cho máu tĩnh mạch.
Acid cố định
Chuyển hoá protein và phospholipid tạo thành xấp xỉ 50 mmol/ngày acid cố định.
Protein với các amino acid chứa sulfua (methionine, cysteine, cystine) tạo thành acid
sulfuric khi chúng chuyển hoá, và phospholipid tạo thành acid phosphoric. Ngược lại với
CO2, là chất bay hơi và được thải ra ở phổi, acid sulfuric và acid phosphoric không bay
hơi. Do đó, những acid cố định cần được đệm trong dịch cơ thể cho đến khi chúng được
thải ra ngoài bởi thận.
Ngoài acid sulfuric và acid phosphoric được sản sinh ra từ quá trình dị hoá thông
thường, trong một số trạng thái sinh lý bệnh nhất định, acid cố định có thể được sản
sinh quá mức. Những acid cố định này bao gồm β-hydroxybutyric acid và acetoacetic
acid, cả hai keto acid được tạo ra ở những người đái tháo đường không được điều trị,
và acid lactic, chúng có thể được tạo ra trong quá trình tập thể dục quá mức hoặc khi
mô bị thiếu oxy. Thêm vào đó, những acid cố định khác có thể được ăn vào, như acid
salicylic (từ việc uống quá liều aspirin), acid formic (từ uống methanol), glycolic và oxalic
acid (từ ethylene glycol). Sự tạo thành và sự đưa vào quá mức acid cố định có thể gây
acid chuyển hoá.
Hệ đệm
Nguyên tắc đệm
Một chất đệm là hỗn hợp của một acid yếu và base liên hợp của nó hoặc là một base
yếu và acid liên hợp của nó. Hai dạng của chất đệm được gọi là cặp đệm. Trong danh
pháp BrønstedLowry, đối với acid yếu, dạng acid được gọi là HA và được định nghĩa là
chất cho H+. Dạng base được gọi là A- và được định nghĩa là chất nhận H+. Tương tự,
đối với base yếu, chất cho H+ được gọi là BH+ và chất nhận H+ được gọi là B.
Dung dịch đệm chống lại sự thay đổi pH. Do đó, H+ có thể được thêm vào hoặc loại
khỏi dung dịch đệm, nhưng pH của dung dịch sẽ thay đổi tối thiểu. Ví dụ, khi H+ được
thêm vào dung dịch đệm bao gồm một acid yếu, nó chứa dạng A- của đệm và chuyển
dạng nó thành dạng HA. Ngược lại, khi H+ được loại bỏ khỏi dung dịch đệm (hoặc OH-
được thêm vào), H+ được loại bỏ khỏi dạng HA của dung dịch đệm, chuyển nó thành
dạng A-.
Dịch trong có thể chưa rất nhiều loại đệm khác nhau, chúng cấu thành một hàng rào
quan trọng đầu tiên chống lại sự thay đổi pH. Robert Pitts chứng minh khả năng đệm
này bằng cách đêm 150 mEq H+ (HCl) vào một con chó mà tổng lượng nước trong cơ thể
của nó khoảng 11,4L. Trong thí nghiệm song song, Pitts đã thêm 150 mEq H+ vào 11,4 L
nước cất. Ở con chó, khi thêm H+ sẽ làm cho pH con chó giảm xuống 7,44 còn 7,14 – con
chó bị nhiễm acid nhưng vẫn sống. Ở nước cất, việc thêm cùng lượng H+ khiến cho pH
giảm xuống còn 1,84, một giá trị mà có thể gây tử vong cho con chó. Pitts kết luận rằng
cơ thể của con chó có các hệ đệm bảo vệ pH khi thêm một lượng lớn H+. Việc thêm H+
vào dạng A- của những đệm này, một acid mạnh sx được chuyển thành một acid yếu. Sự
thay đổi pH cơ thể con chó là tối thiểu, mặc dù nó không ngăn chặn hoàn toàn. Nước cất
không có hệ đệm và không có cơ chế bảo vệ.